Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 54

MỤC LỤC

A. CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI......................................................................2


I. Thân thế..........................................................................................................2
1. Tiểu sử:......................................................................................................2
2. Hoàn cảnh gia đình và xã hội....................................................................2
II. Thời đại.........................................................................................................3
1. Bối cảnh lịch sử xã hội:.............................................................................3
2. Các tiền đề văn hóa, tư tưởng:...................................................................3
III. Con người....................................................................................................5
B. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC...............................................................................6
I. Tác phẩm........................................................................................................6
1. Thơ Nôm truyền tụng................................................................................6
2. Lưu Hương ký...........................................................................................8
3. Xuân Hương thị tập...................................................................................8
II. Các khuynh hướng tiếp cận thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương............9
III. Khuynh hướng cảm hứng............................................................................9
1. Khuynh hướng cảm hứng thiên nhiên.......................................................9
2. Khuynh hướng cảm hứng nhân đạo........................................................16
3. Khuynh hướng cảm hứng thế sự.............................................................27
III. Nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương...............................................................34
1. Về ngôn ngữ............................................................................................34
2. Về hình tượng nghệ thuật........................................................................35
HỒ XUÂN HƯƠNG

A. CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI


I. Thân thế (Thanh Vi)
1. Tiểu sử
+ Tên thật là Hồ Phi Mai (hoa bay trên hồ) hiệu là Xuân Hương.
+ Hồ Xuân Hương thuộc dòng họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi
Diễn-thân sinh của bà thì dòng họ đã suy tàn.
+ Sống vào thời kì cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ
19. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến
+ Xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống
đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo khổ, lăn
lộn và tiếp xúc với nhiều người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
+ Là một người phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được
nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng
thơ văn, các nhà nho.
+ Là một người phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng cuộc đời lại có nhiều
bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn, cả hai lần đều làm lẽ, cả hai đều
ngắn ngủi và không có hạnh phúc.
2. Hoàn cảnh gia đình và xã hội
- Hồ Xuân Hương sinh vào một gia đình vốn dòng văn học: một người anh họ
của Hồ Xuân Hương đậu Hoàng Giáp, nên hẳn là Hồ Xuân Hương hưởng được
di truyền về tính nết văn chương của dòng họ. Nhưng gia cảnh của cha mẹ Hồ
Xuân Hương lại lâm vào cảnh nghèo khó vì lúc đó đất nước ta đã và đang trải
qua một thời kỳ hết sức loạn lạc, nhiễu nhương kể từ khi họ Mạc cướp ngôi Nhà
Lê năm 1527, rồi Trịnh Nguyễn phân tranh, Tây Sơn khởi nghĩa, cùng với nạn
bão lụt, mất mùa, quan lại nhũng lạm, giặc cướp nổi lên khắp nơi, thi cữ bị bãi
bỏ, cho mãi đến khi Gia Long lên ngôi (1802), đất nước mới tạm yên. Chắc hẳn
cuộc sống ở quê nhà khó khăn nên cha của Hồ Xuân Hương phải di dời ra
Thăng Long dạy học kiếm sống.
- Hồ Xuân Hương sinh trưởng và lớn lên ở Thăng Long, đất kinh đô ngàn năm
văn vật (con người và cảnh vật thanh tú). Vì có hương sắc lại thêm có tài văn
chương nên Hồ Xuân Hương càng khó kiếm chồng. Vả lại, trong thời buổi loạn
lạc, các khoa thi bị hoãn, nên cũng hiếm những chàng trai đồng lứa có danh
phận để cưới Hồ Xuân Hương. Cuối cùng, có lẽ cũng vì số mệnh của một con
2
người vừa có tài lại có sắc, cái số mệnh nêu trong thuyết của Nhà Nho rằng:
“hồng nhan đa truân” và “tài mệnh tương đố” mà Nguyễn Du đã viết lên ngay
trong mấy câu mở đầu của cuốn Ðoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Thúy
Kiều rằng:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
II. Thời đại (Tố Uyên)
1. Bối cảnh lịch sử xã hội:
- Hồ Xuân Hương sinh ra vào một thười kỳ đầy biến động của lịch sử dân tộc.
- Thế kỷ XVIII – nửa đầu thể kỉ XIX là giai đoạn mà chế độ phong kiến rơi vào
khủng hoảng triền miên chất chứa trong lòng những mâu thuẫn đã tồn tại nhiều
thế kỷ:
+ Trịnh – Nguyễn phân tranh
+ Các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên
+ Cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh
2. Các tiền đề văn hóa, tư tưởng:
- Thế kỉ XVIII cương thường và đoại lý nho gia sụp đổ từng mảnh
- Chế độ thi cử thời vưa Lê chúa Trịnh không ổn định -> băng hoại nền giáo
dục.
- Nhà Nguyễn ra sức củng cố địa vị nho giáo trong đời sống tư tưởng, xã hội,
những thực sự nó đã mất đi địa vị độc tôn của một quốc giáo.
- Phật - Đạo giáo có sự phát triển trở lại.
- Sự xuất hiện của các trung tâm kinh tế – văn hóa và sự lớn mạnh của tầng lớp
thị dân.
- Thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX còn được đánh dấu bởi sự hồi sinh và phát
triển của nền văn hóa dân gián bản địa của những giá trị phồn thực trong văn
hóa dân tộc sau một thời gián dài bị văn hóa Nhó giáo lấn át.
=> Sinh ra trong thời kỳ lịch sử đầy biến động đã ảnh hưởng rất lớn đến những
sáng tác thơ văn của Hồ Xuân Hương. Hoàn cảnh chung của xã hội cũng là một
trong những ảnh hưởng tới cuộc đời bà tới nhiều éo le ngang trái và sống một
cuộc đời không toại nguyện.
Văn học:
- Đây được xem là giai đoạn hoàng kim của văn học trung đại Việt Nam
Văn học phản ánh sức mạnh khơi quật của con người của thời đại, dân tộc, phơi
bày mặt trái của xã hội.
- Tất cả các thể loại văn học thời kì này đều được phát triển đến đỉnh cao:

3
+ Văn học chữ hán vẫn phát triển.
+ Văn học chữ nôm được xem là thời kì nở rộ, thành tựu. Trong đó Thơ Nôm
Đường luật có thi tập của Hồ Xuân Hương
- Giai đoạn này được xem là một trong 2 giai đoạn có nhiều thành tựu nghệ
thuật đặc sắc nhất.
=> Phản ánh những sự kiện lớn lao của đất nước và động chạm đến những vấn
đề sâu sắc nhất của thân phận con người
=> Văn học thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX là nền tảng động lực cho sự phát
triển tiếp theo của văn học dân tộc.
III. Con người (Hà Trang)
* Những chặng đường đời:
- Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc.
Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém
bất cứ một nhà thơ nào.
- Nhiều ý kiến truyền thống cho rằng Hồ Xuân Hương có khả năng là người xã
Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tương truyền Hồ Phi Diễn ( sinh
năm 1704 ) là thân phụ của nữ sĩ. Họ Hồ vốn là dòng họ lớn, từng có nhiều
người đỗ đạt, làm quan nhưng đến Hồ Phi Diễn thì sa sút. Nhà nghèo không có
tiền học thêm, Hồ Phi Diễn phải ra Bắc dạy học kiếm sống. Ông lấy cô gái Bắc
Ninh, họ Hà làm vợ lẽ, sinh ra Hồ Xuân Hương.
- Con đường tình duyên của Hồ Xuân Hương có nhiều éo le, bất hạnh. Tuổi
thành niên, Hồ Xuân Hương gặp người bạn trai – bạn thơ tri âm là Chiêu Hồ
nhưng rất tiếc họ không đi tới cuộc tình trọn vẹn. Hồ Xuân Hương hai lần mang
thân đi làm lẽ song cả hai lần đều góa bụa.
- Cuộc đời Hồ Xuân Hương gắn bó sâu sắc với mảnh đất Thăng Long. Thuở
nhỏ, nữ sĩ ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận gần Hồ Tây. Tại đây Hồ
Xuân Hương được mẹ cho học hành. Sau đó gia đình rời về thôn Tiên Thị, tổng
Tiên Túc, huyện Thọ Xuân (nay là phố Lý Quốc Sư, Hà Nội). Hồ Xuân Hương
có một ngôi nhà riêng bên Hồ Tây lấy tên là Cổ Nguyệt đường.
- Hồ Xuân Hương là một ngữ lưu khá đặc biệt thời bấy giờ. Bà đi nhiều nơi,
từng đặt chân đến nhiều miền quê của đất nước: từ Thăng Long sang Hà Tây

4
thăm động Hương Tích, chùa Thầy, xuôi Bắc Ninh về Đèo Ba Dội ở Ninh Bình,
khi vào Nghệ An quê cha, khi ra Bắc Ninh quê mẹ, lúc ngược lên vùng Đông
Bắc Yên Quảng… Có thể nói, đây là một hiện tượng hiếm thấy trong xã hội
phong kiến.
- Hồ Xuân Hương từng giao du với nhiều văn nhân thời bấy giờ. Trong số đó có
thể có cả Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu, tức Nguyễn Du. Tất cả những điều này
đều góp phần tạo nên một Hồ Xuân Hương hết sức độc đáo.
- Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời
phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
* Đặc điểm con người:
- Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối
với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ
một nhà thơ nào.
- Con người bà phóng túng, tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, sắc sảo.
- Hồ Xuân Hương từng giao du với nhiều văn nhân thời bấy giờ. Trong số đó có
thể có cả Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu, tức Nguyễn Du. Tất cả những điều này
đều góp phần tạo nên một Hồ Xuân Hương hết sức độc đáo.
- Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời
phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.

B. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC


I. Tác phẩm (Tố Uyên)
Những tác phẩm của bà đã đóng góp rất nhiều trong việc Việt hóa thể thơ
Đường luật cũng như là thể hiện những tư tưởng tiến bộ vượt khỏi khuôn khổ
thời đại bấy giờ.
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những
bài thơ chữ Nôm truyền miệng. Hồ Xuân Hương có tập “Lưu Hương ký” nổi
tiếng với nhiều bài thơ khác được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán.
1. Thơ Nôm truyền tụng
1.1. Thơ viết về người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh:
- Bánh trôi nước
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi, ba chìm với nước non”
- Tự tình II

5
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
- Kiếp chồng chung
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng”
1.2. Thơ viết về người phụ nữ với nỗi đau trong đường tình duyên:
- Không chồng mà chửa
“Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng…
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có mới ngoan”
- Dỗ người đàn bà khóc chồng
“Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông”

1.3. Thơ viết về người phụ nữ phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống
trị.

- Vịnh cái quạt


“Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu yêu vua một cái này”
- Vô âm nữ
“Đố ai biết đó vông hay chốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu”

1.4. Thơ viết về vẻ đẹp con người.

* Vẻ đẹp hình thức:

“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình


Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,

6
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh,
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình”
* Vẻ đẹp tâm hồn:
“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.”
*Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ:
“Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài”
2. Lưu Hương kí
Tập thơ “Lưu Hương kí” tập thơ đặc biệt, tập thơ làm nên tên tuổi của nữ sĩ,
gồm 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài thơ Nôm.
- Về mặt nội dung: “Lưu Hương kí” là một tập thơ tình yêu của một con người
với các cung bậc buồn thương nhớ, ước nguyện gắn bó thủy chung. Tiếng nói
tình yêu trong “Lưu Hương kí” có lúc là lời tự thoại, có khi là lời dối thoại qua
hình thức xướng hóa, có lúc thật sâu lắng, dịu dàng song nhiều khi lại công khai
táo bạo.
- Về mặt nghê thuật: dù là hình thức Đường luật hay thể cách có phần tự do thì
những bài thơ trong “Lưu Hương kí” đều có nét chung là mực thước, tao nhã.
“Lưu Hương kí” bàng bạc như nhiều áng thơ cổ, không thể hiện rõ cá tính của
Hồ Xuân Hương.
3. Xuân Hương thị tập
“Xuân Hương thị tập” cũng là một tập thơ khá nổi tiếng. Tập thơ gồm 40 bài, số
lượng bài tuy không nhiều nhưng nội dung của tập thơ khá phong phú. Mỗi vần
thơ có thể nói là một phần tâm hồn, con người của tác giả. Nội dung thơ Xuân
Hương tuy không phải là tiếng nói đại diện của cả một giai đoạn nhưng cũng đã
chứa đựng được những giá trị tư tưởng sâu sắc.
4. Đánh giá về tác phẩm thơ của Hồ Xuân Hương
- Trong sách tổng tập Văn học Việt Nam nhận định: “Thơ Hồ Xuân Hương
thường bộc lộ tài năng và trí tuệ của người phụ nữ trước những cơn sóng gió của
cuộc đời và thời cuộc, lớn tiếng đòi hỏi giải phóng phụ nữ thoát khỏi những ràng
buộc khắc khe phi lí của giáo điều phong kiến lạc hậu, bảo thủ; nói lên khát
vọng được sống, được bình đẳng, mang ý nghĩa phản kháng mạnh mẽ. Tiếp
nhận và phát huy những tinh hoa của dòng văn học dân gian, lời thơ của Hồ
Xuân Hương nhiều khi như lưỡi dao sắc nhọn đã xé toạc bộ mặt giả đạo đức của
nhiều kẻ tự mạo nhận là “quân tử”, “anh hùng”, góp phần hạ bệ nhiều thần
tượng chỉ có hư danh trong xã hội phong kiến”.

7
- Trong sách “Văn học trung đại Việt Nam” của Lê Trí Viễn có viết: “Thơ Hồ
Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ thể hiện bản lĩnh sống mạnh
mẽ khác thường”.
=> Có thể nói, mối liên hệ giữa cuộc đời và thơ ca của Hồ Xuân Hương chính là
sự tương hỗ, hữu cơ, bao gồm và phản ảnh lẫn nhau. Trong thơ ta thấy cuộc đời
thân phận và số phận bi kịch của nữ thi sĩ. Cũng từ những đớn đau ghì chặt
trong cuộc sống, thơ ca của Hồ thi sĩ mới đạt đến đỉnh cao của cung bậc cảm
xúc, đau buồn nhưng cũng không bi lụy. Như vậy, có thể thấy, sự phản ánh qua
lại của thơ ca và cuộc đời của nữ sĩ họ Hồ đã phần nào phản ánh một vài khía
cạnh con người ấy. Đây cũng chính là phương diện tiếp cận con người và tiếp
nhận thơ ca Hồ Xuân Hương. Từng câu chữ dòng thơ ta đều nhận ra những tư
tưởng và suy tư của phận người phụ nữ, tiếng nói sâu thẳm trong tâm tư nhà thơ.

