Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 87

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ


CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-----------------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI CỦA
NHẬT BẢN VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỊCH VỤ
Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Sinh viên thực hiện : Lê Thanh Hằng


Lớp : Nhật 1
Khoá : 44E
Giảng viên hướng dẫn : Phan Thị Vân

Hà Nội, 05 - 2009
MỤC LỤC
Lời mở đầu .................................................................................................. 1
Chƣơng 1: Lý luận chung về FDI và ngành Công nghiệp Dịch vụ .......... 4
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................................. 4
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 4
1.1.2. Phân loại ............................................................................................. 6
1.2. Ngành Công nghiệp Dịch vụ ................................................................ 7
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm ....................................................................... 7
1.2.2. Phân loại Công nghiệp Dịch vụ ......................................................... 11
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng thu hút FDI vào ngành
Công nghiệp Dịch vụ ................................................................................... 16
1.3.1. Khung chính sách FDI ........................................................................ 16
1.3.2. Các yếu tố của môi trường kinh tế ...................................................... 18
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thuận lợi trong kinh doanh ..................... 22
1.4. Kinh nghiệm thu hút FDI vào ngành Công nghiệp Dịch vụ của một số
nước Châu Á ............................................................................................... 23
1.4.1. Ấn Độ ................................................................................................. 23
1.4.2. Thái Lan ............................................................................................. 24
1.4.3. Singapore ........................................................................................... 24
Chƣơng 2: Thực trạng thu hút FDI của Nhật Bản vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ ở Việt Nam ........................................................................ 26
2.1. Đặc trưng FDI vào ngành Công nghiệp Dịch vụ của Nhật Bản ......... 26
2.2. Các yếu tố thu hút FDI của Nhật Bản vào ngành Công nghiệp Dịch vụ
ở Việt Nam ................................................................................................... 28
2.2.1. Khung chính sách về FDI ................................................................... 28
2.2.2. Các yếu tố của môi trường kinh tế ..................................................... 37
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thuận lợi trong kinh doanh ..................... 43
2.3. Kết quả thu hút ..................................................................................... 44
2.3.1. Khối lượng đầu tư............................................................................... 44
2.3.2. Quy mô dự án ..................................................................................... 46
2.3.3. Lĩnh vực đầu tư .................................................................................. 47
2.3.4. Địa bàn đầu tư .................................................................................... 48
2.3.5. Hình thức đầu tư ................................................................................. 49
2.4. Đánh giá ............................................................................................... 50
2.4.1. Tích cực.............................................................................................. 50
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân ..................................................................... 50
Chƣơng 3: Giải pháp thu hút FDI của Nhật vào ngành
Công nghiệp Dịch vụ .................................................................................. 58
3.1. Cơ hội và thách thức đối với thu hút FDI của Nhật Bản vào ngành
Công nghiệp Dịch vụ ở Việt Nam ............................................................... 58
3.1.1. Cơ hội................................................................................................. 58
3.1.2. Thách thức .......................................................................................... 61
3.2. Giải pháp .............................................................................................. 62
3.2.1. Đổi mới nhận thức .............................................................................. 62
3.2.2. Xây dựng kế hoạch thu hút ................................................................. 65
3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng ....................................................... 65
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ........................................... 67
3.2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật ............................................................ 68
3.2.6. Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý............................................... 71
3.2.7. Nâng cao chất lượng của hoạt động xúc tiến đầu tư ............................ 73

Kết luận....................................................................................................... 75
Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................... 76
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Đối với các nước đang phát triển thì FDI luôn luôn là một nhân tố
không thể thiếu đối với phát triển kinh tế-xã hội. Những năm gần đây, Nhật
Bản liên tục nằm trong top 3 nước dẫn đầu về tổng vốn FDI đầu tư vào Việt
Nam, với số đăng ký tăng trưởng đều và ổn định, vốn thực hiện lớn nhất.
Người Nhật Bản thường rất thận trọng khi làm ăn với người ngoài, nhưng một
khi đã thiết lập được quan hệ và niềm tin với người Nhật thì chúng ta hoàn
toàn có thể hi vọng vào một sự hợp tác lâu dài. Chính vì thế, với hàng loạt
những hoạt động tăng cường và củng cố mối quan hệ với Nhật Bản, nâng lên
thành đối tác chiến lược, FDI Nhật Bản đang được kỳ vọng sẽ đóng vai trò
quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của đất nước.

Mặt khác, trong thời đại hiện nay, bên cạnh các ngành công nghiệp cơ
bản, phát triển có hiệu quả ngành dịch vụ là một trong những phương thức để
nền kinh tế Việt Nam bắt kịp được với sự phát triển của thế giới và đảm bảo
sự phát triển bền vững thông qua việc tham gia một cách có hiệu quả vào
chuỗi giá trị toàn cầu. Chúng ta cần phải nỗ lực phát triển ngành Công nghiệp
Dịch vụ bởi thực tế chúng tồn tại và liên quan mật thiết đến toàn bộ nền kinh
tế. Chúng lμ nhân tố thúc đẩy các hoạt động kinh tế vμ góp phần quan trọng
vμo nâng cao chất l−ợng cuộc sống của ng−ời dân. Các dịch vụ hạ tầng cơ sở
(các ngμnh dịch vụ tiện ích, xây dựng, giao thông, viễn thông vμ tμi chính) hỗ
trợ tất cả các loại hình doanh nghiệp. Giáo dục, y tế vμ các dịch vụ giải trí có
ảnh h−ởng đến chất l−ợng lao động, các dịch vụ kinh doanh vμ chuyên
nghiệp giúp tạo ra khả năng chuyên môn nhằm nâng cao tính cạnh tranh vμ
chất l−ợng các dịch vụ chính phủ có vai trò quyết định đối với môi tr−ờng
kinh doanh của doanh nghiệp...

1
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Từ nhu cầu phát triển kinh tế trong thời đại mới hướng sang khu vực
dịch vụ, việc định hướng một phần luồng vốn FDI của Nhật vào lĩnh vực này
trở thành một nhu cầu bức thiết, một nhiệm vụ quan trọng. Vậy làm thế nào
để có thể thu hút FDI của Nhật vào ngành công nghiệp dịch vụ một cách hiệu
quả nhất? Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, tác giả lựa chọn đề tài “Thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào ngành công nghiệp dịch
vụ ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp”.

Mục đích của đề tài

Việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu xem đầu tư trực tiếp nước ngoài
là gì? công nghiệp dịch vụ là gì? và việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào lĩnh vực này chịu sự chi phối của những yếu tố nào. Trên cơ sở phân tích
thực trạng việc thu hút nguồn vốn FDI của Nhật vào ngành công nghiệp dịch
vụ của nước ta trong những năm vừa qua, tác giả sẽ đưa ra những đánh giá,
nhận xét đối với những kết quả đã đạt được. Đó sẽ là căn cứ quan trọng để
đưa ra giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này một cách hiệu quả
nhất.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ngành Công nghiệp Dịch vụ và đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ. Phạm vi nghiên cứu là đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Nhật đối với Việt Nam kể từ khi bắt đầu vào Việt
Nam (1989) cho đến nay với trọng tâm là giai đoạn 2000 – 2008.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng kết hợp các phương pháp: thống kê, tổng hợp số
liệu, phân tích, so sánh, đối chiếu, tham khảo và thu thập ý kiến của nhà đầu
tư để tìm hiểu và làm rõ nội dung nghiên cứu.

Kết cấu của đề tài

2
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương:

Chương I: Lý luận chung về FDI và ngành Công nghiệp Dịch vụ

Chương II: Thực trạng thu hút FDI của Nhật Bản vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ ở Việt Nam

Chương III: Giải pháp thu hút FDI của Nhật Bản vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ Việt Nam

Cuối cùng tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt
tình của Cô Phan Thị Vân – giảng viên môn Đầu tư, khoa Kinh tế và Kinh
doanh Quốc tế, trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội. Những sự chỉ bảo và
nhận xét quý báu của cô là kim chỉ nam giúp tác giả có được hướng nghiên
cứu, tiếp cận vấn đề hợp lý và hoàn thành tốt luận văn này. Ngoài ra, xin cảm
ơn sự giúp đỡ của thầy Ogushi, giảng viên bộ môn tiếng Nhật Kinh tế, khoa
tiếng Nhật, trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội, chú Phạm Văn Hiên, cán
bộ Trung tâm thông tin phát triển Việt Nam, các thầy cô giáo, gia đình và bạn
bè đã có nhiều ý kiến đóng góp trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.

Một lần nữa tác giả xin chân thành cảm ơn.

3
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Chƣơng 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI


VÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỊCH VỤ
1.1. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI)
1.1.1. Khái niệm FDI

Có nhiều định nghĩa về FDI nhưng dù theo bất kỳ một cách hiểu nào
đều có thể khẳng định FDI là một hình thức “đầu tư” – quá trình huy động và
sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Đứng trên góc độ một quốc gia để xem xét

4
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

hoạt động đầu tư căn cứ vào sự hình thành nguồn vốn thì FDI là hoạt động
được thể hiện trong sơ đồ ở trên1.

Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund), FDI


(Foreign Direct Investment) là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới quốc
gia, trong đó người đầu tư trực tiếp (direct investor) đạt được một phần hay
toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp (direct
investment enterprise) trong một quốc gia khác. Ở đây, đặc điểm vượt ra khỏi
biên giới quốc gia và quyền sở hữu lâu dài được coi là trọng tâm của khái
niệm. Như vậy FDI sẽ tạo thành một mối quan hệ lâu dài giữa một công ty
chủ quản (người đầu tư trực tiếp) và một công ty phụ thuộc (doanh nghiệp
FDI) đặt tại một quốc gia khác với quốc gia của công ty chủ quản. Công ty
chủ quản không nhất thiết phải kiểm soát toàn bộ hoạt động của công ty phụ
thuộc (trong trường hợp công ty chủ quản không chiếm đa số cổ phiếu của
công ty phụ thuộc) và phần FDI chỉ tính trong phạm vi tỷ lệ sở hữu của công
ty chủ quản đối với công ty phụ thuộc.

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) thì đưa ra khái niệm về
doanh nghiệp FDI – một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư
cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu
thường hoặc quyền biểu quyết. Theo đó, điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là
chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty. Tuy nhiên không phải quốc gia
nào cũng sử dụng mức 10% làm mốc xác định quyền kiểm soát doanh nghiệp.
Ví dụ như con số này ở Mỹ là 10% nhưng ở Pháp và Anh là 20% (1997).

Luật đầu tư 2005 của Việt Nam có đề cập đến các khái niệm như “đầu
tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư ra nước ngoài” … nhưng không có khái niệm
FDI. Từ đó, có thể hiểu FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ
vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư
1
Giáo trình Đầu tư nước ngoài, Vũ Chí Lộc, NXB Giáo Dục, 1997.

5
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài
theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Từ những khái niệm trên đây, có thể hiểu một cách khái quát về FDI là
một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài và phản ánh lợi ích dài
hạn về quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một nền kinh tế (được gọi là
chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài) trong một doanh nghiệp cư trú ở một nền
kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài (được gọi là doanh nghiệp
FDI). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước
ngoài với hai đặc điểm cơ bản là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi
quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động
sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.

1.1.2. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài

Dựa vào những tiêu chí khác nhau, có rất nhiều cách để phân loại FDI
như: phân loại theo hình thức đầu tư, phân loại theo động cơ đầu tư, phân loại
theo cách thức xâm nhập…Tuy nhiên, gắn liền với FDI Công nghiệp Dịch vụ
thì người ta thường quan tâm tới cách phân loại theo cách thức xâm nhập. Có
hai loại hình chính đó là2:

- Đầu tư mới (Greenfield Investment)

Nguồn FDI được sử dụng để xây dựng các doanh nghiệp mới hoặc phát
triển thêm các doanh nghiệp sẵn có trong nước. Đây là phương thức các quốc
gia nhận FDI thích nhất vì tạo được thêm công ăn việc làm cho người dân
trong nước, nâng cao sản lượng, chuyển giao kỹ thuật cao cấp đồng thời tạo
được mối liên hệ trao đổi với thị trường thế giới.

2
Ngoài ra còn có loại hình Brownfield Investment: Mua lại một doanh nghiệp nhưng không sử dụng đến các
tài sản của doanh nghiệp đó. Bản chất chỉ là mua lại cái tên.

6
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Nhưng mặt yếu của đầu tư mới là có thể đe dọa sự tồn tại của ngành
trong nước vì nhờ khả năng cạnh tranh cao hơn về kỹ thuật và hiệu quả kinh
tế, đồng thời làm khô cạn tài nguyên trong nước. Ngoài ra một phần lợi nhuận
quan trọng sẽ chảy ngược về công ty chủ đầu tư.

- Mua lại và sáp nhập (Mergers and Acquisitions)

Đây là hình thức mà tài sản của một doanh nghiệp trong nước được
chuyển giao cho một doanh nghiệp nước ngoài. Hình thức chuyển giao có thể
là một sự sáp nhập (merge) giữa một công ty trong nước với một công ty
nước ngoài để tạo thành một doanh nghiệp với một tư cách pháp nhân mới.
Doanh nghiệp mới này bắt đầu có tính đa quốc gia. Trường hợp sáp nhập với
công ty nước ngoài, phần FDI được tính là phần tài trợ mà công ty trong nước
được nhận từ bộ phận công ty nước ngoài rót vào. Một hình thức chuyển giao
khác có thể là bán đứt công ty trong nước cho công ty nước ngoài. Trường
hợp này, FDI được tính là những khoản đầu tư từ công ty mẹ qua cho công ty
con trong nước. Đây là loại hình chủ yếu được các nhà đầu tư Công nghiệp
dịch vụ ưa thích bởi ưu điểm thâm nhập thị trường nhanh và khả năng thành
công cao.

Ngoài ra, Luật đầu tư 2005 của Việt Nam cũng đưa ra các hình thức
FDI được phép thực hiện tại Việt Nam như sau:

- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
- Thành lập tổ chức liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, BOT, BTO, BT.
- Đầu tư phát triển kinh doanh.
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.

7
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Theo đó, FDI đã được phân loại bằng cách liệt kê các hoạt động được
coi là đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà không có một tiêu chí cụ thể nào để
phân loại. Cách phân loại này so với cách phân loại quốc tế ở trên tỏ ra không
khoa học mà chỉ có tính chất hướng các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn cách
thức tiến hành đầu tư vào Việt Nam.

1.2. Ngành Công nghiệp Dịch vụ

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm ngành Công nghiệp Dịch vụ

Nếu như ngày xưa, người ta nhắc đên Nông-Lâm-Ngư nghiệp và Công
nghiệp như hai trụ cột chính của một nền kinh tế thì từ vài thập kỷ trở lại đây,
khái niệm “Công nghiệp Dịch vụ” ngày càng được nhắc đến nhiều hơn.
“Công nghiệp Dịch vụ” trong tiếng Anh là “Service Industry” được liên hiệp
công nghiệp dịch vụ Hoa Kỳ CSI (Coalition of Service Industry) sử dụng để
chỉ chung một nhóm các ngành cung cấp cho người tiêu dùng sản phẩm cuối
cùng là các “dịch vụ”3. Trong đó, cụm từ “dịch vụ” (service) chỉ một lĩnh vực
rất rộng, bao gồm một loạt các hoạt động và sản phẩm vô hình.

Trong một khái niệm để phân biệt với hàng hóa hữu hình, dịch vụ được
hiểu là những hoạt động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa
không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu
nhằm thỏa mãn ngay lập tức các nhu cầu của sản xuất và đời sống sinh hoạt
của con người. Lao động xã hội là lao động có mục đích, có phương pháp và
bằng một công cụ nào đó của con người. Còn hình thái vật thể là cái hữu hình,
cái mà con người có thể nhìn thấy bằng mắt, có thể sờ được bằng tay như một
cái bàn gỗ, một cái ti vi…Dịch vụ không không là những thứ đó, và Công
nghiệp Dịch vụ cũng không làm ra những thứ đó. Nhưng để làm ra được cái
bàn gỗ, cái ti vi thì cần tới dịch vụ. Đó là dịch vụ vận tải để vận chuyển gỗ

3
http://www.uscsi.org/

8
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nguyên liệu từ rừng về xưởng sản xuất bàn, dịch vụ lắp ráp để lắp được một
cái ti vi. Mặt khác nhờ dịch vụ mà giá trị của các sản phẩm trên cũng được
nâng lên. Đó là dịch vụ bảo hành, làm cho một chiếc ti vi có bảo hành sẽ có
giá cao hơn một chiếc ti vi không có bảo hành. Như vậy có thể hiểu về “dịch
vụ” một cách rõ ràng hơn khi đặt trong mối tương quan với “hàng hóa hữu
hình” hay gọi tắt là “hàng hóa”.

Dịch vụ đồng thời cũng là một quá trình hoạt động, quá trình đó diễn ra
theo trình tự gồm nhiều khâu, nhiều bước khác nhau. Mỗi khâu, mỗi bước có
thể là những dịch vụ nhánh, độc lập với dịch vụ chính. Ví dụ: đối với dịch vụ
du lịch thì hoạt động tổ chức tour và vận chuyển hành khách tới địa điểm du
lịch là hoạt động chính. Ngoài ra, đi kèm với nó, các dịch vụ như bảo hiểm du
lịch, phiên dịch, chụp ảnh…cũng được cung cấp tùy theo nhu cầu khách hàng
và khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Sự tổng hợp tất cả các hoạt động đó
nhằm nâng cao mức độ thỏa mãn của người tiêu dùng cũng như nâng cao chất
lượng phục vụ của nhà cung cấp. Chính bởi lẽ đó, rất khó để vạch ra một ranh
giới cố định cho mỗi loại hình dịch vụ.

Mặc dù các tổ chức kinh tế quốc tế đều nỗ lực hướng đến một khái
niệm thông nhất cho nhóm ngành kinh tế này nhưng cho đến nay vẫn chưa
thực hiện được. Việc phân loại các ngành kinh tế một cách thống nhất sẽ luôn
là một việc rất khó bởi nó còn tùy thuộc vào cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia
để xét xem một hoạt động nào đó có đủ lớn để trở thành một ngành kinh tế.
Ví dụ như ở Nhật Bản, theo Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp thì các
ngành kinh tế của nước này được chia thành 5 nhóm ngành lớn là : Nông
nghiệp, Lâm nghiệp và Ngư nghiệp; Công nghiệp chế tạo, chế biến; Xây dựng,
Dịch vụ; Dịch vụ chính phủ. Như vậy, bản thân hoạt động dịch vụ tồn tại
trong 2 nhóm ngành lớn là Dịch vụ và Dịch vụ Chính phủ. Ngoài ra, cũng có
những cách gọi khác nhau để hướng đến cùng một khái niệm. Từ “lĩnh vực

9
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

dịch vụ”, “khu vực dịch vụ” (Service Sector) cũng được tổ chức Thương mại
Thế giới WTO đề cập đến với bản chất giống như “Công nghiệp dịch vụ”
(Service Industry) được hiểu ở trên.

“Công nghiệp dịch vụ” có thể được hiểu hay tiếp cận theo nhiều cách,
dưới nhiều góc độ nhưng hầu hết các tổ chức quốc tế đều thừa nhận những
đặc điểm sau của nhóm ngành kinh tế này.

1.2.1.1. Tính phi vật chất

Có thể nói các sản phẩm của ngành Công nghiệp Dịch vụ là phi vật
chất. Ai đó có thể phản đối khi đưa ra ví dụ về sản phẩm của dịch vụ cung
cấp phầm mềm máy tính khi phần mềm đó được bán bằng một chiếc đĩa CD.
Chiếc đĩa CD ở đây đúng là vật chất hữu hình. Nhưng chiếc đĩa CD đó chỉ là
phương tiện để doanh nghiệp chuyển sản phẩm dịch vụ của mình tới tay
người sử dụng. Sản phẩm của hoạt động này chính là việc phần mềm đó được
cài đặt và chạy được trong máy tính của người sử dụng. Rõ ràng ta không thể
nào sờ vào, cầm nắm được kết quả ấy. Thực tế này chỉ ra rằng, không phải lúc
nào dịch vụ cũng được cung cấp một cách đơn lẻ, mà nó thường đi kèm với
một sản phẩm vật chất cụ thể nào đó. Ví dụ như dịch vụ điện hoa thì phải gắn
liền với “hoa” – một sản phẩm vật chất hữu hình, có kích thước, hình dáng,
màu sắc, khối lượng chính xác.

Tính phi vật chất này còn thể hiện ở việc người ta không thể mua quyền
sở hữu dịch vụ mà chỉ có thể mua được quyền sử dụng dịch vụ.

