Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

PHÂN TÍCH TÍNH ĐÚNG ĐẮN, SÁNG TẠO

CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ NĂM 1930


CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Cách mạng VN trong hơn 75 năm qua đã giành được những thắng lợi vô cùng to
lớn. Đó là, đã giành lại độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, thống nhất tổ quốc, xây
dựng, đổi mới đất nước theo định hướng xhcn và góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân chủ và tiến bộ xã hội. Những thắng lợi vĩ
đại đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định nhất là sự lãnh đạo của
ĐCSVN với đường lối đúng đắn, sáng tạo và khoa học dựa trên nền tảng CNMLN và tư
tưởng HCM.
Chúng ta tự hào về dân tộc VN-một dân tộc anh hùng, giàu truyền thống, thông
minh và sáng tạo; tự hào về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân VN đã mang lại
vinh quang, độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện rõ nét và sinh động về
tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo trong việc vận dụng CNMLN, truyền thống dân tộc,
kinh nghiệm của nước ngoài một cách nhuần nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng đặt ra và được thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng ta, thông qua tại Hội nghị thành lập ĐCSVN (từ ngày 3-7/2/1930).
Những năm trước 1930, nước ta dưới sự thống trị của thực dân Pháp, hàng ngàn
cuộc đấu tranh yêu nước nổi dậy nhưng rồi lần lượt đều bị đàn áp và đi đến thất bại. Giữa
lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, về giai cấp
lãnh đạo, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm con đường cứu nước. Năm 1920, Người
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và sau đó bắt đầu truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác -
Lênin vào Việt Nam. Đến năm 1929, nhu cầu phải thành lập Đảng Cộng sản đã chín
muồi. Từ tháng 3/1929 đến tháng 01/1930 có 3 tổ chức Đảng Cộng Sản lần lượt ra đời ở
3 miền Bắc, Trung, Nam, tuy chứng tỏ sự thắng thế của tư tưởng cách mạng vô sản, song
trong một nước có 3 tổ chức đảng cộng sản hoạt động riêng rẽ cũng là một trở ngại cho
phong trào cách mạng. Trước tình hình đó, nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản từ ngày 3 đến ngày
7/2/1930 tại Cửu Long, Hương cảng, Trung Quốc. Hội nghị đã thống nhất các nhóm cộng
sản thành một đảng và lấy tên đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời đã thông qua:
Chánh cương vắn tắt của đảng, sách lược vắn tắt của đảng, chương trình vắn tắt của đảng,
đây là những văn kiện hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng CSVN. Ngay từ
khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chỉ ra
phương hướng cơ bản của cách mạng VN, đặt nền móng cho việc xác định lý luận, đường
lối, phương pháp cách mạng và những nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân VN.
Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng CLCT đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần
nhuyễn quan điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những
luận điểm sau:
Một là, cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng để tiến lên xã hội cộng sản. Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai đoạn :
giai đoạn thứ nhất đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi
giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội
cộng sản.
Hai là, trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống
đế quốc và chống phong kiến.. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải
được tiến hành khắng khít không tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc
và tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.
Ba là, xác định lực lượng cách mạng, Đảng phải vận động, thu phục giai cấp
mình để lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực
lượng cách mạng bao gồm : thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là động lực của cách
mạng, thứ hai là những người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách
mạng.
Bốn là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của
giai cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm là, về p/ pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng
bạo lực cách mạng.
Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc
địa trên thế giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng
tạo: vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng
chính xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Trước nhất, tính đúng đắn và khoa học của Cương lĩnh thể hiện ở việc xác định
đúng mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam, đó là “làm cách mạng tư sản dân
quyền và thổ địa cách mạng để tiến lên chủ nghĩa cộng sản chính”. Sự lựa chọn xuất phát
từ việc xác định đúng đắn các mâu thuẩn cơ bản của xã hội Việt Nam và nhận thức đúng
xu thế phát triển của thời đại.
1. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định rõ nước ta là một xứ thuộc địa, nửa
phong kiến và phân tích những chính sách kìm hãm sự phát triển kinh tế và thủ đoạn độc
quyền khai thác thuộc địa của tư bản Pháp, gây nên những hậu quả tai hại, cản trở sự phát
triển độc lập của kinh tế Việt Nam. Nông dân bị tước đoạt ruộng đất, nhiều người bị lâm
vào nạn thất nghiệp. Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa một bên là
dân tộc ta với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Bên cạnh đó, còn nổi lên
mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam - mà đa số là nông dân - với bọn địa chủ phong kiến
chung quanh vấn đề ruộng đất, người dân cày hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ, bị trói
chặt vào mảnh ruộng của giai cấp địa chủ và bị bóc lột với tô thuế nặng nề.
