TLSV Uth 2024

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 69

ĐIỀU LỆ CỦA HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM (SỬA ĐỔI,

BỔ SUNG)
Điều lệ của Hội sinh viên Việt Nam (sửa đổi, bổ sung)
(Phê duyệt kèm theo Quyết định số 1739/QĐ-BNV ngày 25 tháng 12 năm 2009
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ )
Trải qua các giai đoạn cách mạng, Hội Sinh viên Việt Nam đã tập hợp đông đảo
sinh viên, phát huy truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc, cùng các tổ chức thanh
niên khác có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, Hội Sinh viên
tiếp tục phát huy truyền thống trí tuệ, sức trẻ và tinh thần tình nguyện của sinh viên
Việt Nam vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc và sự tiến bộ của tuổi trẻ.
Chương I
TÊN GỌI, TÔN CHỈ, MỤC ĐÍCH
Điều 1. Tên gọi, ngày truyền thống, biểu trưng và bài ca chính thức của Hội.
1. Tên Tiếng Việt: HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM.
2. Tên Tiếng Anh: VIETNAM NATIONAL UNION OF STUDENTS.
3. Ngày truyền thống của Hội: Ngày 9 tháng 1.
4. Biểu trưng của Hội: Biểu tượng hình tròn, nền xanh da trời (xanh cyan 100%),
biểu tượng hình ngọn lửa và ngôi sao dưới có dòng chữ Hội Sinh viên Việt Nam.
5. Bài ca chính thức của Hội: Bài ca sinh viên của nhạc sĩ Trần Hoàng Tiến.
Điều 2. Tôn chỉ, mục đích của Hội.
Hội Sinh viên Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của sinh viên Việt Nam, đoàn
kết, tập hợp rộng rãi mọi sinh viên Việt Nam cùng phấn đấu học tập, rèn luyện vì
mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh; góp
phần xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, giàu mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì quyền lợi hợp pháp, chính đáng của
sinh viên; đoàn kết và hợp tác bình đẳng với các tổ chức sinh viên, thanh niên tiến
bộ và nhân dân các nước trên thế giới vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Điều 3. Nguyên tắc, phạm vi hoạt động, địa vị pháp lý và trụ sở chính của Hội.
1. Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp
thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Nội dung cơ bản của nguyên
tắc là:
a) Tất cả sinh viên tham gia vào tổ chức và hoạt động của Hội trên cơ sở tự
nguyện.
b) Dân chủ thảo luận, hiệp thương biểu quyết bằng hình thức giơ tay khi quyết
định các nội dung công tác của Hội, khi bầu Ban Chấp hành, Ban Thư ký, các chức
danh lãnh đạo của Hội ở các cấp và đại biểu đi dự Đại hội, Hội nghị đại biểu Hội
cấp trên.
c) Các thành viên có trách nhiệm đề xuất, thảo luận, thống nhất và phối hợp để tổ
chức thực hiện các chương trình hoạt động của Hội.
2. Hội Sinh viên Việt Nam hoạt động trong phạm vi cả nước, được phép hoạt động
ở nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại.
3. Hội hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản
lý của Nhà nước của Cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về thanh niên và vai
trò nòng cốt chính trị của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Hội là thành viên tập thể của
Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam và Hội Sinh viên quốc tế.
4. Hội Sinh viên Việt Nam có tư cách pháp nhân, trụ sở Trung ương Hội đặt tại
Thủ đô Hà Nội.
Chương II
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
Điều 4. Chức năng, nhiệm vụ.
1. Tập hợp, đoàn kết, khuyến khích, giúp đỡ hội viên, sinh viên trong học tập và
rèn luyện, hoàn thành nhiệm vụ của người sinh viên, góp phần xây dựng nhà
trường vững mạnh.
2. Giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống và ý thức pháp luật cho hội
viên, sinh viên.
3. Phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của sinh viên; tham gia phản biện, đề xuất các
chủ trương, chính sách liên quan đến sinh viên. Tổ chức các hoạt động thiết thực
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp, chính đáng
của hội viên, sinh viên và tổ chức Hội.
4. Đoàn kết, phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các tổ chức sinh viên, thanh
niên tiến bộ và nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Chương III
HỘI VIÊN
Điều 5. Hội viên.
1. Sinh viên là công dân Việt Nam đang học bậc đại học, cao đẳng ở trong và ngoài
nước tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện gia nhập Hội thì được kết nạp vào Hội Sinh
viên Việt Nam.
2. Cán bộ, giáo viên, các nhà hoạt động chính trị, khoa học, kinh tế, xã hội, văn
hóa, nghệ thuật có uy tín trong sinh viên, trong xã hội, ở trong và ngoài nước có
đóng góp tích cực cho Hội và tự nguyện tham gia các hoạt động của Hội thì có thể
được kết nạp là hội viên danh dự Hội Sinh viên Việt Nam.
3. Những người đã học qua bậc đại học, cao đẳng, nếu được cử vào cơ quan lãnh
đạo của Hội thì tiếp tục hoạt động trong tổ chức Hội.
Thủ tục kết nạp hội viên; quyền và nghĩa vụ của hội viên danh dự do Ban Thư kí
Trung ương Hội quy định.
Điều 6. Quyền của hội viên.
1. Yêu cầu tổ chức Hội đại diện, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của
mình trước pháp luật và công luận, được giúp đỡ và tạo điều kiện phấn đấu để
trưởng thành; đề đạt ý kiến, nguyện vọng thông qua tổ chức Hội về các vấn đề liên
quan đến học tập, rèn luyện, đời sống với Đảng, Nhà nước, các Bộ, ban ngành,
đoàn thể xã hội.
2. Được cấp thẻ hội viên; tham gia mọi hoạt động và được hưởng các phúc lợi tập
thể của Hội hoặc do Hội quản lý.
3. Bàn bạc và giám sát các công việc của Hội, được ứng cử và đề cử vào cơ quan
lãnh đạo các cấp của Hội.
Điều 7. Nhiệm vụ của hội viên.
1. Luôn luôn phấn đấu vì lý tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh; tích cực học tập, rèn luyện và tham gia công tác xã hội, đoàn kết giúp
đỡ các hội viên, sinh viên trong học tập và trong cuộc sống.
2. Chấp hành Hiến pháp và pháp luật Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
giữ gìn nhân cách người sinh viên, tham gia xây dựng môi trường văn hóa trong
sinh viên và trong xã hội.
3. Thực hiện nghiêm chỉnh Điều lệ và các nghị quyết của Hội, tích cực tuyên
truyền, nâng cao, bảo vệ uy tín và mở rộng ảnh hưởng của Hội trong sinh viên và
trong xã hội, sinh hoạt và đóng hội phí đầy đủ đúng quy định.
Chương IV
CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
Điều 8. Tổ chức của Hội.
1. Tổ chức của Hội bao gồm:
a) Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam.
b) Hội Sinh viên tỉnh, thành phố.
c) Hội Sinh viên các trường đại học, cao đẳng, học viện, viện đào tạo hệ đại học,
cao đẳng.
d) Hội Sinh viên các trường được thành lập các đơn vị trực thuộc gồm: Các Liên
chi Hội, chi hội, câu lạc bộ, đội, nhóm công tác của sinh viên.
2. Việc thành lập, sáp nhập, giải thể và thanh quyết toán tài sản, tài chính của các
cấp Hội thực hiện theo quy định của pháp luật, Điều lệ Hội và hướng dẫn của Ban
Thư ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam. Nhiệm vụ của Ban Chấp hành, Ban
Thư ký Hội Sinh viên Đại học Quốc gia, Đại học khu vực và nhiệm vụ của Ban
Chấp hành Liên chi hội do Ban Thư ký Trung ương Hội quy định.
Điều 9. Việc thành lập tổ chức Hội Sinh viên Việt Nam tại nước ngoài.
Hội Sinh viên Việt Nam được thành lập trong sinh viên Việt Nam ở nước ngoài.
Việc thành lập và tổ chức hoạt động theo quy định do Ban Thư ký Trung ương Hội
ban hành sau khi được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính quyền nước sở tại.
Điều 10. Đại hội Hội Sinh viên các cấp.
1. Nhiệm kỳ của Đại hội Hội Sinh viên các cấp
a) Đại hội đại biểu toàn quốc, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Đại học
Quốc gia, Đại học khu vực: 05 năm 01 lần.
b) Đại hội đại biểu cấp trường, Liên chi hội: 05 năm 02 lần.
c) Đại hội chi hội: 01 năm 01 lần.
2. Số lượng đại biểu Đại hội cấp nào do Ban Chấp hành Hội ở cấp đó quyết định,
thành phần đại biểu gồm các ủy viên Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội, đại biểu
do Đại hội hoặc hội nghị đại biểu cấp dưới hiệp thương dân chủ bầu lên và đại biểu
chỉ định (Số lượng đại biểu chỉ định dự Đại hội không quá 5% tổng số đại biểu
được triệu tập).
3. Nhiệm vụ của Đại hội đại biểu Hội sinh viên các cấp.
a) Tổng kết công tác Hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ Đại hội của Hội Sinh
viên cùng cấp.
b) Quyết định mục tiêu, chương trình hành động của Hội nhiệm kỳ mới.
c) Hiệp thương bầu ra Ban Chấp hành, Ban Kiểm tra Hội cùng cấp.
d) Thảo luận góp ý vào các văn kiện.
đ) Hiệp thương thống nhất biểu quyết bầu đại biểu đi dự Đại hội, hội nghị đại biểu
cấp trên (nếu có).
4. Ban Chấp hành Hội Sinh viên các cấp có thể triệu tập Hội nghị đại biểu để kiện
toàn Ban Chấp hành, thảo luận Văn kiện Đại hội cấp trên, hiệp thương bầu đại biểu
đi dự Đại hội Hội Sinh viên cấp trên. Thành phần Hội nghị đại biểu gồm các đồng
chí ủy viên Ban Chấp hành cấp triệu tập Hội nghị và đại biểu do Ban Chấp hành
cấp dưới bầu lên; số lượng đại biểu do Ban Chấp hành cấp triệu tập Hội nghị quyết
định nhưng không nhiều hơn số đại biểu Đại hội nhiệm kỳ.
Điều 11. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Hội.
1. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội Sinh viên Việt Nam là Đại hội đại biểu toàn
quốc. Cơ quan lãnh đạo của Hội ở mỗi cấp là Đại hội ở cấp đó. Cơ quan lãnh đạo
giữa 2 kỳ Đại hội của các cấp là Ban Chấp hành cùng cấp do Đại hội hiệp thương
thống nhất bầu ra.