1.2.1.2. Tính khó xác định chất lượng

Nếu các sản phẩm vật chất có cơ, lý, hóa tính…có các tiêu chuẩn kỹ
thuật như công suất, mức tiêu hao nhiêu liệu…có thể xác định được và có thể
sản xuất theo các tiêu chuẩn của cơ sở, của ngành, của nhà nước và quốc tế thì
dịch vụ không thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu được lượng hóa một

10
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

cách rõ ràng như thế. Người ta có thể phán đoán chất lượng dịch vụ thông
qua một số dấu hiệu như danh tiếng của nhà cung cấp, ý kiến đánh giá của
những người tiêu dùng khác…nhưng chỉ đến khi trực tiếp sử dụng dịch vụ thì
mới đánh giá được chất lượng cũng như giá trị của nó đối với bản thân mình.
Mức độ thỏa mãn của người tiêu dùng là một tiêu chí chiếm tỷ trọng lớn trong
các tiêu chí nhằm xác định chất lượng của dịch vụ. Nó phụ thuộc rất nhiều
vào quá trình tiếp xúc và tương tác qua lại giữa nhà cung cấp và người sử
dụng dịch vụ. Ví dụ dịch vụ cung cấp đường truyền internet. Với những tiêu
chuẩn kỹ thuật tương đương của hai nhà cung cấp A và B, chi phí lắp đặt như
nhau, nhưng khi có khách hàng gọi điện đến yêu cầu cung cấp dịch vụ, thái độ
trả lời điện thoại của nhân viên bên A không lịch sự và nhiệt tình bằng nhân
viên bên B thì chất lượng dịch vụ của bên A không thể bằng so với bên B.
Trong trường hợp này việc đánh giá chất lượng dịch vụ càng khó bởi sự thiếu
lịch sự và không nhiệt tình của nhân viên chỉ là cảm nhận chủ quan của khách
hàng, có thể là không chính xác nếu như có sự hiểu lầm.

Chính bởi đặc tính này mà ngành Công nghiệp Dịch vụ được coi là
ngành kinh tế của xã hội hiện đại, nơi các nhu cầu về tinh thần, nhu cầu về sự
thỏa mãn được coi trọng. Các nhà cung cấp dịch vụ ngày càng chú trọng đến
chất lượng phục vụ khách hàng, coi đó là điểm mấu chốt để cạnh tranh thay vì
quan điểm cạnh tranh bằng giá đã tồn tại từ xa xưa.

1.2.1.3. Tính không thể tách rời và không lưu trữ được

Các sản phẩm vật chất sau khi được sản xuất ra có thể được lưu kho
hoặc vận chuyển đến các nơi để thỏa mãn nhu cầu sử dụng của người tiêu
dùng. Tuy vậy, đối với hầu hết sản phẩm của các ngành Công nghiệp Dịch vụ,
người ta không thể lưu trữ chúng, quá trình cung cấp sản phẩm và tiêu dùng
sản phẩm phải được thực hiện đồng thời. Nhà cung cấp không thể cất trữ dịch
vụ trong kho rồi tung ra thị trường khi nhu cầu tăng để thu lợi. Ngành công

11
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nghiệp giải trí cung cấp dịch vụ chiếu phim là một ví dụ. Ta không thể tách
rời hoạt động chiếu phim với hoạt động xem phim. Việc trì hoãn việc công
chiếu một bộ phim lại mà chỉ quảng cáo thôi, nhằm thu hút sự chú ý của khán
giả không được coi là hoạt động lưu trữ. Dịch vụ đang xét đến ở đây là “chiếu
phim” nên đó là việc hoãn cung cấp dịch vụ, dịch vụ chưa hề được thực hiện
chứ không phải là đã được tạo ra rồi cất trữ.

Chính đặc tính này đã đặt ra nhu cầu phát triển tất cả các ngành Công
nghiệp Dịch vụ đối với tất cả các nước trên thế giới. Người ta không thể dựa
sự chuyên môn hóa sản xuất toàn cầu, rồi tiến hành xuất – nhập khẩu các sản
phẩm của Công nghiệp Dịch vụ như vẫn làm đối với các sản phẩm hàng hóa
khác. Mặc dù vẫn có thể tiến hành thương mại dịch vụ quốc tế nhưng xét cho
cùng, để người dân một nước có cơ hội tiêu dùng một dịch vụ nào đó thì dịch
vụ ấy phải được thực hiện tại chỗ, ngay tại nơi có nhu cầu.

1.2.2. Phân loại Công nghiệp Dịch vụ

Hiện nay, việc phân loại các ngành kinh tế chưa có được sự thống nhất
không chỉ ở phạm vi thế giới mà thậm chí trong một quốc gia bởi lẽ có quá
nhiều tiêu chí phân loại cũng như mức độ phân loại. ở hầu hết các nước,
người ta sử dụng cách liệt kê để phân loại các ngành kinh tế nhằm mục đích
điều hành và quản lý hoạt động của doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền
kinh tế.

1.2.2.1. Theo tổ chức Thương mại Thế giới WTO

WTO liệt kê các ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ và xếp chúng thành 12
nhóm với 11 nhóm ngành chính và 1 nhóm ngành bao gồm các ngành còn lại.
Cụ thể như sau:

Nhóm 1: Các dịch vụ kinh doanh


Các dịch vụ chuyên ngành

12
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Các dịch vụ liên quan đến máy tính


Các dịch vụ nghiên cứu và phát triển (R & D)
Các dịch vụ bất động sản
Các dịch vụ cho thuê không qua môi giới
Các dịch vụ kinh doanh khác
Nhóm 2: Các dịch vụ truyền thông
Các dịch vụ bưu điện
Các dịch vụ đưa thư
Các dịch vụ viễn thông
Các dịch vụ nghe nhìn
Các dịch vụ truyền thông khác
Nhóm 3: Các dịch vụ xây dựng và kỹ sƣ công trình
Tổng công trình xây dựng nhà cao ốc
Tổng công trình xây dựng cho các công trình dân sự
Công việc lắp đặt và lắp ráp
Công việc hoàn thiện và kết thúc xây dựng
Các dịch vụ xây dựng và kỹ sư công trình khác
Nhóm 4: Các dịch vụ phân phối
Các dịch vụ của đại lý ăn hoa hồng
Các dịch vụ thương mại bán buôn
Dịch vụ bán lẻ
Dịch vụ cung cấp quyền kinh doanh
Các dịch vụ phân phối khác
Nhóm 5: Các dịch vụ giáo dục
Dịch vụ giáo dục tiểu học
Dịch vụ giáo dục trung học
Dịch vụ giáo dục đại học
Dịch vụ giáo dục người lớn

13
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Các dịch vụ giáo dục khác


Nhóm 6: Các dịch vụ môi trƣờng
Dịch vụ thoát nước
Dịch vụ thu gom rác
Dịch vụ vệ sinh
Các dịch vụ môi trường khác
Nhóm 7: Các dịch vụ tài chính
Tất cả các dịch vụ bảo hiểm và liên quan đến bảo hiểm
Các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác
Nhóm 8: Các dịch vụ xã hội và liên quan đến sức khỏe
Các dịch vụ bệnh viện
Các dịch vụ y tế khác
Các dịch vụ xã hội
Các dịch vụ khác
Nhóm 9: Các dịch vụ du lịch và lữ hành
Khách sạn và nhà hàng
Các đại lý lữ hành và các dịch vụ hướng dẫn tour
Các dịch vụ hướng dẫn du lịch
Các dịch vụ du lịch và lữ hành khác
Nhóm 10: Các dịch vụ văn hóa và giải trí
Các dịch vụ giải trí
Các dịch vụ đại lý bán báo
Thư viện, lưu trữ, bảo tàng và các dịch vụ văn hóa khác
Thể thao và các dịch vụ giải trí khác
Các dịch vụ văn hóa và giải trí khác
Nhóm 11: Các dịch vụ vận tải
Các dịch vụ vận tải biển
Vận tải đường thủy nội địa

14
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Các dịch vụ vận tải đường hàng không


Vận tải vũ trụ
Các dịch vụ vận tải đường sắt
Các dịch vụ vận tải đường bộ
Vận tải theo đường ống dẫn
Các dịch vụ phụ trợ cho tất cả các loại vận tải
Các dịch vụ vận tải khác
Nhóm 12: Các dịch vụ không có tên ở trên

1.2.2.2. Theo Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam

Từ tháng 1 năm 2007, Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam đã áp dụng bảng
phân loại hàng hóa – dịch vụ Nice IX4 cho việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.
Trong đó, từ nhóm 1 đến nhóm 34 là danh mục các loại hàng hóa còn từ
nhóm 35 đến nhóm 45 là danh mục các loại dịch vụ.

Nhóm 35: Quảng cáo


Quản lý kinh doanh
Quản lý giao dịch
Hoạt động văn phòng
Nhóm 36: Bảo hiểm
Tài chính
Tiền tệ
Bất động sản
Nhóm 37: Xây dựng
Sửa chữa
Lắp đặt
Nhóm 38: Viễn thông

4
“Bảng phân loại Nice” là bảng phân loại theo Thỏa ước Nice về phân loại Quốc tế Hàng hóa và Dịch vụ
nhằm mục đích đăng ký nhãn hiệu, được ký tại Nice ngày 16/6/1957 đã được sửa đổi, bổ sung.

15
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Nhóm 39: Vận tải


Đóng gói và lưu trữ hàng hóa
Du lịch
Nhóm 40: Xử lý vật liệu
Nhóm 41: Giáo dục
Đào tạo
Giải trí
Các hoạt động thể thao và văn hóa
Nhóm 42: Các dịch vụ khoa học và công nghệ và nghiên cứu, thiết kế
có liên quan đến chúng
Các dịch vụ nghiên cứu và phân tích công nghiệp
Thiết kế và phát triển phần cứng và phần mềm máy tính
Các dịch vụ pháp lý
Nhóm 43: Dịch vụ cung cấp thực phẩm và đồ uống
Chỗ ở tạm thời
Nhóm 44: Dịch vụ y tế
Dịch vụ thú ý
Chăm sóc vệ sinh và sắc đẹp cho người hoặc động vật
Dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ làm vườn và dịch vụ lâm
nghiệp
Nhóm 45: Các dịch vụ cá nhân và xã hội được cung cấp bởi nguồn
khác phục vụ cho các nhu cầu cá nhân
Dịch vụ an ninh nhằm bảo vệ người và tài sản

16
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

1.2.2.3. Theo tiêu chí thống kê FDI của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt
Nam

Nhóm 1: Xây dựng văn phòng – căn hộ


Nhóm 2: Giao thông vận tải – Bưu điện
Nhóm 3: Khách sạn – Du lịch
Nhóm 4: Tài chính – Ngân hàng
Nhóm 5: Văn hóa – Y tế – Giáo dục
Nhóm 6: Xây dựng hạ tầng Khu Công nghiệp – Khu Chế xuất
Nhóm 7: Xây dựng khu đô thị mới
Nhóm 8: Dịch vụ khác

Như vậy, cách phân loại Công nghiệp Dịch vụ ở Việt Nam đang tỏ ra
thiếu thống nhất khi tồn tại đồng thời 2 cách như trên. Mặt khác, trong tiến
trình hội nhập, Việt Nam buộc phải sử dụng cách phân loại của WTO để thực
hiện việc mở cửa các ngành dịch vụ theo tiến trình đã cam kết. Điều này cho
thấy nhu cầu cần thống nhất sử dụng một cách phân loại để tạo thuận lợi cho
hoạt động thống kê, nghiên cứu thị trường, hoạt động đăng ký đầu tư … cũng
như tạo thuận lợi cho việc thương lượng và ký kết các cam kết quốc tế sau
này.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới khả năng thu hút FDI vào ngành
Công nghiệp Dịch vụ

1.3.1. Khung chính sách về FDI

Trước hết đó là hệ thống luật pháp liên quan trực tiếp và gián tiếp đến
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm các quy định của luật pháp và
chính sách về việc thành lập doanh nghiệp FDI (cho phép, hạn chế, cấm đầu
tư vào các ngành nghề lĩnh vực nào đó; cho phép hoạt động tự do hay có điều
kiện…); các tiêu chuẩn đối xử đối với FDI (phân biệt hay không phân biệt đối
xử giữa các nhà đầu tư có quốc tịch khác nhau…); các quy định về thuế; quy
17
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

định liên quan đến việc sử dụng lao động (thời gian làm việc, chế độ nghỉ có
tính lương, chế độ bảo hiểm bắt buộc…); quy định liên quan đến việc sử dụng
đất đai và các bất động sản khác; các quy định thuộc chính sách khuyến khích
hay hạn chế đầu tư vào một số ngành nghề hoặc địa bàn nhất định… Các quy
định này ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và kết quả của hoạt động FDI.
Các quy định thông thoáng, có nhiều ưu đãi, có ít hoặc không có các rào cản
hạn chế sẽ góp phần tăng cường thu hút FDI và tạo thuận lợi cho các dự án
FDI trong quá trình hoạt động. Ngược lại, hành lang pháp lý và cơ chế chính
sách mang tính hạn chế, ràng buộc sẽ khiến FDI không vào được hoặc vào ít.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với FDI Công nghiệp Dịch vụ bởi đối với
những nước đang phát triển với tiềm lực kinh tế hạn chế và sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước còn yếu thì vẫn tồn tại rất nhiều hàng rào hạn
chế FDI để bảo hộ ngành. Trong khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm
lực luôn trong tư thế sẵn sàng gia nhập thị trường nên đây gần như là yếu tố
đóng vai trò quan trọng nhất, đặc biệt là với các lĩnh vực nhạy cảm và được
cho là có liên quan trực tiếp đến anh ninh Quốc gia như bưu chính viễn thông,
năng lượng, văn hóa giải trí, phân phối…

Bản thân nội dung của các quy định là yếu tố quan trọng số một nhưng
bên cạnh đó, mức độ ổn định của các chính sách cũng là yếu tố mà các nhà
đầu tư nước ngoài quan tâm bởi so với các nhà đầu tư trong nước, khả năng
cập nhật và am hiểu pháp luật nước sở tại của họ hạn chế hơn rất nhiều. Họ
phải nghiên cứu, phân tích rất kỹ mới đưa ra chiến lược hoạt động kinh doanh
nên khi cơ chế chính sách thay đổi sẽ làm cho mọi tính toán của họ trở nên
không chính xác, không còn là tối ưu nữa. Ví dụ như sự thay đổi trong luật
thuế thu nhập cá nhân năm 2009 có thể khiến một số doanh nghiệp đang thực
hiện cách tính lương nhân viên Net Income (lương ròng đã trừ các khoản phải
nộp nhà nước) đổi sang cách tính Gross Income (lương gộp chưa trừ các
khoản phải nộp nhà nước) nhằm tránh gánh nặng tăng thêm từ khoản tăng
18
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

thuế thu nhập của nhân viên. Việc cứ phải “chạy theo” chính sách sẽ làm
doanh nghiệp “mệt mỏi” và đây là yếu tố vô hình làm giảm sức hấp dẫn của
môi trường đầu tư của một nước.

Bên cạnh đó, hoạt động FDI mang tính đầu tư quốc tế nên ngoài chịu
sự chi phối của luật pháp nước chủ nhà, hoạt động này còn chịu ảnh hưởng
trực tiếp từ các quy định trong hiệp ước quốc tế đa phương và song phương
mà nước nhận đầu tư tham gia ký kết. Những quy định này thường tạo điều
kiện thuận lợi cho FDI vì nó bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và thường
hướng tới mức độ “mở cửa” cao hơn so với các quy định của luật pháp trong
nước. Có rất nhiều ví dụ chứng minh rằng mức độ “mở cửa” của một nền kinh
tế tỷ lệ thuận với khả năng thu hút FDI trong đó Singapore và HongKong là 2
ví dụ quan trọng. Theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế Giới WEF công
bố hồi trung tuần tháng 6 năm 2008 thì HongKong và Singapore lần lượt
đứng đầu và thứ 2 danh sách các nền kinh tế hấp dẫn nhất thế giới do có thị
trường cởi mở.5 Đồng thời, theo Báo cáo Đầu tư Thế giới WIR 2007 (World
Investment Review) của diễn đàn liên hợp quốc về thương mại và phát triển
thì HongKong va Singapore cũng lần lượt giữ vị trí số 2 và 3 trong top 10
quốc gia thu hút FDI nhiều nhất với số vốn đầu tư lần lượt là 43 tỷ USD và 34
tỷ USD, chỉ sau Trung Quốc 69 tỷ USD.6

Ngoài ra, được xếp vào nhóm “khung chính sách về FDI” còn có đặc
điểm môi trường chính trị hay môi trường văn hóa. Đây là những yếu tố tạo
ảnh hưởng dài hạn và lâu bền tới quá trình thu hút FDI.

1.3.2. Các yếu tố của môi trường kinh tế

5
http://vneconomy.vn/62797P0C99/hong-kong-singapore-la-hai-nen-kinh-te-tu-do-nhat-the-gioi.htm
6
http://www.unctad.org/Templates/Page.asp?intItemID=1465

19
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Thứ nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế đi kèm với đô thị hóa. Giống như
tất cả các hoạt động đầu tư khác, FDI vào ngành Công nghiệp Dịch vụ cũng
chịu sự tác động của tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mối liên hệ giữa hai hoạt
động này thể hiện rõ nhất qua chức năng “tăng cường vốn” của FDI. Một nền
kinh tế tăng trưởng nhanh thường ở trong tình trạng khát vốn, mặt khác, sự bổ
sung vốn một cách đầy đủ sẽ giúp tạo nên tăng trưởng kinh tế hiệu quả. FDI
chính là một kênh huy động vốn đặc biệt hữu ích đối với các nước đang phát
triển. Tuy nhiên, ở đây tác giả muốn đề cập tới hiện tượng “tăng trưởng kinh
tế đi kèm với đô thị hóa”. Đây là yếu tố toát lên đặc thù của ngành Công
nghiệp Dịch vụ là ngành kinh tế gắn liền với quá trình đô thị hóa. Đô thị hóa
là hiện tượng di dân từ các làng xóm lên thành phố hoặc là di dân từ các thành
phố nhỏ lên thành phố lớn với hi vọng có được mức sống tốt hơn. Cùng với
sự gia tăng quá trình tập trung dân ở các thành phố lớn làm tăng mật độ dân
cư, hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh như: khan hiếm nhà ở, tắc nghẽn giao
thông, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm tiếng ồn… Chính trong hoàn cảnh đó, dù
vẫn cần phát triển nông-lâm-thủy hải sản, hay công nghiệp, xây dựng, nhưng
nhu cầu đối với Công nghiệp Dịch vụ trở nên bức thiết bao giờ hết. Người ta
sẽ cần nhiều nhà ở hơn, cần tới một hạ tầng giao thông hiện đại hơn, một hệ
thống cấp thoát nước với công suất cao hơn… trước hết là để “trung hòa” với
hiện tượng đô thị hóa, tránh ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống vốn có của cư
dân đô thị. Sau nữa là để tạo nên một “đô thị” theo đúng nghĩa, với sự khác
biệt cơ bản so với nông thôn là ở sự có mặt của mạng lưới các dịch vụ. Theo
dự báo về tình hình đô thị hóa của Liên Hợp Quốc năm 2005, số dân thành thị
sẽ tăng từ 3,2 tỷ người năm 2005 lên 4,9 tỷ người năm 2030 (tăng khoảng
60% trong vòng 25 năm)7. Tốc độ đô thị hóa nhanh mở ra triển vọng phát
triển và thu hút đầu tư vào ngành Công nghiệp Dịch vụ.