II. Các khuynh hướng tiếp cận thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương
(Thanh Vi, Huyền Trang)
1. Trước cách mạng Tháng Tám
- Tiếp nhận theo hai khuynh hướng cơ bản: khuynh hướng phản đối, chỉ trích;
khuynh hướng tán tụng.
+ Khuynh hướng phản đối, chỉ trích
• Nguyễn Văn Hanh dựa vào tiểu sử của nhà thơ là một người phụ nữ khỏe
mạnh, nhưng xấu gái, lấy chồng rồi bị góa,…Đó là những yếu tố gây ấm ức tình
dục, và cho rằng Hồ Xuân Hương làm thơ để giải tỏa mong tìm lại được sự cân
bằng tâm sinh lý.
=> Nhà phê bình này đã quen với những lễ nghĩa của xã hội mình- xã hội phong
kiến nên khi bắt gặp những vần thơ của Hồ Xuân Hương đã nhận một cú sốc về
mặt tinh thần và vì thế mà không hề thương tiếc khi nhận xét về thơ Xuân
Hương, ném cho bà cái nhìn ác cảm
+ Khuynh hướng tán tụng
• Tiêu biểu cho khuynh hướng này là Hoa Bằng, Hoàng Thúc Tâm, Lê Dư, Tản
Đà
• Lê Dư trong “Nữ Lưu Văn Học Sử” cho rằng: “Thơ nàng xưa nay ai cũng kêu
là có ý thô tục, nhưng xét kỹ tục mà thanh, dù nàng không có cái vẻ đứng đắn,
cái giọng đa sầu đa cảm như bà Huyện Thanh Quan, nhưng lắm bài có tình”.
• Đứng ở góc độ ngôn ngữ, Dương Quảng Hàm trong “ Việt Nam văn học sử
yếu” nhận xét: “Bà là một nữ sĩ có thiên tài và giàu về tình cảm, nhưng số phận
hẩm hiu, thân thể long đong nên trong tập thơ của bà có ý lẳng lơ hoặc giọng
mỉa mai nhưng bài nào cũng chứa chan tình tứ, tả cảnh, tả tình giọng chữ hiệp

8
vần rất khéo, thật là một nhà viết thơ Nôm thuần túy, thoát hẳn ảnh hưởng của
thơ văn chữ Hán”.
=> Các nhà phê bình ở giai đoạn này chủ yếu xem xét, đánh giá thơ Xuân
Hương ở bình diện ngôn ngữ, nhận ra vẻ đẹp trong ngôn từ thơ Hồ Xuân Hương,
tạo ra một phong cách riêng không giống ai
2. Sau Cách Mạng Tháng Tám đến năm 1975
- Giai đoạn này các nhà nghiên cứu, phê bình đã thống nhất với nhau những vấn
đề cơ bản: Xuân Hương là một nhà thơ có tinh thần nhân đạo, tác phẩm của
HXH có ý nghĩa phê phán xã hội phong kiến, nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ
HXH đạt tới một trình độ điêu luyện và có tinh thần dân tộc sâu sắc. Tuy nhiên
vẫn còn một số vấn đề còn mâu thuẫn khi nghiên cứ thơ HXH là: thơ bà có dâm
và có tục hay không?
- Thơ HXH “dâm” và “tục”
+ Nhà nghiên cứu Thanh Lãng đã gọi “HXH là nhà thơ sỗ sàng”. Ông cho rằng:
“Từ ngàn xưa người ta sùng thượng Khổng Mạnh mà cái cốt của nó là đoan
trang, kín đáo, thế mà HXH đã chẳng đoan trang kín đáo chút nào. Những tập
tục, những đức tính của người con gái nàng đã coi khinh hết. Đó là tất cả những
cái đã thúc nàng tìm đến một nhân sinh quan cực kỳ lãng mạn: Sống đối với
nàng chỉ để thỏa mãn nhục dục”.
=> Như vậy trong mắt Thanh Lãng, thơ HXH không có cái đoan trang kín đáo,
mà chỉ để thỏa mãn nhục dục. Tuy nhiên khi tiếp cận về mặt nghệ thuật, ông chỉ
ra “XH là một nhà văn hoàn toàn Việt Nam, một nhà văn tả cảnh, một thi sĩ
châm biếm, thi sĩ tự nhiên. Nhưng cuối cùng ông lại đưa ra kết luận: Ngày trước
thơ XH không được lưu tâm vì các cụ trọng lễ nghi, còn ngày nay khi những đòi
hỏi lễ nghi không còn qua nghiêm như xưa thì thơ nàng có địa vị. Nhưng về mặt
luân lý thì dù ở thời đại nào thơ nàng cũng bị liệt vào loại lẳng lơ.
=> Nhìn chung các nhà phê bình đánh giá và tiếp nhận thơ HXH theo cảm nhận
chủ quan của mình
- Thơ HXH “thanh” và “nhã”
+ Đứng trên quan điểm xã hội học, Nguyễn Đức Bính cho rằng “Thơ HXH có
giá trị vì thể hiện khát vọng sống tự nhiên của nông dân lao động. Dâm tục là vũ
khí đấu tranh chống lại tư tưởng phong kiến thống trị”
+ Xuân Diệu thì rất coi trọng thơ văn HXH, và gọi bà là “Bà chúa thơ nôm”.
Xuân Diệu đánh giá thơ bà bằng một cái nhìn trong trẻo, hồn nhiên và khẳng
định: “Thơ HXH là thứ thơ không chịu ở trong khuôn khổ thông thường, một
thứ thơ muốn lặn thật sâu vào sự vật, vào những đáy rất kín thẳm của tâm tư.
Những đáy kín thẳm ấy không phải lạc long, cô đơn, cá nhân chủ nghĩa mà trái
lại được hàng vạn vạn người đồng tình, thông cảm”.

9
=> Có cái nhìn thấu đáo, toàn diện hơn để tìm ra được cái hay, cái đẹp đích thực
trong thơ của HXH
3. Từ Năm 1975 đến nay
Thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá
- Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học độc đáo và
đặc biệt trong văn học Việt Nam trung đại nói riêng và lịch sử văn học nói
chung. Cùng với thời gian, trai qua bao thăng trầm biến thiên của lịch sử những
thi phẩm, những "câu thơ sắc cạnh”, những bài thơ đặc sắc của bà vẫn còn
nguyên giá trị. Phong cách thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hơng dưới góc độ
văn hóa dân gian không còn là hướng tiếp cận. Là nhà thơ nữ, Xuân Hương nói
lên tiếng nói ca ngợi và bênh vực cho phái mình. Bên cạnh đó, bà còn là nhà thơ
trào phúng, đả kích, bà không ngần ngại xé toạc hết các bộ mặt giả dối, lột trần
hết lớp áo đạo đức cao ngạo của giai cấp thống trị đương thời để chúng lộ
nguyên hình là một lũ bịp bợm, dối đời, dốt nát. Là nhà thơ trữ tình yêu đời, bà
mang đến cho thiên nhiên, con người chất nhựa sống ngồn ngộn của mùa
xuân… Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng cười tục nhã, cái cười ấy như có trong văn
học dân gian ta ngày xưa, những câu tục ngữ, ca dao, trào phúng của bình dân
Việt Nam. Phải chăng Xuân Hương đã tiếp thu bề dày văn hóa ngàn năm đó để
tạo cho mình một phong cách riêng độc đáo với những mảng đề tài táo bạo, gây
sửng sốt với người đọc, cũng khiến cho thơ bà trở nên gần gũi và dễ đi vào đời
sống lao động của nhân dân.
- Sự ảnh hưởng của văn hoá dân gian đến thơ Nôm Hồ Xuân Hương chủ yếu
phần thơ Nôm truyền tụng vì nó gần gũi với tính chất truyền miệng của sáng tác
dân gian. Sáng tác của Hồ Xuân Hương còn lại đến nay gồm trong hai nguồn.
Thứ nhất là nguồn do truyền tụng từ sinh thời tác giả còn lại đến nay khoảng
trên dới 60 bài thơ Nôm (Với trên 100 dị bản). Thứ hai là nguồn còn lại trong th
tịch cũ đọc Trần Thanh Mại phát hiện và công bố từ những năm 60 của thế kỷ
XX- tập thơ Lưu Hương Ký. Phần sáng tác đọc truyền tụng của Hồ Xuân Hương
đều do người đời sau ghi chép không một tài liệu nào có thể tin cậy hoàn toàn.
Tài liệu ghi chép sớm nhất hiện còn là tập “Xuân Hương thi tập” bằng chữ quốc
ngữ của Xuân Lan in năm 1913. Nhng bản chữ Nôm sớm nhất là văn bản chép
tay của Antony Landes thuê chép ở Hà Nội năm 1893 gồm 77 bài thơ. Ngoài ra
còn có các bản của Đông châu Nguyễn Hữu Tiến trong “Giai nhân di mặc" Hà
Nội – 1917, của Trần Trung Viên trong “Văn đàn bảo giảm" Hà Nội 1926-
1932.
=> Hồ Xuân Hương đã tiếp thu những giá trị đó chuyển thể thành những áng thơ
Nôm Đường luật đề tài lấy từ nguồn văn hoá, văn học dân gian có thể quy về
các loại như thơ vịnh vật, vịnh cảnh, thơ tả người. Đọc thơ Nôm Hồ Xuân
Hương ta thấy nổi lên yếu tố văn hoá đó là “tín ngưỡng phồn thực”.

10
Tín ngưỡng phồn thực
- Không thể phủ nhận một sự thật là thơ Hồ Xuân Hương nói nhiều đến cái
“tục”. Nhưng, phải chăng nên hiểu như Đỗ Lai Thuý rằng: “Cái tục trong thơ
ấy, trong người ấy là viên đá thử vàng, là kính chiếu yêu, là gương giếng làm
hiện hình chân diện của mọi học giả đến soi vào.” Mặt khác, nếu tìm đến ngọn
nguồn của vấn đề trong mối quan hệ của nó với văn hoá dân gian Việt Nam thì
sẽ nhận ra được sự ảnh hưởng không nhỏ của tín ngưỡng phồn thực đối với thơ
Xuân Hương. Đỗ Lai Thúy gọi Hồ Xuân Hương là “người phát ngôn phồn
thực”, bởi bà sử dụng toàn bộ ngôn ngữ thơ của mình để biểu hiện các sinh thực
khí và hoạt động tính giao.
- Cũng cần nói thêm rằng những sinh thực khí và hoạt động tính giao này đã
được thiêng liêng hóa bằng ngôn ngữ thơ. Đây là điều táo bạo không chỉ ở thời
đại của bà, ngay cả thời hiện đại đây cũng là điều ít ai dám làm. Đó là một điều
cấm kị trong xã hội. Nguyên nhân lý giải cho lối viết thơ này của Hồ Xuân
Hương là bởi đây là một thời kỳ rất nhiều xáo trộn của xã hội Việt Nam, tất cả
những giá trị khuôn thước cũ đến ngày nay đã bị đặt ngược lại.
+ Thứ nhất, Nho giáo đã suy tàn, tất cả những khuôn mẫu Nho giáo được xây
dựng dưới thời Lê Thánh Tông thì đến cuối thời Lê đều đã sụp đổ.
+Thứ hai, sự lên ngôi của Lão giáo và Phật giáo, không phải là sự hòa trộn cùng
tín ngưỡng dân gian như thời Lý Trần, mà bắt đầu xuất hiện những sự lố bịch.
Thứ ba, có rất nhiều đền thờ dâm thần được mở ra ở Hà Nội, nổi tiếng nhất là
đền thờ bà Banh, hay còn gọi là bà Đanh.
- Cũng trong giai đoạn này xuất hiện nhiều truyện tiếu lâm lấy bộ phận sinh dục
ra làm trò đùa, chẳng hạn truyện Trạng Quỳnh hay Ba Giai Tú Xuất đều xuất
hiện ở thời kỳ này. Thứ tư là sự phát triển thịnh hành của những trò đối tục
giảng thanh hay đối thanh giảng tục, chẳng hạn:
“Khi xưa em trắng như ngà
Bởi chàng ngủ lắm nên đà em thâm
Khi bẩn chàng đánh chàng đâm
Đến khi sạch sẽ chàng nằm lên trên”
(Chỉ cái chiếu)
- Thơ ca Hồ Xuân Hương có sự xuất hiện dày đặc của các biểu tượng thơ thuộc
hệ tín ngưỡng phồn thực. Bàn về biểu tượng và việc giải mã biểu tượng thơ Hồ
Xuân Hương trong cuốn sách Hồ Xuân Hương – Hoài niệm phồn thực, ông Đỗ
Lai Thúy đã sử dụng một khái niệm mở rộng, theo đó “biểu tượng” là một danh
từ, một tên gọi, một đồ vật, tuy đã quen thuộc với ta hàng ngày, nhưng gợi thêm
ý nghĩa bổ sung và những ý nghĩa ước định hiển nhiên và trực tiếp của nó. Biểu
tượng thơ của Hồ Xuân Hương thuộc dạng văn hóa tôn giáo và chứa nhiều

11
những nguyên mẫu cổ. Nguyên mẫu cổ ở đây chính là Linga – Yoni và hoạt
động tính giao. Biểu tượng là một điểm độc đáo tạo nên những cách thức thể
hiện lạ lùng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
- Có thể nói, biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương rất đặc biệt - biểu tượng tạo
nên ý nghĩa thứ hai của tác phẩm. Những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương
được xây dựng từ thế giới cảm giác đậm chất dân gian và cực kỳ phong phú:
Quả mít, bánh trôi nước, con ốc nhồi, cái quạt, đánh đu, đèo Ba Dội, hang Cắc
Cớ, Thiếu ngữ ngủ ngày, tranh tố nữ ... Đó là những biểu tượng văn hoá dân
gian, văn hoá tôn giáo đã ăn sâu vào tâm khảm tiềm thức của dân tộc Việt Nam
từ bao đời. Từ những biểu tượng ấy, qua tư duy thơ Hồ Xuân Hương được biến
hoá thần kỳ lấp lánh nhiều tầng nghĩa, đem đến nhiều cánh lý giải khác nhau.
“Đánh đu” là một trò chơi không thể thiếu được trong những ngày Tết hoặc lễ
hội cổ truyền ở nước ta. Xuân Hương miêu tả:
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh hồng quần bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Bài thơ “Đánh đu đầy” những chuyển động của con người cùng với việc sử
dụng từ ngữ như từ “trồng”, theo cách phát âm của người Bắc bộ, “trồng” được
đọc như “chồng”, có nghĩa là xếp lên nhau, chồng lên nhau; rồi “uốn lưng”,
“ngửa lòng”, “chân duỗi song song”... Những cụm từ láy như “khom khom cật”,
“ngửa ngửa lòng” cũng rất nhiều tính gợi tưởng đến chuyện sinh hoạt tình dục.
Ở đây rõ ràng có biểu hiện của việc đối thanh giảng tục hay đối tục giảng thanh.
Nhưng những hình ảnh ấy không hề dâm tục. Quay về thời cổ sơ, giữa tục và
thiêng vốn chưa hề có sự phân định. Thường đánh đu là hoạt động trong lễ hội.
Trong lễ hội, người nam và người nữ có thể được phép vi phạm các cấm kị.
Bằng việc miêu tả cảnh đánh đu, bà đã mang cả lễ hội vào thơ cả của mình với
cả những sinh thực khí với tính chất phồn thực. Bằng bài thơ và lễ hội, bà gắn
kết cái thiêng với cái tục với nhau như văn hóa cổ xưa. Nhưng biểu tượng ấy
đều có hai mặt lấp lửng thanh và tục, nghĩa ngầm và nghĩa phô, nghĩa đen và
nghĩa bóng.
- Với những cách thể hiện biểu tượng trong thơ như thế, hình tượng nghệ thuật
trong thơ Nôm của bà không chỉ đơn thuần là tả cảnh, ca ngợi vẻ đẹp của tự
nhiên mà qua đó ta còn cảm nhận được những tâm tình, những nỗi niềm của con
người.