2. Ban Chấp hành Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam, Ban Chấp hành Hội sinh
viên cấp tỉnh, thành phố, cấp trường hiệp thương bầu ra Ban Thư ký gồm: Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch Hội và các ủy viên Ban Thư ký. Ban Thư ký là cơ quan lãnh
đạo của Hội giữa hai kỳ họp Ban Chấp hành. Thường trực Ban Thư ký Hội Sinh
viên các cấp gồm: Chủ tịch và các Phó Chủ tịch, có nhiệm vụ điều hành công việc
hàng ngày giữa hai kỳ họp Ban Thư ký, quản lý tài chính của Hội cùng cấp.
3. Ban Chấp hành chi hội bầu ra chi hội trưởng, chi hội phó.
4. Hội nghị thường kỳ của Ban Chấp hành Trung ương Hội một năm họp một kỳ.
Ban Chấp hành Hội Sinh viên tỉnh, thành phố một năm họp hai kỳ.
5. Hội nghị Ban Chấp hành Hội Sinh viên cấp trường, Liên chi hội một năm họp ít
nhất bốn kỳ. Ban Chấp hành chi hội mỗi tháng họp ít nhất một kỳ. Việc tổ chức
thêm các kỳ Hội nghị do Ban Chấp hành Hội Sinh viên cấp đó quyết định.
Điều 12. Số lượng ủy viên Ban Chấp hành Hội Sinh viên cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, cấp trường, Liên chi hội và chi hội.
Số lượng Ủy viên Ban Chấp hành cấp nào do Đại hội cấp đó quyết định.
1. Số lượng ủy viên Ban Chấp hành Hội Sinh viên cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương: từ 21 đến 33 ủy viên. Số lượng ủy viên Ban Thư ký không quá 1/3 số
lượng ủy viên Ban Chấp hành, trong đó có Chủ tịch và tối đa 3 Phó Chủ tịch. Đối
với Hội Sinh viên thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, số lượng ủy viên
Ban Chấp hành tối đa 45 ủy viên, số lượng ủy viên Ban Thư ký không quá 1/3 số
lượng ủy viên Ban Chấp hành, trong đó có Chủ tịch và tối đa 4 Phó Chủ tịch.
2. Số lượng ủy viên Ban Chấp hành Hội Sinh viên cấp trường: từ 11 đến 21 ủy
viên. Số lượng ủy viên Ban Thư ký không quá 1/3 số lượng ủy viên Ban Chấp
hành, trong đó có Chủ tịch và từ 01 đến 03 Phó Chủ tịch (Đối với các trường có
trên 10.000 sinh viên chính quy có thể có tối đa 27 ủy viên).
3. Số lượng ủy viên Ban Chấp hành Liên chi hội: từ 05 đến 15 ủy viên (không
nhiều hơn số lượng ủy viên Ban Chấp hành Hội cấp trên trực tiếp), trong đó có
Liên chi hội trưởng và 1 đến 2 Liên chi hội phó.
4. Số lượng ủy viên Ban Chấp hành chi hội: từ 03 đến 05 ủy viên, trong đó có Chi
hội trưởng và Chi hội phó.
5. Ban Chấp hành Hội các cấp được quyền quyết định kiện toàn Ban Chấp hành
Hội cấp mình theo số lượng, cơ cấu đã được Đại hội thông qua trên cơ sở hiệp
thương, giới thiệu từ cấp dưới lên và đề nghị Hội cấp trên trực tiếp công nhận.
Điều 13. Nhiệm vụ của Ban Chấp hành và Ban Thư ký Trung ương Hội, Hội Sinh
viên cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cấp trường, Liên chi hội và chi
hội.
1. Nhiệm vụ của Ban Chấp hành Trung ương Hội, Hội Sinh viên cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và cấp trường.
a) Tổ chức thực hiện Điều lệ Hội và Nghị quyết Đại hội cùng cấp, các chương
trình, Nghị quyết của Hội Sinh viên Việt Nam.
b) Quyết định các chương trình hành động, nhiệm vụ đối nội, đối ngoại và công tác
tổ chức, kiểm tra và tài chính của Hội cùng cấp.
c) Triệu tập Đại hội (Hội nghị) đại biểu cùng cấp.
d) Hiệp thương bầu Trưởng Ban Kiểm tra trong số uỷ viên Ban Kiểm tra.
2. Nhiệm vụ của Ban Thư ký Trung ương Hội, Hội Sinh viên cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và cấp trường.
a) Thay mặt Ban Chấp hành cùng cấp tổ chức, điều hành thực hiện Nghị quyết,
chương trình công tác của Ban Chấp hành Hội cùng cấp.
b) Phối hợp với các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức đoàn thể để giải quyết
những vấn đề có liên quan đến công tác Hội và phong trào sinh viên.
c) Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra Hội cấp dưới trong việc thực hiện các chủ
trương công tác của Ban Chấp hành Hội cùng cấp.
d) Giúp Ban Chấp hành Hội cùng cấp nắm tình hình, phản ánh nhu cầu, nguyện
vọng của sinh viên với các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể cùng cấp và Hội
Sinh viên cấp trên.
đ) Chuẩn bị nội dung các kỳ họp Ban Chấp hành Hội cùng cấp.
e) Chuẩn y kết nạp hội viên mới của các chi hội (áp dụng đối với Ban Thư ký Hội
Sinh viên cấp trường).
3. Nhiệm vụ của Ban Chấp hành chi hội.
a) Tổ chức thực hiện các chủ trương công tác của chi hội và Hội các cấp.
b) Nắm tình hình và nhu cầu sinh viên để kiến nghị, đề xuất với Ban Chấp hành
Liên chi hội và Hội Sinh viên cấp trường.
c) Kết nạp hội viên mới, quản lý hội viên; giới thiệu hội viên ưu tú cho Đoàn bồi
dưỡng kết nạp.
d) Quản lý thu, chi, trích nộp hội phí.
4. Nhiệm vụ của Ban Chấp hành, Ban Thư ký Hội Sinh viên Đại học Quốc gia, Đại
học khu vực và nhiệm vụ của Ban Chấp hành Liên chi hội thực hiện theo quy định
tại khoản Điều 8 điều lệ này.
Chương V
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA HỘI
VÀ BAN KIỂM TRA CÁC CẤP
Điều 14. Công tác kiểm tra của Hội.
1. Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Hội. Tổ chức Hội phải tiến
hành công tác kiểm tra.
2. Các cấp bộ Hội lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra các tổ chức Hội và hội viên chấp hành Điều lệ, Nghị quyết và thực hiện các
chương trình công tác của Hội.
Điều 15. Ban Kiểm tra các cấp.
1. Ban Kiểm tra các cấp là cơ quan giúp việc và chịu sự lãnh đạo của Ban Chấp
hành cùng cấp và sự chỉ đạo của Ban Kiểm tra cấp trên.
2. Ban Kiểm tra của Hội được thành lập từ Trung ương đến cấp trường. Ban Kiểm
tra do Đại hội cùng cấp hiệp thương bầu ra và được Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp
trên trực tiếp công nhận.
3. Cơ cấu, số lượng uỷ viên Ban Kiểm tra mỗi cấp; việc công nhận và cho rút tên
uỷ viên Ban kiểm tra thực hiện theo hướng dẫn của Ban Thư ký Trung ương Hội.
4. Nhiệm kỳ của Ban Kiểm tra theo nhiệm kỳ của Ban Chấp hành cùng cấp.
5. Liên chi hội, chi hội hiệp thương cử một ủy viên Ban Chấp hành phụ trách công
tác kiểm tra.
Điều 16. Nhiệm vụ của Ban Kiểm tra các cấp.
1. Tham mưu cho Ban Chấp hành và Ban Thư ký cùng cấp kiểm tra việc thi hành
Điều lệ, Nghị quyết, chủ trương và các chương trình công tác của Hội.
2. Kiểm tra cán bộ, hội viên, uỷ viên Ban Chấp hành cùng cấp và tổ chức Hội cấp
dưới khi có dấu hiệu vi phạm Điều lệ của Hội.
3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của cán bộ, hội viên và nhân dân liên quan đến cán
bộ, hội viên; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên.
4. Kiểm tra công tác hội phí, việc sử dụng các nguồn quỹ khác của các đơn vị trực
thuộc Ban chấp hành cùng cấp và cấp dưới.
5. Tham mưu cho Ban Chấp hành và Ban Thư ký cùng cấp về công tác khen
thưởng, kỷ luật và kiểm tra việc thi hành của tổ chức Hội cấp dưới.
6. Tham mưu cho Ban Chấp hành, Ban Thư ký chỉ đạo tổ chức Hội cấp dưới báo
cáo những vấn đề liên quan đến nội dung kiểm tra; đề xuất, tham mưu cho Ban
Chấp hành cùng cấp chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ các quyết định về kỷ luật của
cấp bộ Hội cấp dưới; kiểm tra hoạt động của Ban kiểm tra cấp dưới.
Chương VI
KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT
Điều 17. Khen thưởng.
Cán bộ, hội viên, các cấp Hội và những người có công trong sự nghiệp giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng sinh viên, trong công tác xây dựng Hội và phong trào sinh viên
đều được hội xem xét khen thưởng hoặc đề nghị khen thưởng.
Điều 18. Kỷ luật.
Cán bộ, hội viên, các cấp Hội vi phạm Điều lệ Hội, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín
của Hội thì bị xem xét kỷ luật với các hình thức sau:
1. Đối với cán bộ, hội viên: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ ra khỏi Hội.
2. Đối với các cấp Hội: Khiển trách, cảnh cáo, giải thể.
3. Quy định cụ thể về khen thưởng và kỷ luật theo hướng dẫn của Ban Thư ký
Trung ương Hội.
Chương VII
TÀI CHÍNH CỦA HỘI
Điều 19. Tài chính của Hội.
1. Các nguồn thu của Hội gồm:
a) Hội phí do hội viên đóng góp.
b) Kinh phí Nhà nước và nhà trường hỗ trợ.
c) Các khoản thu hợp pháp khác.
2. Các khoản chi của Hội.
a) Chi cho các hoạt động của Hội.
b) Chi cho công tác khen thưởng;
c) Chi đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động của Hội.