7
世界国勢図絵、第 18 版、2007/2008

20
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Thứ hai là mức độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Ngoại trừ đối với các nhà
đầu tư nước ngoài chuyên kinh doanh lĩnh vực hạ tầng, còn sự phát triển của
cơ sở hạ tầng kinh tế của một quốc gia và một địa phương luôn là điều kiện
vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết
định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Một tổng thể hạ
tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải đồng bộ và hiện
đại với các cầu, cảng, đường sá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao
phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống bưu điện thông tin
liên lạc viễn thống với các phương tiện nghe – nhìn hiện đại, có thể nối mạng
thống nhất toàn quốc và liên thông với toàn cầu; hệ thống điện nước dồi dào
và phân bố tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống
và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (như y tế, giáo dục,
giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại, quảng cáo, kỹ thuật
v.v…) phát triển rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao. Tóm lại, hệ thống
kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài tiện nghi và thoải
mái dễ chịu như ở nhà họ và giúp họ giảm được chi phí sản xuất về giao
thông vận tải trong khi không hề bị cản trở trong việc duy trì và phát triển các
quan hệ làm ăn bình thường với các đối tác của họ trong cả nước cũng như
khắp toàn cầu. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính
sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI đổ vào
một nước. Càng tạo cho chủ đầu tư sự an tâm về quyền sở hữu và quyền chủ
động định đoạt sử dụng mua bán đất đai, bất động sản mà họ có được bằng
nguồn vốn đầu tư của mình như một đối tượng kinh doanh thì họ càng mở
rộng hầu bao đầu tư lớn hơn và lâu dài hơn vào các dự án trên lãnh thổ của
nước nhận đầu tư. Dịch vụ thông tin và tư vấn đầu tư cũng đóng vai trò vô
cùng quan trọng đối với cả hai bên, bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Nội dung
hoạt động dịch vụ này rất phong phú và ngày càng mở rộng, bao gồm từ việc
cung cấp thông tin cập nhật, có hệ thống, đáng tin cậy về môi trường đầu tư

21
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

của cả nước và địa phương tiếp nhận đầu tư cũng như về các chủ đầu tư nước
ngoài cho các đối tác tiềm năng rộng rãi trong nước và trên toàn thế giới
(trong đó các chủ đầu tư lớn luôn được chú ý săn sóc đặc biệt); hỗ trợ các đối
tác đầu tư trong và ngoài nước tiếp xúc và lựa chọn các đối tác thích hợp, tin
cậy; đến giúp đỡ các bên làm thủ tục ký kết các hợp đồng kinh doanh, thành
lập các liên doanh, các dịch vụ tư vấn kỹ thuật và thông tin cần thiết khác liên
quan đến đánh giá các quá trình và kết quả hoạt động kinh doanh. Việc phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để gia tăng sự hấp dẫn
của môi trường đầu tư của mình mà đó còn là cơ hội để nước và địa phương
nhận đầu tư có thể có khả năng hấp thụ hiệu quả hơn dòng vốn nước ngoài đã
thu hút được (thông qua tăng thu nhập từ dịch vụ vận tải, thương mại, tài
chính, tư vấn thông tin… - các lĩnh vực hấp dẫn mà chính các nhà đầu tư
nước ngoài đang muốn tham gia chia sẻ lợi nhuận).

Thứ ba là đặc điểm nguồn lao động. Đối với phần lớn các ngành nhỏ
thuộc Công nghiệp Dịch vụ, không phải là máy móc mà chính yếu tố con
người mới là chủ đạo. Máy móc là công cụ đắc lực nhưng các ngành Công
nghiệp Dịch vụ càng sử dụng máy móc, công nghệ hiện đại thì sự tham gia
của con người lại càng trở nên quan trọng như các ngành ngân hàng, tài chính,
bảo hiểm; các ngành tư vấn, quảng cáo, kinh doanh… Nguồn lao động với
các đặc điểm về số lượng, tuổi tác, trình độ học vấn, trình độ ngoại ngữ, mức
lương trung bình… là yếu tố không thể thiếu trong các phân tích nghiên cứu
của các nhà đầu tư nước ngoài trước khi ra quyết định đầu tư.

Thứ tư là đặc điểm của thị trường. Ngành Công nghiệp Dịch vụ với đa
số “sản phẩm” tạo ra cần tiêu thụ ngay tại chỗ đòi hỏi một thị trường tiêu thụ
phù hợp với nó. Nếu như các chủ đầu tư ngành Công nghiệp sản xuất có thể
chỉ chọn một nước chuyên làm “công xưởng” rồi từ đó xuất sản phẩm đi tiêu
thụ khắp thế giới thì việc này hầu như không thể làm được đối với Công

22
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nghiệp Dịch vụ. Người ta không bao giờ đầu tư một dự án phân phối với các
cửa hàng bán lẻ ở Việt Nam để tiến hành phân phối cho các nước khác, cũng
không thể đầu tư các dự án vui chơi giải trí ở Việt Nam để phục vụ nhu cầu
vui chơi giải trí của người dân Trung Quốc. Tất nhiên vẫn có một số ngoại lệ
như với các ngành Dịch vụ thực hiện qua Internet. Điều đó hàm ý, hoạt động
đầu tư vào ngành Công nghiệp Dịch vụ đòi hỏi một thị trường tương ứng phù
hợp. Sức mua hàng hóa cao sẽ tạo ra sức hấp dẫn đối với ngành phân phối bán
lẻ, nhu cầu sử dụng điện thoại và internet của người dân cao, sẽ tạo ra sức hút
đối với ngành viễn thông, di động… Tổng hòa của các yếu tố dung lượng thị
trường, thu nhập bình quân đầu người, tốc độ tăng trưởng của thị trường, sở
thích thị hiếu của khách hàng… sẽ tạo nên đặc điểm thị trường.

1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thuận lợi trong kinh doanh

Đây là hệ thống các yếu tố tuy không tác động trực tiếp lên doanh thu
hay chi phí8 của hoạt động FDI nhưng việc sản xuất kinh doanh có thuận lợi,
suôn sẻ hay không đều phụ thuộc vào chúng. Thứ nhất là tình hình cải cách
thủ tục hành chính và chống tham nhũng. Những thủ tục đầu tư rườm rà sẽ
gây tốn nhiều chi phí và thời gian của các nhà đầu tư. Nhiều trường hợp khi
hoàn thành xong thủ tục đầu tư theo đúng quy định của nước chủ nhà thì cơ
hội đầu tư cũng qua mất. Đặc biệt nơi còn tồn tại những thủ tục hành chính
rườm rà, thiếu minh bạch thường là những nơi có tham nhũng. Tham nhũng
khiến cho chi phí đầu tư và chi phí kinh doanh tăng lên và các nhà đầu tư
không thể dự đoán được chi phí có thể tăng đến mức nào bởi không có con số
thống kê nào phản ánh được chính xác những chi phí đó. Tham nhũng cũng
làm cho các cơ hội đầu tư trở nên không chắc chắn. Dù đã phải chi tiền cho
các quan chức chính phủ nhưng các nhà đầu tư vẫn không biết chắc mình có
được đầu tư hay không vì chẳng có một ràng buộc pháp lý nào từ các quan

8
ở đây chỉ xét đến chi phí hợp lý, là những chi phí có thể kê khai chính xác với những giấy tờ hợp lệ.

23
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

chức chính phủ này. Chính vì thế, nhiều khi không cần cân nhắc đến các yếu
tố khác, khi thấy một nước có nạn tham nhũng nặng nề, các chủ đầu tư có thể
không tìm đến nước đó nữa.

Thứ hai là các hoạt động xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư bao gồm hoạt
động xây dựng và giới thiệu hình ảnh đất nước, đặc biệt là giới thiệu môi
trường đầu tư, cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với ngành
Công nghiệp Dịch vụ của các nước đang phát triển, do tiến trình hội nhập
kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới nên các chính sách đầu tư đối
với ngành này liên tục có những thay đổi theo hướng chuyển từ hạn chế sang
mở cửa từng bước. Chính đây là lúc hoạt động xúc tiến thể hiện vai trò của
mình, giúp các chủ đầu tư biết đến các chính sách thuận lợi mới được ban
hành. Từ đó, chủ đầu tư sẽ cân nhắc và đi đến quyết định có đầu tư hay không
đầu tư ở nước đó. Thực tế cho thấy nhiều nước đang phát triển không thành
công trong thu hút FDI mặc dù đã đưa ra nhiều cải tiến về chính sách có liên
quan theo hướng tạo thuận lợi hơn cho nhà đầu tư, lý do vì các chủ đầu tư
không biết đến những thay đổi này. Như vậy xúc tiến đầu tư giúp rút ngắn
khoảng cách địa lý giữa nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư để thông tin có
thể đến được với các nhà đầu tư kịp thời.

Thứ ba là hệ thống các tiện ích và chính sách hỗ trợ khác đối với nhà
đầu tư nước ngoài trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Đó có thể là
hoạt động đối thoại thường xuyên giữa chính quyền địa phương với doanh
nghiệp FDI để các nhà đầu tư luôn cảm thấy được quan tâm. Hoặc có thể là
những quy định về visa nhập cảnh tạo thuận tiện cho nhà đầu tư đi qua đi lại
giữa hai nước. Ngoài ra, hàng loạt những dịch vụ tiện ích gắn liền với cuộc
sống cá nhân của nhà đầu tư nước ngoài và gia đình họ như các trường song
ngữ, nhà trẻ, nhà chung cư chất lượng cao, dịch vụ bảo hiểm cho người nước

24
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

ngoài…cũng là những yếu tố mà nhà đầu tư nào cũng quan tâm trước khi đưa
ra quyết định đầu tư.

1.4. Kinh nghiệm thu hút FDI vào ngành Công nghiệp Dịch vụ của
một số nƣớc Châu Á

1.4.1. Ấn Độ

Mặc dù được Ngân hàng Thế giới xếp vào nhóm nước có thu nhập thấp
nhưng phải nói nền kinh tế Ấn Độ những năm gần đây đang thật sự cất cánh
nhờ sự phát triển vũ bão của ngành Công nghệ thông tin. Ấn Độ ngày nay đã
trở thành một trong những địa chỉ gia công phần mềm của thế giới với sự góp
mặt của những tên tuổi hàng đầu thế giới như IBM, Digital, Hewlett Packard,
Sun, Motorola… Vậy nhờ đâu mà Ấn Độ làm được điều kỳ diệu như thế?!
Yếu tố đầu tiên có thể nhận thấy ngay đó chính là nguồn nhân lực. Hệ thống
giáo dục tuyệt vời với các học viện công nghệ quốc gia được trang bị các
trang thiết bị hiện đại nhất, mạng lưới hơn 1000 trường đại học và cao đẳng
đào tạo chuyên ngành về Công nghệ thông tin nằm rải rác khắp cả nước, chư
akể các cơ sở đào tạo tư nhân uy tín, các trung tâm đào tạo và đào tạo lại của
các doanh nghiệp lớn… tất cả đã tạo cho nguồn nhân lực phần mềm của quốc
gia này một căn bản rất tốt.
Thứ hai, có thể đề cập tới vấn đề chính sách. Chính sách mở cửa,
thông thoáng và những ưu đãi nhất định của chính phủ ấn Độ đã phần nào tạo
nên sức hút khiến phần lớn những tên tuổi lớn nhất của công nghệ toàn cầu đã
phải có mặt ở đây. Các doanh nghiệp này được nhận những ưu đãi đặc biệt
như: cung cấp đầy đủ cơ sở hạ tầng, miễn thuế nhập khẩu, thuế doanh thu
trong 5 năm, tối giản các thủ tục hành chính phức tạp và tạo quyền chuyển lợi
nhuận về nước…Những ưu đãi đó đã giúp thu hút FDI của thế giới đổ vào Ấn
Độ một cách ấn tượng.

1.4.2. Thái Lan

25
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Thái Lan đã thực hiện đơn giản hóa thủ tục, quy trình đầu tư bằng
cách quy định rõ trong “Luật xúc tiến thương mại” rằng cơ quan nào, ngành
nào có nhiệm vụ gì trong hoạt động xúc tiến đầu tư. Nước này cũng công
khai kế hoạch phát triển ngắn và trung hạn của mình, công bố rộng rãi và tập
trung hướng dẫn đầu tư nước ngoài vào các ngành khuyến khích phát triển.
Thái Lan dành những chính sách ưu đãi về dịch vụ cho các nhà đầu tư nước
ngoài như giảm giá thuê nhà đất, văn phòng, cước viễn thông, vận tải…
Chính vì thế, giá cước dịch vụ của nước này đối với các đối tác nước ngoài
được đánh giá là rất hấp dẫn đối với việc thu hút FDI.

1.4.3. Singapore

Thế mạnh của Singapore trong việc thu hút FDI vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ chính là chính sách thu hút nhân tài. Không chỉ phát triển
nguồn nhân lực trong nước, quốc đảo nhỏ bé với dân số ít ỏi này còn thực
hiện chính sách thu hút nhân tài từ bên ngoài. Singapore được coi là nơi có
chính sách thu hút nhân tài bài bản nhất thế giới. Các chính sách đột phá như
cho phép người nước ngoài tham gia vào bộ máy nhà nước, nhập cư dễ dàng,
đãi ngộ xứng đáng theo trình độ… khiến nước này có được một đội ngũ lao
động cao cấp hàng đầu thế giới, trở thành địa điểm hấp dẫn cho các nhà đầu
tư nước ngoài, đặc biệt là các ngành nghề đòi hỏi nhiều trí tuệ, chất xám.

Nhờ điểm lại những lý luận về FDI và Công nghiệp Dịch vụ chúng ta
đã có một cái nhìn tổng quan về hoạt động thu hút FDI vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ. Đây tuy chỉ là một hoạt động rất nhỏ của nền kinh tế nhưng
nó đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lước phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Những lý thuyết
tổng quan này, cùng với một số kinh nghiệm thu hút FDI vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ của các nước Châu Á sẽ là cơ sở giúp phân tích thực trạng thu

26
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

hút FDI của Nhật Bản vào ngành Công nghiệp Dịch vụ Việt Nam tiếp theo
đây.

27
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP CỦA


NHẬT BẢN VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỊCH VỤ
Ở VIỆT NAM
2.1. Đặc trƣng FDI vào ngành Công nghiệp Dịch vụ của Nhật Bản

Cũng giống như các nền kinh tế phát triển khác trên thế giới, tỷ trọng
giá trị thu nhập ngành Công nghiệp Dịch vụ của Nhật Bản chiếm khoảng 70%
tổng thu nhập toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu như tỷ trọng Công nghiệp
Dịch vụ trong tổng vốn FDI đầu tư ra của Mỹ cũng chiếm khoảng 70% thì
con số này của FDI Nhật Bản thấp hơn nhiều.

TỶ TRỌNG VỐN FDI NHẬT BẢN ĐẦU TƢ RA NƢỚC NGOÀI


PHÂN THEO NGÀNH

2005 2006 2007

Công nghiệp sản xuất 57,2% 68,7% 59,3%

Nông lâm ngư nghiệp +


3,4% 3,3% 5,7%
Khai khoáng + Xây dựng

Công nghiệp Dịch vụ 39,4% 28% 35%

(Nguồn: Ngân hàng trung ương Nhật Bản http://www.boj.or.jp/ )

Vốn FDI Công nghiệp Dịch vụ của Nhật chỉ chiếm từ 30 ~ 40% tổng vốn đầu
tư ra nước ngoài. Điều này được lý giải bởi đặc điểm nền kinh tế Nhật Bản.
Nhật Bản cũng đi lên từ đổ nát sau chiến tranh nên tất cả đều phải xây dựng
từ đầu, lấy các ngành sản xuất cơ bản làm mũi nhọn. Tuy nhiên, Nhật lại rất

28
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên nên việc tìm kiếm nguyên liệu cho sản
xuất trở thành mục tiêu hàng đầu khi đầu tư ra nước ngoài. Chính bởi thế,
ngay cả đến bây giờ, tỷ trọng FDI đầu tư vào ngành công nghiệp sản xuất của
nước này vẫn luôn là lớn nhất và đạt trên 50%.

Tuy nhiên, nếu xét riêng ngành Công nghiệp Dịch vụ thì cũng có thể
thấy lĩnh vực ngân hàng tài chính là một thế mạnh của nước này. Năm 1986,
Nhật giữ ưu thế về các ngân hàng lớn nhất thế giới với 12 ngân hàng trong top
20 ngân hàng lớn nhất thế giới về tài sản. Ngày nay, tuy không còn “độc
chiếm” lĩnh vực ngân hàng như trước nữa nhưng ngân hàng lớn thứ 2 thế giới
vẫn là của Nhật, đó là Sumitomo Mitsui. Chính vì thế mà ngân hàng, tài chính,
bảo hiểm luôn là những lĩnh vực “ưa thích” của Nhật khi đầu tư ra nước ngoài.
Tuy nhiên, lĩnh vực này đòi hỏi hạ tầng về công nghệ phải rất phát triển nên
các nước đang phát triển khó mà chạy đua được với các nước phát triển khác
trong hoạt động thu hút FDI ngân hàng của Nhật. Bên cạnh ngân hàng thì lĩnh
vực phân phối cũng được coi là lĩnh vực chủ chốt của dòng vốn FDI Công
nghiệp Dịch vụ Nhật Bản. Lĩnh vực này càng được đầu tư ra nước ngoài
mạnh hơn trong những năm gần đây bởi thị trường phân phối trong nước của
Nhật gần như đã bão hòa. Nhật Bản với tốc độ già hóa dân số tăng nhanh tỷ lệ
sinh giảm mạnh khiến cho thị trường tiêu thụ nội địa hầu như không thể mở
rộng hơn được nữa. Sự bão hòa ở hiện tại và triển vọng mịt mờ trong tương
lai khiến các doanh nghiệp Công nghiệp Dịch vụ phải tìm kiếm thị trường tiêu
thụ ở nước ngoài. Thị trường nội địa Nhật Bản hầu như không còn đất phát
triển cho lĩnh vực phân phối.

Một đặc điểm thứ ba của dòng FDI Công nghiệp Dịch vụ Nhật Bản đó
là đang ngày càng có nhiều TNC ngoài ngành mở rộng hoạt động sang lĩnh
vực này khi đầu tư ra nước ngoài. Số các công ty con kinh doanh DV ở nước
ngoài của Nhật năm 2001 là 5734 cty, trong khi đó số công ty mẹ kinh doanh

29
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

DV chỉ là 4565. Như vậy mức chênh lệch là 1169 cty tương đương với
khoảng 20% các công ty con dịch vụ là thuộc sở hữu bởi các TNC trong các
ngành sản xuất chế tạo hoặc TNC khai thác. Điều này cho thấy sự tham gia
ngày càng tăng của các TNC khác ngành trong lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ.
Các TNC sản xuất hàng hóa thường đầu tư vào các Dịch vụ thương mại,
marketing hay các công ty con về tài chính nhằm hỗ trợ cho XK từ nước chủ
đầu tư hoặc tiêu thụ hàng hóa được sản xuất ra ngay tại thị trường nước tiếp
nhận đầu tư. Một số TNC thậm chí còn đầu tư vào những DV không liên quan
mấy đến hoạt động sản xuất của chính họ, nhằm tìm kiếm những lĩnh vực mới
có triển vọng tăng trưởng trong tương lai.

2.2. Các yếu tố thu hút FDI của Nhật Bản vào ngành Công nghiệp
Dịch vụ ở Việt Nam

2.2.1. Khung chính sách về FDI

2.2.1.1. Hệ thống luật pháp liên quan đến FDI

Kể từ khi mở cửa năm 1986, Chính phủ Việt Nam không ngừng nỗ lực
hoàn thiện khung chính sách pháp luật đối với đầu tư nước ngoài. Trong hàng
loạt những thay đổi và cải thiện, không thể không nhắc đến sự ra đời của Luật
Doanh nghiệp thống nhất 2005 và Luật Đầu tư thống nhất 2005. Theo đó, các
doanh nghiệp nước ngoài được tự do lựa chọn các loại hình doanh nghiệp phù
hợp (chứ không bị hạn chế ở loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn như
trước), được hoạt động trong tất cả các lĩnh vực mà luật pháp không cấm (đổi
từ cách tiếp cận “ danh sách các ngành được phép” sang “danh sách loại trừ
và hạn chế”), được đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước… với
thủ tục cấp phép đầu tư minh bạch và nhanh chóng hơn. Những cải cách như
vậy nhằm tạo ra một khung pháp lý gần hơn với luật pháp quốc tế, đưa kinh tế
Việt Nam hội nhập nhanh chóng với kinh tế thế giới.

30
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Ngoài ra, theo kết quả của cuộc điều tra các Doanh nghiệp FDI Nhật
Bản tại các thành phố lớn ở Châu Á về các chi phí liên quan đến đầu tư năm
2008, thì có thể thấy một số quy định luật pháp của Việt Nam là thuận lợi với
các nhà đầu tư nước ngoài một cách tương đối so với các nước châu Á khác.
Điều đó thể hiện ở các quy định của Bộ luật Lao Động, luật thuế thu nhập
Doanh nghiệp và các luật Bảo hiểm…Bộ luật Lao Động Việt Nam quy định
tuần làm 48 tiếng thay vì 40 tiếng như ở Trung Quốc và một số nước khác.
Chỉ một phép tính đơn giản cũng có thể thấy, nếu đầu tư vào Việt Nam thì có
thể nâng số thời gian làm việc cao hơn ở nước khác tới 52 ngày/ năm. Đa số
các doanh nghiệp Nhật Bản đều tin rằng 52 ngày chênh lệch đó giúp họ thu
được nhiều lợi nhuận hơn một cách đáng kể. Còn các quy định về mức đóng
góp phí bảo hiểm cho người lao động (bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế và mới đây nhất, từ 1/1/2009 là bảo hiểm thất nghiệp) và phí công đoàn quy
định mức chi phí xã hội mà doanh nghiệp phải chi trả cho người lao động theo
luật pháp Việt Nam là 17% lương người lao động tính đến 31/12/2008 (từ
năm 2009, doanh nghiệp sẽ phải đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao
động với mức 1% lương nâng chi phí xã hội của doanh nghiệp lên 18%).
Trong khi đó, doanh nghiệp phải trả chi phí xã hội cao hơn nhiều nếu đầu tư ở
Thượng Hải (45%), Bắc Kinh (35%) hay Seoul, Hàn Quốc (37%).

