Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

NỘI DUNG ÔN TẬP THI

MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN

Câu 1: Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ.
*Nguồn gốc:
- Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá đòi hỏi phải có một vật nào đó làm môi
giới trung gian trong trao đổi dẫn đến sự xuất hiện những vật “ngang giá chung”. Vật
ngang giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hoá khác,
chúng đều có đặc điểm: quí, hiếm, có công dụng thiết thực, dễ bảo quản và vận chuyển.
- Lúc đầu, vật ngang giá chung là những hàng hoá tiêu dùng cần thiết cho từng bộ lạc,
từng địa phương. Sau đó, vật ngang giá chung có ý nghĩa tượng trưng như: vỏ sò, xương
thú, vòng đá... Khi trao đổi hàng hoá được mở rộng và trở thành nhu cầu thường xuyên
của các dân tộc thì vật ngang giá chung được gắn với kim loại.
- Kim loại được sử dụng đầu tiên để làm vật ngang giá chung là “Kẽm”, sau đó đến
“Đồng” rồi đến “Bạc”. Đầu thế kỉ 19, với tính chất ưu việt của nó, “Vàng” bắt đầu đóng
vai trò vật ngang giá chung trong trao đổi.Khi vàng độc chiếm vai trò là vật ngang giá
chung trong trao đổi thì tên “vật ngang giá chung” được thay bằng “ Tiền tệ”.Vàng – Tiền
tệ được coi là một loại hàng hoá đặc biệt
- Từ những vật ngang giá chung là những hàng hoá thông thường đến tiền tệ, sản xuất và
trao đổi hàng hoá đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài. Sự hoàn thiện từng bước của vật
ngang giá chung được đánh dấu bằng sự xuất hiện tiền tệ vào đầu thế kỉ 19 đã phản ánh
trình độ sản xuất hàng hoá tiến bộ vượt bậc so với thời kì trước và sự phong phú về số
lượng, chủng loại hàng hoá đưa ra lưu thông trên thị trường.
=> Như vậy, tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt được sử dụng làm vật ngang giá chung
để biểu hiện và đo lường giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác và thực hiện trao đổi
giữa chúng.
* Bản chất:
-Về bản chất, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò làm vật ngang giá chung
để đo lường giá trị của các hàng hóa khác, làm phương tiện để trao đổi hàng hóa, dịch vụ
và thanh toán các khoản nợ nần. Bản chất này đã mang lại cho tiền tệ một tính chất hết
sức đặc biệt, đó là khả năng có thể đổi lấy bất cứ một hàng hóa hay dịch vụ nào để thỏa
mãn nhu cầu của người chủ tiền tệ
-Hàng hóa tiền tệ có hai thuộc tính cơ bản: giá trị sử dụng và giá trị
+ Giá trị sử dụng của tiền tệ là khả năng thỏa mãn nhu cầu cho xã hội của tiền tệ, là công
dụng của tiền tệ. Công dụng đặc biệt của tiền tệ là làm thước đo giá trị và phương tiện lưu
thông cho cả thế giới hàng hóa, vị trí này cho đến nay chưa có hàng hóa nào có thể thay
thế được.
+ Giá trị của tiền tệ được đặc trưng bởi khái niệm “sức mua của tiền tệ” , đó là khả năng
đổi được nhiều hay ít hàng hóa trong giao dịch. Đây là sức mua tổng hợp đối với tất cả
các hàng hóa trên thị trường.
- Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển cao độ với công nghệ ngân hàng hiện đại, quan
niệm về tiền tệ cũng có nhiều thay đổi. Thực tế cho thấy tiền không chỉ là vàng, bạc hoặc
giấy bạc ngân hàng mà là bất cứ thứ gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để
giao nhận hàng hóa, dịch vụ trong việc trả nợ
* Chức năng của tiền tệ
+Thước đo giá trị: Chức năng đo lường giá trị là việc sử dụng tiền tệ làm đơn vị đo
lường giá trị của các hàng hóa,dịch vụ thay cho thước đo thời gian. Tiền tệ cũng có giá
trị nên nó được làm chức năng đo giá trị, nhờ đó mà việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận
lợi
+ Phương tiện lưu thông: Tiền đóng vai trò là môi giới trao đổi hàng hóa.
Thực hiện chức năng là phương tiện trao đổi, tiền tệ có thể xuất hiện dưới dạng vàng,
bạc, tiền giấy, các phương tiện thanh toán như séc, thương phiếu, séc, lệnh phiếu, thẻ
thanh toán hoặc sử dụng bút tệ dưới hình thức chuyển khoản hoặc tài khoản thanh toán
bù trừ.
Thực hiện chức năng là phương tiện trao đổi, tiền không chỉ làm cho quan hệ giao dịch
trở nên đơn giản, thúc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá mà thông qua quá trình
đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng còn giúp các chủ thể kinh tế phát hiện ra
những khiếm khuyết trong sản xuất. (như kiểu dáng, bao bì, mẫu mã, chất lượng hàng
hóa) cũng như điều tiết cung cầu hàng hóa trong từng khu vực của nền kinh tế.
+ Phương tiện cất trữ: Chức năng dự trữ giá trị là việc sử dụng tiền tệ để cất giữ sức
mua qua thời gian.Tiền đại diện cho giá trị, của cải nên thay vì cất trữ hàng hóa người ta
cất trữ tiền. Lúc này tiền được rút ra khỏi lưu thông, đi vào cất trữ dưới nhiều phương
tiện tài sản khác như (cổ phiếu, trái phiếu, đất đai, nhà cửa...) và sẵn sàng tham gia lưu
thông khi cần.
=> Tóm lại, tiền là một phương tiện dự trữ giá trị phổ biến bên cạnh các tài sản khác.
+Phương tiện thanh toán: Tiền tệ làm chức năng thanh toán, tiền được dùng để chi trả
sau khi việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành, tức thanh toán việc mua bán chịu. Chức
năng thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương mại, tức mua bán thông qua
chế độ tín dụng, thanh toán không dùng tiền mặt mà chỉ dùng trên số sổ sách kế toán,
hoặc tiền trong tài khoản, tiền ngân hàng, tiền điện tử..
+ Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài biên giới, giữa các quốc
gia với nhau thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này, tiền được dùng làm
phương tiện mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau. Điều đó có nghĩa là
thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau. Để thực hiện chức năng này, tiền phải có đủ
giá trị, phải là tiền vàng hoặc những đồng tiền được công nhận thanh toán quốc tế. Việc
đổi tiền của một quốc gia này thành tiền của một quốc gia khác được tiến hành theo tỷ giá
hối đoái. Đó là giá cả đồng tiền của một quốc gia này so với đồng tiền của quốc gia khác.