Điều 20. Quản lý tài chính của Hội
Việc quản lý, sử dụng tài chính của Hội Sinh viên do Ban Chấp hành, Ban Thư ký
Hội các cấp thực hiện theo nguyên tắc quản lý tài chính của Nhà nước.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LẦN THỨ XIII ---------------
------- Hà Nội, ngày 01 tháng 02 năm 202

NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày
25/01/2021 đến ngày 01/02/2021, tại Thủ Đô Hà Nội, sau khi thảo luận các văn
kiện do Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình,

QUYẾT NGHỊ
I- Tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại
hội XII và đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm
2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 30 năm
thực hiện Cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới; định hướng phát
triển và phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời gian tới nêu trong
các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội. Cụ thể
là:
1. Kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách
thức, nhất là tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu do
đại dịch COVID-19; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đoàn kết, chung sức, đồng
lòng nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ, đạt được nhiều
thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Kinh tế vĩ mô ổn
định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực,
quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Các lĩnh vực xã hội, môi
trường có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Công tác xây
dựng, chỉnh đốn đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển
khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột
phá gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và "chống", có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều
sâu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố
vững mạnh. Công tác lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường, mối quan hệ phối hợp ngày
càng chặt chẽ, đồng bộ. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không
ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao. Đặc biệt, trong năm 2020, đại dịch COVID-19 gây ra nhiều thiệt
hại về kinh tế - xã hội, song nhờ phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của
nhân dân, đất nước ta đã từng bước kiểm soát có hiệu quả đại dịch COVID-19;
từng bước phục hồi sản xuất, kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội; ổn định
đời sống nhân dân; góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta.
Những thành tựu đạt được 5 năm qua là kết tinh sức sáng tạo của quá trình phấn
đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ
đại hội, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta
qua 35 năm đổi mới. Đạt được những thành tựu nêu trên có nhiều nguyên nhân,
nhưng nguyên nhân bao trùm và quan trọng nhất là sự đoàn kết, thống nhất, sự
lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời, có hiệu quả của Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng trong việc triển khai thực hiện toàn
diện, đồng bộ Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả
nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; sự quản lý, điều hành quyết liệt của
Chính phủ và chính quyền các cấp; sự nỗ lực đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; sự tham gia tích cực và có
hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; sự phối hợp đồng
bộ của cả hệ thống chính trị; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao
động tích cực, cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp và các
tầng lớp nhân dân; sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa tạo
được chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế chưa cao. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa trở thành
động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực văn hóa, xã hội
chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống của một bộ phận nhân dân còn
khó khăn. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến
đổi khí hậu còn bất cập. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số
mặt hạn chế. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có
lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ. Xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
còn một số hạn chế.
Mười năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 đã tạo những tiến bộ quan
trọng cả về nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện, khẳng định những giá trị to lớn
của Cương lĩnh, tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo. Kinh tế, văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại được tăng cường, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách thức. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế -
xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và việc tạo
nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
chưa đạt được mục tiêu đề ra. Công cuộc đổi mới và tình hình quốc tế tiếp tục đặt
ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là
việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn.
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991),
lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện
so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những
thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
năm 1991, Đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh
của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
2. Tầm nhìn và định hướng phát triển
Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và
khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức
tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi hỏi toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; có
quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình; chủ
động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của
quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được;
đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững; quyết tâm thực
hiện thắng lợi các quan điểm, mục tiêu, định hướng và nhiệm vụ trọng tâm sau:
Quan điểm chỉ đạo:
- Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường
lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai
đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng
Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng,
an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của
nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và
bền vững.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ,
chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa
nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con
người là quan trọng nhất.
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây
dựng nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế,
nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân
dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Mục tiêu tổng quát:


Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa;
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo
vệ vững chắc tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa
thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức
thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: là nước đang phát triển, có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu
nhập cao.
Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 -
2025:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 -
7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD;
đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng
45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỉ lệ đô thị
hóa khoảng 45%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%;
kinh tế số đạt khoảng 20% GDP
Về xã hội: Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã
hội khoảng 25%; tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực
thành thị năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng
năm; có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt
95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông
thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Về môi trường: Đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân
cư thành thị là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%; tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải
rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỉ lệ khu công nghiệp,
khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn
môi trường là 92%; tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý
đạt 100%; giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030:
(1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát
triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời
những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực
mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
(2) Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng
và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới;
ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số; đẩy
mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế, gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế.
(3) Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên
cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực
trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần
bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.
(4) Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn
hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để
khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người
Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất
nước.
(5) Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an
ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn
hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y
tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo
đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh
xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
(6) Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm
nhẹ thiên tai, dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và
bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục
tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm
chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền
kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
(7) Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của tổ quốc; bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an
ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn
ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp
thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
(8) Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế
của Việt Nam.
(9) Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai
trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố,
nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ
chức, nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội.
(10) Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch,
vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự
phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình;
kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà
nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
(11) Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng
công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của
Đảng.
(12) Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi
mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy
luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và
tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong nhận thức và giải quyết các
quan hệ lớn, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây
dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII:
(1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ Đảng
viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng
lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

(2) Tập trung kiểm soát đại dịch COVID-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin COVID-19
cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và
tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình
sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong nông
nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền
vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và
giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát
triển của đất nước.
(3) Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối
ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm
2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn
định để phát triển đất nước.
(4) Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị
văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc
thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con
người Việt Nam.
(5) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy
mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải
cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự
gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ
chức đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội
các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện
môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí
hậu, thiên tai khắc nghiệt.
Các đột phá chiến lược:
(1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện
đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ
chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu
tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc
đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho
phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh phân cấp, phân
quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền
lực bằng hệ thống pháp luật.
(2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát
triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên
cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng
giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi
mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát
huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân
tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu
tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với
biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng
chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
II- Thông qua Báo cáo chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2021 - 2030, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 -
2025. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII căn cứ Báo cáo giải trình
của Đoàn Chủ tịch Đại hội, kết quả biểu quyết để hoàn chỉnh và chính thức ban
hành.

III- Thông qua Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ
Đảng của Ban Chấp trung ương khóa XII; đồng ý không sửa đổi, bổ sung Điều lệ
Đảng hiện hành. Giao Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII chỉ đạo nghiên
cứu, tiếp thu để điều chỉnh thông qua các quy định, hướng dẫn của Trung ương;
tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất Điều lệ
trong toàn Đảng.
IV- Thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII trình đại hội XIII. Giao Ban Chấp hành Trung ương đảng
khóa XIII tiếp thu ý kiến của đại hội, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm,
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.
V- Đại hội đồng ý đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII tái cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị
khóa XIII để bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XIII.
VI- Thông qua kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII gồm 200
Đồng chí, trong đó có 180 đồng chí Ủy viên Trung ương chính thức, 20 đồng chí
Ủy viên Trung ương dự khuyết.
VII- Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh
đạo, chỉ đạo cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối và những chủ
trương nêu trong các văn kiện Đại hội XIII.
Đại hội kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đồng bào ta ở trong nước và nước
ngoài phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, dân chủ xã hội chủ
nghĩa, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giá trị văn hóa, khát vọng phát triển đất
nước, sức mạnh con người Việt Nam, vai trò của khoa học - công nghệ, đổi mới
sáng tạo, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội để đất nước ta phát triển nhanh,
bền vững hơn, lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh,
hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành
công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc
ta.

HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN ĐIỀU LỆ HỘI SINH VIÊN


VIỆT NAM
Căn cứ Điều lệ Hội Sinh viên Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn
quốc Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ VIII; Quyết định số 1739/QĐ-BNV ngày
25/12/2009 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc công nhận Điều lệ Hội Sinh viên Việt
Nam, căn cứ điều kiện thực tế của công tác Hội và phong trào sinh viên, Ban Thư
ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam hướng dẫn thực hiện Điều lệ Hội Sinh
viên Việt Nam, cụ thể như sau:
PHẦN THỨ NHẤT
VỊ TRÍ, VAI TRÒ, MỐI QUAN HỆ CỦA HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM
1. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội Sinh viên Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của sinh viên Việt Nam, đoàn
kết, tập hợp rộng rãi mọi sinh viên Việt Nam. Các hoạt động của Hội Sinh viên
nhằm góp phần tích cực vào việc phổ biến, tổ chức và vận động sinh viên thực hiện
tốt các chủ trương, Nghị quyết của Đảng. Đảng lãnh đạo Hội Sinh viên thông qua
sự định hướng chính trị và vai trò nòng cốt chính trị của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, sự quản lý của Nhà nước.
Hội Sinh viên hoạt động ở cấp nào thì đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng cấp
đó.
2. Đối với Nhà nước
- Nhà nước quản lý và hướng dẫn hoạt động của Hội Sinh viên các cấp trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
đồng thời, tạo điều kiện cần thiết để Hội Sinh viên các cấp hoạt động và phát triển;
xem xét và có biện pháp đáp ứng những đề nghị của Hội Sinh viên xuất phát từ
những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của sinh viên, thực hiện các
chế độ chính sách đối với sinh viên.
- Các hoạt động của Hội Sinh viên nhằm góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu
đào tạo của nhà trường, quản lý sinh viên và phối hợp chăm lo đời sống, bảo đảm
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của sinh viên, vì sự phát triển của sinh viên.
- Hội Sinh viên cấp nào đặt dưới sự lãnh đạo và quản lý của chính quyền cấp đó.
3. Đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Vai trò nòng cốt chính trị của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đối với Hội Sinh viên
Việt Nam được thể hiện như sau:
- Các cấp bộ Đoàn trực tiếp giúp sinh viên và các cấp Hội lập ra tổ chức Hội Sinh
viên. Xây dựng Hội Sinh viên là trách nhiệm của mỗi cấp bộ Đoàn, là bộ phận
không thể tách rời của công tác xây dựng tổ chức Đoàn. Tổ chức Đoàn định kỳ làm
việc với Ban Chấp hành Hội, cho ý kiến về các chủ trương công tác lớn của Hội,
công tác cán bộ của Hội.
- Các cấp bộ Đoàn giới thiệu những cán bộ Đoàn, đoàn viên có năng lực, được sinh
viên tín nhiệm để tham gia vào các cơ quan lãnh đạo của Hội và làm hạt nhân trong
phong trào sinh viên (Đối với chức danh Chủ tịch Hội của các cấp bộ Hội phải là
Uỷ viên Ban Thường vụ Đoàn cùng cấp trở lên). Đồng thời những cán bộ Hội có
uy tín, năng lực là đoàn viên, đảng viên trẻ được Hội giới thiệu tham gia Ban Chấp
hành Đoàn cùng cấp. Thông qua hoạt động, Hội Sinh viên bồi dưỡng nâng cao
nhận thức về Đoàn cho hội viên và giới thiệu những hội viên ưu tú để Đoàn xét kết
nạp.
- Các cấp bộ Đoàn định kỳ thông báo và phối hợp với các cấp bộ Hội xây dựng
chương trình, kế hoạch hoạt động thống nhất theo từng tháng, quý, học kỳ hoặc cả
năm trên cơ sở nhiệm vụ của nhà trường và lợi ích của đoàn viên, hội viên, sinh
viên.