31
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

(Nguồn: The 18th Survey of Investment-Related Cost Comparison in Major


Cities and Regions in Asia, 2008)

Ngoài ra, mức thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam cũng được
thay đổi theo hướng giảm dần và là mức thuế hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
Nhật Bản. Ở Nhật, doanh nghiệp phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp với
mức 40.7% thì ở Việt Nam từ năm 1999 đến nay, mức thuế này được cắt giảm
từ 35% (1999), xuống 32% (2001), 28% (2004) và 25% (2009). Bảng dưới
đây sẽ giúp đối chiếu thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam,
Nhật Bản và một số nước châu á có sức hút đối với FDI của Nhật Bản. Theo
đó, tuy Việt Nam không phải là nước có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
thấp nhất tại mọi thời điểm nhưng xét một cách toàn diện, mức thuế thu nhập
doanh nghiệp của Việt Nam thấp hơn tất cả các nước còn lại trong bảng.

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

32
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Japan 42 42 42 42 40.7 40.7 40.7 40.7

Vietnam 32 32 32 28 28 28 28 28 25

Thailand 30 30 30 30 30 30 30 30

China 33 33 33 33 33 33 33 25

India 39.5 35.7 36.7 35.8 36.6 33.6 33.9 33.9

Malaysia 28 28 28 28 28 28 27 26

Philipines 32 32 32 32 32 35 35 35

Indonesia 30 39 30 30 30 30 30 30

(Nguồn: KPMG’s Corporate and Indirect Tax Rate Survey, 2008


http://www.kpmg.com/Global/IssuesAndInsights/ArticlesAndPublications/Pa
ges/Corporateindirecttaxsurvey2008.aspx )

Từ năm 2009, Việt Nam thi hành luật thuế thu nhập cá nhân mới, thể
hiện xu hướng đối xử bình đẳng với người nước ngoài bằng cách chỉ phân
biệt người cư trú và người không cư trú thay vì phân biệt người Việt Nam và
người nước ngoài như luật thuế cũ. Theo luật thuế cũ, thu nhập chịu thuế của
người Việt Nam là từ 5 triệu đồng còn người nước ngoài là từ 8 triệu đồng
nhưng nay tất cả đều chung một biểu thuế. Xét cụ thể trong trường hợp của
các doanh nghiệp Nhật Bản: mức thu nhập của nhân viên người Nhật trung
bình tương đương với mức chịu thuế suất cao nhất theo biểu thuế cũ nên đối
với người Nhật, quy định mới này hầu như không ảnh hưởng nhiều lắm ngoại
trừ việc giảm thuế suất mức cao nhất từ 40% xuống còn 35%. Tuy nhiên, đối
với người Việt Nam làm trong các doanh nghiệp Nhật Bản, mọi chuyện có vẻ
sẽ khác. Theo luật thuế mới, người lao động được giảm trừ 4 triệu cho bản
thân và được giảm trừ gia cảnh 1,6 triệu/ người cho mỗi người tiếp theo. Như
vậy, nếu tính gộp cả các chi phí bảo hiểm chưa trừ thì gần như thuế thu nhập
cá nhân chỉ có tác động đến những người có thu nhập khoảng trên 10 triệu

33
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

đồng. Mức thu nhập như trên gần như tương đương với thu nhập của bậc quản
lý trung gian trong các doanh nghiệp Nhật Bản. Nói vậy có nghĩa là, nếu như
doanh nghiệp trả thu nhập ròng cho người lao động thì luật thuế mới giúp
giảm đáng kể chi phí thuế thu nhập cá nhân mà doanh nghiệp phải đóng thay
cho người lao động. Đây là những điều đã được viện nghiên cứu chiến lược
Thái Bình Dương chỉ ra rất rõ trong bản nghiên cứu về “Triển vọng và thách
thức đối với hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam” khi đánh giá những tác
động của luật thuế thu nhập cá nhân 2009. 9

2.2.1.2. Các hiệp định quốc tế

Ký kết Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản

Nhật Bản hiện đang là đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Cùng với
tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, năm 2003, Việt Nam đã ký kết
với Nhật Bản “Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư”. Với những
cam kết ở mức độ cao nhất (có những lĩnh vực còn cam kết mức độ mở cửa
cao hơn cả cam kết gia nhập WTO), hiệp định này đã khẳng định vị trí đối tác
chiến lược của các nhà đầu tư Nhật Bản. Theo đó:

Việt Nam sẽ dành cho các nhà đầu tư và những đầu tư của Nhật sự đối
xử không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử dành cho các nhà đầu tư và
những đầu tư của mình, trong cùng một hoàn cảnh tương tự như nhau trong
việc thành lập, mua lại, mở rộng, hoạt động, quản lý, duy trì, sử dụng, thu lợi
và bán hoặc một hình thức chuyển nhượng đầu tư khác (nguyên tắc “đối xử
quốc gia”); Việt Nam cũng dành cho nhà đầu tư và những đầu tư của Nhật sự
đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư của bất
kỳ một nước thứ ba nào và những đầu tư của họ, trong cùng một hoàn cảnh

9
“対ベトナム直接投資の課題と展望“ http://www.jri.co.jp/RIM/2008/02vietnam.pdf

34
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

tương tự như nhau đối với các hoạt động đầu tư. (nguyên tắc “tối huệ
quốc”).10

Việt Nam cũng cam kết không áp đặt bất cứ điều nào dưới đây như là
điều kiện đối với các hoạt động đầu tư của nhà đầu tư Nhật Bản, tạo điều kiện
hoạt động thông thoáng nhất cho các nhà đầu tư:11

- Xuất khẩu một mức hoặc một tỉ lệ nhất định dịch vụ.

- Mua, sử dụng hoặc dành ưu tiên cho dịch vụ cung cấp trong khu vực
của mình hoặc phải mua dịch vụ của một chủ thể nào đó của Việt Nam.

- Hạn chế việc bán dịch vụ trong nước mà do đầu tư của nhà đầu tư đó
cung ứng, do có sự ràng buộc về số lượng hoặc giá trị xuất khẩu hoặc các
khoản thu ngoại tệ.

- Đạt được một mức độ hoặc giá trị nhất định của việc nghiên cứu và
phát triển tại Việt Nam

- Chỉ định quản trị viên, giám đốc hoặc thành viên hội đồng quản trị là
các cá nhân thuộc bất kỳ một quốc tịch cụ thể nào.

- Chuyển giao công nghệ, kiến thức độc quyền cho một thể nhân hoặc
một pháp nhân hoặc bất kỳ một chủ thể khác của Việt Nam.

Hiệp định có đính kèm danh sách các lĩnh vực loại trừ ở phụ lục 1 và
phụ lục 2. Trong đó, phụ lục 1 là danh sánh loại trừ tuyệt đối quy định, mỗi
bên ký kết có thể duy trì hoặc ban hành một biện pháp nào không phù hợp với
nội dung cam kết trên (điều 2 và điều 4), liên quan đến những lĩnh vực được
quy định ở phụ lục 1. Trong 11 lĩnh vực được liệt kê, Công nghiệp Dịch vụ
chỉ có bốn lĩnh vực bị loại trừ tuyệt đối – những lĩnh vực được coi là ảnh
hưởng trực tiếp tới truyền thống văn hóa và an ninh quốc gia: Phát thanh,

10
Điều 2, Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Nhật Bản, 2003
11
Điều 4, Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Nhật Bản, 2003

35
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

truyền hình; sản xuất và xuất bản văn hóa phẩm; thăm dò và khai thác dầu khí
và khoáng sản; trò chơi có thưởng.
Phụ lục 2 của Hiệp định đưa ra danh mục các lĩnh vực bị loại trừ tương
đối, tức là các bên có thể duy trì bất kỳ biện pháp ngoại trừ nào hiện đang tồn
tại, tuy nhiên không được phép ban hành thêm bất kỳ nội dung nào không phù
hợp với cam kết. Danh sách các lĩnh vực bị loại trừ tương đối ở đây gồm 18
lĩnh vực nhưng Dịch vụ chiếm tới 16 lĩnh vực, đó là: dịch vụ pháp lý; dịch vụ
kế toán và kiểm toán; dịch vụ về thuế; dịch vụ quảng cáo; dịch vụ viễn thông
giá trị gia tăng; dịch vụ viễn thông cơ bản; dịch vụ điện thoại cố định bao gồm
nội hạt, đường dài trong nước và quốc tế; xây dựng, lắp đặt, vận hành và bảo
trì thiết bị viễn thông; dịch vụ nghe nhìn; dịch vụ bảo hiểm; dịch vụ ngân
hàng và các dịch vụ tài chính khác; kinh doanh bất động sản; dịch vụ du lịch
và điều phối du lịch lữ hành; dịch vụ vận tải; dịch vụ phân phối; điện và vận
tải hàng không nội địa.

Các lĩnh vực trên tuy bị hạn chế “đối xử quốc gia”, nhưng những đầu tư
trong các lĩnh vực này vẫn được đảm bảo đối xử theo nguyên tắc “tối huệ
quốc”. Điều này cho thấy sự ưu đãi mà Việt Nam dành cho các nhà đầu tư
Nhật Bản ngoài những điều “hơn” thì cũng chắc chắn không kém bất kể một
nước nào.

Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư là minh chứng cho một
bước phát triển nhảy vọt trong quan hệ đầu tư hai nước, mở ra cho làn sóng
đầu tư của Nhật vào Việt Nam, trong đó cánh cửa mở cho ngành Công nghiệp
Dịch vụ là rất rộng. Nội dung cam kết của hiệp định này cũng có nhiều điểm
“cởi mở” hơn rất nhiều so với BTA cam kết với Hoa Kỳ như trong lĩnh vực
giáo dục, tư vấn pháp lý, kiến trúc…Và thậm chí là “cởi mở” hơn cả cam kết
Dịch vụ khi gia nhập WTO của Việt Nam. Điển hình là dịch vụ Giáo dục.
Theo BTA cũng như cam kết mở cửa thị trường dịch vụ khi gia nhập WTO

36
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

của Việt Nam thì từ 1/1/2009, các nhà đầu tư nước ngoài mới được thành lập
cơ sở giáo dục 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Nhưng trong hiệp định tự
do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký với Nhật Bản năm 2003, chúng ta đã
mở cửa thị trường này và thực tế là đã có dự án giáo dục 100% vốn Nhật Bản
được cấp phép tại Việt Nam như: Công ty Eikoh ở Hà Nội (do công ty Cổ
phần Eikoh, Nhật Bản đầu tư 100% vốn) chuyên cung cấp dịch vụ dạy tiếng
Nhật và tiếng Việt, Trung tâm Nhật ngữ Kobayashi ở Thành phố Hồ Chí
Minh (chủ đầu tư là ông Kobayashi, quốc tịch Nhật Bản) cung cấp dịch vụ
đào tạo tiếng Nhật và cấp chứng chỉ cho học viên theo yêu cầu.

Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản

Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản được chính phủ hai nước thực
hiện từ tháng 4/2003 nhằm cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam. Ngày
4/12/2003, Kế hoạch hành động với 44 nội dung cụ thể đã được thông qua và
báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ hai nước. Ngày 19 tháng 11 năm 2003, Lễ
ký Công hàm trao đổi để Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư có
hiệu lực đã được tiến hành. Như vậy “sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản”
được coi là một bước hiện thực hóa Hiệp định đầu tư giữa hai nước vừa ký
kết trước đó, nhằm hình thành và thực hiện các chiến lược để tác động vào
đầu tư trực tiếp nước ngoài, xem xét lại toàn bộ các luật và quy định liên quan
đến đầu tư, xây dựng năng lực của các cơ quan chính phủ liên quan. Mục tiêu
là cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế và môi trường đầu tư trực tiếp ở Việt Nam,
tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư Nhật Bản khi đầu tư vào Việt Nam, giúp
Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn với thế giới.

Sáng kiến chung Nhật Bản được thực hiện trong 2 năm từ tháng
12/2003 đến tháng 12/2005 với kế hoạch hành động gồm 2 phần:

- Phần 1: xây dựng và thực hiện chiến lược xúc tiến đầu tư nước ngoài
gồm có 6 mục nhỏ, trong đó, ngoài 2 mục hướng trọng tâm vào ngành Công

37
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nghiệp phụ trợ và Công nghiệp cơ bản thì 4 mục còn lại đều góp phần đẩy
mạnh quá trình xúc tiến, thu hút đầu tư vào ngành Công nghiệp Dịch vụ đó là
làm rõ các biện pháp ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cải thiện chế độ thuế thu nhập cá nhân cho
người nước ngoài; mở rộng hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài (Dịch vụ
một cửa cho đầu tư nước ngoài); áp dụng miễn thị thực nhập cảnh đối với lưu
trú ngắn hạn.

- Phần 2: Các chính sách và biện pháp cụ thể nhằm cải thiện rõ nét môi
trường đầu tư bao gồm các mục nhỏ: các quy định pháp luật liên quan đến đầu
tư; nâng cao năng lực của các cơ quan thực thi; xây dựng cơ sở hạ tầng phần
mềm liên quan đến đầu tư trong đó quan trọng nhất là đào tạo chuyên gia
pháp luật và nguồn nhân lực công nghệ thông tin; xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế như giao thông đô thị, điện lực, viễn thông, hệ thống xử lý nước
thải….với sự hỗ trợ từ ngân hàng Nhật Bản JBIC; những biện pháp hỗ trợ các
nhà đầu tư Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam.

Sáng kiến chung Việt – Nhật đã chỉ ra những biện pháp cụ thể và chi
tiết, tạo cơ sở bảo vệ lợi ích toàn diện cho các doanh nghiệp Nhật Bản khi vào
Việt Nam. Sau khi kết thúc Sáng kiến chung Việt – Nhật, Chính phủ hai nước
đã đi đến thỏa thuận thực hiện tiếp giai đoạn hai và giai đoạn 3 của Sáng kiến
chung. Giai đoạn 2 đã được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm
2006 đến cuối năm 2007 cũng với mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư Việt
Nam đặc biệt là nhằm để ngăn chặn làn sóng chuyển dịch FDI của Nhật từ
Việt Nam sang các nước láng giềng như Thái Lan, Malaysia, Singapore…
Giai đoạn 3 (2009-2010) được ghi nhớ triển khai từ ngày 12/11/2008 bao gồm
37 mục cụ thể nằm trong các nhóm vấn đề lớn liên quan tới thuế thu nhập
doanh nghiệp, mối quan hệ hài hòa giữa người lao động và người sử dụng lao
động, hệ thống đường bộ, sở hữu trí tuệ, phát triển hơn nữa nguồn điện

38
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

năng… Theo đó, các doanh nghiệp Nhật Bản sẽ quan tâm hơn tới cơ sở hạ
tầng và đời sống của công nhân làm việc trong các doanh nghiệp FDI Nhật
Bản. Như vậy, với những kế hoạch hành động cụ thể, việc triển khai sáng kiến
chung giai đoạn 1, 2 và 3 liên tục trong thời gian qua cho thấy quyết tâm thắt
chặt mối quan hệ đầu tư của hai nước Việt Nam – Nhật Bản, tạo điều kiện
thuận lợi cho làn sóng FDI của Nhật đổ vào Việt Nam.

Mở cửa lĩnh vực Dịch vụ theo cam kết WTO

Ngoài những cam kết song phương mang tính đối tác chiến lược, việc
Việt Nam gia nhập WTO với cam kết mở cửa lĩnh vực Dịch vụ cũng là một
trong những yếu tố tạo thuận lợi để thu hút FDI Nhật Bản vào ngành này. Với
lộ trình mở cửa và mức độ cam kết khác nhau, Việt Nam cam kết đủ 11 ngành
dịch vụ, theo phân ngành là khoảng 110 ngành. Trong đó, các lĩnh vực thu hút
được sự quan tâm của các nhà đầu tư Nhật Bản nhiều nhất là lĩnh vực phân
phối (được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài kể từ ngày
1/1/2009), lĩnh vực bảo hiểm (được phép thành lập chi nhánh bảo hiểm phi
nhân thọ sau 5 năm gia nhập WTO) và lĩnh vực ngân hàng (cho thành lập
ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007).

2.2.1.3. Các yếu tố khác

Sự ổn định chính trị

Việt Nam là một quốc gia hòa bình và ổn định về chính trị, đặc biệt là
đối với Nhật Bản bởi giữa hai nước luôn duy trì quan hệ hữu nghị và hợp tác
song phương toàn diện. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư
Nhật khi đặt trong tương quan so sánh với các nước láng giềng như Thái Lan,
Philipin, Trung Quốc… Quan hệ Nhật Bản – Trung Quốc đã từng trải quan
thời hoàng kim vào những năm đầu của thế kỷ 20. Nhưng sau đó, vào khoảng
năm 2003, do những bất đồng về quan điểm lịch sử (thể hiện trong sách giáo
khoa của hai nước) dẫn đến hàng loạt cuộc chỉ trích, biểu tình chống Nhật ở
39
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Trung Quốc thì làn sóng FDI của Nhật vào Trung Quốc đã giảm hẳn. Các nhà
đầu tư Nhật Bản cho rằng, rất khó làm ăn lâu dài ở một nơi mà người ta luôn
có ý “thù hằn” mình. Ngược lại, người Việt Nam chưa từng có ý “thù hằn”
với người Nhật. Sự ổn định về chính trị ở Việt Nam khiến các nhà đầu tư
không phải lo sợ, đề phòng những vụ bạo động, xung đột vũ trang, đả đảo
chính quyền, mà có thể yên tâm lên chiến lược kinh doanh lâu dài. Đây rõ
ràng là một lợi thế rất lớn giúp thu hút FDI của Nhật Bản nói chung và FDI
Công nghiệp Dịch vụ của Nhật Bản nói riêng.

Sự hòa hợp về văn hóa

Không phải là một ưu điểm quá lớn nhưng sự hòa hợp về văn hóa cũng
là một yếu tố giúp thu hút FDI của Nhật vào ngành Công nghiệp Dịch vụ Việt
Nam. Trong tương quan so sánh với Ấn Độ, nhất là về ngành phát triển phần
mềm thì văn hóa là một thế mạnh của chúng ta. Đạo Phật là tôn giáo chính ở
Việt Nam cũng giống như Nhật Bản. Chính bởi thế giữa hai dân tộc ít nhiều
có những mối tương đồng trong lối sống, lối suy nghĩ và làm việc. Cả 2 nền
văn hóa đều rất coi trọng trật trự quan hệ xã hội trên-dưới, coi trọng thái độ lễ
phép, khiêm nhường và tinh thần học hỏi. Điều đó giúp cho người lao động
Việt Nam có thể hòa nhập nhanh chóng khi tham gia vào môi trường doanh
nghiệp Nhật Bản. Theo một góc độ khác, các nhà đầu tư Nhật Bản cũng
không quá khó khăn khi phải hòa nhập với môi trường lao động ở Việt Nam.
Trái lại, có tới 70% dân số Ấn Độ theo đạo Hinđu, 20% theo đạo Hồi và Ấn
Độ luôn được coi là quốc gia của Tôn giáo với những đạo luật hà khắc. Tôn
giáo trở thành một khó khăn lớn mà các nhà đầu tư Nhật Bản thừa nhận khi
đầu tư vào đất nước này. Hầu hết họ đều cảm thấy gặp khó khăn khi làm ăn ở
ấn độ với những ngày ăn chay, những tục lệ khắt khe, những quan điểm tôn
giáo mà họ cho là khó hiểu.