Từ hai mâu thuẫn cơ bản trên cho thấy rằng nguyện vọng tha thiết và cấp bách của
dân tộc lúc này chính là đánh đổ đế quốc để giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do và
đánh đổ phong kiến để giành dân chủ, giành ruộng đất cho người cày. Chỉ có giải quyết
02 mâu thuẫn này thì xã hội Việt Nam mới thoát khỏi áp bức, bóc lột, phát triển đi lên.
Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Như vậy, cương lĩnh cũng đã xác định rõ mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt
Nam không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà
phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước đi lên CNXH, CNCS –
mà thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 là sự mở đường cho thời kỳ quá độ
lên CNXH trên toàn thế giới. Về thực chất, đó là con đường cách mạng giành độc lập dân
tộc, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” và các quyền dân chủ chính trị, kinh tế,
văn hóa… cho các tầng lớp nhân dân, bỏ qua chế độ TBCN đi tới XH cộng sản mà
CNXH là giai đoạn đầu của nó. Hai cuộc cách mạng này liên quan mật thiết với nhau,
ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc cách mạng trước thành công tạo điều kiện cho
cuộc cách mạng sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải
phóng dân tộc và xây dựng CNXH không có bức tường ngăn cách.
Luận điểm trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc tư duy lý luận chính trị của cách
mạng Việt Nam và chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nắm vững nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu
suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện
chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng XHCN. Con đường cách mạng
Cương lĩnh chính trị đã nêu mang tính triệt để và rọi sáng một hướng phát triển mới của
Cách mạng Việt Nam và cũng là một chân lý cách mạng mà Đảng CSVN và nhân dân
Việt Nam phấn đấu thực hiện : giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người; tự do hạnh phúc của nhân dân là giá trị chân thực của độc lập dân tộc và CNXH.
2. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến là vấn đề phức tạp. Trong 2 nhiệm vụ chiến lược “phản đế, phản phong”,
Cương lĩnh chính trị cũng đã nêu rõ mặc dù cả 2 nhiệm vụ phải được tiến hành đồng thời
và khắng khít với nhau, song về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định phải đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" . Điều này xuất phát từ
hoàn cảnh xã hội nước ta là xã hội thuộc địa, mâu thuẫn giai cấp tuy có sâu sắc nhưng
mâu thuẫn chủ yếu nhất, bức xúc nhất vẫn là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn
thực dân xâm lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho
toàn dân tộc. Việc xác định đúng kẻ thù chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững ngọn
cờ dân tộc để tập hợp lực lượng, phát huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ
những nhiệm vụ giải phóng giai cấp là một những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của Đảng
ta bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã
hội.
3. Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa
trên lực lượng cách mạng là liên minh công - nông làm nòng cốt, trong đó giai cấp công
nhân giữ vai trò lãnh đạo nhưng đồng thời phải lôi kéo, tập họp cả những người yêu nước
ở tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông và lợi dụng, trung lập phú nông, trung và tiểu
địa chủ, tư sản dân tộc. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa chủ ra thành những nhóm đối
tượng khác nhau để có chính sách đối xử phù hợp, tranh thủ lôi kéo những người có lòng
yêu nước, trung lập những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương
quyết trừng trị đối với kẻ thù là thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối
với mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp trong xã hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính
tích cực và sự đóng góp của họ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
đất nước.
Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp vô sản thế
giới (như sống tập trung, đại diện cho phương thức sản xuất hiện đại, có sứ mệnh lịch
sử…) đồng thời họ lại có những đặc điểm riêng của dân tộc như vừa bị áp bức giai cấp,
vừa bị áp bức dân tộc cho nên họ có tinh thần triệt để cách mạng và quyền lợi giai cấp,
gắn bó chặt chẽ với quyền lợi của dân tộc, vì vậy họ phải trở thành giai cấp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam với điều kiện là phải giác ngộ lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tự tổ chức ra
chính Đảng của mình. Tuy nhiên, muốn giữ vững và củng cố được vai trò lãnh đạo của
mình, giai cấp công nhân còn phải lôi cuốn được giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đi
theo mình, trên cơ sở ấy mới tạo ra được hậu thuẫn mạnh mẽ để mở rộng quyền lãnh đạo
của mình đến các tầng lớp nhân dân lao động khác trong toàn xã hội. Với một nước có
90% dân số là nông dân thì thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự đảm bảo
chắc chắn nhất cho những thắng lợi của cách mạng. Cùng với giai cấp nông dân, đội ngũ
trí thức vốn xuất thân từ nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, tuy họ không
đại diện cho một phương thức sản xuất nào, không phải là một lực lượng chính trị độc lập
trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, do đó họ không có hệ tư tưởng riêng. Song đội
ngũ trí thức dưới bất cứ chế độ nào cũng có vai trò và vị trí rất quan trọng. Giai cấp tư sản
Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, vừa ra đời đã bị
sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít tham gia vào các cơ
quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận
khác tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả
năng lãnh đạo cách mạng và chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất
định. Thực tế lịch sử cũng đã chứng minh rõ mọi khuynh hướng coi thường hoặc phủ
nhận vai trò của các lực lượng xã hội to lớn này, không quan tâm đầy đủ đến việc xây
dựng, củng cố khối liên minh công - nông và trí thức trong các giai đoạn và các thời kỳ
cách mạng, có nghĩa là đặt giai cấp công nhân vào một hoàn cảnh phải chiến đấu đơn độc
và đó là một sai lầm chính trị nghiêm trọng.
4. Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự thất bại của cuộc khởi
nghĩa Yên Bái 2/1930, đánh dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời với vai trò lãnh đạo cách mạng đã xác lập ảnh hưởng của hệ tư
tưởng vô sản trong cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời
đại mới trong lịch sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng
vị trí trung tâm, kết hợp mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung,
phương hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Sức mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam
nằm ở chổ Đảng kết nạp đảng viên không những trong công nhân tiên tiến, mà còn kết
nạp những người ưu tú, tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong
các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành
động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng
sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí,
chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng".
5. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách
mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng
ra Chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Đây là kinh
nghiệm được rút ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới đã
khẳng định rằng bản chất của CNĐQ và giai cấp vô sản với hai bản chất giai cấp hoàn
toàn đối lập, là một cuộc chiến đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng
đánh đổ bạo lực phản cách mạng mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Chiến thắng của
cách mạng tháng 8-1945, Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và Chiến dịch Hồ Chí
Minh năm 1975 cho thấy sự chọn lựa phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng là hoàn
toàn đúng đắn để đánh đổ bọn đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
6. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công
nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi
rõ: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền
và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai
cấp Pháp" . Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng : “Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng
thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một
nguồn sống của bọn tư bản mà còn là cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc
cách mạng vô sản mang tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách
mạng trong thế kỷ này. Tư tưởng này là cơ sở cho sự phát triển chính sách đoàn kết quốc
tế của Đảng ta. Chính sách đó luôn được bổ sung, hoàn thiện và là một nguồn tăng thêm
sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt
Nam
Ngoài ra, do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc
lập tự chủ, tự lực tự cường của từng quốc gia, việc đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt
Nam (chứ không phải là Đảng Cộng sản Đông Dương theo hướng chỉ đạo của Quốc tế
Cộng sản) là hoàn toàn đúng đắn xuất phát từ sự hiểu biết đúng đắn về tình hình, đặc
điểm, tâm lý dân tộc của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên, Lào) và theo quan
điểm Lênin: các dân tộc bị lệ thuộc sau khi độc lập được tách ra để xây dựng độc lập dân
tộc và có quyền tự quyết.
Với tính đúng đắn, cách mạng, khoa học và sáng tạo, Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã trở thành ngọn cờ đoàn kết, tập hợp, quy tụ mọi tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng CSVN trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc để đi tơid CNXH.
Thực tiễn đã chứng minh, mọi thắng lợi của CMVN trong hơn 75 năm qua đều gắn liền
với tính đúng đắn của CLCT đầu tiên của Đảng, với những luận điểm sáng tạo, cách
mạng, khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc VN.
Đối với công cuộc đổi mới hiện nay Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có ý
nghĩa rất quan trọng: một là đổi mới phải kiên định mục tiêu XHCN, hai là đổi mới
phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; ba là đổi mới phải động viên được đông đảo quần
chúng tham gia; bốn là đổi mới phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa phương, đa
dạng quan hệ ngoại giao.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công
nhân chỉ chiếm 1,2% dân số, đã có Cương lĩnh chính trị đầu tiên đúng đắn ngay từ đầu.
Điều đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mang của chủ
nghĩa Mác - Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai
cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được truyền thống yêu nước,
đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước,
nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách mang. Chúng ta cũng không thể phủ
nhận được rằng những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã nêu thời gian
qua đã chứng tỏ sự đúng đắn, khoa học và như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người
nhất, để trên nền móng đó phát huy sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam,
đặc biệt là trong công cuộc đổi mới xây dựng CNXH ngày nay.

You might also like