Câu 2: Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường. Nêu ý
nghĩa của quy luật đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam
*Khái niệm:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật
chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh tế khác; các quy luật kinh tế khác
là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi.
*Nội dung:
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu
có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy
luật giá trị.
-Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán cho XH. Cơ sở để các chủ thể kinh tế
trao đổi sản phẩm cho nhau đó là giá trị, cụ thể hơn là giá trị xã hội. Giá trị xã hội mang
trong nó lợi ích của cả người mua và người bán, họ đồng ý trao đổi sản phẩm cho nhau có
nghĩa là lợi ích của người bán và người mua được thực hiện. Quan hệ này là quan hệ bản
chất, mang tính phổ biến của kinh tế hàng hoá nên được gọi là quy luật giá trị.
- Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị xã hội
hay phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết .
* Tác động của quy luật giá trị:
Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả hàng hóa còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như:
cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho
giá cả hàng hóa tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị. Sự vận động của giá
cả thị trường xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
Cơ chế này làm cho quy luật giá trị có ba chức năng
- Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
=> Tác động này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên
thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu.
* Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra
có lãi, bán chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất
để tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá tăng.
* Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả
thấp hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản
xuất ra quyết định ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng
cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng.
* Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế
người ta thường gọi là “bão hòa”.
+ Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng
thường xuyên biến động liên tục.
=> Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động
và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản
xuất của quy luật giá trị.
+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị
trường. Giá cả thấp đc thu hút từ đó chảy đến nơi có giá cao hơn giúp cung cầu cân
bằng
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động,
thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc
lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất
khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản
xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá
ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn
hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong
cạnh tranh, và tránh nguy cơ phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt
của mình sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn
tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng
năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh
mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát
triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, bình tuyển sự tiến bộ, đào thải sự lạc hậu, phân hóa người sản xuất
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao
phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó trở nên giàu
lên nhanh chóng. Họ mua thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, họ làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi
ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
*Ý nghĩa quy luật giá trị đối với sự phát triển kinh tế VN
Mặt tích cực:
+ Quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh tế phải năng động, nhạy bén…
+ Thúc đẩy cơ cấu kinh tế tự nhiên điều chỉnh một cách linh hoạt
+ Làm cho các nguồn lực xã hội được sử dụng hiệu quả, thúc đẩy KTCN (kinh tế công
nghiệp) và LLSX
phát triển.
+ Phải tôn trọng và phát huy vai trò tự điều tiết của quy luật giá trị để phân bố các
nguồn lực trong xã hội theo các ngành, lĩnh vực 1 cách linh hoạt, hiệu quả.
Mặt tiêu cực:
+ Khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, đầu cơ tích trữ,
cạnh tranh không lành mạnh, bất bình đẳng xã hội, tham nhũng…
+ Phải coi trọng vai trò của nhà nước để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực
và phát huy những mặt tích cực của quy luật giá trị

Câu 3: Điều kiện và thuộc tính của hàng hóa sức lao động. Nêu vai trò của hàng hóa
sức lao động đối với sự phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam
*Điều kiện ra đời của hàng hóa sức lao động:
- Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể,
trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó. Để sức lao động trở thành hàng hóa, sức lao động phải hội đủ
hai điều kiện:
+ Một là, người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức lao
động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa, nếu nó
do bản thân con người có sức lao động đưa ra bán
Muốn vậy người có sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình- nghĩa là
tự do sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động thành hàng hóa đòi hỏi phải thủ
tiêu chế đọ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến
+ Hai là, người lao động không có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức lao
động của mình nhằm tạo ra các hàng hóa, cho nên chỉ có thể bán chính sức lao động cuae
chính mình.
Khi sức lao động chuyển hóa thành hàng hóa sức lao động, tiền của nhà tư bản được sử
dụng để mua hàng hóa sức lao động thì khi đó tiền chuyển thành tư bản
*Thuộc tính của hàng hoá sức lao động:
Cũng giống như hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động có hai tính: giá trị và
giá trị sử dụng
Giá trị của hàng hóa sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất ra nó quyết định. Sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động được thực hiện
thông qua tiêu dùng cá nhân của công nhân. Bởi vậy, giá trị sức lao động bằng giá trị toàn
bộ giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra và tái sản xuất sức lao động, duy trì đời
sống công nhân làm thuê
Là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động được quy thành
thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ để duy
trì cuộc sống của công nhân
1. Giá trị hàng hóa sức lao động được quy về giá trị toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần
thiết để tái tạo ra năng lực lao động của chính người lao động và duy trì cuộc sống của
gia đình họ, cũng như chi phí đào tạo. Khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu về lao động
chất lượng cao tăng lên, đồng thời nhu cầu tiêu dùng, dịch vụ của công nhân cũng tăng
lên theo sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Do đó, giá trị hàng hóa sức lao động
có xu hướng tăng lên. Mặt khác, do năng suất lao động tăng lên, giá trị các tư liệu sinh
hoạt và dịch vụ giảm xuống. Vì vậy giá trị của hàng hóa sức lao động chịu sự tác động
của hai xu hướng đối lập này.
- Là hàng hóa đặc biệt, giá trị của hàng hóa sức lao động khác hàng hóa thông thường ở
chỗ: Giá trị hàng hóa sức lao động mang yếu tố tinh thần và lịch sử; phụ thuộc vào hoàn
cảnh lịch sử của từng thời kỳ, từng nước kể cả điều kiện địa lý, khí hậu.
- Giá trị hàng hóa sức lao động khi biểu hiện bằng tiền được gọi là tiền công hay tiền
lương.
2. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức
lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hóa nào đó. Trong quá trình
lao động, người lao động đã một mặt chuyển giá trị lao động đã được vật hóa của tư liệu
sản xuất vào trong giá trị sản phẩm mới, đồng thời bằng hao phí lao động trừu tượng của
mình, hàng hóa sức lao động còn tạo ra được một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó (tiền công).
=> Đây chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Đặc
điểm này là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản
*Mở rộng: Hàng hóa đặc biệt
- Hàng hoá sức lao động là hàng hóa đặc biệt, khác với hàng hóa thông thường ở chỗ:
+ Người lao động chỉ bán quyền sử dụng, không bán quyền sở hữu; chỉ được bán có thời
hạn, không bán vĩnh viễn.
+ Giá trị của hàng hóa sức lao động bao gồm yếu tố tinh thần và lịch sử.