2.2.2. Các yếu tố của môi trường kinh tế

40
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

2.2.2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đi kèm với đô thị hóa

Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong 10 năm trở lại đây,
trung bình 7%/năm, nhu cầu vốn của Việt Nam là rất cao. Việt Nam trở thành
mảnh đất đầy tiềm năng đối với các nhà đầu tư dịch vụ kinh doanh; dịch vụ
xây dựng, kỹ sư công trình; dịch vụ phân phối, dịch vụ vận tải; dịch vụ truyền
thông…để bổ sung vốn cho quá trình phát triển kinh tế của cả nước. Hơn nữa,
cùng với tỉ lệ tăng dân số giảm dần trong những năm gần đây, chỉ số GDP
bình quân đầu người của Việt Nam tăng khoảng 2,5 lần trong 8 năm qua từ
mức 402 USD/người năm 2000 lên 1000 USD/người năm 2008 (theo tỷ giá
hối đoái bình quân). Đồng hành với tăng trưởng kinh tế là quá trình đô thị hóa
diễn ra khá nhanh. Trong giai đoạn 2000-2005, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam
(so với số dân) là 3,13% tương đương với Trung Quốc 3,1% và cao hơn nhiều
lần so với Thái Lan 1,49% và ấn Độ 2,35%.12 Tính tới thời điểm 1/1/2008 thì
Việt Nam có khoảng 24 triệu dân thành thị chiếm 27,4% dân số.13

12
World Urbanization Prospect, The 2007 Revision http://esa.un.org/unup/
13
Tổng cục Thống kê http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=387&idmid=3&ItemID=7336

41
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

THU NHËP TRONG N¦íC


B×NH QU¢N §ÇU NG¦êI
5000

4000

3000

2000

1000

0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Theo tû gi¸ hèi ®o¸i b×nh qu©n Theo søc mua t-¬ng ®-¬ng

(Nguồn: Thống kê tài khoản Quốc gia )

Sự phát triển kinh tế nhanh chóng đi kèm đô thị hóa đặt ra nhu cầu bức
thiết về nhà ở, các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa giải trí,… dành cho người
dân cũng như các dịch vụ môi trường. Hơn nữa, khi thu nhập tăng lên, người
ta sẽ không chỉ dừng lại ở nhu cầu được cung cấp dịch vụ đầy đủ mà còn
mong muốn và sẵn sàng chi trả để được tiêu dùng dịch vụ có chất lượng cao
như y tế chất lượng cao, giáo dục chất lượng cao, du lịch chất lượng cao…Đó
là lý do tại sao từ năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực dịch vụ đã
tăng vượt mức tăng của Nông-Lâm-Ngư nghiệp, Công nghiệp-Xây dựng và
vượt mức tăng GDP trung bình của toàn bộ nền kinh tế. Mặc dù năm 2008,
do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, mức tăng GDP có
chậm lại nhưng GDP ngành Công nghiệp Dịch vụ vẫn ở mức rất cao là 7,2%.

42
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

(Nguồn: Thống kê Tài khoản Quốc gia


http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=388&idmid=3&ItemID=7365)

2.2.2.2. Lợi thế về nguồn lao động

Ông Shinji Kirimura – cố vấn của Liên đoàn Kinh tế Nhật Bản (Nippon
Keidanren) đã từng đưa ra nhận định “Việt Nam có đầy đủ các điều kiện để
phát triển kinh tế, trong đó nguồn nhân lực là một trong những lợi thế lớn
nhất mà Việt Nam cần tận dụng.”14 Hơn bất cứ một ngành nghề nào, ngành
Công nghiệp Dịch vụ rất coi trọng yếu tố con người bởi con người chính là
“đầu vào” của quá trình “sản xuất” dịch vụ. Số lượng lao động, tuổi tác, trình
độ và tác phong làm việc là những nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định
chất lượng của dịch vụ tạo ra. Trên thực tế thì đây là một trong những ưu thế
lớn của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư Công nghiệp Dịch vụ Nhật Bản.
Mặc dù không nằm ngoài diện “phủ sóng” của hiện tượng già hóa dân số trên

14
Bài “Khai thác lợi thế nguồn nhân lực để phát triển”, http://www.thongtinnhatban.net/fr/t69.html

43
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

toàn thế giới nhưng Việt Nam vẫn được coi là nước dân số trẻ, có nguồn lao
động dồi dào.

C¬ cÊu d©n sè ph©n theo ®é tuæi

ViÖt Nam 33.1 61.1 5.8

Th¸i Lan 23.3 69.9 6.8

Malaysia 32.9 62.9 4.2

¢'n §é 29.2 66 4.8

Trung Quèc 19.8 72.3 7.9

NhËt B¶n 13.6 65.5 20.8

0~14 tuæi 15~64 tuæi 65 tuæi trë lªn

(Nguồn: 世界国際図会 2007/2008)

Biểu đồ trên cho thấy cấu trúc dân số của Nhật Bản và một số nước
được coi là điểm đến của FDI Nhật Bản ở Châu Á. Thanh màu da cam dài cho
thấy tỷ lệ người trong độ tuổi lao động của các nước đều khá cao. Tuy nhiên,
“đầu tư” luôn đồng nghĩa với thu lợi nhuận trong “tương lai” nên điểm nhấn
của biểu đồ cơ cấu dân số trên là ở chiều dài của thanh màu xanh, biểu thị tỷ
lệ dân số trong độ tuổi từ 0 đến 14 tuổi. Đây là bộ phận dân số sẽ bước vào độ
tuổi sinh sản và độ tuổi lao động trong tương lai. Sự dồi dào dân số trong độ
tuổi này là sự đảm bảo nguồn lao động trong trung hạn. Việt Nam với 33.1%
dân số dưới 15 tuổi và 61.1% dân số trong độ tuổi lao động, đang sở hữu một
cơ cấu dân số theo độ tuổi lý tưởng. Trong các nước được đề cập tới ở biểu
đồ trên thì chỉ có Ấn Độ và Malaysia là có cùng ưu thế về cơ cấu dân số.

44
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Ngoài ra, ưu thế trên cũng còn được biểu thị qua chỉ số độ tuổi trung bình.
Người Việt Nam có độ tuổi trung bình là 25. Trong khi đó, nếu so sánh với
Trung Quốc – nước liên tục áp dụng chính sách 1 con thì chỉ số này là 33 tuổi,
còn Thái Lan – nước được coi là đối thủ của Việt Nam trong thu hút FDI của
Nhật thì chỉ số này là 31. Chỉ có Ấn Độ và Malaysia là đều có ưu thế về dân
số trẻ như Việt Nam.

§é tuæi trung b×nh ng-êi ViÖt Nam


so s¸nh víi mét sè n-íc

40

30

20

10

0
Trung Quèc Ên §é Malaysia Th¸i Lan ViÖt Nam

(Nguồn: Population Prospect, The 2008 Revision http://www.un.org/ )

Tuy nhiên, xét về quy mô nguồn lao động thì dân số lao động của
Malaysia ước tính chỉ bằng 1/4 Việt Nam (khoảng 10 triệu người so với hơn
40 triệu người) và tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây cũng
không cao và ổn định bằng Việt Nam, còn Ấn Độ thì kém cạnh tranh về mặt
văn hóa.

Kết quả một cuộc khảo sát của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản
Jetro thực hiện đối với các nước Asean đã chỉ ra, lương nhân công rẻ cũng là
một ưu thế của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam đứng thứ hai chỉ sau Myanma.
Mức lương trung bình cho người lao động trong doanh nghiệp FDI của Nhật

45
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

tại Hà Nội chỉ bằng một nửa so với Bankok, Thái Lan. Còn về trình độ lao
động thì cũng theo cuộc khảo sát này, cũng giống như Ấn Độ, Việt Nam có
ưu thế về lao động trong lĩnh vực Công nghệ thông tin. Như vậy có thể thấy,
trong tương quan so sánh với các nước châu á khác, ưu thế về “con người”
của Việt Nam lớn như thế nào. Vấn đề còn lại chỉ là việc chúng ta tận dụng
ưu thế đó ra sao!

2.2.2.3. Lợi thế về thị trường

Về mặt thị trường, có thể nói Việt Nam hứa hẹn nhiều cơ hội phát triển
cho các nhà đầu tư Công nghiệp Dịch vụ. Với số dân hơn 80 triệu dân, trong
đó 50% dân số ở độ tuổi dưới 30 và đặc biệt là tỷ lệ tiêu dùng chiếm hơn 70%
GDP (so với mức 57% của Singapore, 59% của Malaysia và 68% của Thái
Lan) – mức cao nhất trong khu vực, Việt Nam được các tập đoàn phân phối
lớn trên thế giới đánh giá là một thị trường bán lẻ đầy tiềm năng. Ngoài ra, thị
trường ngân hàng của Việt Nam cũng được coi là tiềm năng và chưa bị cạnh
tranh. Một thực tế là hiện nay, mới chỉ một bộ phận nhỏ dân số Việt Nam sử
dụng dịch vụ và sản phẩm của ngân hàng. Ngay cả các doanh nghiệp, đặc biệt
là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì thanh toán bằng tiền mặt và là một thói quen
chưa bỏ được. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thu nhập
ngày càng cao, không chỉ các doanh nghiệp mà tiến tới, người tiêu dùng Việt
Nam cũng sẽ tìm đến sự trợ giúp của ngân hàng trong việc quản lý tài sản cá
nhân.

Có thể nói, các nhà đầu tư Nhật Bản với truyền thống tập trung FDI vào
lĩnh vực ngân hàng và phân phối thì Việt Nam là một trong những điểm đến
giàu sức hấp dẫn.

2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự thuận lợi trong kinh doanh

Hoạt động xúc tiến đầu tư

46
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Nhật Bản trong những năm gần đây luôn được Chính phủ Việt Nam
đánh giá là đối tác chiến lược trong lĩnh vực đầu tư. Chính bởi vậy hoạt động
xúc tiến đầu tư đối với Nhật Bản liên tục được chú trọng và đẩy mạnh. Bên
cạnh hoạt động của các trung tâm xúc tiến đầu tư, liên tục các hội thảo về xúc
tiến đầu tư được tổ chức tại các thành phố lớn của Nhật, mời các đoàn doanh
nhân Nhật Bản dẫn đầu là các cán bộ cấp cao của chính phủ Nhật sang thăm
Việt Nam, diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam – Nhật Bản, thậm chí các hoạt
động xúc tiến về đầu tư trên cơ sở giao lưu văn hóa như Festival Việt Nam tại
Nhật nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước cũng nở rộ. Hoạt động xúc tiến đầu tư
đối với Nhật Bản đã được đánh giá là hoạt động xúc tiến cấp Chính phủ. Nhờ
đó mà các nhà đầu tư Nhật Bản, không chỉ các tập đoàn lớn có nhiều năm
kinh nghiệm hoạt động ở nước ngoài mà thậm chí các doanh nghiệp vừa và
nhỏ chưa đầu tư ra nước ngoài bao giờ cũng có cơ hội biết đến Việt Nam và
quan tâm đến cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Trường hợp các doanh nghiệp phát
triển phầm mềm có thể được coi là một ví dụ minh họa. Hầu hết các doanh
nghiệp FDI phát triển phần mềm của Nhật Bản tại Việt Nam hiện nay là các
do các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật đầu tư. Lĩnh vực này hiện vẫn đang
rất triển vọng.

Với tổng thể những yếu tố vô cùng thuận lợi như trên, kết quả sau đây
sẽ thể hiện những gì Việt Nam đã làm được trong việc thu hút FDI của Nhật
Bản vào ngành Công nghiệp Dịch vụ.

2.3. Kết quả thu hút

2.3.1. Khối lượng đầu tư

FDI đăng ký của Nhật Bản vào Việt Nam

47
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Dự án FDI của Nhật Bản đầu tư vào ngành Công nghiệp Dịch vụ Việt
Nam đầu tiên là vào năm 1991, bốn năm sau khi Việt Nam chính thức ban
hành Luật đầu tư nước ngoài, mở cửa lĩnh vực đầu tư đối với các nhà đầu tư
quốc tế. Nếu xét đến khả năng, tiềm lực vốn của các công ty Nhật Bản và so
sánh với mức tăng đầu tư trực tiếp của Nhật với một số quốc gia và các vùng
lãnh thổ khác thì tổng số vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản dành cho Việt
Nam giai đoạn đầu thật sự rất khiêm tốn. Trong 2 năm 1991, 1992, tổng số
vốn đăng ký vào ngành Công nghiệp Dịch vụ đạt 27,2 triệu USD. Con số này
tăng dần đến 575,6 triệu USD vào năm 2008 rồi sau đó do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoàng tài chính Châu á, cùng chung tình trạng suy giảm vốn FDI
với tất cả các ngành khác, con số này giảm hẳn trong 2 năm 1999, 2000 làm
cho dòng vốn FDI của Nhật vào ngành Công nghiệp Dịch vụ gần như quay lại
mức xuất phát điểm của năm 1991.

48
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

TriÖu USD Vèn FDI NhËt B¶n vµo ngµnh CNDV


700

600

500

400

300

200

100

0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

Vèn ®¨ng ký Vèn thùc hiÖn

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Khối lượng FDI đăng ký cũng như vốn FDI thực hiện hầu như không
có biến động gì đáng kể cho đến hết năm 2003. Từ năm 2004, cùng với việc
hiệp định bảo hộ đầu tư ký kết với Nhật Bản có hiệu lực, bật đèn xanh cho các
nhà đầu tư tham gia vào rất nhiều ngành thuộc Công nghiệp Dịch vụ đặc biệt
là tư vấn thiết kế, giáo dục (giảng dạy nghề và ngoại ngữ), sản xuất và gia
công phần mềm…, dòng vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ
bắt đầu có dấu hiệu gia tăng. Năm 2006 là một năm có sự tăng trưởng ấn
tượng về khối lượng FDI đăng ký, với mức tăng gấp 5 lần từ 35 triệu USD
năm 2005 lên 183,2 USD. Đây chính là kết quả của việc thực thi hiệp định
bảo hộ đầu tư ký kết với Nhật Bản và việc tiến hành Sáng kiến chung Việt –

49
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Nhật giai đoạn 1, giúp cải thiện và nâng cao sức hấp dẫn của môi trường đầu
tư tại Việt Nam. Từ 2007 đến nay, với trọng tâm vẫn là các dự án sản xuất
phần mềm, khối lượng FDI đăng ký vào ngành Công nghiệp Dịch vụ liên tục
tăng trưởng ngoạn mục, đạt mức 265 triệu USD năm 2007 và 653 triệu USD
trong 3 quý đầu năm 2008.

2.3.2. Quy mô dự án

Quy mô bình quân 1 dự án FDI vào lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ của
Nhật Bản (tính cho tới hết quý 3 năm 2008) là 8,5 triệu USD, gấp gần 3 lần
quy mô bình quân 1 dự án FDI Nông – Lâm – Ngư nghiệp của Nhật nhưng
chỉ bằng 1/3 quy mô bình quân dự án FDI Công nghiệp – Xây dựng.

Quy mô bình quân 1 dự án FDI của Nhật đầu tƣ vào Việt Nam

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Tuy nhiên một dự án FDI lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ (tính trung
bình đối với tất cả các chủ đầu tư) có quy mô bình quân tới 17 triệu USD15,
cao gấp đôi quy mô bình quân dự án Công nghiệp – Xây dựng và gấp 3,5 lần
quy mô bình quân dự án Nông – Lâm – Ngư nghiệp. Như vậy dự án FDI

15
Kỷ yếu đầu tư nước ngoài 2007

50
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Công nghiệp Dịch vụ của Nhật Bản có quy mô trung bình nhỏ hơn nhiều so
với mức quy mô dự án trung bình của các đối tác khác. Tại sao lại như vậy?
Câu hỏi này sẽ được trả lời khi ta xem xét tới đặc điểm lĩnh vực đầu tư của
dòng FDI Công nghiệp Dịch vụ Nhật Bản.

2.3.3. Lĩnh vực đầu tư

Trong các dự án FDI Công nghiệp Dịch vụ, các dự án xây dựng văn
phòng, căn hộ, đô thị, xây dựng hạ tầng… là những dự án cần số vốn đầu tư
rất lớn. Tuy nhiên các nhà đầu tư Nhật Bản chưa mặn mà lắm đối với lĩnh vực
này nên số lượng dự án đầu tư vào đây chỉ có 17 trên tổng số 265 dự án. Đa
số dự án FDI thuộc ngành Công nghiệp Dịch vụ của Nhật là đầu tư vào nhóm
“các ngành dịch vụ khác” bao gồm : tư vấn thiết kế, sản xuất và phát triển
phần mềm, gia công phần mềm, lập trình máy tính, tư vấn tài chính kế toán,
hỗ trợ giao nhận, các dịch vụ sau bán hàng, dịch vụ kho bãi, kinh doanh nhà
hàng ăn uống…. Do tính chất của các ngành này không cần đến chi phí đầu tư
ban đầu cao nên các dự án thuộc lĩnh vực này thường chỉ có quy mô nhỏ từ
vài chục nghìn USD, vài trăm nghìn USD. Số dự án có quy mô dưới 1 triệu
USD là 131 trên tổng số 173 dự án thuộc nhóm này, trong đó 80% là các dự
án phần mềm máy tính thể hiện sức hút của lĩnh vực này đối với các nhà đầu
tư Nhật Bản.

LŨY KẾ CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƢ CỦA NHẬT BẢN


VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỊCH VỤ
(tính đến tháng 8/2008 – chỉ tính những dự án còn hiệu lực)
Lĩnh vực Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện
Tổng 265 2,244,443,016 714,920,118
XD Văn phòng – Căn hộ 14 876,878,464 273,817,197
GTVT – Bưu điện 29 501,302,020 179,560,036
Khách sạn – Du lịch 13 126,088,361 83,714,783
Tài chính – Ngân hàng 5 138,000,000 71,400,000

51
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Văn hóa – Y tế – Giáo dục 28 130,422,198 49,891,334


XD hạ tầng KCX-KCN 2 141,346,000 27,641,613
XD khu đô thị mới 1 100,000,000 450,000
Các ngành dịch vụ khác 173 230,405,973 28,445,155
(Nguồn: FIA Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch - Đầu tư)

2.3.4. Địa bàn đầu tư

Về địa bàn đầu tư, có tới hơn 75% số dự án FDI Công nghiệp Dịch vụ
của Nhật đầu tư vào hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Hai vị trí tiếp theo là Hải Phòng và Đà Nẵng. Chỉ có 38 dự án (chiếm 14%)
được đầu tư vào các địa phương khác. Sự tập trung FDI ở các thành phố lớn
cũng là một điều dễ hiểu bởi đó là những nơi có cơ sở hạ tầng được trang bị
đầy đủ và là nơi tập trung nguồn nhân lực có trình độ. Mặt khác, nhóm “các
ngành dịch vụ khác” (chủ yếu bao gồm các dịch vụ kinh doanh như phần
mềm, tư vấn, kế toán tài chính, thiết kế….) mà các nhà đầu tư Nhật Bản quan
tâm nhất lại là nhóm ngành đòi hỏi chất lượng lao động và cơ sở hạ tầng rất
khắt khe. Không một doanh nghiệp phần mềm nào muốn đầu tư ở một địa
phương mà mạng lưới điện chập chờn không ổn định, hoặc tốc độ truyền
thông tin qua mạng internet chậm chạp…bởi chất lượng hạ tầng cơ sở yếu
kém có thể làm hư hại cái thiết bị máy móc hiện đại và làm giảm hiệu suất
của công việc. Các ngành nghề đặc thù như kinh doanh, phần mềm, tài
chính… cũng sẽ không thể được đầu tư tại những địa phương chỉ có lao động
cơ bản. Điều đó giải thích tại sao lại có sự chênh lệch lớn đến thế về địa bàn
đầu tư của FDI ngành Công nghiệp Dịch vụ, trong khi đối với lĩnh vực Công
nghiệp – Xây dựng và Nông – Lâm – Ngư nghiệp, số dự án đầu tư vào Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mặc dù vẫn chiếm ưu thế nhưng chỉ đạt
khoảng 40% tổng số dự án cả nước.

52
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Sè dù ¸n FDI NhËt B¶n ®Çu t- vµo ngµnh CNDV


chia theo ®Þa bµn
38

10
TP Hå ChÝ Minh
12 109 Hµ Néi
H¶i Phßng
§µ N½ng
14 tØnh cßn l¹i

96

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

2.3.5. Hình thức đầu tư

Về hình thức đầu tư, Nhật Bản đầu tư vào ngành Công nghiệp Dịch vụ
của Việt Nam theo 4 hình thức: liên doanh, cổ phần, 100% vốn nước ngoài và
hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong 4 hình thức này thì hình thức 100% vốn
nước ngoài vẫn là hình thức được ưa thích nhất với số lượng dự án chiếm tới
61%, còn lại đến 34% các dự án đầu tư theo hình thức liên doanh. Nguyên
nhân chủ yếu của xu hướng đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài là do
hiệu quả của các dự án đầu tư theo các hình thức liên doanh và hợp đồng hợp
tác kinh doanh không cao. Hơn nữa nếu đầu tư theo hình thức 100% vốn nước
ngoài, các nhà đầu tư được tự chủ hoàn toàn về phương thức hoạt động kinh
doanh cũng như việc nhanh chóng đưa ra các quyết định thay đổi cần thiết khi
thị trường có sự biến động mà không cần thông qua ý kiến của bên đối tác.
Đây là điểm mạnh mà không phải hình thức đầu tư nào cũng có. Cũng chính
vì lẽ đó mà các công ty hoạt động theo hình thức này có hiệu quả hoạt động

53
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

rất cao, vì các quyết định kinh doanh được đưa ra rất kịp thời bởi một bộ máy
quản lý có trình độ chuyên môn cao.