12
- Ngoài ra, thơ Hồ Xuân Hương còn có dạng biểu tượng gợi dục, miêu tả thân
thể một cách ý vị bay bổng.
“Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm”
“Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”
Trong quá trình sử dụng biểu tượng của mình, Hồ Xuân Hương thường sử dụng
cách lấp lửng hai mặt, cách nói thường thấy trong các bài đối tục giảng thanh
đương thời. Thơ Hồ Xuân Hương đầy ám ảnh bởi những biểu tượng hang động:
Động Hương Tích, Đèo Ba Dội, Qua Cửa Đó…Đây là bài thơ hang Cắc Cớ:
Trời đất sinh ra một cái chòm,
Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom.
Kẻ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khéo ai đẽo đá tài xuyên tạc,
Khéo hớ hanh ra lắm kẻ dòm!
Bài thơ tả cảnh một cái hang – hang Cắc Cớ, rất thực đúng. Nhưng việc sử dụng
một số từ có dụng ý như nứt làm đôi mảnh, kẽ hầm rêu mốc, giọt nước hữu tình,
con đường vô ngạn, hớ hanh, đẽo đá, xuyên (tạc) và tử vận om (chòm, phòm,
lõm bõm, om dòm) kề cận nhau trong một văn bản nên đã dậy nên một nghĩa
khác, nghĩa ngầm sinh thực khí nữ. Cả hai nghĩa này đều rất đúng và không thể
tách khỏi nhau được.
Hoặc hình ảnh “Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, sừng biểu tượng cho sinh khí
nam còn làm người ta liên tưởng đến mặt trăng, một biểu tượng khác của sự sinh
sôi nảy nở, của tính dục. Sừng còn biểu tượng cho sự sung túc, những tù trưởng
dân tộc miền núi thường cắm sừng lên mũ hoặc dùng làm biểu tượng treo trong
nhà để thể hiện quyền uy của nam giới. Những triết lý phồn thực trong thơ Hồ
Xuân Hương thường gắn liền với những triết lý tự nhiên, tức là dựa trên những
biểu hiện của tự nhiên để suy ra những quan điểm tư tưởng của mình.
Nhiều bài thơ của Hồ Xuân Hương phô bày ra những người phụ nữ rất đẹp,
nhưng không lồ lộ sỗ sàng mà có vẻ khép nép trễ nải hớ hênh tự nhiên hấp dẫn.
Nổi tiếng nhất là bài Thiếu nữ ngủ ngày:
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm.
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông

13
Một cô gái nằm nghỉ ngủ quên, để lộ vẻ đẹp đặc trưng. “Lược trúc biếng cài”,
“yếm đào trễ xuống”, vẻ đẹp không phải ở sự phô bày chủ ý, mà là một hoàn
cảnh không ý thức, rất tự nhiên. Vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ luôn được
Hồ Xuân Hương miêu tả nửa kín nửa hở, mà phần hở ra thường chỉ là phút lơ là
không chú ý, vì vậy mà rất duyên dáng, không hề lõa lồ.
Ở bài thơ Đá ông chồng bà chồng, bà đã tạo một loạt những đối lập âm dương,
“phơ đầu bạc” – “gợn má hồng”… dày đặc biểu tượng cho hoạt động tính giao.
Khéo khéo bày trò tạo hoá công,
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng.
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,
Khối tình cọ mãi với non sông.
Đá kia còn biết xuân già giặn,
Chả trách người ta lúc trẻ trung.
Trong đó, câu “Khối tình cọ mãi với non sông” biểu hiện rõ hoạt động tính giao,
nhưng không chỉ thế, còn nói đến sự mài mòn của thời gian. Từ “cọ” dùng rất
đắt giá. Đây cũng là câu được Đỗ Lai Thúy dùng mở đầu quyển sách Hồ Xuân
Hương – Hoài niệm phồn thực. Nhìn những khối đá hướng ra biển, bà không
khai triển những mạch tang thương có sẵn trong các tích chuyện kể về đá chờ
chồng, mà thổi một hồn mới, một đời sống mới vào đá núi với cảm hứng phồn
thực.
- Để xây dựng hình ảnh – biểu tượng đầy những bất ngờ thú vị như vậy, Hồ
Xuân Hương đã dựa vào tư duy liên tưởng. Chính sự liên tưởng thâm trầm đó,
một mặt làm cho các biểu tượng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương sinh sôi
nảy nở vô cùng phong phú, đa dạng, mặt khác làm cho các biểu tượng đó đều có
tính lấp lững, hai nghĩa, lưỡng trị một đặc sắc thơ Hồ Xuân Hương. Ví dụ bài
thơ Dệt cửi:
Thắp ngọn đèn thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu,
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kĩ,
Chờ đến ba thu mới dãi màu.

14
Bài thơ rõ ràng là có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, nghĩa do nhan đề bài thơ mách
bảo là tả người dệt cửi, từ khung cảnh ban đêm, màu trắng của sợi, các bộ phận
của khung cửi như: con cò, suốt, khuôn khỗ… đến các tác động của người và
công cụ lao động “Hai chân đạp xuống năng năng nhắc/ Một suốt đâm ngang
thích thích mau.” đều được miêu tả chính xác. Điều kì lạ là việc miêu tả công
việc dệt cửi chính xác bao nhiêu thì càng nổi lên nghĩa chìm bấy nhiêu: đó là
hành động tính giao, cái nghĩa thứ hai này cũng được miêu tả rất chính xác. Như
vậy, mỗi một từ, một câu trong bài thơ của Hồ Xuân Hương đều ánh lên hai
nghĩa: nghĩa phô và nghĩa ngầm (Xuân Diệu), nghĩa thanh và nghĩa tục. Điều
đặc biệt là hai nghĩa này xoắn luyến vào nhau không thể tách ra được
- Hồ Xuân Hương cũng tỏ rõ sự khinh ghét với sự vô sinh nhân tạo. Hai loại
người bên ngoài tỏ ra rất cao đạo, thoát dục, nhưng bên trong thì lại ứ đầy ẩn ức
dục, đó là các nhà sư và các bậc “quân tử”. Ngay trong bài Thiếu nữ ngủ ngày,
hình ảnh quân tử cũng được nhắc tới đầy ý châm biếm của nữ thi sĩ. Với các vị
sư, bà coi rằng việc tu hành diệt dục là phản tự nhiên, và bên ngoài họ có thể tỏ
ra cao đạo, nhưng có thể làm nhiều điều lén lút sau lưng:
“Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ
Giọng hì giọng hỉ giọng hi ha”
- Nghệ thuật lái trong mảng thơ Nôm của bà, chắc cũng là hiện tượng vô cùng
đặc sắc: suông không đấm, đếm lại đeo, đáo nơi neo, lộn lèo, lo cũ, đá đeo, nắng
cực trái gió, đứng tréo, đẽo đá... Nói lái thường thấy trong văn học dân gian, văn
học viết có nhưng không nhiều. Ở đây, Xuân Hương đã khai thác vốn ngôn ngữ
nôm na bình dân để chơi chữ, nói lái. Có lẽ Xuân Hương là một trong số rất ít
những nữ sĩ của văn học trung đại Việt Nam sử dụng thủ pháp nghệ thuật này,
hơn thế bà dùng khá mạnh tay. Bà tạo ra những câu từ mà độc giả nào vô tình sẽ
bị “sập bẫy” bà “gài” ngay. “Chùa Quán Sứ” được Xuân Hương tái hiện với lời
hỏi thăm ông sư trụ trì “đáo nơi neo”, để chú tiểu quên cả gõ chày Kình, bà vãi
thì ngồi lần tràng hạt hết “đếm lại đeo”. Cụm từ “đáo nơi neo”, “suông không
đấm”, cũng như “đếm lại đeo”... hiểu theo nghĩa thứ hai của nó thì đây cũng
chính là chuyện của ông sư, bà vãi, chú tiểu với nhau như người bình dân vẫn
nói nôm na “ông sư bà vãi cuộn tròn lấy nhau”.
- Từ sự nhận thức được cái " quyền tự nhiên ", nhà thơ đi đến chỗ đòi quyền
sống theo tự nhiên. Trước hết ở người phụ nữ, người vốn giàu thiên nhiên trong
bản tính hơn nhưng lại bị xã hội trà đạp nhiều hơn. Từ quyền được có hạnh
phúc, hạnh phúc chồng vợ đến quyền được bình đẳng với đàn ông (Ví đây đổi
phán làm trai được, Lại dây cho chị dạy làm thơ ...). Triết lý tự nhiên trong thơ

15
Hồ Xuân Hương kết hợp được những yếu tố của văn hóa cổ đại, dân gian lẫn
yếu tố, bác học, duy lý của thời đại.
=> Nhìn nhận và đánh giá thơ Hồ Xuân Hương nói chung, từ góc nhìn văn hoá
nói riêng, đem đến cho chúng ta một cái nhìn phóng khoáng mới mẻ tìm ra cái
bản chất, cái hay đặc sắc trong thơ Hồ Xuân Hương- Bà chúa thơ Nôm.
Thơ vịnh vật
- Thơ vịnh vật xuất hiện tương đối nhiều trong văn học trung đại. “Thơ vịnh vật”
bắt đầu từ những bài thơ chiết tự đời Lý. Hầu hết các tác giả nổi tiếng từ thời
trung đại có làm lối thơ này, từ Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đến Nguyễn Du Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Ở thơ vịnh vật, cái tài
của nhà thơ biểu lộ ở chỗ cứ viết về vật mà nhận thức thẩm mĩ lại hướng về con
người. Trong thơ vinh vật hình tựơng ẩn dụ xuyên suốt toàn bài. Để làm một bài
thơ vịnh vật có sức biểu hiện thẩm mĩ thật không hề đơn giản.
- Những bài thơ vịnh vật của Hồ Xuân Hương như Vịnh quạt I, II, Bánh trôi
nước, Giếng nước, Con ốc nhồi, Đá ông chồng bà chồng…bắt nguồn từ những
vật nhỏ bé tầm thường trong đời sống hàng ngày nhưng nhà thơ đã “kí thác”
nhiều nội dung khác nhau trong đó. Chẳng hạn, Hồ Xuân Hương vịnh cái quạt
nhưng gợi sự liên tưởng đến “sinh thực khứ” của người phụ nữ một biểu tượng
của tín ngưỡng phồn thực- văn hóa phồn thực của người Việt.
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dán tự bao giờ,
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
(Vịnh cái quạt I)
Với người Việt xưa, chiếc quạt giấy là một trong số ít những vật bất li thân,
“chiếc quạt là để quạt cho mát, nó còn để che đầu khi nắng, che mặt khi ngủ; nó
là một kí hiệu, một “đạo cụ” để thể hiện tình cảm, tư tưởng trên sân khấu cuộc
đời và trong cuộc đời sân khấu”. Cái quạt trở nên thân thuộc với con ngời là như
vậy. Trong ca dao có nhiều bài nói về chiếc quạt hết sức tình tứ:
Quạt em mười tám cái xương
Mượn thợ phát giấy mà nương lấy màu
Nắng thì em lấy che đầu
Khi bức em quạt, đi đâu em cầm
16
Ra đường gặp bạn tri âm
Quạt che lấy miệng lầm rầm nhỏ to
Cái quạt “trong con mắt Hồ Xuân Hương hiện lên thật mới mẻ, đầy ấn tợng bất
ngờ”. Cái quạt vẫn hiện nguyên là cái quạt nhưng đằng sau đó là hình tượng ám
chỉ biểu tượng “sinh thực khí nữ và “biểu tượng người con gái đầy xuân sắc
“mười bảy hay là mười tám đây, một người con gái vì tự nhiên, thiên nhiên, vì
tuổi trẻ “hồng hồng má phấn duyên vì cây”. Ta bắt gặp trong dân gian những
câu đố rất độc đáo về cái quạt như:
“Chành ra ba góc
Chúm chím vừa ba
Can chi góc dưới thiếu miếng da
- Có thể thấy, Hồ Xuân Hương có một biệt tài trong việc vận dụng tiếng nói dân
gian trong thơ. Đó là việc đưa thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong thơ, làm cho
câu thơ trở nên giàu tính hình tượng, dễ nhớ, và độc đáo hơn. Dùng biểu tượng
ám chỉ “đây là một thủ pháp thông thường của văn học dân gian. Hồ Xuân
Hương vịnh chiếc quạt để ám chỉ “sinh thực khí nữ” nhưng hết sức tự hào:
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
(Vịnh cái quạt I)
Sử dụng hình ảnh “quân tử”, “chúa dấu vua yêu” là để cất lên tiếng thơ tự hào
về cái đẹp vật chất mà tạo hoá đã đặc ân ban phát cho ngời phụ nữ. Cho dù là
hiền nhân quân tử đi chăng nữa thì họ cũng chỉ là con người, mà đã là con người
thì tất có cái ham muốn của con người, chớ có tỏ ra đạo mạo rằng ta đây là quân
tử, ta không có cái ham muốn phàm tục của những kẻ tiểu nhân bởi bà đã nhìn
thấu bản chất của họ rồi. Ngay đến cả vua chúa cũng không ngoại lệ:
Hồng hồng má phần duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này
(Vịnh cái quạt I)
Từ việc mô tả cái quạt nhưng cũng là mô tả một cái gì khác mà ai cũng hiểu và
bóc trần bộ mặt giả dối của vua chúa, hiền nhân với thói dâm dục.
Xuân Hương đã dùng chính cái mà họ yêu thích nhất, cái trần tục nhất đặt lên
đầu, lên mặt họ:
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Rồi còn cất giọng giễu cợt:
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
17
(Vịnh cái quạt II)
Cũng theo cách này, trong bài thơ Giếng nước Hồ Xuân Hương miêu tả những
sự vật tự nhiên và sử dụng làm biểu tượng cho cái bộ phận kín đáo nhất trên
thân thể người phụ nữ:
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tót thanh thơi rất lạ lùng.
Cầu trắng phau phau hai ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lội giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai đã biết,
Đố ai dám thả nạ dòng dòng
(Giếng nước)
Một bài thơ lấy đề tài từ sự vật bình thường để nhà thơ “ký thác” những tâm sự
riêng của mình, của giới mình, đó là bài Bánh trôi nước:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nội ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương và ca dao có sự tương quan với
nhau. Tìm cảm hứng thi ca từ một loại bánh mà nhân dân ta làm để cúng tế trong
lễ hội đền Hùng và lễ hội đền Hát Môn, Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh trôi
nước đã tế nhị ngợi ca những vẻ đẹp văn hóa của ngời phụ nữ Việt Nam. Bên
cạnh đó, Hồ Xuân Hương còn làm người đọc liên tưởng đến sự long đong vất vả
của thân phận người phụ nữ mà ca dao đã phản ánh:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Câu thơ “Bảy nổi ba chìm với nước non” ý của thành ngữ “ba chìm bảy nổi”
(bảy nổi ba chìm) nói lên sự bấp bênh chìm nổi của số phận người phụ nữ xưa.
Nhưng trước những biến đổi của số phận họ vẫn ý thức vươn lên làm chủ tình
cảm, làm chủ nhân cách, họ vẫn giữ trọn được “tấm lòng son”. Bánh trôi nước
hiện lên lung linh vẻ đẹp hình thể, vẻ đẹp nhân cách, vẻ đẹp đạo đức của người
phụ nữ. Từ việc mô tả chiếc bánh trôi nước được dùng làm vật cúng trong lễ hội
mùa xuân. Hồ Xuân Hương đã thực sự có những khám phá sâu sắc những phát
hiện mới mẻ về những vẻ đẹp của ngời phụ nữ. Với bài Bánh trôi nước, tuy đề
tài nhỏ nhưng Hồ Xuân Hương “đã làm nên một bài thơ lớn”.