+ Càng sử dụng thì người lao động càng tích lũy được kinh nghiệm, nâng cao tay nghề,
năng suất lao động cao hơn.
+ Trong quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động có khả năng tạo ra một lượng giá trị
mới lớn hơn giá trị bản thân nó.
*Vai trò của hàng hóa sức lao động đối với sự phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam:
- Về phương diện xã hội:
+ Trong mọi chế độ xã hội, tiền lương thực hiện chức năng kinh tế cơ bản của nó là đảm
bảo tái sản xuất sức lao động cho xã hội.
+ Tuy nhiên mức độ tái sản xuất mở rộng cho người lao động và cách tính, cách trả tiền
lương trong mỗi chế độ là khác nhau. Người lao động tái sản xuất sức lao động của mình
thông qua các tư liệu sinh hoạt nhận được từ khoản tiền lương của họ. Để tái sản xuất sức
lao động, tiền lương phải đảm bảo tiêu dùng cá nhân người lao động và gia đình họ.
- Về phương diện kinh tế:
+ Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích lợi ích vật chất đối với người
lao động làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân và gia đình mình mà lao động một
cách tích cực với chất lượng kết quả ngày càng cao.
+ Để trở thành đòn bẩy kinh tế, việc trả lương phải gắn liền với kết quả lao động, tổ chức
tiền lương phải nhằm khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả lao động. Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Bội
số của tiền lương phải phản ánh đúng sự khác biệt trong tiền lương giữa loại lao động có
trình độ thấp nhất và cao nhất được hình thành trong quá trình lao động.

Câu 4: Bản chất của tích lũy tư bản. Nêu những nhân tố tác động đến tích lũy và hệ
quả của tích lũy tư bản.
*Bản chất của tích luỹ tư bản sản xuất thặng dư:
- Để quá trình sản xuất giá trị thặng dư được tái diễn không ngừng với quy mô lớn hơn,
nhà tư bản phải không ngừng tăng quy mô tư bản để thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Muốn vậy, một bộ phận giá trị thặng dư phải được dành để mua thêm tư liệu sản xuất và
thuê thêm công nhân, tức là biến chúng thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng
dư làm tư bản hay chuyển hóa giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy tư bản
- Tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản
xuất.Tích luỹ tư bản là một tất yếu khách quan, do quy luật kinh tế cơ bản, quy luật giá
trị, quy luật cạnh tranh quy định.
- Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư. Qua phân tích tái sản xuất
mở rộng, có thể khẳng định tư bản mới phụ thêm là giá trị thặng dư được tư bản hóa.
Động lực thúc đẩy tích lũy tư bản và tái sản xuất mở rộng là do quy luật giá trị thặng dư-
quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó, các nhà tư bản phải tăng cường
tích lũy, mở rộng sản xuất, đổi mới kĩ thuật
- Nguyên nhân sâu xa thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là quy
luật kinh tế cơ bản cảu chủ nghĩa tư bản. Để tăng quy mô giá trị thặng dư, các nhà tư bản
không ngừng tích lũy và tái sản xuất mở rộng, xem đó là phương tiện căn bản để tăng
cường bóc lột công nhân
*Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy của tư bản:
Một là, tăng tỷ suất giá trị thặng dư.
- Tăng tỉ suất giá trị thặng dư bằng tăng ca, kíp, tăng cường độ lao động. Vận dụng vào 3
ngành:
+ Công nghiệp khai thác khoáng sản đối tượng lao động là tặng vật của tự nhiên, tư bản
bất biến hầu như chỉ có tư liệu lao động, lợi thế ngành
+ Ngành công nghiệp, chỉ cần số lao động hiện có cung cấp thêm một lực lượng lao động
lớn hơn, sẽ nâng cao độ phì nhiêu của đất, làm cho khối lượng nông sản tăng lên
+ Trong ngành công nghiệp chế biến, nguyên liệu do hai ngành trên cung cấp, được
hưởng lợi ích từ hai ngành trên
Hai là, tăng sức sản xuất của lao động để tăng năng suất lao động xã hội
- Năng suất lao động tăng với một lượng giá trị thặng dư nhất định giành cho tích lũy,
quy mô tích lũy được mở rộng thêm.
- Năng suất lao động xã hội tăng thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm. Sự
giảm này đem lại hai hệ quả cho tích lũy: thứ nhất, với khối lượng giá trị thặng dư nhất
định, phần dành cho tích lũy có thể lấn sang phần tiêu dùng, trong khi tiêu dùng của nhà
tư bản không giảm mà vẫn có thể bằng hoặc cao hơn trước; thứ hai, một lượng giá trị
thặng dư nhất định dành cho tích lũy cũng có thể chuyển hóa thành một khối lượng tư
liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước.
Ba là, chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
- Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng làm tăng quy mô
tích lũy thể hiện ở khía cạnh như sau: Một mặt là bộ phận giá trị của những tư liệu lao
động được vận hành trong quá trình sản xuất nhưng không được tính vào sản phẩm. Tư
bản được sử dụng như những lực lượng của tự nhiên. Mặt khác máy móc càng hiện đại,
giá trị của máy móc càng cao, năng lực sản xuất sản phẩm càng lớn, chi phí của máy móc
vào một đơn vị sản phẩm càng nhỏ, chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
càng lớn, càng làm tăng quy mô tích lũy.
Bốn là, quy mô của tư bản ứng trước
Với mọi điều kiện khác không đổi, tư bản nào có quy mô ứng ra ban đầu lớn hơn thù quy
mô tích lũy sẽ lớn hơn
* Hệ quả của tích lũy trong nền kinh tế thị trường:
Một là, quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản
- Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thường xuyên của tiến bộ khoa
học và công nghệ, cấu tạo hữu cơ của chủ nghĩa tư bản không ngừng biến đổi theo hướng
ngày càng tăng lên. Sự tăng lên đó biểu hiện ở chỗ: bộ phận tư bản bất biến tăng nhanh
hơn bộ phận tư bản khả biến, tư bản bất biến tuyệt đối và tăng tương đối, còn tư bản khả
biến thì có thể tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm xuống một cách tương đối
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên nhanh chóng ở thời kì công nghiệp hóa tư bản chủ
nghĩa, hoặc ở những thời kì nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thay đổi cơ cấu kinh tế. Như
vậy, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến nạn thất nghiệp của
chủ nghĩa tư bản
Hai là, quá trình tích lũy tư bả là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng
- Tích tụ và tập trung tư bản là quy luật phát triển của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa:
+ Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng tích lũy của từng nhà tư bản
riêng rẽ, nó là kết quả tất nhiên của tích lũy
.Tích tụ tư bản làm tăng quy mô và số lượng tư bản cá biệt, từ đó thúc đẩy tập trung tư
bản
+Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản cá biệt.