2.4. Đánh giá

2.4.1. Tích cực

Theo những kết quả thu hút trên ta thấy, khối lượng vốn đăng ký đầu tư
vào các dự án ngành Công nghiệp Dịch vụ liên tục tăng trưởng mạnh trong
những năm gần đây thể hiện sức hút của ngành này đối với các nhà đầu tư
Nhật Bản. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì nguồn vốn huy
động được từ các nhà đầu tư nước ngoài là một nguồn bổ sung đáng kể cho
công cuộc chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế của đất nước đồng thời
góp phần giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động.

Lĩnh vực thu hút được sự quan tâm nhiều nhất của các nhà đầu tư, thể
hiện qua số dự án đầu tư chiếm gần một nửa đó là lĩnh vực phát triển phần
mềm. Mặc dù số vốn đầu tư vào các dự án này thường không lớn nhưng số
lượng dự án nổi bật như vậy cho thấy Việt Nam rất có tiềm năng về lĩnh vực
này mà cụ thể là tiềm năng con người. Đây cũng chính là cơ hội để lực lượng
kỹ sư phần mềm Việt Nam học hỏi kiến thức chuyên môn từ các chuyên gia
Nhật Bản và tự hoàn thiện mình để trở thành lực lượng nòng cốt trong công
cuộc phát triển Công nghệ Quốc gia trong tương lai.

Ngoài ra, chúng ta cũng thu hút được khá nhiều dự án đầu tư vào lĩnh
vực giao thông vận tải và bưu điện. Đây là những lĩnh vực có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển tổng thể của nền kinh tế vì nó ảnh hưởng tới hầu
hết tất cả các ngành nghề sản xuất khác trong xã hội. Nhận vốn đầu tư vào
những lĩnh vực này, chúng ta có điều kiện để nâng cao chất lượng dịch vụ
giao thông và viễn thông của mình.

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

54
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Hạn chế

Thứ nhất, FDI của Nhật Bản đầu tư vào ngành Công nghiệp Dịch vụ
tuy đạt được những thành tích nhất định nhưng thực sự vẫn chỉ là những con
số rất khiêm tốn so với tiềm lực kinh tế của Nhật Bản. Trong khi trên thế giới
đang tồn tại xu hướng chuyển dịch FDI sang lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ
thì tỷ trong FDI của Nhật Bản đầu tư vào Công nghiệp Dịch vụ ở Việt Nam
không thể hiện xu hướng đó.

Biểu đồ: Tỷ trọng FDI Nhật Bản đầu tƣ vào các ngành
(chỉ tính các dự án còn hiệu lực cho tới tháng 8/2008)

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Tỷ trọng FDI đầu tư vào ngành Công nghiệp Dịch vụ trên thực tế tăng
giảm thất thường trong 8 năm qua và trung bình chỉ chiếm 12% lượng vốn
FDI của Nhật đầu tư vào Việt Nam. Nói một cách khách quan thì đa số các
nhà đầu tư Nhật Bản tìm đến Việt Nam trong những năm gần đây quan tâm

55
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

tới lĩnh vực Công nghiệp – Xây dựng với tỷ trọng vốn đăng ký đầu tư vào lĩnh
vực này lên đến 85%. Cũng không quá khó để lý giải tại sao tỷ trọng FDI
Công nghiệp – Xây dựng lại cao đến thế. Bởi lẽ Nhật Bản vốn được đánh giá
là một đất nước nghèo nào tài nguyên nhưng có lực lượng sản xuất trình độ
cao với phí nhân công đắt đỏ nên hoạt động đầu tư ra nước ngoài với mục
đích tìm kiếm nguồn tài nguyên và lao động rẻ tiền luôn được ưu tiên. Chính
bởi thế, trong tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của đất nước này, tỷ trọng đầu
tư vào Công nghiệp – Xây dựng vẫn luôn chiếm ưu thế. Mặt khác, Việt Nam
có đầy đủ thế mạnh về mặt này thay vì những yếu kém trong chất lượng cơ sở
hạ tầng, trình độ lao động…Đây chính là điểm còn hạn chế trong hoạt động
thu hút FDI của chúng ta đối với lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ.

Thứ hai, hoạt thu hút FDI vào các địa phương không đồng đều. Hầu hết
các dự án FDI Công nghiệp Dịch vụ đều đổ vào các thành phố lớn đặc biệt là
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó sẽ tạo ra một lực hút lao động về
hai trung tâm kinh tế này. Người lao động đổ dồn về đây đặt ra nhu cầu bức
thiết về nhà ở, giáo dục, phúc lợi xã hội…gây ra những tác động tiêu cực tới
giao thông và môi trường đô thị. Như vậy, FDI không những không giúp san
bằng chênh lệch khoảng cách thành thị nông thôn mà càng làm gia tăng hơn
nữa mức chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các vùng miền trên cả nước.

Thứ ba, tỷ lệ vốn thực hiện/ vốn đăng ký của các dự án FDI Nhật Bản
đầu tư vào ngành Công nghiệp Dịch vụ rất thấp. Nếu như hàng ngày chúng ta
vẫn được nghe các thông tin đại chúng thông báo những con số thu hút FDI
kỷ lục thì vần phải biết rằng đó chỉ là vốn đăng ký tức vốn mà chủ đầu tư cam
kết sẽ đầu tư vào dự án. Còn trên thực tế, để con số đăng ký ấy được đưa vào
kinh doanh, sản xuất, được đưa vào vòng luân chuyển vốn của nền kinh tế thì
vẫn còn một khoảng cách khá xa. Tỷ lệ vốn thực hiện/vốn đăng ký giúp ta
thấy mức độ hiện thực hóa các dự án đầu tư, giúp người tiếp nhận thông tin có

56
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

cái nhìn chân thực hơn về các hoạt động đầu tư đang diễn ra bởi chính vốn
thực hiện mới là lượng vốn đem lại thu nhập cho nền kinh tế quốc dân, đem
lại việc làm cho người lao động …Tỷ lệ này trong các dự án FDI Công nghiệp
Dịch vụ của Nhật chỉ mới đạt khoảng 30%. Xét một cách toàn diện thì tỷ lệ
này đang giảm dần trong các năm 2006, 2007, 2008. Điều đó có nghĩa là, mặc
dù vốn đăng ký tăng kỷ lục nhưng hầu như có rất ít dự án được thực thi trong
thời gian này hoặc có được thực thi thì cũng với tiến độ giải ngân rất chậm.

Nguyên nhân

Theo một báo cáo của JBIC năm 2007, ba e ngại lới nhất đối với các
nhà đầu tư Nhật Bản (đã có mặt và chưa có mặt) khi thực hiện đầu tư vào Việt
Nam là hệ thống pháp lý, chính sách không rõ ràng, hệ thống cơ sở hạ tầng
còn yếu kém và khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn lao động có trình độ.

Hệ thống pháp lý còn yếu kém

Mặc dù đã được cải cách và sửa đổi rất nhiều nhưng theo kết quả điều
tra do Jetro thực hiện năm 2007, có tới 61% doanh nghiệp FDI Nhật Bản phàn
nàn về sự quản lý chính sách không rõ ràng của Việt Nam. Nhiều luật Doanh
nghiệp và luật Đầu tư được ban hành liên tục từ năm 1990 đến nay đã khiến
thủ tục thành lập doanh nghiệp và thủ tục đầu tư ngày nay khá thông thoáng,
ngay cả so sánh với các nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, trong những
chính sách, luật pháp khác nhưng có liên quan tới và chi phối khá nặng nề
hoạt động của một doanh nghiệp như các quy định về thuế, hải quan, lao động,
đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, giải quyết tranh chấp dân sự…thì chúng
ta lại quá chậm chân. Lịch thảo luận và thông qua các dự án luật của Quốc hội
trong nhiệm kỳ vừa qua và nhiệm kỳ hiện nay cho thấy hệ thống Nhà nước
phải chạy nước rút như thế nào để giảm bớt tình trạng chậm chân này. Nhưng
bên cạnh sự chậm trễ về thời gian, điều đáng quan tâm hơn là sự bất cập về
57
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nội dung. Tình trạng quy định không cụ thể, không rõ ràng, không hợp thực tế,
thậm chí mâu thuẫn nhau khiến việc thi hành không khả thi vẫn còn phổ biến
là nguyên nhân đầu tiên khiến nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài chưa
cảm thấy yên tâm.

Hệ thống cơ sở hạ tầng chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư

So với một số nước trong khu vực thì hệ thống giao thông đường bộ,
đường sắt, cảng biển, sân bay của chúng ta còn yếu. Chất lượng đường xá và
xe tải đang là một vấn đề khiến giá thành vận chuyển cao, mà nếu cải thiện
được có thể sẽ giúp doanh nghiệp hạ giá thành vận chuyển ít nhất là 30%.
Ngoài hạ tầng giao thông thì hạ tầng điện với nguồn điện thiếu ổn định của
Việt Nam hiện đang là mối quan tâm nhức nhối của các nhà đầu tư Nhật Bản.
Mặc dù chính phủ Việt Nam đang có kế hoạch phát triển nguồn điện cho đất
nước, song mức độ phát triển của Việt Nam có thể sẽ vượt qua sự phát triển
của ngành điện. Đồng thời, khi Việt Nam thu hút thêm được nhiều dự án đầu
tư thì thiếu điện sẽ gây ra rủi ro càng lớn. Bên cạnh đó, giá điện lại thay đổi
thất thường khiến cho các doanh nghiệp Nhật Bản không thể dự đoán được
dẫn đến các nguồn lợi nhuận giảm và các dự án đầu tư không mang lại hiệu
quả cao như dự tính. Cơ sở hạ tầng vừa yếu vừa thiếu, đặc biệt là ở vùng nông
thôn cũng góp phần tạo nên hiện tượng thu hút FDI không đồng đều giữa các
khu vực, gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của nền kinh tế.

Nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế

Có thể nói, Việt Nam đang có lợi thế về nguồn lao động giá rẻ tuy
nhiên ngành Công nghiệp Dịch vụ có đặc thù đòi hỏi kỹ năng và trình độ lao
động rất cao nên nếu chỉ có “giá rẻ” , nguồn nhân lực Việt Nam sẽ không thể
được coi là “có lợi thế”. Trong các cuộc khảo sát của Jetro, những bất cập
trong vấn đề này đã lộ ra rõ nét. Tạm chia lực lượng lao động thành 3 nhóm:
công nhân, kỹ sư và quản lý trung gian. Ta có bảng so sánh mức lương trung

58
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

bình của mỗi nhóm lao động ở các thành phố lớn của Việt Nam và Trung
Quốc như sau:

Bảng: Mức lƣơng nhân công tại một số thành phố


Đơn vị: USD

Trung Quốc Việt Nam

Thượng Hải Thẩm Quyến Hà Nội TP. HCM

Công nhân 272~362 123~509 87~198 122~216

Kỹ sư 441~641 194~794 243~482 329~453

QL trung gian 663 528~1060 597~859 681~1690

(Nguồn: Báo cáo về lương công nhân ở Châu á, Jetro, 2006)

Về lực lượng công nhân và kỹ sư, Việt Nam có thuận lợi về chi phí
nhân công nhưng nhìn chung lại thiếu trình độ kỹ thuật và ngoại ngữ tiếng
Nhật. Theo khảo sát của Quỹ Nhật Bản, năm 2005, số người Việt Nam đạt
chứng chỉ tiếng Nhật, kể cả trình độ sơ cấp đến các trình độ cao hơn là 5.248
người. Bất lợi hơn, khu vực phía Nam Trung Quốc ngay sát Việt Nam lại rất
dồi dào về lao động thạo tiếng Nhật (con số tương ứng là 126.422 người), tạo
thế cạnh tranh về thu hút FDI từ Nhật Bản. Còn về lực lượng quản lý trung
gian thì phải khẳng định rằng chúng ta đang thiếu nghiêm trọng. Điều đó đã
làm cho mức lương chi trả cho một người ở vị trí quản lý trung gian ở Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh lên đến xấp xỉ 1000 USD, cao hơn 20% ~ 30% so
với Trung Quốc và cao nhất trong số các nước Asian. Có đến 59% doanh
nghiệp FDI Nhật Bản thừa nhận rằng họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm
đội ngũ quản lý trung gian phù hợp. Thêm vào đó, đội ngũ này lại hay có xu
hướng “nhảy việc” , thường xuyên tìm đến những chỗ có mức lương cao hơn

59
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

vì thế càng gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận và bồi
dưỡng nhân sự. Chính những đặc điểm này của đội ngũ lao động Việt Nam là
nguyên nhân lý khiến Việt Nam vẫn chưa hấp thụ được trình độ quản lý của
người Nhật một cách hiệu quả.

Ngoài ba khiếm khuyết lớn mà các nhà đầu tư Nhật Bản e ngại nhất
được đề cập đến ở trên thì hoạt động thu hút FDI của Nhật vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ vẫn còn hạn chế bởi hoạt động xúc tiến nhiều nhưng chưa
hiệu quả, thủ tục hành chính còn rườm rà, thiếu minh bạch, các chính sách
khuyến khích đầu tư dàn trải thiếu tập trung, và một số nguyên nhân khác….

Hoạt động xúc tiến đầu tư nhiều nhưng chưa hiệu quả

Hoạt động xúc tiến tỏ ra kém hiệu quả ngay trong nội dung kêu gọi bởi
chỉ đưa ra kết quả cuối cùng mà ta muốn trong khi rất thiếu thông tin về
những yếu tố cần thiết khiến cho một lời chào mời trở nên hấp dẫn. Hơn nữa,
các hoạt động xúc tiến đầu tư thiếu sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển
ưu tiên nên dẫn đến hiện tượng thu hút tràn lan, không đồng đều và kém hiệu
quả.

Thủ tục hành chính còn rườm rà, thiếu minh bạch

Chúng ta nói “cải cách hành chính” đã bao nhiêu năm, nói đến “một
cửa một dấu” đã từ lâu nhưng đến nay, gánh nặng thủ tục hành chính vẫn còn
rất nặng nề, gây mệt mỏi cho các nhà đầu tư. Ví dụ như về nộp thuế, các cuộc
khảo sát cho thấy ở Việt Nam, các doanh nghiệp phải thanh toán thuế 32 lần
một năm, mất 1.050 giờ để thực hiện việc này và chịu 41,6% chi phí tổng lợi
nhuận để đóng thuế. Việt Nam xếp 120 trên tổng số 175 quốc gia về sự thuận
lợi trong đóng thuế, thua Thái Lan, Singapore, Malaysia và cả Campuchia,
Philipines về việc này. Nguyên nhân sâu xa là do năng lực quản lý yếu kém,
đồng thời làm cho nạn tham ô, tham nhũng tồn tại và phổ biến trong hệ thống
quan chức nhà nước, gây phiền nhiễu cho các nhà đầu tư.
60
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác đang tồn tại khiến cho ngành
Công nghiệp Dịch vụ của Việt Nam trở nên kém hấp dẫn trong mắt các nhà
đầu tư Nhật Bản như việc đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư một
cách tản mạn, thiếu tập trung, đồng bộ. Hiện nay có quá nhiều các loại ưu đãi
đầu tư khác nhau được quy định rải rác trong các luật và văn bản dưới luật
khác nhau, gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong công tác quản lý ưu
đãi đầu tư cũng như cho doanh nghiệp trong việc nhận biết các ưu đãi. Sự
phức tạp càng được nhân lên do các địa phương, đến lượt mình lại đưa ra các
ưu đãi riêng một cách tùy tiện để cạnh tranh thu hút đầu tư.

Một nguyên nhân nữa khiến tỷ lệ giải ngân FDI thấp là năng lực quản
lý của các ngành các cấp đối với hoạt động đầu tư còn kém, khiến cho rất
nhiều dự án đăng ký để đấy, không giải ngân được mà vẫn không thấy một sự
tác động nào từ phía các ban ngành chức năng.

Trên đây là toàn bộ thực trạng thu hút FDI của Nhật vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ của Việt Nam hiện nay. Những phân tích được đưa ra đã
chứng minh khả năng thu hút vốn của Việt Nam tuy nhiên, nhưng lợi thế và
tiềm năng đó đã không phát huy được hết sức mạnh của chúng bởi vẫn còn
tồn tại quá nhiều yếu kém và hạn chế. Tuy nhiên, quốc gia nào, nền kinh tế
nào, dù có phát triển đến đâu cũng vẫn luôn tồn tại hai mặt như thế. Chính bởi
vậy, việc quan trọng hơn đó là tìm ra những giải pháp để phát huy thế mạnh
và khắc phục những hạn chế, để thu hút được nhiều hơn nữa FDI của Nhật
Bản vào công cuộc phát triển ngành Công nghiệp Dịch vụ ở Việt Nam, đưa
đất nước tiến xa hơn trên con đường hội nhập.

61
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP THU HÚT FDI CỦA NHẬT BẢN

VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM


3.1. Cơ hội và thách thức đối với thu hút FDI của Nhật Bản vào
ngành Công nghiệp Dịch vụ ở Việt Nam

3.1.1. Cơ hội

Các nghiên cứu được tiến hành trong 20 năm qua đã chỉ ra mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế nhanh và phát triển các ngành Công nghiệp Dịch
vụ chủ chốt. 16 Nói chung, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, một số
ngành dịch vụ hay các phân ngành dịch vụ nhất định sẽ trở nên quan trọng
hơn và là động lực thúc đẩy phát triển. Thông thường, trong việc tạo dựng cơ
sở cho nền kinh tế, dịch vụ tiện ích và xây dựng là 2 ngành quan trọng đầu
tiên. Vận tải và viễn thông là hai ngành quan trọng tiếp theo trong cung cấp
các cơ sở hạ tầng kinh tế. Tiếp theo đó, dịch vụ kinh doanh và dịch vụ tài
chính sẽ trở nên phức tạp hơn, hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng liên tục và tạo
ra chuyên môn hóa. Đồng thời, cũng có sự di chuyển từ các ngành công
nghiệp kỹ năng thấp và dịch vụ tiêu dùng (như dịch vụ bán lẻ) sang các ngành
công nghiệp kỹ năng cao được hỗ trợ bởi các dịch vụ trung gian (như dịch vụ
kinh doanh). Thông thường khi nền kinh tế trở thành nền kinh tế phát triển,
phần lớn quá trình sản xuất trung gian sẽ bao gồm các dịch vụ cung ứng cho
các công ty dịch vụ khác.

Ngành Công nghiệp Dịch vụ đóng góp trung bình khoảng 70% tổng sản
phẩm quốc nội toàn cầu, với tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng thu nhập quốc
dân tính theo đầu người (GNI). Sự mở rộng và phát triển của ngành Công

16
Báo cáo “Một số lựa chọn và kiến nghị cho Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ ở Việt Nam đến
2010”, UNDP, 2005.

62
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nghiệp Dịch vụ trên toàn thế giới là một động lực thúc đẩy sự gia tăng đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào khu vực này. Trong những năm gần đây, dòng FDI
trên thế giới, và đặc biệt là dòng FDI vào Châu á có xu hướng dịch chuyển
mạnh sang khu vực Dịch vụ. Sự tăng trưởng của FDI dịch vụ ngày càng được
tiếp sức bởi sực ép cạnh tranh ở thị trường trong nước, dẫn đến việc các công
ty xuyên quốc gia (TNCs) phải tìm kiếm các thị trường mới và phát huy lợi
thế cạnh tranh của họ. Những điều kiện hấp dẫn các TNCs dịch vụ là: khả
năng tiếp cận nguồn thông tin và cơ sở hạ tầng vận tải tốt, các thể chế công
nghiệp phát triển vững mạnh và nguồn nhân lực có kỹ năng với chi phí cạnh
tranh. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO được hơn 2 năm, và việc chúng
ta hội nhập, trở thành một bộ phận trong sự vận động chung của dòng FDI
trên thế giới là một điều tất yếu.