- Đoàn thanh niên có trách nhiệm hỗ trợ Hội Sinh viên các cấp về cơ sở vật chất,
trang thiết bị và điều kiện để hoạt động; phối hợp chặt chẽ trong mọi hoạt động
đảm bảo hạt nhân chính trị của tổ chức Đoàn, đồng thời tôn trọng tính độc lập và
các phương thức sinh hoạt riêng nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của mỗi tổ chức, cùng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Đoàn viên là hội viên có nhiệm vụ nắm vững nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đoàn, của Hội; chủ động, gương mẫu thực hiện có hiệu quả các hoạt động
chung và hoạt động của Hội Sinh viên góp phần tuyên truyền, giáo dục lý tưởng
cách mạng và phát hiện sinh viên tích cực để giới thiệu cho Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh xem xét, bồi dưỡng, kết nạp.
4. Đối với các đoàn thể, các tổ chức thanh niên sinh viên quốc tế
Hội Sinh viên Việt Nam là thành viên tập thể của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt
Nam. Căn cứ điều kiện và nhu cầu cụ thể, Ban Thư ký Trung ương Hội Sinh viên
quyết định việc phối hợp, cử đại diện tham gia các tổ chức của thanh niên, sinh
viên quốc tế hợp pháp, có tôn chỉ, mục đích phù hợp với Hội Sinh viên Việt Nam.
5. Đối với sinh viên
- Hội Sinh viên là người đại diện và chăm lo những quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của sinh viên.
- Hội Sinh viên đại diện cho sinh viên báo cáo, đề xuất với Đảng, Nhà nước, các
ngành, các cấp, với nhà trường những vấn đề cần giải quyết để bảo đảm quyền lợi
hợp pháp, chính đáng của sinh viên. Ở các trường, Hội Sinh viên được quyền cử
đại diện tham gia các Hội đồng nhà trường, như: Hội đồng khen thưởng và kỷ luật,
Hội đồng xét học bổng và các Hội đồng khác của trường... để xem xét giải quyết
các vấn đề liên quan đến sinh viên theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Hội Sinh viên tổ chức các hoạt động nhằm phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng
tạo của sinh viên trong học tập và rèn luyện, góp phần xây dựng nhà trường.
PHẦN THỨ HAI
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ HỘI VIÊN
I. QUY TRÌNH KẾT NẠP HỘI VIÊN
(Cấp chi hội gồm có: Chi hội theo lớp, khoa, ngành, câu lạc bộ, đội nhóm…).
- Ban Chấp hành (BCH) cấp chi Hội hoặc Ban chủ nhiệm câu lạc bộ, đội, nhóm tổ
chức tuyên truyền, giới thiệu về Hội Sinh viên cho sinh viên.
- Sinh viên đề đạt nguyện vọng và đăng ký gia nhập Hội Sinh viên với Ban Chấp
hành chi hội, Ban chủ nhiệm câu lạc bộ, đội, nhóm bằng đơn hoặc ghi tên vào danh
sách tự nguyện tham gia.
- BCH chi hội, Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ, đội, nhóm xét và lập danh sách sinh
viên sau khi được giới thiệu tìm hiểu Điều lệ Hội Sinh viên, có nguyện vọng gia
nhập Hội Sinh viên báo cáo lên BCH Liên chi hội (nếu có), BCH Hội Sinh viên
trường.
- Ban Chấp hành Hội Sinh viên trường ra quyết định chuẩn y kết nạp hội viên mới
theo danh sách của các chi hội hoặc Ban Chấp hành Liên Chi hội (nếu có) đề nghị.
- Chi hội tổ chức lễ kết nạp hội viên theo các bước sau:
+ Chào cờ: Quốc ca, bài ca chính thức của Hội Sinh viên Việt Nam.
+ Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
+ Công bố quyết định chuẩn y kết nạp hội viên và danh sách hội viên mới, gắn huy
hiệu và trao thẻ hội viên.
+ Đại diện hội viên mới và đại biểu phát biểu.
+ Bế mạc, chào cờ.
(Lễ kết nạp nên tổ chức gắn với các hoạt động của chi hội, câu lạc bộ, đội nhóm,
như: trong các đợt hoạt động công tác xã hội, hoạt động hè..., địa điểm không cố
định, có thể tổ chức ở nơi có di tích lịch sử, truyền thống cách mạng...)
- Trang trí: Cờ Tổ quốc, ảnh hoặc tượng Bác Hồ, biểu trưng của Hội Sinh viên và
dòng chữ "Lễ kết nạp hội viên".
* Lưu ý: Đối với các trường đang vận động thành lập Hội (đã có Ban vận động
thành lập Hội) thì việc kết nạp hội viên thực hiện theo quy trình sau: Sinh viên đề
đạt nguyện vọng và đăng ký gia nhập Hội Sinh viên với chi đoàn bằng đơn hoặc
ghi tên vào danh sách tự nguyện tham gia; chi đoàn tổng hợp danh sách gửi Ban
vận động thành lập Hội Sinh viên trường để báo cáo Ban Thường vụ Đoàn trường
ra quyết định chuẩn y kết nạp hội viên mới.
II. CÔNG TÁC QUẢN LÝ HỘI VIÊN, CHI HỘI, CÂU LẠC BỘ, ĐỘI,
NHÓM
1. Hồ sơ và quản lý hội viên, thành viên câu lạc bộ, đội, nhóm
1.1. Quản lý hồ sơ: Các chi hội, Ban chủ nhiệm câu lạc bộ, đội, nhóm, Hội Sinh
viên trường chủ động xây dựng hồ sơ quản lý hội viên, thành viên câu lạc bộ, đội,
nhóm (bằng phần mềm, sổ quản lý) phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị.
Trong đó đảm bảo quản lý được các thông tin của hội viên, thành viên câu lạc bộ,
đội, nhóm: Họ và tên; ngày tháng năm sinh; giới tính; đoàn viên/đảng viên; dân
tộc; tôn giáo; ngày kết nạp Hội; địa chỉ; e-mail; số điện thoại.
1.2. Quản lý hội viên, thành viên câu lạc bộ, đội, nhóm
- Ban Chấp hành chi hội phải có hình thức quản lý hội viên đảm bảo các thông tin
quy định tại mục 1.1.
- Ban Chấp hành chi hội, Ban chủ nhiệm câu lạc bộ, đội, nhóm cần xây dựng kế
hoạch công tác cụ thể và giao nhiệm vụ cho hội viên.
- Hàng năm Ban Chấp hành chi hội, Ban chủ nhiệm câu lạc bộ, đội nhóm có trách
nhiệm đánh giá biểu dương, đề nghị khen thưởng những hội viên hoàn thành tốt
nhiệm vụ, đồng thời góp ý đối với những hội viên chưa hoàn thành nhiệm vụ.
2. Sử dụng Huy hiệu Hội
- Cán bộ, hội viên đeo huy hiệu Hội vào ngày kỷ niệm truyền thống của Hội, Đại
hội, Hội nghị quan trọng, lễ kết nạp hội viên, các hoạt động quan trọng của Hội.
- Khuyến khích hội viên đeo huy hiệu hội trên lớp học và các hoạt động tập thể của
Hội.
3. Thẻ hội viên
- Thẻ hội viên có giá trị chứng nhận tư cách hội viên Hội Sinh viên Việt Nam do
Ban Chấp hành Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam thống nhất ban hành (trừ các
trường hợp Ban Thư ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam chỉ đạo phát hành thí
điểm thẻ từ, thẻ kết hợp các tiện ích khác).
- Hội viên được cấp thẻ trong lễ kết nạp hoặc chậm nhất không quá 60 ngày kể từ
ngày được kết nạp.
- Hội viên không được cho người khác mượn thẻ; khi tốt nghiệp ra trường hội viên
được giữ lại thẻ hội viên.
- Hội viên bị kỷ luật khai trừ thì bị thu hồi thẻ.
- Trung ương Hội quản lý số lượng và số hiệu thẻ hội viên trên toàn quốc. Các cấp
Hội quản lý số lượng và số hiệu thẻ của địa phương, đơn vị mình.
III. VIỆC THỰC HIỆN CÁC QUYỀN CỦA HỘI VIÊN
1. Hội viên được quyền yêu cầu tổ chức Hội các cấp bảo vệ quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của mình. Tuỳ theo tính chất và mức độ, các cấp của Hội đều có thể đại
diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của hội viên trước pháp luật và công
luận.
2. Quyền ứng cử, đề cử
- Quyền ứng cử:
+ Tất cả hội viên đều có quyền ứng cử để hiệp thương thống nhất bầu vào Ban
Chấp hành các cấp của Hội, dù hội viên đó là đại biểu hay không là đại biểu Đại
hội hoặc Hội nghị.
+ Hội viên không phải là đại biểu của Đại hội hoặc Hội nghị ứng cử vào Ban Chấp
hành các cấp phải gửi đến Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội đơn xin ứng cử, sơ
yếu lý lịch và nhận xét của Ban Chấp hành cấp cơ sở nơi hội viên đang sinh hoạt
chậm nhất 15 ngày trước khi tiến hành Đại hội, Hội nghị.
+ Ban Chấp hành Hội cấp dưới có quyền giới thiệu nhân sự được tín nhiệm ở cấp
mình vào danh sách hiệp thương bầu Ban Chấp hành Hội cấp trên trực tiếp.
+ Tại Đại hội, Hội nghị hội viên, mọi hội viên đều có quyền ứng cử để hiệp thương
thống nhất bầu làm đại biểu đi dự Đại hội Hội cấp trên.
+ Uỷ viên Ban Chấp hành các cấp có quyền ứng cử để hiệp thương thống nhất bầu
vào Ban Thư ký (hoặc bầu làm chi hội trưởng, chi hội phó đối với cấp chi hội); uỷ
viên Ban Thư ký có quyền ứng cử để hiệp thương thống nhất bầu làm Chủ tịch
hoặc Phó chủ tịch.
- Quyền đề cử:
+ Mọi hội viên đều có quyền đề cử người vào danh sách để hiệp thương bầu vào
Ban Chấp hành các cấp của Hội.
+ Tại Đại hội, Đại hội đại biểu, Hội nghị đại biểu, các đại biểu chính thức của Đại
hội đều có quyền đề cử người để hiệp thương bầu vào BCH hoặc đề cử đại biểu
chính thức của Đại hội vào danh sách hiệp thương bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội
Hội cấp trên.
+ Các uỷ viên Ban Chấp hành có quyền đề cử uỷ viên Ban Chấp hành để hiệp
thương thống nhất bầu vào Ban Thư ký (hoặc bầu làm chi hội trưởng, chi hội phó
đối với cấp chi hội), đề cử uỷ viên Ban Thư ký để hiệp thương thống nhất bầu làm
Chủ tịch, Phó Chủ tịch.
+ Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội có trách nhiệm báo cáo với Đại hội về công
tác chuẩn bị nhân sự khoá mới, được quyền giới thiệu danh sách để hiệp thương
bầu vào Ban Chấp hành Hội khoá mới và đoàn đại biểu dự Đại hội đại biểu Hội
cấp trên.
+ Khi đề cử người vào danh sách hiệp thương, người đề cử phải cung cấp hồ sơ
(đơn đề cử, sơ yếu lý lịch, nhận xét của Ban Chấp hành cấp cơ sở) của người được
đề cử cho Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội, Hội nghị chậm nhất 15 ngày trước
khi họp.
- Tất cả hội viên đều có quyền thảo luận và giám sát việc ứng cử, đề cử vào cơ
quan lãnh đạo các cấp của Hội.
3. Hội viên được hưởng các phúc lợi tập thể do Hội cùng cấp quản lý. Các phúc lợi
tập thể của Hội cấp nào do Ban Chấp hành cấp đó bàn bạc và quyết định.
IV. VIỆC XOÁ TÊN VÀ RÚT TÊN TRONG DANH SÁCH HỘI VIÊN
1. Xóa tên: Khi hội viên tốt nghiệp ra trường hoặc thôi không học tập tại trường;
hội viên vi phạm nghiêm trọng điều lệ, làm tổn hại uy tín của Hội hoặc bị nhà
trường buộc thôi học, thì Ban Chấp hành Hội Sinh viên trường xóa tên khỏi danh
sách hội viên.
2. Rút tên:
- Khi hội viên không còn nguyện vọng tham gia sinh hoạt Hội phải báo cáo với
Ban Chấp hành chi hội, Ban chủ nhiệm câu lạc bộ, đội, nhóm và giải quyết xong
các công việc mà hội viên có liên quan với tổ chức Hội thì Ban Chấp hành Hội
Sinh viên trường cho rút tên khỏi danh sách hội viên.
- Đối với câu lạc bộ, đội, nhóm khi giải thể thì Ban Chấp hành Hội Sinh viên
trường giới thiệu hội viên có nhu cầu, nguyện vọng về sinh hoạt tại chi hội hoặc
câu lạc bộ, đội, nhóm phù hợp; đối với những sinh viên đi du học ở những nước có
tổ chức Hội Sinh viên thì Ban Chấp hành Hội Sinh viên trường giới thiệu hội viên
có nhu cầu, nguyện vọng về sinh hoạt tại Hội Sinh viên nước đó. Nếu Hội viên
không đồng ý chuyển về đơn vị mới thì cho rút tên khỏi danh sách Hội viên.
V. HỘI VIÊN DANH DỰ CỦA HỘI SINH VIÊN
1. Đối tượng xét kết nạp
Cán bộ, giáo viên, nhà khoa học, người có uy tín trong sinh viên, trong xã hội, ở
trong và ngoài nước có đóng góp tích cực cho Hội và tự nguyện tham gia các hoạt
động của Hội thì có thể được kết nạp là hội viên danh dự của Hội Sinh viên Việt
Nam.
2. Quy trình, thủ tục và thẩm quyền xét kết nạp
- Trong quá trình hoạt động, Hội Sinh viên các trường nhận thấy có những người
đủ tiêu chuẩn và sẵn sàng làm hội viên danh dự thì báo cáo Ban Thư ký Hội Sinh
viên cấp tỉnh, thành phố xem xét, ra quyết định. Đối với các Đại học vùng, các
trường Đại học, Cao đẳng trực thuộc Trung ương báo cáo Ban Thư ký Trung ương
Hội xem xét ra quyết định.
- Hội Sinh viên trường tổ chức lễ kết nạp hội viên danh dự trang trọng, có tính tôn
vinh người được kết nạp
3. Quyền và nghĩa vụ của Hội viên danh dự
- Được tham gia một số sinh hoạt và hoạt động của Hội.
- Được tham gia thảo luận, hoạt động, đề xuất ý kiến về các công việc của Hội và
phong trào sinh viên.
- Được tham gia vào công tác tập hợp, giáo dục hội viên, sinh viên, tuyên truyền
mở rộng ảnh hưởng của Hội trong sinh viên và toàn xã hội.
4. Các trường hợp thôi là hội viên danh dự
- Khi không còn nguyện vọng, hội viên danh dự được quyền rút tên khỏi danh sách
hội viên danh dự.
- Trong trường hợp hội viên danh dự không còn phù hợp; không còn đủ uy tín
trong sinh viên; vi phạm kỷ luật, pháp luật thì Ban Thư ký Hội Sinh viên trường
báo cáo Ban Thư ký Hội sinh viên tỉnh, thành (Ban Thư ký Trung ương Hội đối
với Hội Sinh viên các trường đại học, cao đẳng trực thuộc trung ương) cho rút tên
khỏi danh sách hội viên danh dự.
VI. TRƯỜNG HỢP TIẾP TỤC SINH HOẠT TRONG TỔ CHỨC HỘI SINH
VIÊN
Những người đã học qua bậc đại học, cao đẳng nếu được hiệp thương bầu vào các
cơ quan lãnh đạo của Hội ở các cấp thì tiếp tục sinh hoạt trong tổ chức Hội.
PHẦN THỨ BA
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC CỦA HỘI
I. ĐIỀU KIỆN, THỦ TỤC THÀNH LẬP VÀ CÔNG NHẬN TỔ CHỨC HỘI
1. Điều kiện:
- Sau khi nghiên cứu tìm hiểu Điều lệ Hội Sinh viên Việt Nam, sinh viên tại đơn vị
cơ sở có nguyện vọng thành lập tổ chức Hội Sinh viên.
- Đảng uỷ, Ban Giám hiệu nhà trường và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh, thành phố) cho phép thành lập (đối với Hội
Sinh viên cấp trường); Tỉnh, Thành uỷ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố cho phép thành lập (đối với Hội Sinh viên cấp tỉnh, thành phố).
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giúp đỡ định hướng cho hoạt động của Hội, đảm bảo
vai trò nòng cốt chính trị trong hoạt động của Hội ở mỗi cấp (không áp dụng đối
với các trường chưa có tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh).
2. Thủ tục, các bước tiến hành thành lập tổ chức Hội Sinh viên
Bước 1: Thành lập Ban vận động thành lập Hội Sinh viên
- Khi đủ các điều kiện, Ban Chấp hành Đoàn cùng cấp báo cáo xin ý kiến của Đảng
uỷ, Ban Giám hiệu và Ban Thư ký Hội Sinh viên Việt Nam cấp tỉnh, thành phố;
xin ý kiến của Tỉnh, Thành uỷ và Ban Thư ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam
đối với cấp tỉnh, thành phố về việc thành lập Ban vận động thành lập Hội Sinh
viên. Ban vận động thành lập Hội phải có ít nhất 05 thành viên. Đối với những
trường chưa có tổ chức Đoàn thì Ban Thường vụ tỉnh, thành đoàn chịu trách nhiệm
phối hợp với Ban Giám hiệu trường thành lập Ban vận động. Đối với những đơn vị
chưa có Hội Sinh viên tỉnh, thành phố thì Ban Thường vụ tỉnh, thành đoàn xin ý
kiến Ban Thư ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam.
Ban Chấp hành Đoàn gửi hồ sơ đề nghị công nhận Ban vận động thành lập Hội tới
Sở Nội vụ tỉnh, thành phố đề nghị công nhận Ban vận động thành lập Hội. Hồ sơ
đề nghị gồm có:
+ Đơn đề nghị công nhận Ban vận động thành lập Hội, trong đó nêu rõ tên Hội, tôn
chỉ, mục đích, lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, dự kiến thời gian trù bị
thành lập Hội và địa điểm đặt trụ sở Hội.
+ Danh sách trích ngang của các thành viên Ban vận động thành lập Hội.
Nhiệm vụ của Ban vận động thành lập Hội:
+ Tuyên truyền về Điều lệ Hội, truyền thống và hoạt động của Hội Sinh viên Việt
Nam; vận động sinh viên đăng ký gia nhập Hội.
+ Căn cứ vào nguyện vọng của sinh viên, trên cơ sở đủ các điều kiện, Ban vận
động thành lập Hội đề nghị BCH Đoàn trường ra quyết định thành lập các chi hội,
chỉ định BCH chi hội và quyết định kết nạp hội viên (yêu cầu đối với Hội Sinh
viên cấp trường).
+ Xây dựng đề án thành lập Hội Sinh viên.
+ Tổ chức một số hoạt động của Hội.
+ Tổ chức Đại hội nhiệm kỳ I
Ban vận động thành lập Hội Sinh viên tự giải thể khi Đại hội hiệp thương thống
nhất bầu ra Ban Chấp hành khóa I của Hội.
Bước 2: Xin phép thành lập Hội Sinh viên:
Sau khi được Sở Nội vụ công nhận, Ban vận động thành lập có trách nhiệm hoàn
thiện hồ sơ thành lập tổ chức Hội để Sở Nội vụ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố cho phép thành lập Hội. Hồ sơ gồm có:
- Đơn xin thành lập Hội có ý kiến của Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, Ban Thường vụ
tỉnh, thành đoàn, Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp tỉnh, thành phố (nếu có) và Ban
Thư ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam (đối với cấp trường ở những nơi chưa
có Hội Sinh viên cấp tỉnh); ý kiến của Tỉnh, Thành uỷ và Ban Thư ký Trung ương
Hội Sinh viên Việt Nam đối với cấp tỉnh, thành phố.
- Dự kiến phương hướng hoạt động.
- Danh sách những người trong Ban vận động thành lập Hội được Sở Nội vụ công
nhận.
- Sơ yếu lý lịch của người đứng đầu Ban vận động thành lập Hội có xác nhận của
Ban Giám hiệu (đối với cấp trường) và Thủ trưởng cơ quan (đối với cấp tỉnh, thành
phố).
- Điều lệ Hội Sinh viên Việt Nam được Bộ Nội vụ thông qua (Quyết định số
1739/QĐ-BNV ngày 25/12/2009 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ)
Bước 3: Tổ chức Đại hội:
Sau khi được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định cho phép thành
lập, Ban vận động tiến hành thủ tục đề nghị cơ quan công an cấp con dấu theo
Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh; trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày quyết
định có hiệu lực, Ban vận động thành lập Hội phải tổ chức Đại hội để hiệp thương
thống nhất bầu ra Ban chấp hành của Hội.
Trước khi tổ chức Đại hội, Ban vận động thành lập Hội báo cáo xin ý kiến Tỉnh,
Thành ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và Ban Thư ký Trung ương Hội Sinh
viên Việt Nam (đối với cấp tỉnh), Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Ban Thường vụ Đoàn
trường, Ban Thường vụ tỉnh, thành đoàn và Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp trên
trực tiếp (đối với cấp trường) về công tác chuẩn bị tổ chức Đại hội, bao gồm: Văn
kiện Đại hội, Đề án nhân sự Ban Chấp hành, Ban Thư ký, Ban Kiểm tra và dự kiến
các chức danh chủ chốt Hội Sinh viên, Chương trình Đại hội và những nội dung
khác liên quan đến Đại hội.