.Tập trung tư bản là điều kiện để nâng cao kết cấu kĩ thuật của tư bản, vì vậy làm tăng
năng suất lao động và thúc đẩy tích lũy tư bản tăng
=> Trong quá trình tích lũy tư bản, tích lũy và tập trung tư bản luôn thúc đẩy lẫn nhau, có
vai trò quan trọng trong việc chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất tư bản chủ nghĩa
Ba là, quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp công nhân
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng là một xu hướng phát triển khách quan của
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do vậy, số cầu tương đối về sức lao động cũng có xu hướng
ngày càng giảm
- Nạn thất nghiệp đã dẫn gia cấp vô sản đến bần cùng hóa. Bần cùng hóa giai cấp vô sản
là hậu quả tất yếu của quá trình tích lũy tư bản.Bần cùng hóa tồn tại dưới hai dạng: bần
cùng hóa tương đối vầ bần cùng hóa tuyệt đối

Câu 5: Mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền, chỉ ra sự tác động của độc quyền
đối với nền kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
*Quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền:
Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự do. Nhưng
sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại còn làm cho cạnh
tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, không chỉ tồn tại sự cạnh tranh giữa
những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, mà còn có thêm các loại cạnh tranh sau:
- Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền. Các
tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối thôn tính các xí nghiệp ngoài độc
quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công,
phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống... để đánh bại đối thủ.
- Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này có nhiều
hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc bằng một sự
thoả hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên; cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác
ngành có liên quan với nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật...; cạnh tranh giữa các tổ
chức độc quyền trong nước với các tổ chức độc quyền ở nước ngoài.
- Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản tham gia
Cacten, Xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi hoặc giành tỷ lệ
sản xuất cao hơn. Các thành viên của Tơrớt và Côngxoócxiom cạnh tranh với nhau để
chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.
*Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường
. Những tác động tích cực:
- Độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động
khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
Độc quyền là kết quả của quá trình tích tụ, tập trung sản xuất ở mức độ cao. Do đó,
các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung đƣợc các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực
về tài chính trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy
sự tiến bộ kỹ thuật. Tuy nhiên, đây chỉ là khả năng, còn khả năng có trở thành hiện thực
hay không còn phụ thuộc và nhiều yếu tố, nhất là phụ thuộc vào mục đích kinh tế của các
tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trường.
- Độc quyền làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Là kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh các doanh nghiệp lớn, độc quyền
tạo ra được ưu thế về vốn trong việc ứng dụng những thành tựu kỹ thuật, công nghệ sản
xuất mới, hiện đại, áp dụng những phƣơng pháp sản xuất tiên tiến, làm tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, do đó nâng cao được năng lực cạnh tranh trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.
- Độc quyền tạo được sức mạnh góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng sản
xuất lớn hiện đại.
Với ưu thế tập trung đƣợc sức mạnh kinh tế to lớn vào trong tay mình, nhất là sức
mạnh về tài chính, tạo cho độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế trọng
tâm, mũi nhọn, tập trung, quy mô lớn, do đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển
theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, hiện đại.
. Những tác động tiêu cực:
- Độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây thiệt hại cho người tiêu
dùng và xã hội.
Với sự thống trị của độc quyền và vì mục đích lợi nhuận độc quyền cao, độc quyền
tạo ra sản xuất lớn, có thể giảm chi phí sản xuất và do đó giảm giá cả hàng hóa, nhưng
độc quyền không giảm giá,mà họ luôn áp đặt giá bán hàng hóa cao và giá mua thấp, thực
hiện sự trao đổi không ngang giá, hạn chế khối lượng hàng hóa… tạo ra sự cung cầu giả
tạo về hàng hóa, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội.
- Độc quyền đã phần nào kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển kinh
tế, xã hội
Nhờ những tác động tích cực, độc quyền tập trung được các nguồn lực lớn, tạo ra khả
năng nghiên cứu, phát minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật. Nhưng vì lợi ích độc quyền,
hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng chế chỉ được thực hiện khi vị thế độc quyền của
chúng không có nguy cơ bị lung lay. Do vậy, mặc dù có khả năng về nguồn lực tài chính
tạo ra khả năng trong nghiên cứu, phát minh các sáng chế khoa học, kỹ thuật, nhưng các
tổ chức độc quyền không tích cực thực hiện các công việc đó. Điều này chứng tỏ, độc
quyền đã ít nhiều kìm hãm thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển
kinh tế, xã hội.
- Độc quyền chi phối các quan hệ kinh tế, xã hội, làm tăng sự phân hóa giàu nghèo.
Với sự thống trị kinh tế của mình và mục đích lợi nhuận độc quyền cao, độc quyền có
khả năng và không ngừng bành trướng sang các lĩnh vực chính trị, XH, kết hợp với các
nhân viên chính phủ để thực hiện mục đích lợi ích nhóm, kết hợp sức mạnh NN hình
thành độc quyền NN, chi phối quan hệ, đường lối nội bộ, đối ngoại của NN, vì lợi ích của
các tổ chức độc quyền. Do đó, góp phần làm tăng sự phân hóa giàu nghèo trong XH ở các
nước tư bản cũng như trên phạm vi thế giới

Câu 6: Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Về mục đích:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là phương thức để phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật của CNXH; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
=> Đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa
*Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế có nhiều hình thức sở
hữu khác nhau, giống với các nền kinh tế thị trường của các quốc gia. Cụ thể ở Việt Nam
hiện có: sở hữu công hữu (sở hữu NN, sở hữu tập thể), sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn
hợp.
=> Với chủ trưởng và chính sách của Đảng và NN, các chủ thể kinh tế được quyền lựa
chọn các hình thức sở hữu để phù hợp với yêu cầu và phát huy tối ưu tiềm năng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh theo luật pháp.Trong xu hướng phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, hình thức công hữu ngày càng trở thành hạt nhân cơ bản
trong quá trình xây dựng CNXH
-Với sự tồn tại đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN thì tất yếu nền kinh tế đó có nhiều thành phần kinh tế.