Theo lộ trình cam kết gia nhập WTO, tới đây chúng ta sẽ mở cửa lần
lượt hầu hết các lĩnh vực thuộc ngành Công nghiệp Dịch vụ được cho là
những ngành nhạy cảm mà trước đây được bảo hộ chặt chẽ. Theo đó, sau 2
năm gia nhập (tức là từ năm 2009) chúng ta buộc phải thực hiện không hạn
chế tiếp cận thị trường dối với các nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực
dịch vụ kinh doanh (kiến trúc, tư vấn, máy tính và các dịch vụ liên quan…),
dịch vụ phân phối và dịch vụ giáo dục; sau 3 năm đến 5 năm gia nhập (tức là
từ năm 2010 hoặc 2012) sẽ mở cửa toàn diện các lĩnh vực thuộc dịch vụ viễn
thông, dịch vụ tài chính(ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm…), sau 4 năm gia
nhập (tức là từ năm 2011) sẽ mở cửa ngành dịch vụ môi trường…

Với lộ trình này, nhiều nhà đầu tư Nhật hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ đã khảo sát thị trường và đang cố gắng có mặt ở Việt Nam sớm. Các nhà
phân tích cho rằng trong những năm tới đây, đầu tư của Nhật sẽ chuyển
hướng vào ngành dịch vụ kinh doanh, vận chuyển và phân phối tại Việt Nam
thay vì lâu nay chỉ tập trung vào sản xuất công nghiệp và gia công. Việc tập

63
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

trung vào sản xuất công nghiệp và gia công trong thời gian qua được cho là
bởi chúng ta chưa mở cửa rộng rãi lĩnh vực dịch vụ. Sự quan tâm và mong
muốn đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ của các nhà đầu tư Nhật Bản được chứng
minh bởi nỗ lực tiếp cận thị trường dịch vụ Việt Nam bằng nhiều cách khác
nhau khi mà thời điểm mở cửa còn chưa tới. Điển hình là trường hợp của
Daiso – Japan, một thương hiệu siêu thị đồng giá nổi tiếng của Nhật đã xuất
hiện trên thị trường Việt Nam thông qua nhượng quyền thương mại. Nhờ
nhượng quyền cho Công ty TNHH Trí Phúc mà hàng hóa của Daiso đã có mặt
tại cửa hàng đầu tiên nằm trong siêu thị miễn thuế Fuso, thuộc khu kinh tế
Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh và sau đó là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Tương tự, tập đoàn Best Denki của Nhật Bản cũng quyết định vào Việt Nam
sớm thông qua hình thức liên doanh với một đối tác Việt Nam. Đại diện của
Best Denki cho biết tiềm năng thị trường bán lẻ, đặc biệt là thị trường điện
máy của Việt Nam là rất lớn. Cả hai nhà đầu tư này đều trong tình trạng sẵn
sàng chờ “giờ mở cửa” nhưng đã quyết định tham gia vào thị trường sớm để
chiếm thị phần. Ngoài ra Takashimaya – tập đoàn phân phối hàng đầu của
Nhật cũng có kế hoạch khảo sát thị trường phân phối bán lẻ tại Việt Nam.
Đây rõ ràng là một triển vọng rất sáng sủa đối với Việt Nam trong việc thu
hút FDI của Nhật vào ngành Công nghiệp Dịch vụ khi bước sang năm 2009
này.

Ngoài ra, quan hệ song phương giữa hai nước đang trên đà phát triển vô
cùng tốt đẹp. Điều này thể hiện ở hiệp định đối tác kinh tế vừa ký kết được
với Nhật Bản hồi cuối năm 2008, mở ra triển vọng đối với một làn sóng đầu
tư mới của Nhật Bản vào Việt Nam. Theo báo cáo điều tra của Ngân hàng
Quốc tế Nhật Bản (JBIC) hồi đầu tháng 2 năm 2009, Việt Nam hiện xếp thứ 3
về triển vọng phát triển trung hạn đối với các doanh nghiệp Nhật Bản tại Châu
Á (tăng liên tục từ vị trí thứ 8 năm 2000). Và theo kết quả điều tra thường
niên của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) trên 1.745 doanh
64
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại châu Á, thì có tới 92,6% doanh nghiệp
sản xuất và 88% doanh nghiệp dịch vụ dự định mở rộng đầu tư, kinh doanh
tại Việt Nam. năm 2007, 77.78% doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam làm ăn có
lãi (trung bình các năm đạt 70,8%) cao hơn mức bình quân chung 70% trong
khu vực châu Á. 17 Như vậy, rõ ràng cơ hội để Việt Nam thu hút FDI của
Nhật Bản là vô cùng rộng mở.

THỨ HẠNG TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN TRUNG HẠN CỦA MỘT SỐ
NƢỚC CHÂU Á ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHẬT BẢN

(Nguồn: JBIC http://www.jbic.go.jp/en/)

3.1.2. Thách thức

17
Báo điện tử của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch http://www.toquoc.gov.vn/Thongtin/Doi-Thoai/Thu-
Hut-Fdi-Se-Sang-Loc-Du-An.html

65
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Mặc dù có rất nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan bảo đảm triển
vọng tốt đẹp của việc thu hút FDI Nhật Bản vào ngành Công nghiệp Dịch vụ
Việt Nam nhưng bên cạnh đó không phải là không có những thách thức.

Trước hết phải thừa nhận rằng, ít nhất là trong ngắn hạn, những hạn chế
về cơ sở hạ tầng, về hệ thống pháp lý và nguồn nhân lực… được đề cập tới ở
chương 2 là chưa thể xóa bỏ. Ngoài ra, thách thức còn đến từ chính bản thân
luồng vốn FDI đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản. Trung Quốc hiện đang là
địa điểm thu hút vốn đầu tư của Nhật Bản lớn nhất nhì thế giới với bạt ngàn
những khu công nghiệp sản xuất hàng điện tử để từ đây, hàng hóa được mang
đi phân phối khắp thế giới dưới thương hiệu hàng hóa của Nhật. Nhưng
những năm gần đây, do quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản gặp nhiều rắc rối
cộng với việc sau một thời gian đầu tư ồ ạt vào đây, nhiều công ty đa quốc gia
nhận thấy rằng không nên quá tập trung vào một thị trường mà cần phân tán
một phần các cơ sở sang các nước khác để tránh rủi ro, các nhà đầu tư Nhật
Bản coi Việt Nam như một trong những sự lựa chọn thay thế tiềm năng. Trở
thành một bộ phận trong chiến lược tái cấu trúc mạng lưới sản xuất ở Châu Á
của các doanh nghiệp Nhật Bản nghĩa là Việt Nam có nhiều tiềm năng thu hút
FDI vào ngành Công nghiệp sản xuất và chế tạo. Còn xét về lĩnh vực dịch vụ,
mặc dù ngành dịch vụ của Nhật phát triển hơn nhiều Việt Nam nhưng nếu
đem so sánh với các nước Châu Âu thì vẫn được coi là “sinh sau đẻ muộn” .
Điều đó đặt ra một câu hỏi rằng liệu chúng ta có đủ quyết tâm thu hút và liệu
Nhật Bản có đủ “mặn mà” với lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ này?

3.2. Giải pháp

3.2.1. Đổi mới nhận thức về dịch vụ, vai trò của dịch vụ và việc thu hút
FDI của Nhật vào ngành Công nghiệp Dịch vụ

Trong chừng mực nào đó, biện pháp này có ảnh hưởng quyết định tới
các biện pháp khác. Nhận thức có liên quan đến tư duy, lý trí, quan điểm, tư

66
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

tưởng của con người. Nhận thức có đúng đắn, tư tưởng chỉ đạo có thông suốt
thì hành động mới kịp thời, phù hợp và có hiệu quả. ở hầu hết các nước đang
phát triển và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam, ngành Công nghiệp Dịch
vụ vẫn chưa được đánh giá đúng vai trò quan trọng, thậm chí còn tồn tại
những quan điểm sai lầm về lĩnh vực này.

Một nhận thức sai lầm khá phổ biến là nếu một nền kinh tế đang
chuyển đổi hay đang phát triển khan hiếm nguồn lực thì ưu tiên phát triển
thường là ngành công nghiẹp chứ không phải ngành Công nghiệp Dịch vụ.
Nhận thức sai lầm này dựa trên quan điểm cho rằng “dịch vụ” chủ yếu là dịch
vụ cho người tiêu dùng hay cho nhu cầu cuối cùng hay đó là các “giao dịch
không bắt buộc”. Trên thực tế, ít nhất một nửa số dịch vụ được tạo ra trong
một nền kinh tế là các dịch vụ “trung gian” hay các dịch vụ được bán cho các
doanh nghiệp khác. Nếu một nước muốn có khu vực chế tạo cạnh tranh thì
cần một phạm vi rộng nguồn đầu vào là các dịch vụ chất lượng cao như giao
thông vận tải, đóng gói, kho hàng, viễn thông, ứng dụng kỹ thuật, thiết kế,
nghiên cứu thị trường… Các dịch vụ đầu vào trở nên đặc biệt quan trọng nếu
muốn tăng giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp và nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngành định hướng xuất khẩu. Bên cạnh đó, các dịch vụ đầu
vào như đào tạo nhân viên cũng làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực
khan hiếm. Một trong những thách thức khó khăn nhất là yêu cầu về chuyển
đổi cơ cấu việc làm từ một nền kinh tế lấy nông nghiệp làm cơ sở sang một
nền kinh tế lấy dịch vụ làm cơ sở. Do đó, giáo dục và đào tạo các kỹ năng
“mềm” là thiết yếu trong tiến trình này. Nhưng cũng quan trọng không kém là
giá trị và vị thế liên quan tới các loại việc làm khác nhau. Để thu hút người
lao động vào quá trình đào tạo (lại) cho các công việc dịch vụ, cần xác lập vị
trí cũng như tầm quan trọng của các việc làm đó trong cộng đồng cũng như
trong toàn bộ nền kinh tế.

67
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Một quan điểm sai lầm nữa thường gặp đó là các nền kinh tế đang phát
triển không có lợi thế so sánh trong dịch vụ và xuất khẩu rất ít dịch vụ theo
đúng nghĩa của nó. Trên thực tế, các nền kinh tế đang phát triển hoặc đang
chuyển đổi là những nhà xuất khẩu dịch vụ vô cùng tích cực. Nghiên cứu của
trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), thuộc Hội nghị về Thương mại và Phát
triển của Liên Hiệp Quốc/ Tổ chức thương mại thế giới (UNCTAD/WTO)
cho thấy các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi đã xuất khẩu trung
bình 68 loại hình dịch vụ tới 33 thị trường khác nhau. Khoảng hai phần ba
lượng trao đổi thương mại này được thực hiện với các nền kinh tế đang phát
triển và chuyển đổi khác.

Ở vào hoàn cảnh của Việt Nam, khi mà nguồn lực nội tại còn hạn chế
để có thể phát triển đồng đều mọi lĩnh vực nhất là Công nghiệp Dịch vụ thì
việc huy động nguồn vốn nước ngoài nói chung và vốn FDI của Nhật Bản nói
riêng là cần thiết, tất yếu. Người Nhật có một đặc điểm là không dễ dàng bắt
tay làm ăn với người lạ, nhưng một khi họ đã tin tưởng và đặt quan hệ làm ăn
thì người Nhật là những người bạn làm ăn trung thành nhất. Với mối quan hệ
đối tác chiến lược như hiện nay giữa Việt Nam – Nhật Bản, chúng ta phải ý
thức triệt để tầm quan trọng của việc tranh thủ nguồn vốn FDI của Nhật để
tăng cường phát triển ngành dịch vụ. Không nên đóng cửa bởi sợ những tác
động theo chiều ngược lại của FDI (gây ra cạnh tranh làm phá sản các doanh
nghiệp nội địa nhỏ lẻ, yếu kém, tình trạng ép giá và bóc lột sức lao động của
một số công ty nước ngoài, du nhập thói quen mới có ảnh hưởng không tốt
đến truyền thống văn hóa, đạo đức xã hội, …) Thực vậy, đây là nguồn vốn bổ
sung rất đáng kể, không những thế mà còn là một cơ hội tốt để Việt Nam có
thể học hỏi, tiếp cận với khoa học công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến của
nước ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng và xa hơn nữa là để Việt
Nam có thể hội nhập sâu rộng hơn với thế giới. Thu hút FDI vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ có vai trò quan trọng, phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hóa
68
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

– Hiện đại hóa đất nước. Việt Nam không thể làm ngơ trước xu hướng đang
diễn ra trên thế giới – xu hướng chuyển dịch đầu tư trực tiếp nước ngoài sang
lĩnh vực dịch vụ. Nếu Việt Nam chần chừ, đợi cho đến khi các điều kiện đã
chín muồi mới mở cửa rộng rãi thu hút FDI để phát triển dịch vụ thì khi đó có
khi thế giới đã tiến rất xa hoặc giả lại xuất hiện xu hướng mới và Việt Nam
mãi mãi vẫn chỉ là một nước đi sau.

Đổi mới nhận thức cần được thực hiện ở tất cả các ngành, các cấp, từ
trung ương đến địa phương, từ cơ quan ban hành đường lối chính sách, văn
bản pháp luật … đến các cơ quan tổ chức thực hiện, thi hành. Nhận thức đúng
đắn sẽ góp phần xây dựng nên các biện pháp, chính sách phù hợp với thực
tiễn khách quan. Ở Việt Nam, nhiều khi có tình trạng đường lối chỉ đạo của
cấp trên thì đúng đắn nhưng khi cấp dưới thực hiện lại làm nảy sinh nhiều vấn
đề tiêu cực mà người ta vẫn thường nói là “trên thông nhưng dưới chưa
thông”. Do đó cần quán triệt tư tưởng chỉ đạo một cách thống nhất, phải
thường xuyên tự đổi mới theo kịp thời đại; nên có một cách nhìn khách quan,
công bằng, toàn diện; cân đối giữa lợi ích và những ảnh hưởng tiêu cực để có
thể đưa ra giải pháp phù hợp.

3.2.2. Xây dựng kế hoạch thu hút đầu tư có chọn lọc, có trọng điểm
nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển lâu dài.

Từ trước đến nay, Việt Nam luôn hô vang khẩu hiệu thu hút đầu tư với
phương châm càng nhiều càng tốt. Không biết đó là do Việt Nam luôn ở trong
tình trạng “khát” vốn hay do chưa nhận thức được vấn đề một cách toàn
diện?! Nhưng thực tế là hiện nay, khi FDI đang ồ ạt đổ vào ngành Công
nghiệp Dịch vụ với rất nhiều dự án sân golf gây tai tiếng thì các cơ quan chức
năng buộc phải nhìn nhận lại chiến lược thu hút FDI của mình. Dường như
không có một khái niệm “chọn lọc dự án” nào được đề cập đến trong cả chục
năm nay. Chúng ta mới chỉ quan tâm đến việc thẩm tra dự án xem có “được

69
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

hay không được” chứ chưa nghĩ đến khía cạnh “nên hay không nên” . Để
đảm bảo cho sự phát triển bền vững, chính phủ cần đưa ra một kế hoạch phát
triển kinh tế dài hạn với những mục tiêu rõ ràng. Việc này sẽ giúp các cơ quan
chức năng có cơ sở thống nhất để làm căn cứ xét duyệt dự án, tránh hiện
tượng cấp phép tràn lan để lại hậu quả cho nền kinh tế. Đồng thời, khi các nhà
đầu tư nắm bắt được chiến lược phát triển dài hạn của ta, họ cũng sẽ cảm thấy
yên tâm để xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài. Điều này đặc biệt quan
trọng đối với các nhà đầu tư Nhật Bản bởi họ là những người có truyền thống
làm việc theo kế hoạch định trước và thường có xu hướng làm ăn lâu bền.

Ngoài ra, chúng ta nên tập trung thu hút FDI vào những ngành dịch vụ
mang tính “lan tỏa bền vững” như giáo dục - đào tạo, tài chính - ngân hàng,
khoa học – công nghệ. Những ngành này không chỉ tạo ra lợi nhuận cho bản
thân nó mà còn mang lại giá trị gia tăng cho toàn bộ nền kinh tế trong dài hạn.

3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng

Theo các chuyên gia Nhật Bản thì sở dĩ dòng vốn đầu tư nước ngoài
của Nhật Bản vào Việt Nam nói chung và vào ngành Công nghiệp Dịch vụ ở
Việt Nam nói riêng chưa cao sở dĩ là do điều kiện cơ sở hạ tầng của Việt Nam
còn yếu kém. Vì vậy, cải thiện cơ sở hạ tầng có thể được coi là một trong
những nhóm biện pháp chính thúc đẩy thu hút FDI của Nhật Bản trong những
năm tới, bao gồm:

- Tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy
hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư và phát triển kết cấu hạ
tầng đặc biệt là nguồn vốn ODA; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh
môi trường. Triển khai thực hiện có hiệu quả việc khuyến khích tư nhân đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tâng với chính sách ưu đãi để khai thác, sử dụng hiệu
quả các dự án đã hoàn thành.

70
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

- Điện sử dụng đang là một vấn đề bức xúc được các nhà đầu tư quan
tâm và lo ngại khi đầu tư vào Việt Nam, do đó trong thời gian tới, Nhà nước
cần có những biện pháp cụ thể như: giảm bù chéo đối với với giá điện sản
xuất và các nhóm khách hàng khác nhằm có giá điện sản xuất cạnh tranh với
các nước trong khu vực. Tiếp tục nỗ lực thực hiện cung cấp điện có chất
lượng và ổn định cho người sử dụng điện, để làm được điều đó nhà nước phải
tiến hành xây dựng các nhà máy điện theo đúng lộ trình của quy hoạch tổng
thể.

- Cải thiện hạ tầng viễn thông: Giảm giá cước viễn thông quốc tế (bao
gồm phí điện thoại quốc tế, phí dịch vụ thuê đường truyền quốc tế) bằng cách
đẩy mạnh hiệu quả sản xuất, giảm giá dịch vụ cho các doanh nghiệp tham gia
vào thị trường. Bên cạnh đó, hỗ trợ các nhà cung cấp Internet nâng cao năng
lực để đảm bảo an ninh, độ tin cậy và hiệu quả của mạng.

- Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng nông thôn, rút ngắn khoảng cách
nông thôn – thành thị nhằm mục đích thu hút một phần FDI vào các ngành
dịch vụ ở ngoài các thành phố lớn, giảm các ảnh hưởng tiêu cực của đô thị
hóa và tập trung lao động.

3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng

Do đặc điểm của ngành Công nghiệp Dịch vụ là tạo ra dịch vụ – sản
phẩm có hàm lượng tri thức và công nghệ cao nên đòi hỏi phải có đội ngũ
người lao động được đào tạo, có trình độ về chuyên môn và kỹ năng tiếp thu,
vận dụng những kỹ năng và công nghệ mới. Ngày nay, cạnh tranh về lực
lượng lao động dồi dào, giá rẻ không phải là vấn đề mang tính cốt lõi, mà trên
hết đó là hiệu quả mà lực lượng lao động đó có thể mang lại. Nguồn nhân lực
được đề cập tới ở đây đặc biệt nhấn mạnh tới đội ngũ quản lý trung gian,
những người trực tiếp làm việc với đội ngũ quản lý người Nhật và lực lượng
71
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

công nhân, kỹ sư Việt Nam. Với những hạn chế đã phân tích ở phần trước,
trong những năm tới đây, khâu đào tạo nguồn nhân lực cần chú ý tới những
điểm sau:

- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng
cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống
các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát
triển thêm các trường đào tạo nghề, các trung tâm đào tạo dưới nhiều hình
thức (như đào tạo từ xa) và từ nhiều nguồn vốn khác nhau.

- Các doanh nghiệp Nhật Bản thường có những luật lệ, quy định rất
khắt khe với người lao động vì vậy, bên cạnh đào tạo chuyên môn chúng ta
cũng cần nâng cao hiểu biết, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao
động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực
hiện đầy đủ, nghiêm túc.

- Về công nghệ thông tin, một số năm gần đây, các cơ quan chính phủ
trung ương và chính quyền địa phương đã nối mạng, các doanh nghiệp tư
nhân cũng đang tích cực áp dụng thương mại điện tử. Ngoài ra, Việt Nam
đang tập trung phát triển ngành phần mềm vì vậy việc phát triển nguồn nhân
lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin trở nên vô cùng quan trọng. Để đạt
được điều đó cần tiếp tục công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để
đáp ứng cho nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả cán bộ quản lý các
cấp và cán bộ kỹ thuật bằng cách mở cửa thị trường đào tạo nghề cho đầu tư
nước ngoài. Chú ý bồi dưỡng, phát triển đội ngũ lao động chất xám, khuyến
khích việc nghiên cứu khoa học và có biện pháp để bảo vệ kết quả các công
trình nghiên cứu, sáng chế, giải pháp hữu ích.

- Đẩy nhanh việc nghiên cứu một mặt bằng lương tối thiểu trong các
loại hình doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hay

72
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

doanh nghiệp trong nước. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế và
ngăn chặn đình công bất hợp pháp.

- Tăng cường mở rộng các trường và trung tâm dạy ngoại ngữ tiếng
Nhật nhằm phát triển đội ngũ lao động biết tiếng Nhật. Đồng thời với giảng
dạy ngoại ngữ cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giao lưu giúp văn
hóa Nhật Bản trở nên không quá xa lạ với người Việt Nam, tạo cơ sở thuận
lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và hợp tác với Nhật Bản.