18
=> Thơ vịnh vật của Hồ Xuân Hương lấy đề tài từ những sự vật bình thường,
quen thuộc trong cuộc sống bình dân như cái quạt, con ốc nhồi, cái giếng, chiếc
bánh trôi nước ... Nhưng dưới sự sáng tạo của nữ sĩ, những sự vật vốn quen
thuộc ấy đã trở thành những biểu tượng hai mặt gợi người đọc sự liên tưởng
phong phú. Hồ Xuân Hương đã có những sáng tạo mới mẻ, nhưng lại “gần gũi
với biểu tượng văn hóa dân gian Việt Nam”.
Thơ vịnh cảnh
- Bên cạnh thơ vịnh vật, mảng đề tài cũng gây ấn tượng sâu sắc trong thơ Hồ
Xuân Hương đó là thơ vịnh cảnh, thể hiện qua một số bài thơ: Đèo Ba Dội, Kẽm
Trống, Vịnh Trăng I, Vịnh Trăng II, Cảnh thu, Đài Khàn Xuân, Chùa Quán Sử,
Quán Khánh ...
- Trong văn học trung đại, thơ vịnh cảnh xuất hiện rất sớm nhiều tác giả nổi
tiếng đều có thơ vịnh cảnh. Tuy nhiên cảnh trong văn chương bác học thường
mang tính chất ứớc lệ, đó là những cảnh ở đất Trung Hoa. Một số ít những bài
thơ vịnh cảnh gắn với quê hong đất nưóc như Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi,
chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, Sông Láp của Trần Tế Xương...các nhà thơ
tả cảnh là để ngụ tình, để nói lên tâm tình của mình.
- Thơ vịnh cảnh Hồ Xuân Hương không lấy đề tài từ văn học Trung Quốc, cũng
không mang tính chất ước lệnh các bài thơ vịnh cảnh của nhiều nhà thơ trước và
cùng thời với bà. Hồ Xuân Hương đã có một mảng thơ phong phú đa dạng viết
về những danh lam thắng cảnh có thực trên đất nước mình. Đó là những thắng
cảnh quen thuộc như Đèo Ba Dội, Kẽm Trống hoặc chỉ là những sự vật tự nhiên
thờng gặp thường ngày như ánh trăng, cảnh thu ... Tất cả trở thành đề tài trong
thơ bà và có thể dệt nên những vần thơ đầy rung cảm. Hồ Xuân Hương “đã
chuyển hướng thi ca về với cuộc đời bình dị hàng ngày của người dân Việt Nam
và đậm chất văn hóa dân gian. Hồ Xuân Hương tả cảnh rất độc đáo. Bằng ngôn
ngữ nôm na bình dị, có giá trị gợi tả hình ảnh cũng như về âm thanh. Xuân
Hương đã vẽ nên trước mắt mọi ngời những bức tranh thật sinh động lạ thường
và thắm tươi chất sống. Đây là cảnh Đèo Ba Dội:
Một đèo một đèo lại một đèo,
Khen ai khéo vẽ cảnh cheo leo.
Cửa son tía ngắt lơ thơ móc,
Đường đá xanh rì lún phún rêu.
Phưởng phất chồi thông cơn gió tốc,
Mịt mờ ngọn cỏ lúc sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo.
(Đèo Ba Dội)
19
Những cảnh tự nhiên đó lại được bà tô điểm bằng những màu sắc rất đậm với
một nét bút tân kỳ:
Cửa son tía ngắt lơ thơ móc,
Đường đá xanh rì lún phún rêu
Hay bằng những đồng nét tạo hình thật ấn tượng:
Hai bên thì núi giữa thì sông
Một mặt, tác giả vẽ nên cảnh Đèo Ba Dội cheo leo, hoang sơ nhưng rất sống
động. Mặt khác, nữ sĩ lại khiến chúng ta liên tưởng ngay tới một bức tranh khác,
bức tranh cơ thể người phụ nữ. Chính nét nghĩa thứ hai này đã có tác dụng thể
hiện rõ ý phê phán của bà đối với những bậc hiền nhân quân tử đạo mạo kia.
Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rõ cái ý nghĩ đen tối lén lút của họ. Xuân Hương đã cho
chúng ta thấy một bộ mặt giả dối sau lớp áo mũ chỉnh tề của những hiền nhân,
quân tử. Bà đã mát mẻ kính nể họ nhằm chế giễu họ:
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
(Đèo Ba Dội)
Đứng trước cảnh đẹp ấy, liệu có mấy ai không muốn trèo? Cho dù là hiền nhân
quân tử đi chăng nữa thì họ cũng chỉ là con người, mà đã là con người thì tất có
cái ham muốn của con người, chớ có tỏ ra đạo mạo rằng ta đây là quân tử, ta
không có cái ham muốn phàm tục của những kẻ tiểu nhân bởi tác giả đã nhìn
thấu bản chất của họ rồi.
Họ Hồ của bà là chiết tự từ chữ “Cổ Nguyệt” (trăng xưa), và nhà bà ở gần Hồ
Tây cũng được gọi là “Cổ Nguyệt đường”. Bài thơ “Hỏi trăng” như sau:
“Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
Hỏi con Thỏ Ngọc đà bao tuổi?
Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?
Đêm vắng cớ sao phô tuyết trắng?
Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?”
“Phô tuyết trắng” là vẻ đẹp cơ thể, được nói đến trước cả “tấm lòng son”, vẻ đẹp
tinh thần. Bài thơ thể hiện vẻ đẹp thân thể người phụ nữ, đây vốn là điều cấm kị
ít được nhắc tới trong thơ cổ. Các mẫu hình phụ nữ trong thơ xưa thường chỉ
được mô tả ở vẻ đẹp tinh thần, vẻ đep thân thể rất hiếm khi được nhắc tới, hoặc
có nhắc cũng phải dùng các hình ảnh ẩn dụ:
“Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”
20
Chỉ riêng Hồ Xuân Hương là viết một cách trực tiếp và đầy gợi hình về những
đường nét đẹp nhất của người phụ nữ. Đọc những bài thơ tả cảnh của Hồ Xuân
Hương chúng ta không khỏi liên tưởng đến những cái khác ngoài cảnh được
miêu tả. Cụ thể là đằng sau hình tượng không gian vũ trụ thiên nhiên thấp
thoáng hình tượng “không gian buồng khuê” về cái bộ phận kín đáo nhất trên cơ
thể người phụ nữ (sinh thực khí) hiện lên một cách nổi bật hấp dẫn. Hồ Xuân
Hương đã có cái nhìn nghệ thuật đối với những “không gian địa lý phong tục”
không thuần túy là cái nhìn thị giác cái nhìn thuần túy hội họa - mà dường như
nhà thơ đã nhìn đối tượng sự vật bằng tất cả mọi giác quan để chiêm ngưỡng
thưởng thức vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên đất nước. Đồng thời màu sắc của văn
hóa tín ngỡng phồn thực hiện lên đậm nét và đọc nâng lên thành vẻ đẹp tự nhiên.
Đúng như Nguyễn Sĩ Tế khi nghiên cứu thơ phong cảnh của Hồ Xuân Hương đã
nhận xét: “Hơn các nhà thơ son trẻ nào hết cái ân ái của con ngời bà muốn
chuyển dịch sang thiên nhiên ( ... ), cái lối vẽ cảnh lãng mạn son trẻ này đã làm
cho thiên nhiên trong thơ bà trở nên một sinh linh, một ngời đàn bà một con
trẻ ... hồn nhiên”. Trong mảng thơ vịnh cảnh, Hồ Xuân Hương có một số bài
vịnh về cảnh chùa đền. Đó là “không gian tôn giáo”, thế nhưng trong thơ bà nó
không còn là không gian thiêng Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo?
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình, tiểu để xuông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo
(Quán Sứ tự)
- Với quan điểm cho rằng thời Hồ Xuân Hương đã tiếp nhận cách phê phán thần
quyền từ văn hóa dân gian Việt Nam, bắt nguồn từ tình hình lịch sử thế kỷ
XVIII- XIX Phật giáo xuống dốc nhà chùa trở thành nơi hành lạc của vua chúa.
Vì vậy, Hồ Xuân Hương làm thơ kích bác đạo Phật, châm biếm nhà chùa. Trái
với quan điểm trên, đối với giới giới sư sãi, chùa chiền trong bối cảnh xã hội
cuối XVIII đầu XIX đề cập đến vấn đề đã phá chùa chiền trong thơ Hồ Xuân
Hương, Đỗ Lai Thúy trong “Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực” cho rằng:
“Bà đã kích họ là đả kích cải sự trái với sự sống, trái với tự nhiên này, chứ
không phải đã kích đạo Phật, đã kích tôn giáo” nhằm đề cao sức mạnh vật chất
con người, đề cao sức sống của con ngời trước tự nhiên.
Thơ vịnh người

21
- Một mảng đề tài lớn, quan trọng nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là viết về con
người. Con người là đối tượng thẩm mỹ, là hình tượng trung tâm của văn học
nghệ thuật. Viết về con người, Hồ Xuân Hương chủ yếu tập trung vào các đối
tượng như người phụ nữ, những người trí thức như học trò, ông đồ, nhà sư ... với
những thái độ tình cảm khác nhau: cảm thông, bênh vực, ngợi ca hay phê phán
châm biếm. Điều quan trọng hơn, viết về con người, Hồ Xuân Hương chủ yếu
tiếp thu những cách nhìn cách nghĩ từ quần chúng, những người bình dân, từ
truyền thống văn hóa dân gian Việt Nam .
- Trước hết đề tài viết về những trí thức nhà trường (anh đồ, học trò), Hồ Xuân
Hương có chùm thơ 3 bài Trách Chiêu Hổ, hai bài Mắng học trò I, II. Viết về
đối tượng này, Hồ Xuân Hương bộc lộ thái độ phê phán, hài hước. Trong dân
gian, từ xa nhân dân ta luôn bộc lộ thái độ phê phán những kẻ như “thầy đồ dốt",
“thầy dởm”, “lang băm, “thầy bói dởm”, “học trò” dốt hay nói chữ ... Kho tàng
truyền tiếu lâm Việt Nam rất nhiều truyện phê phán đối tượng này, lấy đối tợng
này làm mục đích chế giễu, gây cười. Cái cười trong tiếu lâm là phương tiện để
đấu tranh chống lại cái xấu. Như vậy, phê phán trí thức dởm, thầy đồ dởm, học
trò dốt đã có từ trước, từ trong dân gian. Tiếp nối thái độ phê phán từ văn hóa
dân gian, Hồ Xuân Hương đã thể hiện qua một số bài thơ để chế giễu “bọn này”.
Trong chùm thơ ba bài Trách Chiêu Hổ, hình tượng “anh đồ” bờm xơm, gian
dối, sàm sỡ, nhút nhát đã được Hồ Xuân Hương miêu tả khá chân thực và đả
kích không thương tiếc:
Anh đồ tỉnh anh đồ say.
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!
(Trách chiêu Hổ I)
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe
Nhăn nhe toan những sự gùn ghè
Gùn ghè nhưng vẫn còn cha giám
Cha giám cho nên phải rụt rè
(Trách Chiêu Hổ III)
Cuộc đối thoại bằng thơ giữa Xuân Hương- Chiêu Hổ đã “tiếp nối truyền thống
đối đáp của dân gian qua hát ví, hát giao duyên với truyền thống đối chọi của
các nhà thơ với nhau, của các nhà sứ thần Việt Nam với thiên triều. Trong chùm
thơ hai bài Mắng học trò, hình tượng những kẻ “bạch diện thư sinh” dốt nát
nhưng lại có thói xấu hợm mình, khoe chữ đã bị Hồ Xuân Hương bóc trần và
trào phúng sâu cay.
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
22
Cũng đòi học nói nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói.
Muốn sống đem vôi quét trả đền !
Bên cạnh những hiền nhân quân tử ấy, “bà chúa thơ Nôm” còn lớn tiếng phê
phán đám nho sĩ dốt nát, những cậu ấm con quan suốt ngày huênh hoang, vênh
váo, học không ra gì mà cứ đòi làm thơ, ghẹo gái. Trong con mắt của bà, chúng
chỉ là một lũ ngẩn ngơ, một đám dốt nát lại còn lên mặt. Xuân Hương xưng chị
và mắng chúng một cách không thương tiếc:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa sữa
Dê con buồn sửng húc dậu thưa
(Mãng học trò I)
- Đối tượng mà bà lên án , đả kích sâu cay nhất vẫn là bọn quan thị và sư mõ. Rõ
ràng, trong xã hội phong kiến Việt Nam thời ấy, các sư thầy thật thì ít mà sư hổ
mang thì nhiều. Nhà thơ thấy được tất cả những mặt trái ấy nên bà căm ghét cả
chùa lẫn sư. Nữ sĩ nhìn ra được “sư” ở đây không còn là những người dứt bỏ
hồng trần, tâm thanh tịnh, tu thân mà là những kẻ lòng còn đầy tạp niệm, đội lốt
sư tăng để ăn của dân đến mức béo tròn:
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am
( Hang Thánh Hoá )
Không phải đến Hồ Xuân Hương mới có những bài thơ bộc lộ thái đó khinh ghét
nhà sư , mà trong văn học dân gian đã có những câu chuyện, những câu ca dao
viết về nhà sư với thái độ phê phán. Kho tàng truyện tiếu lâm có những truyện
cười về sư rất hay chẳng hạn như truyện: “ A! Mẹ đẻ ra sư”, “Đậu phụ nhà cắn
đậu phụ chùa” ... Ca dao cũng có nhiều câu chế giễu về sư:
Ba có đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu
(Mã Giang Lân, Tục ngữ, Ca dao Việt Nam, NXB GD, H.1998)
Một thực tế là giai đoạn lịch sử thế XVIII - XIX Phật giáo ở nước ta bị khủng
hoảng nhiều mặt. Chính vì vậy, Hồ Xuân Hương có nhiều bài thơ vịnh về sư, về
cảnh chùa với thái độ phê phán. Có thể nói, đây là cách nhìn của thời đại. Trước
cái cảnh chùa không ra chùa, sư chẳng ra sư đó, Hồ Xuân Hương đã thẳng tay
mà đánh vào bộ mặt giả đạo đức của họ:
23
Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc, áo không tà
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà
(Sư hổ mang)
Bà còn châm biếm sâu cay vào tận bộ mặt hoang dâm của chúng:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo tèo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lẻo
(Sư hoang dâm)
- Ngoài việc khinh ghét và đả kích những kẻ bất lương núp bóng nhà Phật, Xuân
Hương cũng không ngần ngại gì mà tha cho lũ quan thị vì hám chức hám danh
mà vứt bỏ đi “cái xuân tình”, sống trái lẽ tự nhiên. Bà mỉa mai, châm biếm thậm
chí là văng tục, chửi thẳng vào mặt chúng:
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve bét mẹ cái ong bầu
Đổ ai biết được vông hay trốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
(Quan thị)
Bà đả kích nhà sư đi ngược lại quy luật tự nhiên. Bởi lẽ, Hồ Xuân Hương với cái
nhìn phồn thực rất chú trọng đến sự sinh nở. Bà làm luật sư biện hộ cho những
người đàn bà chửa hoang:
Cả nể cho nên hoá dở dang,
Nỗi niềm nàng có biết chăng chàng.
…….
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!
(Không chồng mà chửa)
Bà chống lại mọi trạng thái vô sinh: thông cảm với sự vô sinh do lỗi của tự
nhiên (Vịnh nữ vô âm), chế diễu sự vô sinh "nhân tạo" (Kiếp tu hành, Sư bị ong
châm...), và ngậm ngùi với " sự vô sinh vĩnh viễn " là cái chết (Bỡn bà lang khóc
chồng, Dỗ người đàn bà chết chồng).
Kết luận:
Thơ Hồ Xuân Hương là một sản phẩm của thời đại. Một thời đại đang trên
đường băng hoại về đạo đức, suy vi về chính trị, cùng kiệt về kinh tế... Thơ Hồ
24
Xuân Hương là tiếng nói hết sức hồn nhiên tự nhiên mang đậm bản sắc văn hoá
dân gian. Nhưng cũng là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ đối với chế độ phong
kiến đầy rẫy những bất công ngang trái lên tiếng bênh vực quyền sống con
người đặc biệt là người phụ nữ. Với một sức sáng tạo tuyệt vời. Một nghệ thuật
độc đáo có một không hai. Thơ Hồ Xuân Hương là hiện tượng giao thoa, là cái
gạch nối giữa văn chương dân gian và văn chương viết: vừa nôm na dung dị,
vừa quý phái cao sang. Những trước tác nghệ thuật của nữ sĩ có sức lay động,
sức ám ảnh sâu xa trong tâm hồn người đọc.

III. Khuynh hướng cảm hứng


1. Khuynh hướng cảm hứng thiên nhiên (Công Việt, Tú Uyên)
1.1. Tổng quan về khuynh hướng cảm hứng thiên nhiên
1.1.1. Khái niệm
- Nghĩa hẹp: Tác phẩm viết về thiên nhiên như một đối tượng thẩm mĩ với cảm
hứng ca tụng, say mê, thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên, thể hiện nhu cầu
giao tiếp với vũ trụ/thế giới tự nhiên; tạm gọi là “thiên nhiên tả thực” “thiên
nhiên thuần túy”. Những tác phẩm loại này đích thực thể hiện “cảm hứng thiên
nhiên”.
- Nghĩa mở rộng: Sử dụng hình ảnh thiên nhiên nhằm các mục đích khác, bên
cạnh/ngoài mục đích thưởng thức vẻ đẹp của thế giới tự nhiên; tạm gọi là “thiên
nhiên ngụ ý” “thiên nhiên biểu tượng”. Những tác phẩm loại này thường khắc
họa “bức tranh thiên nhiên” với ngụ ý vượt ngoài “cảm hứng thiên nhiên”.
1.1.2. Nội dung biểu hiện
- Thiên nhiên tả thực:
+ Vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ của khung cảnh núi sông với sắc xanh của cây, tầm
cao của núi, mênh mông của trời đất,…
+ Vẻ đẹp của thiên nhiên mộc mạc, giản dị, gần gũi
- Thiên nhiên ngụ ý:
Trong giai đoạn thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX khuynh hướng thiên nhiên lại càng
phát triển đa dạng phong phú các “hình thức thiên nhiên” đặc biệt là sự gắn kết
của con người với thiên nhiên và thiên nhiên mang đậm nỗi niềm tâm trạng của
con người.
+ Thiên nhiên và tâm trạng cô đơn của con người
+ Thiên nhiên và niềm khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt của con
người
- Thiên nhiên ngụ ý trào lộng.