=> Đảng ta đã xác định, hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có
bốn thành phần kinh tế gồm:kinh tế NN; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế được tự chủ sản xuất kinh
doanh và chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường, luật pháp của NN. Giữa các chủ thể
vừa có sự hợp tác, vừa có cạnh tranh và được bình đẳng trước pháp luật
- Đảng ta đã xác định, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều thành
phần kinh tế tham gia, “trong đó kinh tế NN giữ vai trò làm chủ đạo, kinh tế tư nhân là
động lực quan trọng của nền kinh tế” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII)
=> Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không chỉ là phát triển
lực lượng sản xuất mà còn là từng bước xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp theo
định hướng XHCN
* Về quan hệ quản lí NN:
- Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ở mọi quốc gia trên thế giới, NN đều phải can
thiệp (điều tiết) quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhằm khắc phục những hạn chế
của nền kinh tế thị trường và định hướng chúng theo mục tiêu đã định. Tuy nhiên, quan
hệ quản lý và cơ chế quản lí trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
có đặc trưng riêng đó là: NN quản lý và thực hành cơ chế quản lý là NN pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, sự
làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở
vật chất kĩ thuật cho CNXH, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Đảng lãnh đạo nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thông qua cương lĩnh, đường
lối phát triển KT-XH và các chủ trương, quyết sách lớn trong từng thời kì phát triển của
đất nước, là yếu tố quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường
- NN quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thông qua pháp luật, các chiến
lược, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế chính sách cùng các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn
trọng những nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng XHCN ở Việt
Nam.
-NN chăm lo xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo
môi trường để phát triển đồng bộ các loại thị trường, khuyến khích các thành phần phát
huy mọi nguồn lực để mở mang kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, có trật tự,
kỉ cương.
- Thông qua cơ chế,chính sách và các công cụ quản lí kinh tế, NN tác động vào thị trường
nhằm bảo đảm tính bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô; khắc phục những khuyết tật
của kinh tế thị trường, khủng hoảng chu kì, khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng tài chính -
tiền tệ, thảm họa thiên tai, nhân tai...
- NN hỗ trợ thị trường trong nước khi cần thiết, hỗ trợ các nhóm dan cư có thu nhập thấp,
gặp rủi ro trong cuộc sống... nhằm giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng
trong XH mà kinh tế thị trường mang lại
* Về quan hệ phân phối:
- Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bao gồm phân phối các
nguồn lực quốc gia cho sự phát triển kinh tế- XH và phân phối thu nhập. Các nguồn lực
cho sự phát triển, đặc biệt là các nguồn lực mà NN là đại diện chủ sở hữu như: tài
nguyên, khoáng sản, đất đai, ngân sách nhà nước.. được tiến hành phân phối theo lộ trình
thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển KT-XH đất nước trong từng giai đoạn và đảm
bảo lợi ích quốc gia trong dài hạn.
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện theo nhiều hình thức phân phối
“Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực
được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH; thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh XH, phúc lợi XH”
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI)
- Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được
xác định: Đảm bảo từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Căn cứ để tiến
hành phân phối là kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời kết hợp với các hình
thức phân phối khác để huy động được nguồn lực XH như: phân phối theo vốn, theo tài
năng, tài sản đóng góp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Bên cạnh thực hiện cơ chế phân phối thu nhập đó, cần thực hiện các chính sách an sinh
XH; phúc lợi XH để thực hiện xóa đói, giảm nghèo, nhất là các đối tượng chính sách,
vùng sâu, vùng xa
*Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng XH
- Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN phải thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế
với công bằng XH; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa- XH; thực hiện tiến bộ
và công bằng XH ngay trong từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, và từng
giai đoạn phát triển của kinh tế TT
=> Đây là đặc trưng phản ánh thuộc tính quan trọng mang tính định hướng xã hội chủ
nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bởi tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều
kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục tiêu thể hiện bản
chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta phải hiện thực hóa từng bước trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết công bằng xã hội không
chỉ là phương tiện để duy trì sự tăng trưởng ổn định, bền vững mà còn là mục tiêu phải
hiện thực hóa. Do đó, ở bất cứ giai đoạn nào, mỗi chính sách kinh tế cũng đều phải
hướng đến mục tiêu phát triển xã hội và mỗi chính sách xã hội cũng phải nhằm tạo động
lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; phải coi đầu tư cho các vấn đề xã hội (giáo dục, văn
hóa, y tế, thể dục, thể thao…) là đầu tư cho sự phát triển bền vững.
- Tuy nhiên, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội không phải là cào bằng hay kiểu bình
quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra bất chấp chất lượng, hiệu quả sản xuất
kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Hoặc
cũng không thể dồn mọi nguồn lực cho phát triển xã hội vượt quá khả năng của nền kinh
tế. Do đó cần kết hợp sức mạnh của cả nhà nước, cộng đồng và mỗi người dân trong các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước vừa phải quan tâm đâu tư thỏa đáng vừa
phải coi trọng huy động các nguồn lực trong nhân dân để đem lại lợi ích chung cho xã hội
và mỗi người.
=> Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt của
chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại, văn minh. Tuy nhiên,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang trong quá trình hình
thành và phát triển tất sẽ còn bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện.

Câu 7. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế, nêu một số quan hệ lợi
ích kinh tế cơ bản và phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích
kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
*Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế:
- Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Là phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích kinh tế
trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, mà điều này lại phụ
thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng tốt. Như vậy, nhân tố đầu
tiên ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ thể là lực lượng sản xuất. Chính vì vậy,
phát triển lực lượng sản xuất trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các quốc gia.
- Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí,
vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế
- xã hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất, mà nó là sản
phẩm của những quan hệ sản xuất, là hình thức vốn có bên trong, hình thức tồn tại và
biểu hiện của các quan hệ sản xuất và trao đổi trong nền kinh tế thị trường.
- Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, bằng nhiều
loại công cụ, trong đó có các chính sách kinh tế - xã hội. Chính sách phân phối thu nhập
của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế.
Khi mức thu nhập và tương quan thu nhập thay đổi, phương thức và mức độ thỏa mãn
các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể cũng thay đổi.
- Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế.
Bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các quốc gia có
thể gia tăng lợi ích kinh tế từ thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh
tế của các doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa có
thể bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài. Đất nước có thể phát triển
nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường… Điều đó có nghĩa là hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều
chiều đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.
*Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường
Một là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động
- Lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động được thể hiện tập trung ở lợi nhuận mà họ
thu được trong quá trình kinh doanh. Lợi ích kinh tế của người lao động thể hiện tập
trung ở thu nhập (trước hết là tiền lương, tiền thưởng) mà họ nhận được từ việc bán sức
lao động của mình cho người sử dụng lao động. Lợi ích kinh tế giữa người lao động và
người sử dụng lao động có quan hệ chặt chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau
- Sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động thể
hiện: + Nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế trong điều kiện bình
thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được lợi ích kinh tế của mình; đồng thời họ sẽ
tiếp tục sử dụng lao động nên người lao động cũng thực hiện được lợi ích kinh tế của
mình vì có việc làm, nhận được tiền lương.
+ Ngược lại, nếu người lao động tishc cực làm việc, lợi ích kinh tế của họ được thực hiện
thông qua tiền lương được nhận, góp phần vào sự gia tăng lợi nhuận của người sử dụng
lao động
=> Tạo lập được sự thống nhất trong quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và
người sử dụng lao động
Hai là, quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động
- Trong cơ chế thị trường, những người sử dụng lao động vừa là đối tác, vừa là đối thủ
của nhau, từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa họ. Sự thống
nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao động biểu hiện tập
trung ở lợi nhuận bình quân mà họ nhận được
- Sự thống nhất về lợi ích kinh tế làm cho những người sử dụng lao động liên kết chặt chẽ
với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Sự liên kết giữa những người sử dụng lao động trong từng lĩnh
vực đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao vị thế, bảo vệ lợi ích kinh tế của
họ.Họ đã trở thành đội ngũ doanh nhân, góp phần quan trọng vào phát triển KT-XH của
đất nước
- Trong cơ chế thị trường, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao
động làm cho họ cạnh tranh với nhau quyết liệt. Hệ quả tất yếu là các nhà doanh nghiệp
có giá trị cá biệt cao hơn giá trị XH và các rủi ro khác bị thua lỗ, phá sản.. bị loại bỏ khỏi
thương trường. Đồng thời, những người thu được nhiều lợi nhuận sẽ phát triển nhanh
chóng.
Ba là, quan hệ lợi ích giữa những người lao động
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều người muốn bán sức lao động. Để thực hiện lợi ích
kinh tế của mình, người lao động không phải chỉ quan hệ với người sử dụng lao động, mà
còn phải quan hệ với nhau. Nếu có nhiều người bán sức lao động, người lao động phải
cạnh tranh với nhau. Hậu quả là tiền lương của người lao động bị giảm xuống, một bộ
phận người lao động bị sa thải. Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ
có thể thực hiện được các yêu sách của mình (ở một chừng mực nhất định) đối với giới
chủ (những ng sử dụng lao động)
Bốn là, Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội
- Trong cơ chế thị trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động, người sử
dụng lao động đều là thành viên của XH nên mỗi người đều có lợi ích cá nhân và có quan
hệ chặt chẽ với lợi ích XH
+ Nếu ng lao động và ng sử dụng lao động làm việc theo đúng các quy định của pháp luật
và thực hiện được các lợi ích kinh tế của mình thì họ đã góp phần phát triển nền kinh tế,
thực hiện lợi ích kinh tế của XH. Khi lợi ích kinh tế của Xh được thực hiện, XH phát
triển sẽ tạo lập môi trường thuận lợi để người lao động và người sử dụng lao động thực
hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế của mình
+Ngược lại nếu giữa ng lao động và ng sử dụng lao động nảy sinh mâu thuẫn không giải
quyết được; hoặc ng lao động và ng sử dụng lao động cộng tác với nhau làm hàng giả,
hàng nhái, trốn thuế.. thì lợi ích kinh tế của XH sẽ bị tổn hạ, nền kinh tế chậm phát triển,
chất lượng cuộc sống bị giảm sút. Từ đó ảnh hưởng xấu đến lợi ích kinh tế của các chủ
thể, trong đó có lợi ích kinh tế của ng lao động và ng sử dụng lao động
*Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
Thứ nhất, thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường
- Kinh tế thị trường có những ưu việt hơn hẳn so vowi kinh tế tự nhiên và kinh tế chỉ huy:
năng động, hiệu quả, duy trì động lực mạnh mẽ để phát triển LLSX, cải thiện nâng cao
hiệu quả dân cư, loại bỏ nhanh chóng những nhân tố lạc hậu, không hiệu quả ...
=> KTTT là cơ chế đáp ứng tốt nhất lợi ích kinh tế của các chủ thể; là điều kiện tiên
quyết bảo đảm sự hài hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể
Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ chức
xã hội
Mặc dù, nền kinh tế thị trường có nhiều ưu việt song nó cũng tồn tại nhiều hạn chế : quá
trình phát triển kinh tế thị trường ở nước xuất hiện nhiều mâu thuẫn lợi ích, đòi hỏi phải
giải quyết, trong đó mâu thuẫn căn bản hiện nay đó là mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa cá
nhân và xã hội, nhất là trên lĩnh vực sở hữu, phân phối. Những mâu thuẫn vốn có của các
quan hệ lợi ích dưới những tác động từ những mặt trái của kinh tế thị trường nó trở nên
ngày càng phức tạp, đặc biệt là mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, từ đó đặt
ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
- Việc giải quyết các mâu thuẫn này một cách hài hòa cần xác định các quan điểm rõ
ràng, có tính định hướng cho sự phát triển, đặc biệt cần kết hợp các lợi ích cá nhân - tập
thể - xã hội và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”, phù hợp với lợi ích của
nhân loại tiến bộ. Trên cơ sở đó thực hiện đồng bộ các giải pháp thông qua các chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về sở hữu, phân phối nhằm hướng tới
sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể, chăm lo đời sống vật chất cho mọi người dân, cần có
các chính sách khuyến khích làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện phát triển và giúp đỡ bằng
mọi biện pháp
- Các tổ chức xã hội có thể hỗ trợ tốt cho Nhà nước trong việc đạt được những mục tiêu
kinh tế - xã hội cũng như góp phần giải quyết các vấn đề cơ bản của xã hội Việt Nam
ngày nay, như công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo.. Các tổ chức xã hội ở Việt Nam bổ
sung cho nhà nước vì mục tiêu chung, vì lợi ích chung của cộng đồng. Ngoài ra các tổ
chức xã hội đã trở thành lực lượng quan trọng, vừa góp phần thực hiện đường lối, chính
sách, vừa mở rộng liên kết kinh tế - xã hội với quốc tế và khu vực

Câu 9: Sự cần thiết khách quan, nội dung và tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến phát triển của Việt Nam.
*Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
- Hiện có hai cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế:
+ Thứ nhất, hiểu theo nghĩa hẹp, khái niệm “hội nhập kinh tế quốc tế” được hiểu là sự
gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu,
trong đó mối quan hệ giữa các thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung
của khối + Thứ hai, cách hiểu theo nghĩa
rộng, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở cửa nền kinh tế và tham gia vào mọi mặt
của đời sống quốc tế; đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế.