Bước 4: Đề nghị công nhận tổ chức Hội và Ban chấp hành khoá I:
Sau Đại hội, Ban Chấp hành Hội Sinh viên gửi hồ sơ đề nghị Ban Thư ký Trung
ương Hội Sinh viên Việt Nam công nhận tổ chức Hội Sinh viên trực thuộc Trung
ương Hội Sinh viên Việt Nam. Hồ sơ đề nghị gồm có:
- Công văn đề nghị công nhận tổ chức Hội Sinh viên có ý kiến của Đoàn Thanh
niên, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, Ban Thường vụ tỉnh, thành đoàn, Ban Thư ký Hội
Sinh viên cấp tỉnh, thành phố (nếu có) đối với cấp trường; ý kiến của Ban Thường
vụ tỉnh, thành đoàn đối với cấp tỉnh, thành phố.
- Ban Chấp hành Hội Sinh viên gửi hồ sơ đề nghị công nhận Ban Chấp hành khoá
I. Hồ sơ đề nghị gồm có: Công văn đề nghị công nhận Ban Chấp hành và các chức
danh chủ chốt của Hội Sinh viên cấp tổ chức Đại hội có ý kiến xác nhận của Đoàn
Thanh niên, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu cùng cấp đề nghị để Ban Chấp hành Hội
Sinh viên cấp trên quyết định công nhận (đối với cấp tỉnh, thành phố có ý kiến của
Ban Thường vụ tỉnh, thành đoàn). Cụ thể: Đối với Hội Sinh viên tỉnh, thành phố,
các trường trực thuộc Trung ương Hội: gửi công văn đề nghị về Ban Thư ký Trung
ương Hội để ra quyết định công nhận (kèm theo ý kiến của Ban Thường vụ tỉnh,
thành đoàn); Đối với các trường trực thuộc Hội Sinh viên cấp tỉnh, thành: gửi công
văn đề nghị về Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp tỉnh, thành để ra quyết định công
nhận (kèm theo công văn đề nghị của Hội Sinh viên cấp trên trực tiếp nếu có); Đối
với các trường trực thuộc Hội Sinh viên Đại học khu vực (nơi không có Hội Sinh
viên cấp tỉnh, thành phố): gửi công văn đề nghị về Ban Thư ký Hội Sinh viên Đại
học khu vực để ra quyết định công nhận.
- Bản sao Quyết định cho phép thành lập Hội Sinh viên của Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố.
- Báo cáo của Ban vận động thành lập Hội trình Đại hội.
- Các Biên bản, danh sách trích ngang Ban Chấp hành khoá I.
- Nghị quyết Đại hội.
* Nếu hồ sơ đầy đủ và hợp lệ thì trong thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ,
Ban Thư ký Trung ương Hội, Ban Thư ký Hội Sinh viên tỉnh, thành phố, Đại học
khu vực có trách nhiệm ra các quyết định công nhận.
II. ĐIỀU KIỆN, THỦ TỤC THÀNH LẬP VÀ CÔNG NHẬN CẤP CHI HỘI
(GỒM CHI HỘI, CÂU LẠC BỘ, ĐỘI, NHÓM)
Căn cứ vào nguyện vọng của sinh viên, trên cơ sở có đủ điều kiện, Ban Chấp hành
Hội Sinh viên trường hoặc Ban Chấp hành Đoàn trường (nơi đã thành lập Ban vận
động thành lập Hội Sinh viên) ra quyết định thành lập chi hội (Câu lạc bộ, đội,
nhóm), chỉ định Ban Chấp hành lâm thời chi hội và quyết định kết nạp hội viên.
Các chi hội thành lập theo cơ cấu lớp (đối với các trường đào tạo theo tín chỉ thì
căn cứ điều kiện cụ thể, Hội Sinh viên trường tổ chức cơ cấu chi hội cho phù hợp);
các câu lạc bộ, đội nhóm được thành lập khi có từ 3 hội viên trở lên.
III. NHIỆM VỤ CỦA BAN CHẤP HÀNH LIÊN CHI HỘI
1. Điều kiện thành lập: Liên chi hội trực thuộc Hội Sinh viên trường, do Ban Chấp
hành Hội Sinh viên trường thành lập theo các khoa chuyên ngành, ngành học trong
các Học viện, Viện, các trường Đại học, Cao đẳng. Liên chi hội chịu sự lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện của cấp uỷ khoa, Ban Chấp hành Hội Sinh viên trường và vai
trò nòng cốt chính trị của Liên chi đoàn khoa.
Điều kiện thành lập:
+ Tổ chức Đảng, Ban chủ nhiệm khoa và Liên chi đoàn khoa trực tiếp và thống
nhất lãnh đạo, chỉ đạo.
+ Có từ 03 chi hội trở lên.
2. Số lượng Uỷ viên Ban Chấp hành: số lượng ủy viên Ban Chấp hành từ 05 - 15
ủy viên (không nhiều hơn số lượng ủy viên Ban Chấp hành Hội cấp trên trực tiếp),
trong đó có Liên chi hội trưởng và từ 01 đến 02 Liên chi hội phó.
3. Liên chi hội có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra các chi hội trong việc thực hiện nghị quyết,
chương trình, kế hoạch công tác của Hội cấp trên.
- Xét và đề xuất với Ban Chấp hành cấp trên trực tiếp những đề nghị của chi hội về
công tác tổ chức, khen thưởng, kỷ luật hội viên, sinh viên.
- Đề xuất và phối hợp với Ban chủ nhiệm khoa, các tổ bộ môn và các đoàn thể
trong khoa làm tốt công tác sinh viên.
- Đại diện cho hội viên, sinh viên tham gia các hội đồng, các cuộc họp của khoa
liên quan đến vấn đề sinh viên, được phát biểu ý kiến về các vấn đề liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của hội viên.
IV. BỘ MÁY TỔ CHỨC, NHIỆM VỤ CỦA BAN THƯ KÝ, BAN CHẤP
HÀNH HỘI SINH VIÊN ĐẠI HỌC QUỐC GIA, ĐẠI HỌC KHU VỰC
1. Điều kiện thành lập: Hội Sinh viên trong Đại học Quốc gia, Đại học khu vực
được thành lập theo cơ cấu đặc thù của ngành giáo dục và đào tạo. Điều kiện thành
lập như quy định ở mục I, Phần thứ ba.
- Hội Sinh viên Đại học Quốc gia, Đại học khu vực là cấp trên trực tiếp của Hội
Sinh viên các trường, khoa thành viên.
2. Số lượng Uỷ viên Ban Chấp hành: Ban Chấp hành tối đa 27 uỷ viên, Ban Thư
ký có số uỷ viên không quá 1/3 số lượng uỷ viên Ban Chấp hành, trong đó có Chủ
tịch và tối đa 03 Phó Chủ tịch.
3. Nhiệm vụ của Ban Chấp hành, Ban Thư ký:
3.1. Ban Chấp hành có nhiệm vụ :
- Tổ chức thực hiện các nghị quyết, chương trình công tác của Hội cấp trên; quyết
định và tổ chức thực hiện các chương trình công tác của Hội cấp mình.
- Hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra Hội Sinh viên các trường thành viên trong việc
thực hiện nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác của Hội cấp trên.
- Triệu tập Đại hội đại biểu Hội Sinh viên cấp mình.
- Hiệp thương thống nhất bầu Ban Kiểm tra giúp việc cho Ban Chấp hành trong
công tác kiểm tra của Hội.
3.2. Ban Thư ký có nhiệm vụ :
- Tổ chức thực hiện nghị quyết, chương trình công tác của Ban Chấp hành Hội cấp
mình.
- Giúp Ban Chấp hành nắm vững tình hình và nhu cầu, nguyện vọng sinh viên
trong đơn vị để phản ánh với nhà trường và Hội cấp trên.
- Công nhận Ban Chấp hành Hội Sinh viên các đơn vị trực thuộc và báo cáo lên
Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp trên trực tiếp.
- Xét và đề xuất với Ban Chấp hành cấp trên trực tiếp những đề nghị của Hội Sinh
viên các trường thành viên về công tác tổ chức, khen thưởng, kỷ luật hội viên.
- Kiến nghị, đề xuất cấp ủy, Ban Giám hiệu, phối hợp với các tổ chức đoàn thể
trong trường Đại học, cao đẳng để giải quyết những vấn đề liên quan đến công tác
Hội và phong trào sinh viên của đơn vị.
- Chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành.
- Quản lý tài chính của Hội cùng cấp.
V. HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI.
(Thực hiện theo Hướng dẫn số 87 HD/TWHSV ngày 13 tháng 12 năm 2016 của
Ban Thư ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam).
VI. VIỆC TỔ CHỨC ĐẠI HỘI HỘI SINH VIÊN CÁC CẤP
Việc triệu tập Đại hội hoặc Hội nghị đại biểu bất thường phải xin chủ trương của
Hội cấp trên trực tiếp và báo cáo cấp uỷ, nhà trường, được Sở Nội vụ tỉnh, thành
phố cho phép (đối với Đại hội, Hội nghị đại biểu Hội Sinh viên cấp trường trở lên).
1. Về đại biểu Đại hội
a. Số lượng đại biểu:
- Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội cần xem xét kỹ để quyết định số lượng đại
biểu trên cơ sở hướng dẫn của Hội cấp trên, phù hợp với Điều lệ và điều kiện thực
tế (kinh phí, địa điểm, cơ sở vật chất...) của đơn vị.
- Đại biểu chính thức của đại hội Hội Sinh viên các cấp phải đảm bảo tối thiểu 80%
đại biểu là sinh viên trong tổng số đại biểu chính thức đại hội cấp đó.
b. Phân bổ đại biểu:
Việc phân bổ đại biểu cần dựa trên các yếu tố: Số lượng hội viên, số lượng tổ chức
Hội trực thuộc, tính đặc thù của đơn vị và tổ chức...để số lượng vừa hợp lý, vừa có
cơ cấu thích hợp thể hiện tính quần chúng rộng rãi của tổ chức Hội.
c. Những hướng dẫn về đại biểu Đại hội:
* Thành phần đại biểu:
- Đại biểu đương nhiên là uỷ viên Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội. Đại biểu là
uỷ viên Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội ở đơn vị nào là đại biểu chính thức
của đoàn đại biểu của đơn vị đó.