25
1.1.3. Giai đoạn thế kỉ XVIII- nửa đầu XIX
Cảm hứng thiên nhiên: Phát triển đa dạng, phong phú các “hình thức thiên
nhiên”:
- “Thiên nhiên tả thực”.
- “Thiên nhiên ngụ ý”
- “Thiên nhiên ngụ ý - trào lộng”
1.2. Khuynh hướng cảm hứng thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương
1.2.1. Thiên nhiên tả thực
* Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị, đơn
sơ.
Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không phải là một vài đường nét sâu xa,
sống mãnh liệt cái tâm tư của người ở cảnh như trong thơ Nguyễn Du. Cũng
không phải là những cảnh trí mờ ảo hồi tưởng qua cổ họa và cổ thi Trung Quốc
như trong thơ Bà huyện Thanh Quan. Thiên nhiên trong thơ nữ sĩ họ Hồ không
có những cảnh hoang vu thần bí như trong thơ Chu Mạnh Trinh. Và cũng không
có đường nét màu sắc chọn lọc, cân đối dàn xếp như trong thơ của nhà nghệ sĩ
khó tính mà hiền triết chuộng sự quân bình như Nguyễn Khuyến.
Cảnh vật trong thơ Xuân Hương giản dị và đơn sơ làm sao, bà miêu tả thiên
nhiên không theo một công thức chung nào.Có khi nó chỉ là những mẫu không
gian nho nhỏ những đồ vật tồi tàn đầy rẫy và rất dễ bỏ quên nơi thôn dã Việt
Nam: Một cái giếng, một ngôi chùa, một đám hội xuân, một vầng trăng, một
ruộng nước, một bờ khe.....
Trong bài “Giếng Thơi”, hình ảnh thiên nhiên được hiện lên trong vẻ mộc mạc,
giản dị và đơn sơ… của cuộc sống thường ngày :
“Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.”
Trong bài thơ, Hồ Xuân Hương đã thật tài tình và khéo léo sử dụng một loạt từ
láy tạo nên nhịp thơ rất đỗi gần gũi, giản dị. Mọi vật vận động một cách nhẹ
nhàng, uyển chuyển: Cỏ gà chỉ lún phún leo chứ không mọc um tùm, còn cá
diếc chỉ lách nhẹ giữa dòng nước mà không hề quẫy mạnh, tất cả tạo nên một
bức tranh lụa thật mịn màng, ẩn sâu trong đó cho người đọc thấy có một cái
giếng thơi rất sâu và trong.
Hay trong bài “Hỏi trăng”, Xuân Hương viết:
“Một trái trăng thu chín mõm mòm
Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom”
(Hỏi trăng)

26
Trong văn thơ có mấy ai gọi trăng là “trái” như Xuân Hương. Chỉ có Xuân
Hương mọi vật mới trở nên đẹp và có hồn. Trái trăng ấy theo cách nhìn của
Xuân Hương không phải đang trong độ chín tới mà chín quá chín nục “chín
mõm mòm”, vừng quế mà Xuân Hương nhìn thấy không chỉ đỏ như những màu
đỏ bình thường mà màu đỏ ở đây là màu đỏ gay gắt “đỏ lòm lom”.
Hồ Xuân Hương là một người phụ nữ táo bạo, bà đến với thiên nhiên bằng tất cả
các giác quan của mình. Chính vì vậy, thiên nhiên trong thơ bà không chỉ giản
dị, đơn sơ mà nó còn sôi động tràn đầy sức sống.
“Gió giật sườn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”
(Núi Kẽm Trống - Hồ Xuân Hương)
Tâm hồn người đọc dường như bị lay động mạnh bởi những chuyển động mạnh
mẽ, dữ dội của “gió giật”, của “sóng dồn”. Chỉ với hai câu thơ đã vẽ nên một
bức tranh thiên nhiên sống động, nó sinh sôi, nảy nở; nó tung hoành, nhảy
múa,... dưới đất trời.
* Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương hiện lên vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ của
khung cảnh núi sông với sắc xanh của cây, tầm cao của núi, mênh mông của trời
đất,…
Đặt trong mối tương quan cách miêu tả thiên nhiên, các thi sĩ trung đại luôn có
đầy đủ bốn hình ảnh: ngư, tiều, canh, mục thì thơ Hồ Xuân Hương lại hoàn toàn
trái ngược với cách sáng tác này, bà tô vẽ thiên nhiên bằng nét bút riêng và
không theo một công thức nào.
“Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,
Tiễu bích đan nhai xuất thuỷ trung.
Thuỷ thế mỗi tuỳ sơn diện chuyển,
Sơn hình tà kháo thuỷ môn thông”.
( Độ Hoa Phong )
“Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,
Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng lên.
Thế nước tuỳ chỗ theo mặt núi mà biến chuyển.
Hình núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông qua”.
“Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong.
Đá dựng bờ son mọc giữa dòng.
Dòng nước lần theo chân núi chuyển,
Mình lèn nghiêng để lối duềnh thông”

27
Trong bài “Đèo Ba Dội”, Hồ Xuân Hương dùng cặp mắt quan sát tinh đời của
mình nhìn mọi cảnh vật. Mắt trông qua: một đèo, rồi một đèo, rồi một đèo nữa,
ba đèo xếp hàng cao ngất, cheo leo nguy hiểm:
“Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quan tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.”
Nơi đèo có cửa ải, màu son đỏ loét, nóc tùm hum. Hai bên những hòn đá rêu phủ
xanh rì, gió thổi cành thông chuyển động, lá cây đầy nước rớt từng giọt như
sương gieo. Ai ai dù hiền nhân quân tử nào, dù mệt nhọc, dù mỏi mệt cũng mến
nơi thắng cảnh mà muốn trèo qua một đèo, một đèo lại một đèo, tả vậy mới tài
tình! nét vẽ - văn cũng là tượng vẽ - mạnh biết bao. Cảnh nào của Hồ Xuân
Hương có hình có khối, có âm thanh màu sắc thật sinh động cách miêu tả của bà
khó mà ai sánh được.
1.2.2. Thiên nhiên ngụ ý
* Thiên nhiên và tâm trạng cô đơn của con người:
Hình ảnh thiên nhiên trong “ Tự tình II” hiện lên thật đẹp nhưng ẩn sau đó lại
là lời bộc lộ, giãi bày tâm trạng, tình cảm của tác giả:
“Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
“Vầng trăng bóng xế” là hình ảnh của trăng đã sắp tàn biểu tượng cho tuổi xuân
đang trôi qua của người phụ nữ. “Khuyết chưa tròn”, thể hiện sự thiếu hụt,
không trọn vẹn hay cũng chính là nói về mối nhân duyên chưa trọn vẹn, chưa
tìm được hạnh phúc viên mãng, tròn đầy. Một tâm trạng cô độc, buồn đau trong
màn đêm vắng lặng. Sự bẽ bàng, tủi hổ là nỗi đau không chỉ của riêng Hồ Xuân
Hương mà còn là của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến nói
chung. Duyên phận họ thật hẩm hiu, tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn
vẹn như trắng xế mà vẫn khuyết. Khi đó, con người tìm đến trăng, tìm đến thiên
nhiên như thể tìm kiếm một người bạn tri âm tri kỷ để có thể giãi bày nỗi cô
đơn, buồn tủi của mình.
Đến với đoạn trích “Cảm cựu tống tân xuân chi tác kỳ 1” trong tập “Lưu
Hương Ký”. Ta thấy hiện lên hình ảnh tuổi trẻ con người gắn liền với mùa xuân.

28
Thiên nhiên trong bài thơ dường như đã nói lên hết tất cả tâm trạng của con
người:
“Xuân này nào phải cái xuân xưa
Có sớm ư? thời lại có trưa
Cửa động hoa còn thưa thớt bóng
Buồng thoa oanh khéo dập dìu tơ
Phong lưu trước mắt bình hương nguội
Quang cảnh trong đời chiếc gối mơ
Cân vàng nửa khắc xuân lơ lửng
Phố liễu trăm đường khách ngẩn ngơ”
Vắng bóng dáng, hơi thở của người tình, bà cũng như mùa xuân đã chết, sống
như một thói quen không còn hình hài sức sống, trí óc tâm hồn vô cảm hoàn
toàn với mọi việc diễn ra xung quanh... Bài thơ là một bức tranh phong cảnh
nhưng cũng mang trong đó là một bức tranh tâm trạng, bức tranh của con người.
Không chỉ có Xuân Hương mà còn rất nhiều nhà thơ khác tìm về với thiên nhiên
như một bà mẹ che chở cho những đứa con. Chỉ có đứng trước thiên nhiên con
người ta mới có thể giải tỏa tất cả mọi ưu tư, phiền não trong lòng.
Như vậy ta có thể thấy trong thơ Xuân Hương bức tranh thiên nhiên luôn ẩn
chứa hình bóng con người rất thân thương và gần gũi.
* Thiên nhiên và niềm khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt của
con người.
Ý thức phản kháng, đấu tranh cho quyền sống, quyền hạnh phúc của con
người từ lâu đã trở thành điệu hồn nổi bật trong kiến thức ngôn từ tài hoa của nữ
thi sĩ:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
(Tự tình)
Thiên nhiên được nhắc đến ở đây là những sự vật vốn rất ít ỏi, nhỏ bé, yếu ớt,
hèn mọn như “ rêu từng đám”, như “ đá mấy hòn”. Ấy vậy mà qua việc sử dụng
một loạt động từ mạnh “ xiên ngang”, “đâm toạc” lại cho thấy một thiên nhiên
bướng bỉnh, ngang ngạnh, sinh động hơn bao giờ hết. Thông qua hình ảnh thiên
nhiên ấy, tác giả đã phản ánh sức sống mãnh liệt ở sự phản kháng dữ dội, quyết
liệt của người phụ nữ, khát vọng muốn được giải thoát, muốn được đạp đổ tất cả
những trói buộc đè nặng lên thân phận của mình. Hơn cả, đó còn là khát vọng
sống, khát vọng được hạnh phúc của người phụ nữ.

29
1.2.3. Thiên nhiên trào lộng
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ trào lộng xuất sắc, điều này không ai có thể
phủ nhận nhưng yếu tố trào lộng và trữ tình không hề đối lập nhau mà trái lại
thống nhất chặt chẽ với nhau. Chính yếu tố trữ tình đã khiến cho yếu tố trào lộng
thêm thâm thúy, chua xót. Bức tranh thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương góp
phần không nhỏ vào việc thể hiện nghệ thuật của mình. Đó là những cảnh thiên
nhiên hết sức quen thuộc: chùa Hương, Đèo Ngang, hang Thánh Hóa... thậm chí
hướng đến những cảnh vật nhỏ bé, bình dị ở nơi thôn quê:
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì múi nó dày
Quân tử có yêu xin đóng cọc
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay
(Vịnh quả mít)
Bài thơ Vịnh quả mít tuy ngôn từ không được thanh cao những cũng không tục
tĩu. Hồ Xuân Hương lấy hình ảnh quả mít để nói lên thân phận người phụ nữ
thôn quê vất vả và dân dã. Và có lẽ chính vì vậy họ tủi thân nên đã cầu xin
những đấng nam tử “Quân tử có yêu xin đóng cọc/Đừng mân nó nữa nhựa ra
tay”. Đừng coi tình cảm của người phụ nữ như một nét thoáng qua để rồi diễu
cợt họ. Nó cũng chính là cái phẩm giá của người phụ nữ và đừng làm họ thêm
khổ đau. Bởi như vậy thì mới đáng mặt nam nhi.
Trong bài thơ “Lỡm học trò”, Hồ Xuân Hương đã thể hiện cái nhìn khinh của nữ
sĩ với lũ học trò ngu dốt nhưng kiêu căng, ngạo mạn.
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê con buồn sừng húc giậu thưa!”
(Lỡm học trò)
Tác giả đã mượn hình ảnh hết sức quen thuộc như “ong non ngứa nọc” , “dê cỏn
buồn sừng” để chế giễu bản chất của lũ học trò ngu dốt nhưng tự mãn, tự đại,
nửa mùa trẻ con người lớn nhưng thực chất thì không có một chút học thức nào
cả. Hồ Xuân Hương ở đây đã dùng giọng điệu vừa ghét, vừa coi thường, vừa đả
kích để châm biếm chính sách cho phép dùng tiền để mua chức vị của triều đình,
đã khiến cho việc giáo dục, thi cử thời kỳ này trở nên hỗn loạn. Chỉ cần có tiền
là có thể mua được chức, quyền, đồng tiền thâu tóm tất cả.
Tiếp về sự châm biếm các vua chúa thời phong kiến. Thông qua hình ảnh thiên
nhiên trong bài thơ “Đèo Ba Dội”, Hồ Xuân Hương đã châm biếm bọn vua chúa
quan lại về cái bản chất tự cao:

30
“ Hiền nhân quân tử ai là chẳng?
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”.
(Đèo Ba Dội)
Hai câu thơ cuối là những liên tưởng bất ngờ và thú vị: “Hiền nhân quân tử ai là
chẳng? Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”. Cái này mới thật sự là Hồ Xuân
Hương đây! Tả thực mà ám chỉ, thanh mà tục, tục mà thanh. Ngày xưa, những
đệ tử của Nho giáo theo đòi nghiệp bút nghiên hay muốn học hành đỗ đạt để ra
làm quan với mục đích tốt đẹp là phò vua giúp nước hay mục đích tầm thường
và vinh thân phì gia thì đều phải vào Kinh Đô Huế. Muốn vào Huế thì bắt buộc
phải leo qua đèo Ba Dội cheo leo, hiểm trở, cho dù mỏi gối chồn chân. Cái cười
tinh nghịch, giễu cợt của Xuân Hương ngụ trong bốn chữ hiền nhân quân tử và
chữ muốn. Ngày xưa, bậc vua chúa, quan lại và tầng lớp Nho sĩ thường tự xếp
mình vào tầng lớp cao sang nhất của xã hội và tự xưng là hiền nhân quân tử.
Muốn thành tầng lớp ấy thì bắt buộc phải học hành, thi cử tới nơi tới chốn. Vào
kinh đô Huế thi Đình để được thành Trạng Nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn hoặc
ông Nghè... rồi được bổ nhiệm, thăng chức quan lớn quan bé "phụ mẫu chi dân".
Cái bả công danh như mùi rượu thơm đầu gió, hấp dẫn thế cơ mà! Vậy thì trèo!
Khó mấy cũng trèo, mệt mấy cũng trèo!
Hay cái tài tình của Hồ Xuân Hương khi bà dùng cả những hình tượng siêu
nhiên, siêu hình cũng trở thành đối tượng để bà cười cợt, trêu đùa:
“Khen thay con tạo khéo khôn phàm”
(Hang Thánh Hóa)
“Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc”
(Hang Cắc Cớ)
“Rõ khéo trời già đến dở dom.”
(Động Hương Tích)
Thiên nhiên tạo hóa trong mắt bà cũng là một con người bình thường để bỡn cợt,
cũng khôn phàm, thậm chí ngang hàng để bà cười cợt “khen thay”, có khi thì
như một người bạn để bà mắng yêu, cười mát mẻ, gọi là “trời già”, gọi là “dở
dom”. Cách chơi chữ “tài xuyên tạc” trong bài “Hang Cắc Cớ” bà sử dụng cũng
rất tài tình. “Xuyên”, “tạc”, đó là những hành động của người thợ chạm khắc, rất
hợp với ngữ cảnh “khen ai đẽo đá”. Thế mà, “xuyên tạc”, lại là hành động bóp
méo lời nói của người khác, là một hành động không hay. Cái trêu ngươi của Hồ
Xuân Hương là ở chỗ đấy. Cười cợt cả tạo hóa, tự nâng mình lên ngang tầm vũ
trụ, đó là biểu hiện đầy ấn tượng của cái tôi cá nhân Hồ Xuân Hương. Đồng
thời, nó cũng là một biểu hiện cho một tính cách phóng khoáng, hào sảng, khát
khao một cuộc sống tự do, tự tại.