=> Theo một cách chung nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các nước tiến hành
các hoạt động nhằm tăng cường sự gắn kết giữa các nền kinh tế của các quốc gia với
nhau dựa trên sự chia sẻ nguồn lực và lợi ích trên cơ sở tuân thủ các luật chơi chung
trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
*Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế được thúc đẩy bởi những nhân tố chính sau đây:
- Một là, sự phân công lao động quốc tế ngày càng phát triển.
+ Phân công lao động giữa các quốc gia trên phạm vi thế giới, được hình thành khi
sự phân công lao động xã hội vượt ra ngoài biên giới một quốc gia do sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Phân công lao động quốc tế ngày càng phát triển và bao trùm
toàn bộ nền kinh tế thế giới.
+ Sự phát triển của phân công lao động quốc tế làm cho nền kinh tế của các nước ngày
càng gắn chặt vào nền kinh tế toàn cầu, hình thành các mối quan hệ vừa lệ thuộc, vừa
tương trợ lẫn nhau trong một chỉnh thể nhất định khiến cho hội nhập kinh tế quốc tế trở
thành xu thế chung của thế giới
- Hai là, do xu thế khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
+ Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh
tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ
chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mô toàn cầu
+ Toàn cầu hóa làm cho các nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào và được cấu trúc lại trên
quy mô quốc tế thông qua một loạt quy trình, giao lưu, trao đổi..Như vậy, toàn cầu hoá
không chỉ là sự phụ thuộc lẫn nhau (dù là phụ thuộc toàn diện giữa các nền kinh tế) mà là
sự hoà nhập các nền kinh tế này để xu thế hình thành nên một nền kinh tế toàn cầu thống
nhất.
+ Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua
mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong
sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất
+ Toàn cầu hoá kinh tế là dưới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và cách mạng khoa
học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính dựa dẫm vào nhau, bổ sung cho nhau của nền
kinh tế các nước ngày càng gia tăng, yếu tố cản trở sản xuất đang ngày càng mất đi bởi sự
tự do lưu thông toàn cầu.
- Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển chủ yếu và phổ biến của các
nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
+ Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp
cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm của các nước cho sự phát triển của mình.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế còn là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát
triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên
tiến, khắc phục ngay nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
+ Hơn nữa, hội nhập kinh tế còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu
nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
*Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập thành công.
Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.
Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại của
một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu tư quốc tế, hợp tác quốc
tế, dịch vụ thu ngoại tệ…
*Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam
Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế
quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn trong phát triển của các
nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng.
1
HNKTQT thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển, tạo
điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của nước ta trong phân
công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
VD: Ngày 15/12/2019, sau hơn 5 năm đàm phán giữa hai bên, Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp
Nhật Bản gửi thư cho Cục BVTV thông báo chính thức mở cửa cho quả vải thiều Việt
Nam xuất khẩu trực tiếp sang Nhật Bản. Lô vải thiều tươi đầu tiên xuất khẩu bằng đường
hàng không sang thị trường Nhật Bản đã tới Nhật Bản vào ngày 20-6 và bán hết ngay
trong ngày 21-6, được người tiêu dùng và đối tác Nhật Bản đánh giá rất cao. Dù đây
không phải lần đầu một loại trái cây của Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường quốc
tế, nhưng việc chính thức gia nhập thị trường Nhật Bản đánh dấu một bước tiến mới, mở
ra nhiều hứa hẹn không chỉ với nền nông nghiệp mà còn cả nền nền kinh tế của Việt
Nam.
2
Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu
quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước; góp phần
cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa học công nghệ
hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế.
VD: Nếu như trong giai đoạn 1986-1990, trước khi đất nước bước vào thời kỳ mở cửa,
hội nhập toàn diện, tăng trưởng GDP bình quân chỉ đạt 4,4%/năm thì thời kỳ từ 1991-
2011 tăng trưởng GDP bình quân đạt từ 6 - 8%.
=> Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, phát huy vai trò của khu vực
công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện, trình
độ công nghệ sản xuất được nâng lên. Kết quả là nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế
- xã hội và ra khỏi danh sách các nước kém phát triển sau 30 năm đổi mới.
3
Giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia.
Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục – đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước mà nâng
cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua
đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ để thay đổi, nâng cao chất lượng
của nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu
hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội
thuận lợi để tiếp nhận vốn, tiếp thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh
nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực
KH&CN quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Lao động Việt Nam có cơ
hội tham gia sâu rộng vào phân công lao động toàn cầu, tiếp cận với khoa học kĩ thuật
tiên tiến, nâng cao trình độ, tăng thu nhập…
4
Làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn
tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức
quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Để đáp ứng quá trình hội nhập thêm hiệu quả, Đảng và Nhà nước đã có những chủ
trương cũng như chính sách kịp thời để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vào Việt Nam thông qua việc sửa đổi một số quy định về thuế,…Hay có các quyết định
hỗ trợ về vốn cho doanh nghiệp trong nước trong quá trình tiếp cận thị trường quốc tế.
Nhiều cuộc gặp gỡ, giao lưu trao đổi giữa các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài
nước diễn ra nhằm thúc đẩy nhanh quá trình hợp tác giữa các bên và đạt được hiệu quả
tương đối lớn.
- Cụ thể, từ năm 2014 đến nay, Công ty Chứng khoán Maybank Kim Eng đã thu xếp
thành công gần 800 buổi gặp gỡ, giới thiệu doanh nghiệp niêm yết và cơ hội đầu tư tại thị
trường Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài bao gồm đại diện các tổ chức, quỹ đầu
tư quốc tế, khách hàng là nhà đầu tư tổ chức và cá nhân nước ngoài.
5
Tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân được thụ hưởng các sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh;
được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội tìm kiếm việc
làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Từ khi quá trình hội nhập diễn ra, nhiều thương hiệu nước ngoài du nhập vào Việt Nam,
người dân có cơ hội trải nghiệm các sản phẩm mới với chất lượng cao, đa dạng nhiều
mẫu mã đến từ nhiều quốc gia lớn như Đức, Nhật Bản, Thụy Sĩ,… Như vậy, người dân
có thể hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn mua sản phẩm phù hợp với túi tiền của
mình cũng như nhu cầu sử dụng của bản thân.