3.2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách

Với tình trạng cải cách, sửa đổi hàng loạt nhưng hệ thống pháp luật vẫn
tỏ ra yếu kém thì việc hoàn thiện hệ thống luật pháp vẫn luôn là một nhu cầu
bức thiết. Nói là thế nhưng cải cách luật pháp là nhiệm vụ muôn thuở của mọi
thời đại. ở thời điểm hiện tại và trong phạm vi liên quan tới FDI của Nhật vào
ngành Công nghiệp Dịch vụ thì có 2 vấn đề nổi trội cần được tiến hành càng
nhanh càng tốt, đó là: tăng cường cơ sở pháp lý cho hoạt động mua lại và sáp
nhập (M&A) các dự án FDI Công nghiệp Dịch vụ và nhanh chóng ban hành
những văn bản hướng dẫn thực hiện các cam kết quốc tế mà nội dung của nó
có độ “vênh” với các quy định hiện hành.

Về vấn đề mua bán và sáp nhập, trước khi có luật đầu tư thống nhất
năm 2005, Việt Nam chưa có một quy định nào điều chỉnh hoạt động này.
Nói như vậy không có nghĩa là hiện nay đã có khung pháp lý chặt chẽ cho vấn
đề M&A. Chỉ có điều, theo luật đầu tư 2005 thì M&A được coi là một hoạt
động thuộc đầu tư trực tiếp. Hiện nay hoạt động mua lại và sáp nhập ở Việt
Nam chưa thực sự phổ biến và còn im lìm vô cùng so với sự sôi động của nó
đang diễn ra trên thế giới. Có tới 60% các vụ mua lại và sáp nhập trên thế giới
là thuộc ngành Công nghiệp Dịch vụ 18. Đây là một hình thức thâm nhập được
các nhà đầu tư lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ trên thế giới ưa chuộng bởi thay

18
Global trends: sustained growth in FDI flow http://www.rrojasdatabank.info/wir2007/wir07ch1.pdf

73
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

vì phải bỏ ra một khoản vốn lớn đầu tư mới hoàn toàn thì nhà đầu tư nước
ngoài sẽ thuận lợi hơn nhiều nếu nắm quyền quản lý những doanh nghiệp đã
và đang tồn tại. Tuy nhiên, ở Việt Nam, khung pháp lý còn hạn chế, nhất là
việc định giá tài sản, xác định nghĩa vụ thuế, chính sách đối với lao động,
khách hàng… nên các nhà đầu tư nước ngoài hầu như chỉ dám đứng ngoài
nhìn. Nếu bỏ qua kênh đầu tư này thì chúng ta sẽ tuột mất rất nhiều cơ hội thu
hút FDI vào ngành Công nghiệp Dịch vụ trong thời gian tới.

(Nguồn: UNCTAD
http://www.unctad.org/Templates/StartPage.asp?intItemID=2068 )

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án mua lại và sáp nhập, cần tiếp
tục cải tiến các thủ tục và quy trình mua bán, sáp nhập. Đồng thời cũng cần
phải nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động này nhằm hạn
chế các trường hợp sử dụng M&A như một chiêu bài để gây thiệt hại cho phía

74
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Việt Nam (chấp nhận thua lỗ ban đầu để rồi sau đó chính phía Việt Nam phải
bán lại cổ phần của mình cho đối tác nước ngoài, như vậy từ hình thức liên
doanh chuyển sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài).

Về vấn đề thực hiện các cam kết quốc tế, hiện nay chúng ta đang gặp
phải một số rắc rối khi nội dung của các cam kết quốc tế, cam kết song
phương không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau và mâu thuẫn với các
quy định của pháp luật hiện hành. Ví dụ như theo cam kết WTO thì lĩnh vực
giáo dục sẽ được mở cửa sau 2-3 năm, lĩnh vực y tế sau 3-5 năm nhưng theo
Hiệp định bảo hộ đầu tư ký với Nhật Bản thì các lĩnh vực này đã được mở cửa
từ lâu. Vấn đề nảy sinh ở chỗ, khi xét duyệt các dự án đầu tư, các cơ quan
chức năng lại có những cách hiểu và thi hành không thống nhất hoặc có
những khi không biết làm thế nào thì từ chối dự án của nhà đầu tư với lý do
“an toàn”!! Điều này gây ảnh hưởng vô cùng lớn đến uy tín của Việt Nam với
các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng.
Chính bởi vậy, cần có những văn bản hướng dẫn việc thi hành cam kết một
cách cụ thể để đảm bảo sự thống nhất, công bằng giữa các nhà đầu tư mà vẫn
không vi phạm cam kết.

Ngoài ra, để tránh tình trạng như trên, các cơ quan chức năng cần có
một cơ chế trao đổi và thông qua hợp lý trước khi đàm phán, ký kết các hiệp
ước, cam kết quốc tế để đảm bảo sự thống nhất giữa các cam kết. Đồng thời
chúng ta cũng nên chủ động soạn thảo một mẫu Hiệp định bảo hộ đầu tư với
các nước để có thể tiến hành đàm phán chủ động, thay vì luôn để bên đối tác
đề xuất như hiện nay.

75
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

3.2.6. Nâng cao vai trò và năng lực của bộ máy quản lý nhà nước

Đối với doanh nghiệp FDI, bộ máy quản lý nhà nước vốn có vai trò
hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đầu tư và giúp doanh nghiệp hoàn thành
các nghĩa vụ đối với nước sở tại. Tuy nhiên bộ máy đó của chúng ta hiện nay
do năng lực yếu kém đang làm việc kém hiệu quả với những quy trình, thủ tục
rườm rà không những không giúp hoạt động đầu tư của doanh nghiệp được
thuận lợi hơn mà còn có xu hướng gây phiền toái cho doanh nghiệp. Chính vì
vậy, để hoạt động đầu tư ở Việt Nam trở nên có sức hút hơn thì việc cải tổ bộ
máy này là vô cùng quan trọng.

Hải quan: Có nhiều vấn đề được chỉ ra liên quan đến tính minh bạch và
độ tin cậy của nghiệp vụ hải quan. Hải quan Việt Nam đang đứng trước yêu
cầu đơn giản hóa và đồng bộ hoá qui trình thủ tục hải quan. Nói chung quá
trình đơn giản hoá thủ tục hải quan đã có những bước tiến đáng kể nhưng vẫn
còn rất nhiều thủ tục xuất nhập khẩu rườm rà, phức tạp liên quan đến nhiều cơ
quan hành chính cần phải được cải tiến kịp thời. Để thúc đẩy quá trình cải thiện
những vấn đề trên cần củng cố chức năng về mặt tổ chức của hải quan và nâng
cao năng lực cán bộ.

Thuế: Với những nổ lực của Chính phủ Việt Nam, cơ quan thuế đã có
những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn tồn đọng một số vấn đề cần
cải thiện như rút ngắn thời gian làm thủ tục về thuế, rút ngắn thời gian hoàn
thuế, áp dụng chặt chẽ các điều khoản pháp luật về thuế, xóa bỏ sự chồng
chéo trong các qui định về thuế, xoá bỏ cơ chế kiểm tra thuế thường xuyên
đối với doanh nghiệp. Củng cố chức năng của cơ quan thuế vụ và nâng cao
năng lực cán bộ là những yếu tố không thể thiếu trong việc giải quyết triệt để
các vấn đề nêu trên.

Bên cạnh đó tham nhũng là mộ căn bệnh nguy hiểm mà cho đến nay
Việt Nam vẫn chư thể chữa khỏi, nó ảnh hưởng rất nhiều đến lòng tin của các

76
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

nhà đầu tư. Kẻ hở luật pháp và chính sách đã để cho người ta tham nhũng, nó
là căn bệnh tồn tại trong bất kỳ nền tài chính nào, chúng ta không thể xoá bỏ
nó mà chỉ có thể bằng cách nào đó hạn chế nó mà thôi. Do đó, Chính phủ Việt
Nam cần thực hiện các biện pháp sau nhằm đấu tranh chống nạn tham nhũng:

- Tiếp tục xây dựng kế hoạch hành động và các biện pháp đầu tranh
chống tham nhũng
- Củng cố chức năng đường dây nóng giữa chính phủ và doanh nghiệp
- Nhà nước cho phép báo chí và các phương tiên truyền thông đưa tin
về tham nhũng, để người ta luôn phải lo ngại bị vạch trần, đó là cách hiệu quả
để hạn chế tham nhũng.
- Ngoài ra tăng lương cho bộ máy công chức nhà nước cũng là một
biện pháp tốt để chống tham nhũng, người ta sẽ sợ bị mất việc làm và họ có
thể sồng bằng đồng lương của mình.

Các cơ quan liên quan trực tiếp tới đầu tư: từng bước hình thành một
đội ngũ tinh thông nghiệp vụ đầu tư quốc tế, am hiểu kinh tế thị trường và tập
quán, thông lệ quốc tế. Để làm được việc này, ngoài việc tăng thêm nguồn
nhân lực, đối với lớp cán bộ công nhân viên chưa hoặc không đủ tiêu chuẩn,
phải vừa đào tạo lại (nếu còn trẻ) vừa mạnh dạn thuyên chuyển công tác sang
những vị trí phù hợp hơn. Ở nước ta hiện nay, nguồn nhân lực đạt các yêu cầu
về chuyên môn nghiệp vụ không phải là thiếu nhưng có lẽ là chưa được dùng
đúng chỗ.

Bộ máy quản lý dự án: chúng ta cũng cần quản lý chặt chẽ hơn việc
thực hiện dự án của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ có thể lập một cơ
quan riêng biệt nhằm theo dõi triển khai các dự án FDI, tiếp nhận các khiếu
nại, phàn nàn về những cơ quan chức năng không thi hành đúng luật hoặc làm
sai các quy định cho phép. Cơ quan này phải kịp thời phát hiện vấn đề và giải
quyết ngay những vướng mắc trong quá trình triển khai các dự án FDI. Việc

77
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

thành lập một cơ quan chuyên trách như vậy sẽ giúp nhanh chóng tháo gỡ
những rắc rối phát sinh trong quá trình giải ngân vốn đầu tư, giúp nâng cao
hiệu quả kinh tế xã hội của dòng vốn FDI cam kết.

3.2.7. Nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư

Xúc tiến đầu tư theo nghĩa đơn giản nhất là quảng cáo về môi trường
đầu tư của nước mình, thuyết phục các nhà đầu tư bỏ vốn thực hiện các dự án
đồng thời cũng bao gồm các hoạt động “chăm sóc” cần thiết đối với các nhà
đầu tư hiện tại. Để có được chiến lược xúc tiến hiệu quả trước hết chúng ta
phải xác định đối tượng hướng đến để tập trung tìm hiểu đặc điểm, thế mạnh,
điểm yếu của đối tác. Đối với Nhật Bản, có một đặc điểm mà các cơ quan xúc
tiến đầu tư không thể không biết đó là : quan hệ chính phủ có tác dụng quan
trọng trong việc khai thông mở đường cho các hoạt động của nhà đầu tư.
Doanh nghiệp Nhật Bản coi nhưng cam kết, những lời hứa, lời mời … giữa
hai chính phủ như một công cụ bảo đảm tin cậy. Điều này cũng là do văn hóa
kinh doanh khép kín và cẩn trọng của người Nhật. Ngược lại, một khi được
đảm bảo, một khi họ thấy tin tưởng thì mọi việc lại được xúc tiến rất nhanh.
Chúng ta cần chủ động tiếp cận nhà đầu tư Nhật Bản theo hướng bám sát các
động thái của hai chính phủ thì sẽ đạt được hiệu quả cao nhất ví dụ như: tuyên
truyền quảng bá hình ảnh Việt Nam trong những chuyến thăm chính thức giữa
cấp cao hai nước, thường xuyên tổ chức những cuộc thăm quan, các buổi tọa
đàm giữa các bộ ngành liên quan đến đầu tư của Việt Nam và Nhật Bản.

Ngoài ra, cần phải chủ động, sáng tạo hơn trong nội dung quảng bá
thay vì những nội dung đơn thuần, cũ rích. Hoạt động xúc tiến đầu tư cũng
giống như hoạt động marketing bán hàng, nhưng ở đây là bán “cơ hội đầu tư”.
Để xúc tiến hiệu quả, chúng ta phải liên tục cập nhật, tìm hiểu nguyện vọng
của nhà đầu tư để có những chính sách điều chỉnh thích hợp. Cần kết hợp nhu
cầu nguyện vọng của nhà đầu tư với nhu cầu phát triển của Việt Nam để tạo

78
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

ra những lợi ích mới, hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư thông qua các chính
sách ưu đãi như: ưu đãi về thuế, liên kết đào tạo lao động giữa doanh nghiệp
với nhà nước, hỗ trợ tuyển dụng…

Để chủ động tiếp cận với các nhà đầu tư Nhật Bản thay vì chờ họ đến
hỏi và ta trả lời thì Bộ Kế hoạch - Đầu tư nên tiến hành xây dựng các Trung
tâm xúc tiến đầu tư tại các thành phố lớn của Nhật Bản, và các địa điểm thu
hút đầu tư trọng yếu tại Việt Nam. Các trung tâm này cần có đủ thẩm quyền
để thay mặt Bộ tiếp nhận hồ sơ đăng ký đầu tư và đảm bảo có câu trả lời cho
nhà đầu tư trong vòng 45 ngày theo đúng luật định. Cần tăng cường triển khai
hệ thống đăng ký đầu tư điện tử qua mạng internet, giúp giảm thiểu thời gian
và chi phí cho nhà đầu tư.

Duy trì các hoạt động đối thoại với các nhà đầu tư hiện tại cũng là một
hoạt động quan trọng trong chiến lược xúc tiến. Có thể thành lập ra các câu
lạc bộ hoặc hiệp hội các doanh nghiệp FDI ngành Công nghiệp Dịch vụ có
quy mô lớn (có thể đưa ra các tiêu chí như doanh thu hoặc tổng vốn đầu tư…)
Hiệp hội này sẽ được chính phủ đặc biệt quan tâm bằng các biện pháp như tổ
chức gặp mặt, đối thoại với thủ tướng định kỳ, được lấy ý kiến trước mỗi thay
đổi của chính sách liên quan đến FDI…. Làm như vậy vừa giúp các doanh
nghiệp có một môi trường để trao đổi thông tin vừa giúp chính nước chủ nhà
chúng ta cập nhật được các vấn đề hiện hành liên quan đến FDI.

79
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

KẾT LUẬN

Qua quá trình phân tích những yếu tố tác động tới thu hút FDI của Nhật
Bản vào ngành Công nghiệp Dịch vụ cũng như việc đánh giá kết quả thu hút
FDI đã cho chúng ta thấy rõ hơn thực trạng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Nhật Bản vào ngành này, đồng thời chỉ ra những hướng đi mà
Việt Nam cần vươn tới trong tương lai. Có thể thấy rằng mặc dù đã có nhiều
cố gắng nhưng hoạt động thu hút FDI của Nhật vào ngành Công nghiệp Dịch
vụ vẫn chưa đạt được hiệu quả tương xứng với tiềm năng thu hút của chúng ta.
Sự tăng trưởng của khối lượng vốn, tỷ trọng vốn và số lượng dự án đầu tư vào
Công nghiệp Dịch vụ không ổn định cho thấy lĩnh vực này của chúng ta chưa
thực sự thu hút được nhiều sự quan của các nhà đầu tư Nhật Bản.

Tuy nhiên, đầu tư cho ngành Công nghiệp Dịch vụ đang đóng vai trò
chủ chốt trong sự phát triển kinh tế và hội nhập của Việt Nam nên nguồn bổ
sung vốn này cần được quan tâm và thu hút mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian
tới. Đặc biệt là sự phát triển tốt đẹp trong quan hệ hai nước những năm gần
đây đang tạo ra cơ hội vàng cho chúng ta trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư
trực tiếp này của Nhật Bản. Mặc dù cũng vẫn tồn tại những thách thức không
nhỏ nhưng triển vọng thu hút FDI của Nhật vào ngành Công nghiệp Dịch vụ
trong 5 đến 10 năm tới là rất lớn. Chính vì thế, hơn lúc nào hết, chúng ta cần
phải vạch ra những bước đi cụ thể để tận dụng triệt để cơ hội này, thu hút hiệu
quả FDI của Nhật vào ngành Công nghiệp Dịch vụ, góp phần phát triển Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước. Đây cũng là cái đích cuối cùng mà cá
nhân tác giả muốn đạt đến thông qua luận văn này.

80
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt


1. Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư nước ngoài, NXB Giáo dục
2. Luật Doanh nghiệp (2005), NXB Thống kê
3. Luật Đầu tư (2005), NXB Thống kê
4. Luật Thương Mại (2007), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
5. 20 năm đầu tư nước ngoài – Nhìn lại và hướng tới 1987 – 2007 (2008),
NXB Tri thức
6. GS-TS Nguyễn Thị Mơ (2004), Lựa chọn bước đi và giải pháp để Việt
Nam mở cửa về dịch vụ thương mại
7. Phạm Thị Miên (2003), “Vai trò của cơ quan đại diện ngoại giao trong
việc hỗ trợ, xúc tiến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu
kinh tế số tháng 8/2003
8. Lê Xuân Bá, Việt Nam gia nhập WTO và nhu cầu cấp bách về phát triển
nhân lực chất lượng cao, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
9. Ths. Bùi Huy Nhượng (2004), “Vấn đề mua lại và sáp nhập các dự án FDI
ở Việt Nam – thực trạng và kiến nghị”, tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới
số 2(94)/2004
10. Phạm Quỳnh Trang, lớp A14K40, KTĐN, ĐH Ngoại Thương HN, luận
văn “Xu hướng dịch chuyển FDI sang lĩnh vực dịch vụ trên thế giới – thực
trạng và giải pháp đối với Việt Nam”
11. Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa hai nước Việt Nam-Nhật
Bản
12. Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản
13. Cam kết thương mại Dịch vụ (Cam kết WTO của Việt Nam)
14. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản
15. Kỷ yếu đầu tư nước ngoài 2007
81
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

16. Số liệu thống kê của Vụ quản lý dự án, Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư http://fia.mpi.gov.vn/Default.aspx
17. Số liệu thống kê của đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam
http://www.vn.emb-japan.go.jp/index_v.html
18. Báo điện tử Tin nhanh Việt Nam http://www.vnexpress.net/GL/Home/
19. Trang web của Trung tâm báo chí và hợp tác truyền thông Quốc tế
http://vietbao.vn/
20. Trang web của Trung tâm thông tin kinh tế – phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam http://www.kinhdoanh.com.vn/mtkd/
21. Trang web của Tổng cục thống kê Việt Nam
http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217
22. Trang web Thông tin Nhật Bản
http://www.thongtinnhatban.net/modules/Jig/index.php
23. UNDP (2005), “Một số lựa chọn và kiến nghị cho Chiến lược tổng thể
phát triển khu vực dịch vụ ở Việt Nam đến 2010”

82
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Tài liệu tiếng Nhật


1. 世界国勢図絵 2007/08、矢野恒太記念会 編集・発行
2. Jica’s World No2.2008 独立行政法人 国際協力機構
3. ベトナム株完全投資ガイド、日本実業出版社
4. 日経(2009)、業界地図、日本経済新聞出版社
5. Jetro(3/2009)、在アジア・オセアニア日系企業活動実態調査
6. 日本貿易振興機構のホームページ http://www.jetro.go.jp/indexj.html
7. 日本経済産業省 http://www.meti.go.jp/
8. 日本銀行 http://www.boj.or.jp/
9. http://www.joi.or.jp/Tokusyu/0809-01.pdf
10. 対ベトナム直接投資の課題と展望(2008)
http://www.jri.co.jp/RIM/2008/02vietnam.pdf

83
Lê Thanh Hằng - Lớp Nhật 1 - K44E - Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

Tài liệu tiếng Anh


1. World Invest Review (2008), United Nations Conference on Trade and
Development
http://www.unctad.org/Templates/StartPage.asp?intItemID=2068
2. Asean – Japan Center http://www.asean.or.jp/eng/
3. World Population Prospect ( 2008) http://esa.un.org/unpp/
4. World Urbanization Prospect (2007) http://esa.un.org/unup/
5. Organization for Economic Co-oporation and Development
http://www.oecd.org/home/0,2987,en_2649_201185_1_1_1_1_1,00.html
6. United States CSI Coalition of Service Industries http://www.uscsi.org/
7. KPMG’s Corporate and Indirect Tax Rate Survey, 2008
http://www.kpmg.com/Global/IssuesAndInsights/ArticlesAndPublications/Pa
ges/Corporateindirecttaxsurvey2008.aspx
8. The 18th Survey of Investment-Related Cost Comparison in Major Cities
and Regions in Asia, 2008
http://www.jetro.go.jp/bangladesh/topics/20080710461-topics

84

You might also like