31
Tóm lại, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương hướng đến đủ mọi đối tượng,
đủ thói hư tật xấu trong xã hội, đồng thời cũng rất đa dạng, đa giọng điệu, đa bút
pháp. Nghệ thuật trào phúng chính là vũ khí đắc lực nhất của văn học, biến văn
học trở thành công cụ cải tạo xã hội, đấu tranh với những điều xấu xa, đồi bại
trong xã hội để bảo vệ lẽ phải, công lý, đòi quyền sống cho con người. Tiếng
cười trào phúng của Hồ Xuân Hương, thông qua yếu tố cái tục, là thứ “khí giới
vừa thanh cao vừa đắc lực mà chúng ta có, để tố cáo vạch trần một xã hội xấu
xa, giả dối, làm người đọc phong phú hơn, trong sạch hơn” (Thạch Lam).
Kết luận:
Thiên nhiên là cung đàn muôn điệu của thơ ca. Bức tranh thiên nhiên bao giờ
cũng đẹp bởi nó luôn gắn liền với tâm hồn của người thi sĩ. Đối với họ, thiên
nhiên là người bạn để gửi gắm tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của mình. Và dẫu thiên
nhiên mang nét đẹp của thời đại nào, mang dấu ấn riêng của tác giả nào thì nó
vẫn hồn nhiên, trong sáng như vốn có. Và thơ Hồ Xuân Hương cũng không
ngoại lệ. Qua ngòi bút của bà, thiên nhiên đều trở nên thú vị và mang đậm dấu
ấn riêng của Hồ Xuân Hương.

2. Khuynh hướng cảm hứng nhân đạo (Hải Yến, Huyền Trâm)
2.1. Tổng quan về khuynh hướng cảm hứng nhân đạo
2.1.1 Khái niệm nhân đạo
- Xét theo lối chiết tự, “nhân” là người và “đạo” là đạo lí. Nhân đạo là đạo lí
hướng tới con người, là tình yêu thương giữa người với người.
- Vào nửa cuối thể kỉ XX, khái niệm Humanism được chuyển ngữ và sử dụng
phổ biến ở Việt Nam, được tiếp nhận gián tiếp qua Hán ngữ. Trong khoa học
nghiên cứu, Humanism được hiểu là chủ nghĩa nhân văn hay chủ nghĩa nhân
đạo.
=> Nhân đạo nói chung là lòng thương người, sự thấu hiểu, đồng cảm với những
nỗi đau khổ của con người; hướng tới con người bình thường, nghèo khổ; nạn
nhân của tầng lớp thống trị suy đồi hoặc tệ nạn xã hội.
2.1.2. Khuynh hướng cảm hứng nhân đạo giai đoạn từ thế kỉ XVIII - đầu
thế kỉ XIX
- Văn học phát triển trong hoàn cảnh đất nước biến động bởi nội chiến và phong
trào nông dân khởi nghĩa. Chế độ phong kiến đi từ khủng hoảng đến suy thoái.
Đây là giai đoạn rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam, được mệnh danh
là giai đoạn văn học cổ điển. Chủ nghĩa nhân đạo trở thành một trào lưu trong
văn học, biểu hiện rất phong phú trong thể loại như văn thơ chữ Hán, chữ Nôm
và đa dạng trong nhiều nội dung:
32
+ Là tiếng nói đòi quyền sống, đòi hạnh phúc.
+ Đấu tranh giải phóng con người, đặc biệt là người phụ nữ .
+ Lên án, tố cáo chế độ phong kiến, giai cấp thống trị và chiến tranh phong
kiến trên lập trường nhân bản vì quyền sống của con người thể hiện tình yêu
thương đến với những số phận khổ đau và bất hạnh.
- Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu: “Chinh phụ ngâm” (nguyên tác chữ Hán của
Đặng Trần Côn), “Cung oán ngâm khúc” (Nguyễn Gia Thiều), thơ Hồ Xuân
Hương, thơ Bà Huyện Thanh Quan, “Truyện Kiều” (Nguyễn Du)…
2.2. Nội dung biểu hiện của khuynh hướng cảm hứng nhân đạo trong thơ
Hồ Xuân Hương
2.2.1. Bày tỏ lòng cảm thông, yêu thương con người đặc biệt là những số
phận không may mắn, nhất là người phụ nữ.
Tiếng thơ của Xuân Hương là tiếng lòng thổn thức của một trái tim biết yêu
thương, đồng cảm với số phận của những con người trong xã hội phong kiến.
Đặc biệt là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ với nỗi niềm thiết tha nghẹn
ngào, cay đắng không chỉ của riêng bà mà còn là của tất cả những người phụ nữ
bất hạnh trong xã hội phong kiến xưa.
* Cảm thông trước số phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ
Trong xã hội phong kiến, thân phận người phụ nữ thường nhỏ bé, cuộc đời của
họ long đong lận đận “Thân em như tấm lụa đào biết vào tay ai”. Họ phải sống
trong một chế độ xã hội phong kiến lạc hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ
không có chỗ đứng và địa vị trong xã hội.
Số phận người phụ nữ phải lủi thủi, lam lũ:
“Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.”
(Ốc nhồi)
Người phụ nữ như một “món hàng” tùy tay để người ta định đoạt số phận:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi, ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
(Bánh trôi nước)
Việc tác giả sử dụng thành ngữ đảo “bảy nổi ba chìm” và hai chữ “nước non” đã
chuyển nghĩa tả thực thành nghĩa ngụ ý. Câu thơ gợi lên sự long đong, gian
truân của người phụ nữ trong xã hội xưa. Đảo ngữ “bảy nổi ba chìm”, không kết
thúc ở “nổi” mà kết thúc ở “chìm” làm cho thân phận người phụ nữ càng cay
cực, xót xa hơn.
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
33
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”.
(Tự tình III)
Thân phận người phụ nữ cũng lênh đênh, lận đận như chiếc thuyền giữa dòng,
mãi mà chưa thể tìm được chốn neo đậu bình yên. Nỗi ngao ngán vì tình duyên
muộn màng khiến cho người phụ nữ dường như chán nản
Giữa đêm khuy thanh vắng người phụ nữ bé nhỏ cô đơn, lẻ loi một mình đối
diện với tình cảnh buồn thảm và éo le của mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
(Tự tình II)
* Người phụ nữ với nỗi đau trong đường tình duyên
Người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà còn đau
khổ trong tình duyên. Hồ Xuân Hương thường xoáy sâu vào những ngóc ngách
éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch không kém phần chua chát. Bà đi
sâu vào những bi kịch chua chát mà người phụ nữ phải gánh chịu theo những
chế ước nặng nề của lễ giáo phong kiến, vào nỗi cô đơn trống trải của họ. Có lẽ
phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, hai lần làm lẽ nhưng cả hai đều
ngắn ngủi nên Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với những người cũng kém
may mắn trong tình duyên. Đó là những người phụ nữ lỡ làng về duyên phận:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
(Tự tình II)
Bi kịch của cảm thức về thân phận: tuổi xuân đã trôi qua nhưng nhân duyên mãi
mãi dang dở, lỡ dở không trọn vẹn.
Người con gái vì “cả nể” mà phải mang trong mình “khối tình con”, nhận biết
bao điều tiếng.

“Cả nể cho nên hóa dở dang

Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng?”


(Không chồng mà chửa)
Người con gái biết mình có lỗi nhưng không cho đó là cái tội, mà chỉ vì sự cả
nể. Nàng nghĩ đến cái nghĩa trăm năm để đầy bao dung, oán giận nhưng vẫn sẵn
sàng tha thứ và đầy hi sinh, kiên cường trước búa rìu dư luận. Trong một xã hội
mà những người phụ nữ như nàng bị khinh rẻ, bà lại lớn tiếng khẳng định:
“Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường”.
Không phải ca ngợi, không phải đồng tình, mà đó chỉ là sự cảm thông, che chở
của nữ thi sĩ đối với những người phụ nữ không chồng mà chửa”.
Để rồi bênh vực, cảm thông:
34
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có mới ngoan”
(Không chồng mà chửa)
Hồ Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những người con gái dở dang ấy, ngang
nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu phong kiến cho thấy bà
là một người giàu lòng cảm thông vô cùng.
Cũng từng khao khát tình yêu nhưng rồi năm tháng qua đi, những mùa xuân
không trở lại, nhà thơ dần nhận ra cái bạc bẽo của con người và cuộc đời, cái
hẩm hiu của số phận:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
(Tự tình II)
Nữ thi sĩ họ Hồ còn chú ý đến những bất hạnh của người phụ nữ trong cuộc
sống vợ chồng mà chủ yếu là ở cảnh làm lẽ, nói chung cho người phụ nữ và
mang cả đấu ấn cuộc đời chính bà. Hồ Xuân Hương đã chỉ rõ cho chúng ta thấy
thân phận khổ nhục của người làm lẽ:

“Kể đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm thì mười họa chăng hay chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng

Cầm bằng làm mướn, mướn không công

Thân này ví biết dường này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy không”.

(Làm lẽ)
Sự bất công trong hôn nhân, trong tình cảm “kẻ đắp chăn bông” kẻ thì lại bị
“lạnh lùng” khiến cho nữ thi sĩ phẫn nộ chửi thẳng vào mặt: “Chém cha cái kiếp
lấy chồng chung”. Theo Hồ Xuân Hương thì việc làm lẽ là vô cùng tệ bạc và bất
công đối với người phụ nữ. Bà đã kể ra những nỗi khổ khi làm lẽ và cho rằng đó
như làm mướn không công. Thật là hẩm hiu, tủi nhục. Những điệp từ “xôi, xôi”,
“mướn, mướn” tạo ra âm điệu day dứt, đay nghiến, uất hận của kiếp làm lẽ.

35
Và người phụ nữ với khát khao tình yêu, hạnh phúc, muốn níu kéo hạnh phúc về
mình mà bất lực:
“Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng”
Xuân Hương còn trình bày cảnh khổ của người phụ nữ ở nhiều phương diện
như: Cảnh muộn chồng, góa bụa, vất vả trong cuộc sống vì chồng con:
“Hỡi chị em ơi có biết không
Một bên con khóc, một bên chồng?”
(Thân phận người đàn bà)
Từ hiện thực thời đại cùng những đau buồn, trải nghiệm của bản thân, Hồ Xuân
Hương sớm nhận ra nỗi khổ của người phụ nữ và đứng về phía những người phụ
nữ bị áp bức để yêu thương, trân trọng và cảm thông họ. Bà là nhà thơ nữ và là
nhà thơ của phụ nữ có một tiếng nói hết sức thấm thìa và cũng hết sức độc đáo,
thể hiện một bản lĩnh sống mạnh mẽ khác thường. Chính điều này đã làm nên
phong cách riêng cho thơ bà.
2.2.2. Khẳng định, tôn vinh vẻ đẹp con người.
* Vẻ đẹp hình thể:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
Miêu tả về chiếc bánh trôi và các công đoạn làm bánh, với hai chữ “thân em”
đặt đầu câu Hồ Xuân Hương đã không ngần ngại liên tưởng đến hình ảnh của
người phụ nữ để từ đó khẳng định vẻ đẹp xinh xắn, duyên dáng, đầy đặn, phúc
hậu của họ.
Hồ Xuân Hương ca ngợi, đề cao ngoại hình xinh đẹp, tươi trẻ của người phụ nữ:
“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh”
(Đề tranh Tố Nữ)
Một điểm thú vị nữa có thể coi là một hiện tượng chỉ có ở Hồ Xuân Hương đó là
bà ca ngợi người phụ nữ ở những vẻ đẹp phồn thực nhất, không ngần ngại khi
nhắc đến cả những điều trần tục. Người phụ nữ đẹp bởi tất cả những gì vốn
thuộc về họ. Họ có vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết, và căng tràn nhựa sống. Đó là
cái đẹp được nhà nghiên cứu gọi là cái đẹp trần thế luôn cựa quậy:
“Tạo hóa sinh ra phận đàn bà
Liễu đào e ấp giáng tiên sa
Hai núi trơ trơ, cùng tuế nguyệt
Một khe thăm thẳm,quyện hương hoa”
(Vịnh đàn bà)
Và trong bài Thiếu nữ, ngòi bút của nhà thơ lại cho thấy rõ hơn về cái đẹp trong
cơ thể. Bài thơ là một bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động:
36
“Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bồng đảo hương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông.”
Một bức tranh chân dung chạm khắc vẻ đẹp căng tràn sức sống mà tạo hóa ban
tặng cho người phụ nữ. Và chính cái hồn nhiên của người thiếu nữ ấy càng tăng
thêm nét quyến rũ của bức tranh. Những gì đẹp nhất, quyến rũ nhất của thân thể
con gái được nữ sĩ miêu tả bằng những hình ảnh ước lệ tuyệt đẹp trong thơ ca cổ
điển: "Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm, Một lạch đào nguyên suối chửa
thông". Có người cho đây là một cách nhảm nhí của Hồ Xuân Hương, một thứ
“dâm hay tục”. Nhưng bài thơ có gì là nhảm nhí, có gì là dâm, là tục ? Ở đây
người đọc chỉ thấy một thân hình cân đối, mĩ lệ của người thiếu nữ, một quang
cảnh nên thơ với những bồng đảo, đào nguyên… Bức tranh không hề khêu gợi
một sự thèm khát nào của dục vọng thấp hèn, mà chỉ đem đến cho người đọc
những rung động thẩm mĩ thanh cao. Đó là sự trinh trắng ngây thơ, là sự
hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ không có một chút bỡn cợt, trái
lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng.
Hồ Xuân Hương hình như cũng biết cái đẹp, nhất là cái đẹp của thân thể phụ nữ
rất mong manh, thoáng chốc nên bà thường gắn nó với những gì vĩnh cửu,
trường tồn. Bởi vậy, hình ảnh thân thể người phụ nữ thường hoà lẫn với thiên
nhiên, vũ trụ như hang, động, kẽm, gò, núi, bồng đảo…
* Vẻ đẹp tâm hồn
Nhà thơ còn chú trọng nêu bật lên cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của người
phụ nữ. Những người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương mang một vẻ đẹp chân
quê, giản dị và mộc mạc.
“Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dày”
(Quả mít)
Vẫn là cái mở đầu bằng công thức muôn thuở của các bài ca dao, với hai từ:
"thân em", nhũn nhặn, mộc mạc, rất nhún nhường, e lệ mà không kém phần
duyên dáng. Chỉ bằng hai từ đó thôi, các cụ ta xưa đã tôn vinh cái phẩm hạnh
cao quý của người phụ nữ lên cao muôn phần. Không kiêu sa, hãnh diện, không
thách thức mang tính nữ quyền, chỉ là "thân em" khép nép, duyên dáng và có
phần tủi phận.
Quả mít trông vẻ ngoài có vẻ nhàm chán, xù xì nhưng nó lại có múi dày và ngọt,
và nó cũng ngọt đậm hơn một số quả khác. Người phụ nữ được so như quả mít,
chắc là những người phụ nữ thôn quê, cần lao vất vả, vẻ đẹp bên ngoài mộc

37
mạc, thôn dã, nhưng cái khí chất nội tại bên trong chắc phải làm người ta say
đắm mê mẩn như khi tận hưởng những múi mít ngọt lành vậy.
Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự
trinh trắng, ngồn ngộn sức sống của những cô gái trẻ:
“Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh”.
(Đề tranh Tố Nữ)
Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên
trinh của người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được
tấm lòng son:
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
( Bánh trôi nước)
Mặc dù, số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa cuộc đời
nhưng họ đành cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm lòng mình.
Người phụ nữ vẫn giữ sự thủy chung, son sắt, bất biến với mối tình. Một lời nói
thể hiện niềm tự hào về phẩm chất, thủy chung của người phụ nữ.
* Vẻ đẹp trí tuệ
Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ đẹp, đó còn là những người
phụ nữ thông minh, tài năng, sắc sảo, nhanh nhẹn và đầy bản lĩnh.
Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến sân
nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một ái, các bạn học thấy thế
đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung dung đọc hai câu
thơ rằng:
“Giơ tay với thử trờ cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài”
Rồi bình thản đi vào. Còn mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài. Lại có chuyện,
một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc Về, nàng đang lững thững trên
bờ Hồ Tây, bổng thấy có mấy thầy khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi
trêu ghẹo nàng có người lại mang cả văn chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho
một bài thơ rằng:
“Khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ”
Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”như vậy
mà Xuân Hương vẫn dám khẳng định tài năng, trí tuệ hơn người của mình.
Người phụ nữ của bà dám “ghé mắt trông ngang” để mà mỉa mai về “sự anh
hùng”:

38
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai dược
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”.
Nền giáo dục chế độ phong kiến chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo
“nam tôn nữ ti”, họ cưỡng chế người phụ nữ phải chấp nhận vai trò thua kém
đàn ông vì trời đã đặt định như vậy. Nhưng với Xuân Hương, mọi thứ đều
không phải vậy, những người phụ nữu cũng là con người mang đầy tài năng và
nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ
như sự anh hùng của nhà ngươi đâu.
Khi viết về vẻ đẹp của người phụ nữ Xuân Hương luôn bày tỏ sự trân trọng,
ngợi ca và đầy tự hào. Người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp về hình thể, về tâm hồn
mà họ còn là những con người mang đầy tài năng. Có thể nói, ngoài văn học dân
gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem
đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy.
2.2.3. Tiếng nói của ý thức cá nhân đầy bản lĩnh, khẳng định quyền được
sống của con người.
Tiếng nói cá nhân ở thời đại của Hồ Xuân Hương được coi là điều cấm kị, tránh
nhắc tới. Các nhà văn, nhà thơ thời đó thường chỉ nhắc đến cái “ta” chung của
cộng đồng. Nhưng ở thơ của Hồ Xuân Hương ta lại bắt gặp một cá tính độc đáo
và đặc sắc, đó là khẳng định cái “tôi” cá nhân rất riêng, rất mới.
Trong bài thơ “Mời trầu”, Hồ Xuân Hương đã có lời mời trầu vừa tự nhiên,
khiêm nhường vừa thể hiện sự chủ động, sự tự ý thức về bản thân:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi”
(Mời trầu)
Đại từ chỉ thị “này” đã khẳng định miếng trầu này là của Xuân Hương. Trước
Hồ Xuân Hương, dường như chưa một ai dám khẳng định bản thân bằng cách
đưa thẳng tên mình vào thơ, nếu có cũng chỉ mập mờ. Nhưng ở Hồ Xuân
Hương, đó là sự ý thức rất sâu sắc cái tôi cá nhân để qua đó bộc lộ tâm tình sâu
lắng, chủ động mời mọc tình yêu.
Bà còn nói đến cái tôi bị bỏ rơi, cô quạnh giữa không gian mênh mông:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
(Canh khuya)

39
Thời gian đằng đẵng và không gian rợn ngợp ấy như nhấn chìm tất cả, lại có
một hồng nhan cô đơn lẻ loi để tuổi xuân của mình bị lãng quên. Tuy nhiên hai
câu thơ không hẳn chỉ có nỗi đau mà nó còn thể hiện cả bản lĩnh của nhân vật
trữ tình. Bản lĩnh ấy thể hiện ở ngay trong chữ “trơ” như là một sự thách thức,
“trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự bền gan, sự thách đố để từ đó bộc bạch
tâm sự về thân phận của người phụ nữ, muốn đấu tranh để có được hạnh phúc.
Chính nhờ vào sức sống mãnh liệt và lòng thiết tha yêu cuộc sống đã không làm
cho nữ sĩ mất đi hy vọng mà trái lại còn thách đố và khẳng định mình:
“Tài tử nhân văn ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom?”
(Tự tình I)
Trong thơ Hồ Xuân Hương còn có một khía cạnh khác của ý thức cá nhân đó là
ý thức về con người bản năng. Thoả mãn cuộc sống bản năng cũng là một khát
vọng chính đáng của con người và Hồ Xuân Hương đã công khai nói đến dù đó
là những đề tài gợi về hình thể hay cuộc sống phòng the kín đáo. Ở giai đoạn đó
do chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo, quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”
đã trở thành một định kiến hà khắc. Hồ Xuân Hương với số phận đặc biệt bị
thiệt thòi trong đường tình duyên nhưng với tính cách ngang tàng, cá tính mạnh
mẽ đã khiến bà không cảm thấy thõa mãn trong tâm tình của bản thân:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tý con con!”
(Tự tình II)

“Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!


Thiếp bén duyên chàng có thế thôi!”
(Khóc ông Tổng Cóc)
Cuộc đời của Hồ Xuân Hương, mọi thứ đều nửa vời, dang dở, thiếu thốn nên đã
dần hình thành nỗi bất mãn dai dẳng, khiến bà có cái nhìn khác biệt cho rằng
hình thể và chuyện khuê phòng vốn là nhu cầu bình thường. Đối với Hồ Xuân
Hương mọi thứ này đều rất tự nhiên, vậy nên trong thơ bà ta không nên bàn về
“thanh” và “tục” mà nên nói về sự ám ảnh tính dục và nhu cầu giải phóng nó
khỏi phong kiến cổ hủ như một nhu câu bản năng của con người:
“Còn thú vui kia sao chẳng vẽ
Trách người thợ vẽ khéo vô tình”
(Đề tranh tố nữ)

40
“Quân tử có yêu thì gỡ yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi”
(Ốc nhồi)
Với ý thức về tài năng cá nhân, Hồ Xuân Hương mang khát vọng làm nên một
sự nghiệp lớn. Đó là khát vọng xóa bỏ bất công của xã hội “trọng nam khinh
nữ”, khát vọng được thay đổi thân phận, địa vị để thi thố tài năng, lập nên sự
nghiệp anh hùng: “Ví đây đổi phận làm trai được”; khát vọng đó là muốn đòi lại
công bằng cho người phụ nữ cũng là công bằng của xã hội. Trong xã hội xưa,
tuy khát vọng đó chỉ mãi là giả thiết, là “ví như” nhưng nó cũng thể hiện tinh
thần nhân văn của thơ Hồ Xuân Hương - tuyên ngôn về tài năng và quyền được
sống, được bình đẳng của người phụ nữ.
2.2.4. Tiếng nói đả kích, tố cáo tội ác của giai cấp thống trị, vạch trần sự
xấu xa, thối nát của chế độ phong kiến.
* Tiếng nói đả kích, châm biếm, vạch trần sự giả dối, thối nát của chế độ
phong kiến.
Dưới những ràng buộc khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, người phụ nữ luôn
phải gánh chịu những thiệt thòi, đau đớn. Đến giai đoạn cuối khi mà chế độ
phong kiến suy tàn, những người phụ nữ mới dám cất lên tiếng nói sau bao thời
gian bị dồn nén. Đại diện cho những người phụ nữ bất hạnh ấy, Hồ Xuân Hương
đã phản kháng mãnh liệt bằng tiếng nói riêng của mình, kết hợp với tiếng nói
của nhân dân lao động bị xã hội phong kiến áp bức và chà đạp.
Tiếng nói đả kích, tố cáo được nữ sĩ thể hiện qua tiếng cười châm biếm. Một
điều đặc biệt là Hồ Xuân Hương đã sử dụng tiếng cười thông qua yếu tố “tục”.
Tiếng nói ấy đã tố cáo táo bạo, quyết liệt ấy chủ yếu xoáy sâu vào giai cấp
phong kiến với những quy chuẩn đạo đức đang dần mục rữa.
Tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu tập trung vào đối tượng chính là
giai cấp thống trị với thói đạo đức giả, phơi bày cái khao khát xác thân phàm tục
của chúng vốn là bản chất. Hồ Xuân Hương vạch trần bộ thật của giai cấp phong
kiến, đại diện là vua chúa, quan lại, hiền nhân quân tử. Họ là mẫu người lí tưởng
của xã hội phong kiến với bao điều tốt đẹp, trong sạch, thanh cao, họ là những
người mang sứ mệnh truyền bá đạo lí để răn dạy con người, giữ gìn kỉ cương xã
hội. Thế nhưng, bằng con mắt sắc sảo của mình, Hồ Xuân Hương đã phơi bày
bộ mặt đạo đức giả dối, kệch cỡm, bịp bợm và dốt nát:
“Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,

41
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
(Vịnh cái quạt II)
Đối tượng đầu tiên của bà đó chính là bọn vua chúa, những kẻ thay trời trị dân.
Hồ Xuân Hương chỉ rõ bản chất của những kẻ cầm quyền, tất cả chỉ là những kẻ
mê muội, háo sắc:
“Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.”
(Vịnh cái quạt I)
Vua chúa là vậy mà quan thị còn đáng lên án hơn. Hồ Xuân Hương đã đánh
thẳng vào cuộc sống trái lẽ của chúng, thậm chí trước cái dị hợm, quái gở, bà
văng tục, cười mỉa mai:
“Mười hai bà mụ ghét chi nhau?
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Đố ai biết được vông hay trốc,
Còn kẻ nào hay cuống với đầu.
Thôi thế thì thôi, thôi cũng được,
Nghìn năm khỏi bị tiếng nương dâu.”
(Quan thị)
Chỉ vì một chức quan, một địa vị, họ sẵn sàng vứt bỏ tất cả, kể cả tình yêu. Thật
đáng phải bị tố cáo, vạch mặt những con người không biết trân trọng, luôn xem
người phụ nữ là một món đồ chơi tình cảm.
Đối tượng được nữ sĩ châm biếm đả kích nhất vẫn là những bậc “hiền nhân quân
tử”. Xã hội đã bóc trần bộ mặt ngụy quân tử, tiểu nhân để chúng ta nhận ra
những kẻ giả dối ấy vẫn có những khao khát phàm tục, song vì cái vỏ bọc đạo
đức, chúng phải lén lút, vụng trộm. Những ý nghĩ đáng ghê tởm, đáng khinh ấy
đã bị Hồ Xuân Hương phát hiện:
“Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Hồ Xuân Hương cũng không ngần ngại khi vạch ra những mặt tối của cái đầu
trọc nhà sư. Trong bối cảnh xã hội rối ren, nhà chùa cũng không còn giữ được
cung cách nghiêm trang vốn có, không ít kẻ đã lợi dụng nơi tu hành để làm

42
những chuyện bậy bạ, đó là lối tu hành giả dối. Dù có nấp dưới bóng Phật, dù có
cạo đầu trọc lốc hay miệng có hi ha tụng kinh thì Hồ Xuân Hương vẫn nhận ra
những hành vi dâm tục ẩn giấu trong đó, bà vạch trần, đả kích:
“Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta
Đầu thì trọc lóc áo không tà
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Tu lâu có nhẽ lên sư cụ,
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà.”
(Sư hổ mang)
Hồ Xuân Hương chỉ trích thậm tệ sự sa đọa của các nhà sư, bà mỉa mai hạng tu
hành mà không giữ được đạo nên phải hoàn tục:
“Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió nên phải cho lộn lèo.”
(Kiếp tu hành)
Chùa chiền giờ đây không còn là nơi mà Hồ Xuân Hương có thể tìm thấy những
vẻ đẹp đơn sơ, thanh tĩnh nữa mà với bà đó chỉ là nơi làm rõ hơn bộ mặt giả tạo,
cảnh ngược đời của bọn sung đạo. Bà nhìn ra họ chỉ là những kẻ nho sĩ dốt nát,
huênh hoang. Nhà thơ chỉ trích những kẻ học không ra gì, làm thơ mà chẳng ra
thơ, lại còn dám đề thơ ở chùa, ở miếu:
“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.”
(Mắng học trò dốt II)
Qua thơ Nôm Hồ Xuân Hương, ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế
giễu, đả kích. Bà dùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống bản
năng của giai cấp thống trị để từ đó tố cáo, lên án, phê phán thói đạo đức giả của
giai cấp thống trị và sự thối nát, mục rữa của chế độ phong kiến.
* Lên án chế độ nam quyền, chế độ đa thê đã gây ra bất hạnh cho người
phụ nữ.

43
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa luôn bị áp đặt bởi những quan niệm
khắc nghiệt của pháp luật, lễ giáo, tập tục, “tam tòng tứ đức”, chính chúng đã
biến người phụ nữ trở thành một thứ đồ vật, công cụ thuộc sở hữu của người gia
trưởng-người đàn ông. Những người phụ nữ gần như không có tiếng nói, họ bị
tước hết mọi quyền lợi cho dù đó là quyền đối với con cái và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Xuất phát từ quan niệm cổ hủ, độc đoán đó mà đã có biết bao thân
phận người phụ nữ đáng thương bị vùi dập đến tàn tạ. Xã hội ấy chỉ đứng về
phía người đàn ông, chỉ có những mong muốn và quyền lợi của họ mới xứng
đáng được đề cao. Trong bài thơ “Không chồng mà chửa”, Hồ Xuân Hương
viết:
“Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường”
Hai câu thơ vừa là tiếng nói bênh vực, khoan dung với cảnh ngộ “không chồng
mà chửa” vốn bị xã hội coi là việc “phá hoại nhân cách”, đồng thời cũng lên
tiếng thách thức, ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lại khuôn mẫu
của lễ giáo phong kiến. Bà lên án, phê phán xã hội bạc bẽo, tàn ác đã vùi dập
cuộc đời người phụ nữ, khiến cho họ phải sống một cuộc đời bất hạnh, tủi nhục,
không có tương lai.
Hồ Xuân Hương, một người có sức sống mãnh liệt với cái tôi ngất trời, luôn
khao khát hạnh phúc lứa đôi nhưng bà lại rơi vào cái bi kịch mà những người
phụ nữ đều không mong muốn: “làm lẽ”. Sinh ra là con của vợ lẽ và cuộc đời
cũng trải qua hai lần làm lẽ, Hồ Xuân Hương chứng kiến trọn vẹn và thấm thía
sâu sắc những bất hạnh của chế độ đa thê phong kiến với biết bao dồn nén. Cuối
cùng, Hồ Xuân Hương đã lên tiếng để giải tỏa những phẫn uất ấy:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
hay:
“Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân này ví biết đường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong”
( Kiếp lấy chồng chung)
Và rồi cũng chỉ có Hồ Xuân Hương, bà đã dám đứng lên, đi ngược lại với những
chuẩn mực của xã hội, để đại diện cho tiếng nói của những người phụ nữ với
giọng điệu ngang tàng, bản lĩnh phản kháng lại cái xã hội hà khắc nhưng đang
dần thối nát, mục rữa với những quan niệm cổ hủ, chế độ nam quyền đáng khinh
và chế độ đa thê đáng nguyền rủa đã đẩy người phụ nữ vào biết bao tấn bi kịch,
khiến họ mất đi tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc.
3. Khuynh hướng cảm hứng thế sự (Phương Thủy, Xuân Thủy)
44
3.1. Tổng quan khuynh hướng cảm hứng thế sự
3.1.1 Khái niệm
- Thế sự (世事) là việc đời, chuyện đời, những vấn đề thuộc về đời sống con
người và xã hội.
- Cảm hứng thế sự chỉ những tác phẩm đề cập đến các vấn đề nhân sinh, xã hội
có tính chất đời thường, thế tục và thể hiện quan niệm, thái độ, cách phân tích,
đánh giá, phê bình, lí giải của tác giả.
3.1.2 Cảm hứng thế sự trong nền văn học trung đại Việt Nam

- Là một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo, có mặt ở tất cả các giai đoạn
của văn học trung đại Việt Nam. Vai trò của cảm hứng thế sự đặc biệt được
khẳng định trong văn chương của các nhà nho.
- Cơ sở xuất hiện khuynh hướng cảm hứng thế sự trong văn học trung đại:
+ Mối quan tâm đến các vấn đề nhân sinh xã hội, nỗi lo đời, thương đời của
nhà nho - chủ thể sáng tác trung tâm của văn học trung đại
+ Sự coi trọng chức năng giáo huấn, gắn văn chương với nhiệm vụ chính trị
thời trung đại.
+ Xu hướng đối lập "nghĩa" (lí tưởng nhân nghĩa) với "lợi" (lợi ích vật chất,
tiền tài,danh vọng) trong quan niệm về giá trị của các nhà nho.

3.2. Khuynh hướng cảm hứng thế sự trong thơ Hồ Xuân Hương

Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân
Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói
tâm tình của phụ nữ. Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay
cung tần, mà là người phụ nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất
hạnh trong cuộc sống. “Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là
nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói
của những người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng
căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay”.

Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ
không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà trong tư cách là người phụ nữ nói chung,
họ còn bị áp bức về mặt giới tính với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không
lặng câm mà chịu đau khổ, họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung,
tiếng nói ấy chỉ là những tiếng kêu thương thất vọng. “Đại diện cho giới phụ nữ,
Hồ Xuân Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần
nhuyễn với tiếng nói của nhân dân lao động.

Tiếng nói đã kích, tố cáo được nữ sĩ sử dụng thông qua công cụ cố hữu của
truyền thống văn học dân tộc, cũng như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm

45
biếm”. Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc
hậu... nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng lên để
đòi bình quyền để muốn nói rằng: họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ trong xã hội
là rất lớn.