- Đại biểu chỉ định: Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội được quyền chỉ định một
số đại biểu có uy tín và ảnh hưởng tích cực đến công tác Hội và phong trào sinh
viên đi dự Đại hội. Trước khi chỉ định nên tham khảo ý kiến của Đảng uỷ, Ban
Giám hiệu, cơ sở Đoàn, Hội nơi đại biểu đang học tập, công tác. Đại biểu được chỉ
định không quá 5% số lượng đại biểu Đại hội.
- Đại biểu do tổ chức Hội cấp dưới hiệp thương bầu theo phân bổ số lượng của Ban
Chấp hành cấp triệu tập đại hội theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ và biểu
quyết.
(Đối với các trường không có tổ chức Hội Sinh viên, đại biểu sinh viên được hiệp
thương bầu trên cơ sở thống nhất của Đảng uỷ, Ban Giám hiệu và Ban Chấp hành
Đoàn Thanh niên cùng cấp).
- Đối với các đại biểu dự Đại hội cấp tỉnh, thành phố hoặc toàn quốc phải có văn
bản thể hiện sự thống nhất hiệp thương cử của Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, Hội Sinh
viên nhà trường. Đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc cần có sự thống nhất của Hội
Sinh viên tỉnh, thành phố hoặc tỉnh, thành đoàn ở những nơi chưa có Hội Sinh
viên.
- Những cán bộ, hội viên sau khi được bầu làm đại biểu, nếu thôi công tác Hội
hoặc chuyển sang công tác, sinh hoạt ở đơn vị khác không thuộc Hội Sinh viên cấp
triệu tập Đại hội thì cho rút tên khỏi danh sách đoàn đại biểu (việc cho rút tên và
bổ sung đại biểu của đoàn đại biểu do Ban Thư ký cấp triệu tập Đại hội quyết định
trên cơ sở đề nghị của Ban Chấp hành Hội Sinh viên cơ sở).
- Đại biểu dự Đại hội phải được Đại hội biểu quyết công nhận về tư cách đại biểu.
Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội không được bác bỏ tư cách đại biểu do cấp
dưới cử, trừ trường hợp đại biểu đang trong thời gian bị kỷ luật từ cảnh cáo trở lên.
- Đại hội đại biểu Hội Sinh viên chỉ có giá trị khi có ít nhất 2/3 số đại biểu được
triệu tập tham dự.
- Khi hiệp thương bầu đại biểu phải có quá nửa (1/2) số người có mặt tán thành thì
người được đề cử, ứng cử mới trúng cử.
2. Về Hội nghị đại biểu
- Ban Chấp hành Hội Sinh viên các cấp có thể triệu tập Hội nghị đại biểu để kiện
toàn Ban Chấp hành, thảo luận văn kiện Đại hội cấp trên, hiệp thương thống nhất
bầu đại biểu đi dự Đại hội Hội Sinh viên cấp trên. Số lượng đại biểu không nhiều
hơn số đại biểu Đại hội nhiệm kỳ.
- Thành phần Hội nghị đại biểu gồm các uỷ viên Ban Chấp hành cấp triệu tập Hội
nghị và các đại biểu do Ban Chấp hành cấp dưới hiệp thương cử lên, số lượng đại
biểu do Ban Chấp hành cấp triệu tập Hội nghị quyết định, có thể mời thêm cán bộ
Hội cấp dưới, hội viên tiêu biểu (do Ban Chấp hành cấp triệu tập quyết định).
- Hội nghị đại biểu Hội Sinh viên chỉ có giá trị khi có ít nhất 2/3 số đại biểu được
triệu tập tham dự.
- Khi hiệp thương bầu đại biểu phải có quá nửa (1/2) số người có mặt tán thành thì
người được đề cử, ứng cử mới trúng cử.
3. Về hiệp thương bầu đại biểu dự khuyết
- Số lượng đại biểu dự khuyết do Hội cấp trên phân bổ. Hiệp thương bầu đại biểu
chính thức trước khi hiệp thương bầu đại biểu dự khuyết. Việc giới thiệu đại biểu
dự khuyết thay thế đại biểu chính thức dự đại hội phải đảm bảo đúng cơ cấu và do
Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội quyết định.
4. Nguyên tắc bầu cử của Hội (khi bầu Ban Chấp hành, Ban Kiểm tra, các chức
danh chủ chốt của Hội và bầu đại biểu đi dự Đại hội, Hội nghị đại biểu cấp trên…):
hiệp thương thống nhất bầu bằng hình thức biểu quyết giơ tay.
5. Quy trình tổ chức Đại hội Hội Sinh viên các cấp
5.1. Chuẩn bị Đại hội
- Xây dựng đề án, kế hoạch tổ chức Đại hội:
+ Nghiên cứu đặc điểm, tình hình sinh viên, nắm tâm tư nguyện vọng của sinh
viên, xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy và sự giúp đỡ của Đoàn Thanh niên cùng cấp
để xây dựng đề án tổ chức Đại hội và chương trình công tác Hội.
+ Đề án tổ chức Đại hội phải xác định được mục đích, yêu cầu cần đạt được của
Đại hội, dự kiến thời gian tiến hành Đại hội; số lượng, cơ cấu và tiêu chuẩn đại
biểu; chương trình Đại hội... Đề án tổ chức Đại hội cần được hiệp thương dân chủ,
bàn bạc kỹ và có sự chỉ đạo của cấp ủy và thống nhất với Đoàn Thanh niên cùng
cấp và Hội cấp trên trước khi tiến hành Đại hội.
- Chuẩn bị nội dung của Đại hội:
+ Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ vừa qua;
phương hướng công tác Hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ tới; kiểm điểm hoạt
động của Ban Chấp hành cấp triệu tập Đại hội và các văn bản cần thiết khác.
5.2. Quy trình hiệp thương thống nhất bầu Ban Chấp hành Hội các cấp
Bước 1: Xây dựng đề án Ban Chấp hành
- Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành trước Đại hội để thống nhất về số lượng, thành
phần, cơ cấu, tiêu chuẩn ủy viên Ban Chấp hành... khoá mới. Số lượng và cơ cấu
Ban Chấp hành Hội các cấp phải bảo đảm các yêu cầu về tính đại diện của các tổ
chức thành viên trực thuộc, tính tiêu biểu cho sinh viên các hệ, khoá chuyên ngành
và thiết thực, hiệu quả.
- Tiêu chuẩn cơ bản của uỷ viên Ban Chấp hành Hội Sinh viên các cấp:
+ Có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thực hiện nghiêm pháp luật của Nhà nước.
+ Có kiến thức và năng lực tham gia xây dựng các quyết định của Ban Chấp hành;
có khả năng tổ chức và triển khai thực hiện, có phương pháp công tác, sâu sát cơ
sở, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của sinh viên, có khả năng đại diện, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của sinh viên.
+ Có đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết nội bộ, dân chủ, lối sống
trung thực, lành mạnh, có bản lĩnh đấu tranh và tham gia giải quyết có hiệu quả các
hiện tượng tiêu cực.
+ Nắm vững Điều lệ Hội Sinh viên Việt Nam, có trách nhiệm và nhiệt tình với
công tác Hội và phong trào sinh viên, được rèn luyện và trưởng thành từ thực tiễn
phong trào sinh viên, gương mẫu trong học tập, rèn luyện, được sinh viên tín
nhiệm.
* Những nhân sự dự kiến giới thiệu tham gia Ban Chấp hành đang bị kỷ luật từ
cảnh cáo trở lên thì không được ứng cử, đề cử tham gia Ban Chấp hành.
- Ban Chấp hành Hội Sinh viên cấp Trung ương, tỉnh, Đại học vùng, phải đảm bảo
tối thiểu 50% Ủy viên Ban Chấp hành là sinh viên. Ban Chấp hành Hội Sinh viên
cấp trường phải đảm bảo 70% là sinh viên.
Bước 2: Hiệp thương giới thiệu nhân sự Ban Chấp hành
Dựa vào chỉ tiêu được phân bổ, các tổ chức thành viên trực thuộc sẽ thông qua Đại
hội hoặc Hội nghị Ban Chấp hành cấp mình để hiệp thương bầu đại diện tham gia
Ban Chấp hành Hội cấp trên.
Để tiến hành đề cử tốt, bảo đảm công khai dân chủ, Hội Sinh viên phối hợp với
Đoàn thanh niên bàn bạc, xin ý kiến cấp uỷ Đảng, chính quyền đưa ra thảo luận
dân chủ trong sinh viên để thống nhất số lượng uỷ viên Ban Chấp hành và danh
sách đề cử. Đối với các nhân sự tham gia Ban Chấp hành Hội Sinh viên ở cấp tỉnh,
thành và Trung ương có văn bản hiệp thương đề nghị của Ban Chấp hành Hội Sinh
viên, Đoàn Thanh niên trường, có xác nhận của Đảng uỷ, Ban Giám hiệu nhà
trường; văn bản đề nghị của tỉnh, thành Đoàn; tỉnh, thành hội. Ban Chấp hành Hội
Sinh viên tỉnh, thành phố có trách nhiệm phối hợp cùng Trung ương Hội Sinh viên
khi chuẩn bị nhân sự tỉnh, thành mình tham gia Ban Chấp hành Trung ương Hội.
Bước 3: Hiệp thương thống nhất bầu Ban Chấp hành tại Đại hội
- Đoàn Chủ tịch Đại hội hoặc người chủ trì Hội nghị trình bày báo cáo về quá trình
chuẩn bị nhân sự và kết quả hiệp thương giới thiệu nhân sự để đại biểu thảo luận
xem xét, sau đó hiệp thương bầu bằng biểu quyết giơ tay (chung cho cả danh sách).
Việc hiệp thương bầu phải được quá nửa (1/2) số đại biểu có mặt trong Đại hội,
Hội nghị tán thành thì việc hiệp thương thống nhất bầu nhân sự vào Ban Chấp
hành Hội mới có giá trị.
- Trường hợp tổ chức Hội nào không thể hiệp thương thống nhất bầu đại diện của
mình tham gia Ban Chấp hành Hội cấp trên hoặc cử đại diện không đúng tiêu
chuẩn đã quy định thì vị trí đại diện của tổ chức đó có thể được bảo lưu cho tới khi
nào có đại diện tham gia hoặc hiệp thương thống nhất bầu đại diện của đơn vị
khác.
- Trường hợp có những ý kiến trái ngược nhau trong Đại hội hoặc Hội nghị nhưng
người đã được hiệp thương giới thiệu vẫn đủ tiêu chuẩn và Ban Chấp hành Hội cấp
dưới vẫn bảo lưu việc giới thiệu, sau khi thảo luận trong Đại hội (Hội nghị) không
nhất trí được thì tiến hành biểu quyết riêng trường hợp nhân sự đó.
- Ban Chấp hành Hội nhiệm kỳ trước có trách nhiệm chuẩn bị việc hiệp thương
chọn cử danh sách Ban Chấp hành Hội nhiệm kỳ mới.