6
Tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế
phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra
chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
Khi hội nhập về kinh tế, các nhà hoạch định chính sách sẽ nhanh chóng nắm bắt được xu
thế thế giới và nhu cầu của khách hàng. Tiến hành các phân tích, thống kê và đưa ra các
kết luận về bước tiếp theo mà các nhà đầu tư cần phải làm. Qua đó, Đảng và Nhà nước
cũng có cái nhìn cụ thể về thị trường trong và ngoài nước, đưa ra các chính sách kịp thời
trước sự xuất hiện của các loại hình kinh doanh hay các hình thức sản phẩm mới.
7
Là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa của
thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu
thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Thông qua các chương trình, hoạt động văn hóa, các quốc gia vừa hiểu hơn về đối tác
làm ăn của mình, vừa tiếp thu các nét độc đáo của nước bạn, gắn kết mối quan hệ các
nước lại với nhau. Đồng thời là cơ hội để Việt Nam quảng bá hình ảnh của nước nhà ra
bạn bè quốc tế, tạo ấn tượng tốt đẹp về đất nước và con người Việt Nam.
- Ngày 12/1/2020, Vụ Ngoại gia Văn hóa- UNESCO đã tổ chức chương trình “ Khám
phá văn hóa cổ truyền Việt dành cho đoàn ngoại giao- Tết nguyên đán cùng Việt xưa”
với sự tham gia của Đại sứ Cộng Hòa Italy. Đây là cơ hội để Đại sứ hiểu hơn về phong
8
tục Tết Việt, thông qua trải nghiệm làm bánh chưng. Tác
động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở,
dân chủ, văn minh hơn.
- Hội nhập về chính trị mở ra nhiều lợi thế cho Việt Nam trên con đường tiến lên xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thấy được tầm quan trọng đấy, ngay
từ khi đất nước giành được độc lập, Đảng và Nhà nước đã tích cực đưa Việt Nam tham
gia vào các tổ chức lớn như ASEAN,…
- Ngày 28/7/1995, ngay khi vừa trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam
đã tích cực đóng góp vào tổ chức, mở ra một thời kì mới cho ASEAN cũng như chính
mình. Thông qua quá trình làm việc cùng các quốc gia trong khối, Việt Nam từng bước
xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh hơn, học tập kinh nghiệm từ các quốc gia
thành viên.
9
Tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế,
nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ chức chính trị, kinh tế
toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế đã
tạo ra sự đan xen về lợi ích giữa Việt Nam và các nước, các trung tâm quyền lực, tạo thế
và lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; thúc đẩy xu thế hòa bình, ổn định, hợp
tác trong khu vực, giúp ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh; làm cho sức mạnh kinh tế của đất
nước từng bước được nâng lên là điều kiện quan trọng để tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh của đất nước, góp phần nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực và
trên thế giới.Thực tế cho thấy vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN,
APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao (giữ chức Chủ tịch Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN…).
10
Giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế để tập
trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và
nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như môi trường,
biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
Hiện nay, nhiều vấn đề mới nổi lên và không chỉ còn là vấn đề của riêng một nước nào
mà trở thành vấn đề toàn cầu. Tiêu biểu là các vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu.
Các vấn đề này không một nước nào có thể tự giải quyết mà đòi hỏi cần có sự hợp tác,
liên kết giữa các nước với nhau để cùng tìm ra giải pháp và cùng thực hiện nó. Tác
động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế
quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó đặt ra nhiều rủi ro, bất lợi và thách
1 1
thức: Làm gia tăng sự cạnh
tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong sự
phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội
Thách thức lớn và trực diện nhất là sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ sản
phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của ta sẽ phải cạnh
tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị trường quốc tế mà
ngay trên thị trường nội địa. Chính phủ ta phải cạnh tranh với chính phủ các nước trong
cải thiện môi trường thu hút đầu tư, nguồn nhân lực… Các lĩnh vực kinh tế vốn được bảo
hộ bị thách thức gay gắt do việc cắt giảm thuế quan, như ngành sản xuất ô-tô, mía đường,
gạo, xăng dầu…
2
Làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền
kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị
trường quốc tế.
Khi chúng ta hội nhập, ví dụ như đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp thì như vậy
ngành công nghiệp của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào thế giới. Như vậy việc lợi dụng
vấn đề phụ thuộc đó để ép chúng ta về mặt chính trị, quân sự là điều dễ dàng xảy ra. Cho
nên khi chúng ta kêu gọi đầu tư cần phải tỉnh táo và vẫn đảm bảo tính độc lập, tự chủ,
không phụ thuộc vào bất kì một quốc gia nào.Chỉ khi tự làm chủ thì mới có thể phát triển
tốt, một khi đã phụ thuộc rồi thì ắt hẳn sự phát triển của chúng ta gặp nhiều khó khăn do
sự cản trở từ những yếu tố bên ngoài. Người Việt Nam có câu: “Việt Nam sẵn sàng làm
bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới, đầu tư của VN là đầu tư của tất cả các nước”
không hạn chế quốc gia nào. Đó là chiến lược rất hay của VN để tránh phụ thuộc vào
nước khác.
3
Dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm khác
nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu – nghèo và bất bình
đẳng xã hội.
Những người giàu thì càng giàu và những người nghèo thì càng nghèo
4
Các nước đang phát triển như nước ta phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài
nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt
trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ
thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.
Trong đầu tư chúng ta phải tinh lọc, chọn những ngành nghề ít gây môi nhiễm môi
trường. Thường các nước phát triển hiện nay thường có xu hướng đầu tư các ngành nghề
công nghiệp gây ô nhiễm lớn sát các nước kém phát triển. Chính vì thế buộc chúng ta
phải biết lựa chọn trong quá trình đầu tư, để làm thế nào quá trình đầu tư đó phát triển
những không gây vấn đề ô nhiễm môi trường cho xã hội, song vẫn tạo ra sự phát triển ổn
định và an toàn cho quốc gia, dân tộc.
5
Tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh
nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và sự ổn định trật tự, an toàn xã hội
- Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn,
bên cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền
thống (an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố…); cục diện an ninh luôn thay đổi; công
cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên.
- Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế giới sẽ
tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta
phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình
quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích
cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới, giữ
vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị- xã hội.
6
Làm gia tăng nguy cơ sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam bị xói mòn trước
sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay,
bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản
lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng
7
thụ, tự do tư sản… Làm tăng nguy cơ gia tăng
của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư
bất hợp pháp… .
=> Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của
chúng là rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức của hội nhập kinh
tế là vấn đề phải đặc biệt coi trọng.

You might also like