3.2.1. Phản ánh hiện thực xã hội đương thời với những giá trị đạo đức suy
đồi.
Hồ Xuân Hương sống vào thời Lê Mạc, thời mà các nhà nho thường gọi là
“phong hóa suy đồi, cương thường đảo ngược” thời dâm ác của chúa Trịnh Sâm
và bè lũ, thời anh giết em, con giết cha, vợ giết chồng … thời đắc thắng của
Nguyễn Huệ, của bình dân Việt Nam. Những thời loạn như thế, con người sống
không có đảm bảo. Luật pháp, tôn giáo, lễ nghĩa … không đủ sức để che chở
con người chống lại những tai họa bất ngờ.

+ Ngòi bút Hồ Xuân Hương còn nhắm đếm một đối tượng khác cũng thuộc giới
trí thức Nho học: Bọn học trò dốt. Chỉ cần có tiền là có thể mua được chức,
quyền, đồng tiền chiếm thế thượng phong thâu tóm tất cả, các giá trị đạo đức bị
chà đạp, bọn quan lại vì thế càng nhũng nhiễu dân lành, nhất là bọn quan hoạn.
Cũng trong tình cảnh thi cử rối ren ấy, người có tài thì thì bị đánh rớt oan, còn
bọn bất vài nhưng có tiền thì được xướng danh bảng vàng.

Chính điều này đã làm xuất hiện một loại người “quái thai” trong xã hội: Bọn
học trò dốt, dốt nát nhưng lại tự cao tự đại, vẫn cứ tự mãn vào con chữ của mình,
tự mãn rằng mình là rường cột nước nhà. Với loại người này, Hồ Xuân Hương
vừa ghét, vừa coi thường. Nhóm bài thơ “Mắng học trò dốt” đã thể hiện rõ cái
nhìn khinh khi của nữ sĩ với lũ học trò ngu dốt nhưng kiêu căng, ngạo mạn

“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền

Cũng đòi học nói nói không nên”

(Phường lòi tói)

“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,

Lại đây chị dạy lối làm thơ.

Bướm non ngứa lợi châm hoa rữa,

Dê bé buồn sừng húc giậu thưa”

(Lỡm học trò)

46
+ Hồ Xuân Hương còn lên tiếng phê phán những ông sư, bà vãi, những kẻ tự
tách mình ra khỏi đời sống, hay nói đúng hơn, là lấy cớ đi tu để tách mình ra
khỏi đời sống, nhưng bên trong thì vẫn đầy những ham muốn đồi bại, dung tục,
làm xấu mặt tôn giáo mà mình đang phụng sự.

“Chẳng phải Ngô chẳng phải ta

Đầu thi trọc lốc, áo không tà

Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm

Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà…”

(Sư hổ mang)

“Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,

Làm chi một chút tẻo tèo teo.

Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,

Trái gió cho nên phải lộn lèo.”

(Sư hoạnh dâm)

“Xuất thế hồng nhan kể cũng nhiều,

Lộn vòng phu phụ mấy là kiêu.

Gậy thần Địa Tạng khi chèo chống,

Tràng hạt Di Đà để đếm đeo.

Muốn dựng cột buồm sang bến giác,

Sợ cơn sóng cả lộn dây lèo.

Ví ai quả phúc mà tu được,

Cũng giốc một lòng để có theo”

(Vịnh ni sư)

“Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm

Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.

47
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe

Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.”

(Chế Sư)

Hồ Xuân Hương không hề đả kích Phật giáo, không hề đặt mình ở phía đối lập
với tôn giáo. Nhưng Phật giáo thời kì này, cùng với sự biến động, nhiễu loạn
của xã hội, cũng đã xuất hiện những phần tử xấu, bôi nhọ hình ảnh thanh tịnh
của chốn cửa thiền. Ngòi bút của nữ sĩ hướng tới châm chích, đả kích các đối
tượng ấy, cũng là một cách đòi lại sự trong sạch cho chốn chân tu. Lí do cao
hơn cả, như đã nói ở trên, đó là bởi cái tôi khao khát sống của Hồ Xuân Hương
không cho phép bà khoanh tay làm ngơ trước những kẻ rời bỏ cuộc sống, trốn
tránh cuộc sống, mượn danh thanh bạch của chốn chân tu để làm trò đồi bại, bỉ
ổi, nên đã khiến hồn thơ sắc bén, cá tính của bà nảy sinh những vần thơ châm
biếm sâu cay .

Xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là thường, còn người phụ nữ với số phận nhỏ
bé, bất hạnh không cho phép được như vậy. Bản thân Hồ Xuân Hương từng
sống trong cảnh tình duyên muộn màng, từng mang thân đi làm lẽ và từng sống
trong cảnh góa bụa:

“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

….

Thân này ví biết dường này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong”

(Làm lẽ)

“Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

Cái nợ ba sinh đã trả rồi”

(Khóc ông phủ Vĩnh Tường)

“Thương ôi phận gái cũng là chồng,


Ghét bỏ nhau chi hỡi Nguyệt ông.
Rồng tắm ao tù từng phận tủi,

48
Mưa gieo xuống giếng uổng lòng mong.
Xót thân hoa nở song lầm cát,
Thẹn mặt trần ai đứng giữa vòng.
Âu hẳn tiền nhân sao đấy tá,
Thôi đành một kiếp thế cho xong.”
(Thương ôi phận gái )

Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong đường tình duyên, hai lần làm lẽ nhưng cả
hai lần đều ngắn ngủi nên Hồ Xuân Hương rất hiểu và đồng cảm với phận của
những người phụ nữ không may mắn trong đường tình duyên. Đó là nỗi khổ của
người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chửa, người phụ nữ chết
chồng…
3.2.2. Phản ánh cuộc sống sinh hoạt thường ngày

Tất cả những gì đời thường, bình dị nhất đều có thể được nữ sĩ đưa vào thơ một
cách sinh động, thú vị.

Gác bỏ mọi thành kiến một bên, với tấm lòng sẵn sàng thông cảm với những
vần thơ nhiều lúc xù xì, sỗ sàng quá lắm ấy, chúng ta sẽ bắt gặp một con người
thiết tha yêu cuộc sống, cuộc sống khoẻ và mạnh. Một thứ chủ nghĩa yêu đời
hồn nhiên và mộc mạc, đó mới là ý thức chủ đạo làm nên cái sinh khí, cái rạo
rực, cái ý vị đậm đà của toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương

+ Hình ảnh, ngôn từ dân dã nhưng lại vô cùng thâm thúy về ý thơ. Và cái tục tĩu
hay thanh cao cũng chính là do người nghe người đọc tự cảm nhận:

“Thân em như quả mít trên cây

Vỏ nó xù xì múi nó dày

Quân tử có thương thì đóng cọc

Xin đừng mân mó nhựa ra tay”

(Vịnh quả mít)

Bài thơ Vịnh quả mít tự phần ngôn từ của nó không thanh cao nhưng nó cũng
không tục tĩu mà nhìn chung là do cảm nhận của người đọc. Bài thơ này được

49
mở đầu bằng công thức thân em rất nhã nhặn, nhún nhường. Và nó cũng chính
là mô típ chung của các bài ca nói chung khi viết về người phụ nữ.

Quả mít trông vẻ ngoài có vẻ nhàm chán, xù xì nhưng nó lại có múi dày và
ngọt, và nó cũng ngọt đậm hơn một số quả khác. Thêm vào đó nó có cái hương
vị của người phụ nữ thôn quê vất vả và dân dã. Và có lẽ cũng vì thế mà họ tủi
cho thân phận của mình nên đã cầu xin nhưng đấng nam tử.

Đóng cọc cũng coc nghĩa là quả mít đang non cần đóng vào phần đầu cuống để
chảy bớt nhựa và mau chín. Nó còn có nghĩa là đóng cái cuộc đời của mình,
bằng thứ tình cảm chân thành giản dị. Và cũng đừng mân mê quả mít, và cũng
đừng coi tình cảm của người phụ nữ như là một nét thoáng qua để rồi diễu cợt
họ. Nó cũng chính là cái phẩm giá của người phụ nữ và đừng làm họ thêm khổ
đau. Có như vậy mới đáng mặt nam nhi.

“Đang cơn nắng cực chửa mưa tè

Rủ chị em ra tát nước khe

Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm

Lênh đênh một ruộng bốn bờ be

Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa

Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve”

(Tát nước)

Lớp từ chọn lọc chính xác, với nhiều từ lái đặc sắc, hài thanh và gợi hình hài
nghĩa thanh - tục rất tuyệt, thể hiện công việc quen thuộc của nhà nông, mà nó
còn ẩn dụ, gợi tả cảnh làm ăn quên cả mệt trong cái chuyện chăn gối, dục tình
chân thực của con người.

“Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau

Con cò mấp máy suốt đêm thâu

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc

Một suốt đâm ngang thích thích mau”

(Dệt cửi)

50
+ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hiếm thấy trong xã hội phong kiến. Bà là
một nữ lưu khá đặc biệt thời bấy giờ vì bà đã đi nhiều nơi, từng đặt chân đến
nhiều miền quê của đất nước. Bà rất yêu thiên nhiên và hầu hết thiên nhiên,
cảnh vật mà bà đã từng chiêm ngưỡng trong cuộc đời đều trở thành thi liệu dồi
dào trong các tác phẩm của bà:

“Một đèo, một đèo, lại một đèo,

Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.

Cửa son đỏ toét tùm hum nóc

Hòn đá xanh rì lún phún rêu”

(Đèo Ba Dội)

“Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo

Đường đi thiên thẹo quán cheo leo

Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác

Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo”

(Quán Khánh)

III. Nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương


Thành tựu nghệ thuật lớn nhất của Hồ Xuân Hương là ở thơ Nôm. Với khoảng
40 bài thơ, Hồ Xuân Hương đã tạo thành một phong cách thơ riêng hết sức độc
đáo.
1. Về ngôn ngữ
- Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học dân gian, không chỉ là
thành ngữ, tục ngữ mà cả ca dao cũng được vận dụng, trở thành ngôn ngữ nghệ
thuật của Đường luật Nôm. Với thơ Hồ Xuân Hương, ngôn ngữ văn học dân
gian không chỉ góp phần biểu đạt tư duy, trí tuệ Việt Nam mà còn góp phần biểu
đạt tình cảm tâm hồn dân tộc.
- Thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ Hồ Xuân Hương là phương tiện để thể
hiện tình cảm, làm chức năng biểu đạt tâm trạng. Cái ý không trọn vẹn trong
thành ngữ, người sử dụng có thể làm cho nó trở thành trọn vẹn theo ý định chủ
quan của mình. Hồ Xuân Hương đã khai thác tính chất này của thành ngữ.
- Hồ Xuân Hương đã “tâm trạng hóa” thành ngữ, làm cho thành ngữ in đậm dấu
ấn cá tính sáng tạo của bà. Trong khuynh hướng dân tộc và dân chủ, thơ Nôm

51
Đường luật đã tìm về cội nguồn văn học dân gian, tiếp thu ở đó không chỉ nội
dung mà cả hình thức biểu đạt.
- Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ đời sống. Ngôn ngữ đời sống dưới
tay “Bà chúa thơ Nôm” biến hóa khôn lường. Bà như một nghệ sĩ ngôn từ, biểu
diễn từ ngữ trên những dòng thơ như nghệ sĩ xiếc trên dây, ngôn ngữ đời sống
của bà là ngôn ngữ thông tục nhất mà đắt nhất, hay nhất:
“Thân này đâu đã chịu già tom!”
( Tự tình I )
“Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền”
( Mắng học trò dốt – II)
- Hồ Xuân Hương là “người có biệt tài sử dụng tiếng chửi trong thơ”. Có đến
bốn lần bà dùng tiếng chửi:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
( Lấy chồng chung )
“Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu”
( Quan thị )
“Cha kiếp đường tu sao lắt léo”
( Chùa Quán Sứ )
- Người ta nói nhiều đến yếu tố tục trong thơ Hồ Xuân Hương nhưng bà chưa
bao giờ tục như người ta đã nói về bà. Khi dùng từ tục bà thường sử dụng biện
pháp biến âm hoặc hình thức nói lái để câu thơ không trở nên tục tĩu.
- Ngôn ngữ đời sống đi vào thơ Hồ Xuân Hương một cách rất tự nhiên, mang
bản lĩnh nghệ thuật độc đáo, phi thường. Hồ Xuân Hương đặc biệt tài năng khi
sửdụng các từ làm định ngữ và bổ ngữ. Chính cái phần phụ này lại gây ấn tượng
mạnh mẽ cho người đọc, làm nên cái đặc sắc, cái độc đáo, cái cá tính sáng tạo
của thơ Hồ Xuân Hương
- Bà chúa thơ Nôm cũng rất giỏi sử dụng các đại từ nhân xưng, các từ để hỏi,
các từ cảm thán, các từ ‘nhé’, ‘nhỉ’, ‘thì thôi’, ‘thế thôi’,…
“Thân này ví biết đường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong”
( Lấy chồng chung )
“Thế thôi thì thôi, thôi cũng được”
( Quan thị )

52
- Những từ thuộc phong cách khẩu ngữ nhưng khi vào thơ Hồ Xuân Hương đã
trở thành phong cách Hồ Xuân Hương. Bà còn có biệt tài sử dụng ngôn ngữ lấp
lửng, cách nói lái, nói kiểu chơi chữ, tạo nên tính chất đã nghĩa.
2. Về hình tượng nghệ thuật
- Điểm đặc sắc đầu tiên chúng ta nhận thấy là tất cả hình tượng nghệ thuật trong
thơ Hồ Xuân Hương đều được xây dựng trên một quan niệm thẩm mỹ: cái đẹp là
cuộc sống tự nhiên, bản năng lành mạnh của con người. Mọi hình tượng nghệ
thuật trong thơ Hồ Xuân Hương đều bình đẳng, đều ‘tự do’. Không bị ràng buộc
bởi khuôn mẫu, bởi quan niệm phong kiến, hình tượng nghệ thuật trong thơ Hồ
Xuân Hương là những sáng tạo từ bản thân đời sống, từ cá tính độc đáo của nhà
thơ.
- Từ đặc điểm trên dẫn đến đặc sắc thứ hai trong hình tượng nghệ thuật thơ Hồ
Xuân Hương: hầu hết những hình tượng trong thơ Hồ Xuân Hương đều được
gợi ý, trực tiếp hay gián tiếp, xa hay gần, mơ màng hay cụ thể, từ vẻ đẹp trần thế
của thân thể người phụ nữ. Hồ Xuân Hương có dụng ý kiến tạo hình tượng theo
hình thể tuyệt vời ấy.
- Vẻ đẹp trần thế của thân thể người phụ nữ trở thành mẫu số chung cho những
sáng tạo hình tượng nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương. Điều đó góp phần tạo nên
những tác dụng ‘đa hưởng’ trong các hình tượng nghệ thuật. Tạo nên tính “đa
hưởng” đó, hình tượng nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương là hình tượng lấp
lửng. Để làm nên tính lấp lửng này nhà thơ phải cùng một lúc dùng hai phương
pháp khi xây dựng hình tượng: phương pháp miêu tả trực tiếp, cụ thể đối tượng
và phương pháp dùng ẩn dụ trong miêu tả.
- “Cái miêu tả” và “cái ẩn dụ” trong hình tượng nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương
không phải hòa quyện vào nhau, tan biến vào nhau như nhiều hình tượng khác.
Chúng được ngăn bởi một “tấm rèm”. Tấm rèm này nửa như phô bày nửa như
che đậy, tạo nên sự hấp dẫn thường xuyên của thơ bà. Người đọc biết rõ cái gì
sau “tấm rèm” nhưng vẫn hết sức ngạc nhiên bởi còn biết bao bí mật bất ngờ, kì
lạ.
- Hình tượng nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương là sự trở về - trở về với đời
sống, với con người và nó trở về qua hai nẻo: nẻo văn học dân gian làm cho hình
tượng nghệ thuật đậm đà phong vị dân tộc. Nẻo sáng tạo của bà làm nên những
hình tượng nghệ thuật độc đáo mang đậm bản lĩnh và cá tính sáng tạo của nhà
thơ. Có phài “nẻo sáng tạo riêng của Hồ Xuân Hương” mới là nẻo chính? Dù
chịu ảnh hưởng của văn học dân gian nhưng vẫn thể hiện đầy đủ vẻ đặc sắc của
Hồ Xuân Hương. Bà vẫn giữ vai trò của người mở lối, người tạo ra một hệ thống
hình tượng nghệ thuật mới về chất.

53
54

You might also like