- Ban Chấp hành hiệp thương thống nhất bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch và uỷ viên
Ban Thư ký. Số lượng ủy viên Ban Thư ký không quá 1/3 số lượng uỷ viên Ban
Chấp hành.
5.3. Chương trình Đại hội, Hội nghị đại biểu
- Chào cờ: Hát quốc ca; Bài ca chính thức của Hội Sinh viên Việt Nam.
- Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
- Công bố và thông qua danh sách Đoàn Chủ tịch, Thư ký Đại hội, Hội nghị, Đoàn
Chủ tịch điều hành Đại hội, Hội nghị (Đoàn Chủ tịch có quyền xem xét, kết luận
cuối cùng về việc cho rút tên hay không cho rút tên trong danh sách đề cử hoặc
công việc của Đại hội, Hội nghị).
- Đoàn Chủ tịch khai mạc Đại hội (Hội nghị).
- Công bố chương trình Đại hội (Hội nghị), hiệp thương bầu Ban kiểm tra tư cách
đại biểu.
- Trình bày báo cáo tổng kết và phương hướng, chương trình công tác nhiệm kỳ,
giai đoạn tới.
- Báo cáo kết quả kiểm tra tư cách đại biểu.
- Tham luận, thảo luận.
- Ý kiến phát biểu của các đại biểu.
- Khen thưởng (nếu có).
- Báo cáo kết quả quá trình hiệp thương và danh sách Ban Chấp hành, Ban Kiểm
tra khoá mới để đại hội (Hội nghị) hiệp thương bầu.
- Đại hội (Hội nghị) hiệp thương thống nhất bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội cấp
trên (nếu có).
- Thông qua lời kêu gọi, tuyên bố hoặc thư của Đại hội (Hội nghị) gửi hội viên,
sinh viên; thông qua dự thảo Nghị quyết Đại hội (Hội nghị).
- Tổng kết và bế mạc Đại hội (Hội nghị).
- Chào cờ.
* Lưu ý: Tuỳ theo điều kiện cụ thể có thể tổ chức Đại hội chính thức phiên nội bộ
và Đại hội chính thức phiên công khai hoặc tổ chức một phiên chính thức.
5.4. Những công việc sau Đại hội (Hội nghị)
Sau Đại hội, Ban Chấp hành Hội Sinh viên phải gửi các văn bản của Đại hội (Hội
nghị) cho Hội cấp trên trực tiếp bao gồm:
- Nghị quyết Đại hội.
- Biên bản Đại hội.
- Danh sách trích ngang Ban Chấp hành, Ban Kiểm tra Hội Sinh viên được Đại hội
hiệp thương thống nhất bầu ra.
- Báo cáo chính trị tại Đại hội đã tiếp thu, chỉnh sửa.
- Công văn đề nghị công nhận Ban Chấp hành và các chức danh chủ chốt của Hội
Sinh viên cấp tổ chức Đại hội theo quy định tại mục I, phần thứ ba của Hướng dẫn
này.
Chú ý: Đối với các đơn vị tổ chức Đại hội lần thứ nhất (Đại hội thành lập), sau Đại
hội, Ban Chấp hành Hội Sinh viên phải gửi các văn bản đề nghị công nhận tổ chức
Hội và Ban Chấp hành khóa I theo quy định tại mục I, phần thứ ba (Những vấn đề
về tổ chức của Hội) về điều kiện, thủ tục thành lập và công nhận tổ chức Hội của
Hướng dẫn này.
6. Kéo dài hoặc rút ngắn thời gian nhiệm kỳ đại hội
- Ban Chấp hành Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam được kéo dài, rút ngắn
nhiệm kỳ đại hội Hội Sinh viên cấp tỉnh, cấp trường trực thuộc khi có ý kiến thống
nhất của tỉnh, thành ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành.
- Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp tỉnh được quyết định kéo dài, rút ngắn nhiệm kỳ
đại hội Hội Sinh viên cấp Đại học Quốc gia, Đại học khu vực, cấp trường trực
thuộc để phù hợp với nhiệm kỳ chung nhưng không quá nửa nhiệm kỳ của cấp đó.
- Đối với Hội Sinh viên mới thành lập: Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp trên trực tiếp
có quyền quyết định điều chỉnh thời gian nhiệm kỳ đại hội lần thứ nhất để phù hợp
với thời gian nhiệm kỳ đại hội Hội Sinh viên cấp trên sau khi thống nhất với cấp
ủy, Đoàn Thanh niên cùng cấp.
7. Việc kiện toàn Ban Chấp hành Hội các cấp
Việc này áp dụng với cả ủy viên Ban Kiểm tra và các chức danh chủ chốt Ban
Kiểm tra các cấp.
Trước khi tổ chức Hội nghị kiện toàn, Hội Sinh viên cấp dưới phải gửi công văn
xin chủ trương của Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp trên về việc tổ chức Hội nghị
kiện toàn trong đó nêu rõ cơ cấu và nhân sự cụ thể dự kiến kiện toàn theo hướng
khuyết cơ cấu nào, bổ sung cơ cấu đó theo Đề án xây dựng Ban Chấp hành đã
được Đại hội thông qua.
7.1. Việc cho rút tên, thôi giữ chức vụ:
- Ủy viên Ban Chấp hành chuyển khỏi công tác Hội, sinh viên ra trường thì thôi
tham gia Ban Chấp hành và cho rút tên trong kỳ họp Ban Chấp hành gần nhất.
Trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành xem xét quyết định.
- Đối với các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch các cấp trước khi cho rút tên khỏi
danh sách Ban Chấp hành phải báo cáo và được sự đồng ý của cấp ủy cùng cấp và
Ban Thường vụ Đoàn cùng cấp và Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp trên trực tiếp.
- Việc cho rút tên, thôi giữ chức vụ và bổ sung uỷ viên Ban Chấp hành, uỷ viên
Ban Thư ký, Phó Chủ tịch và Chủ tịch Hội Sinh viên cấp nào do Hội nghị Ban
Chấp hành cấp đó thảo luận thống nhất; đồng thời tiến hành hiệp thương thống
nhất bầu nhân sự bổ sung thay thế (nếu thấy cần thiết). Sau đó Ban Chấp hành có
công văn đề nghị (kèm theo biên bản cuộc họp) để Ban Chấp hành Hội cấp trên
trực tiếp quyết định công nhận việc rút tên và bổ sung nhân sự thay thế (nếu có).
- Nếu rút tên trong Ban Chấp hành thì không còn là uỷ viên Ban Thư ký và không
còn giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch (nếu có). Nếu chỉ rút tên hoặc thôi giữ
chức vụ uỷ viên Ban Thư ký, Chủ tịch, Phó chủ tịch thì vẫn còn là uỷ viên Ban
Chấp hành.
7.2.Việc bổ sung, kiện toàn: Trường hợp bổ sung các chức vụ uỷ viên Ban Thư ký,
Chủ tịch, Phó Chủ tịch khi chưa phải là uỷ viên Ban Chấp hành của cấp đó thì Ban
Chấp hành thảo luận, hiệp thương thống nhất bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Hội,
sau đó thảo luận, biểu quyết các chức danh khác trong Ban Chấp hành. Khi làm thủ
tục đề nghị lên Ban Chấp hành Hội cấp trên công nhận, đề nghị công nhận chức
danh uỷ viên Ban Chấp hành trước khi công nhận chức danh khác đã được bầu.
VII. CHIA TÁCH, SÁT NHẬP, HỢP NHẤT, GIẢI THỂ
Tùy theo yêu cầu và khả năng hoạt động của Ban Chấp hành Hội Sinh viên xin ý
kiến Cấp ủy và Ban Thường vụ Đoàn cùng cấp về việc chia tách, sát nhập, hợp
nhất, giải thể báo cáo Hội cấp trên và báo cáo cơ quan ra Quyết định thành lập Hội
xem xét quyết định chia tách, sát nhập, giải thể.
PHẦN THỨ TƯ
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA HỘI VÀ BAN KIỂM TRA CÁC CẤP
A. CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA HỘI
1. Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Hội. Tổ chức Hội phải tiến
hành công tác kiểm tra.
2. Các cấp bộ Hội lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ công
tác kiểm tra. Các tổ chức Hội và hội viên chấp hành Điều lệ, Nghị quyết và thực
hiện các chương trình công tác Hội.
- Lãnh đạo công tác kiểm tra: Ban Chấp hành, Ban Thư ký Hội các cấp xây dựng
và chỉ đạo cấp bộ Hội cấp dưới và Ban Kiểm tra xây dựng chương trình, tiến hành
công tác kiểm tra. Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác kiểm tra của
các cấp bộ Hội. Lãnh đạo, chỉ đạo về tổ chức và hoạt động của Ban Kiểm tra, xây
dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra.
- Tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra:
+ Ban Chấp hành, Ban Thư ký Hội xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện
công tác kiểm tra, trong đó xác định nội dung, đối tượng, thời gian, phương pháp
tiến hành kiểm tra, tổ chức lực lượng kiểm tra, phân công các uỷ viên tiến hành
công tác kiểm tra.
+ Nội dung kiểm tra: Kiểm tra việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết Đại hội Hội Sinh
viên các cấp; việc chấp hành điều lệ, các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Hội; việc
thi hành kỷ luật của tổ chức Hội cấp dưới, giải quyết đơn thư tố cáo, bảo vệ quyền
lợi chính đáng của cán bộ, hội viên, sinh viên, công tác thu, chi hội phí và sử dụng
tài chính của Hội; kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành công tác kiểm tra
của các cấp bộ Hội và Ban Kiểm tra.
B. BAN KIỂM TRA CÁC CẤP
I. TỔ CHỨC BỘ MÁY
Ban Kiểm tra các cấp được xây dựng dựa trên các nguyên tắc và cơ cấu như sau:
1. Nguyên tắc tổ chức:
- Ban Kiểm tra của Hội được thành lập từ Trung ương đến cấp trường. Ban Kiểm
tra do Đại hội đại biểu Hội Sinh viên cùng cấp hiệp thương thống nhất bầu ra (Ban
Chấp hành hiệp thương thống nhất bầu Trưởng Ban Kiểm tra trong số uỷ viên Ban
Kiểm tra, Phó Trưởng Ban Kiểm tra do Ban Kiểm tra hiệp thương bầu). Ban Kiểm
tra có một số uỷ viên Ban Chấp hành, song không quá một phần hai (1/2) số lượng
uỷ viên Ban Kiểm tra.
- Việc công nhận danh sách Ban Kiểm tra mỗi cấp do Ban Chấp hành Hội Sinh
viên cùng cấp đề nghị và phải được Ban Thư ký Hội Sinh viên cấp trên trực tiếp
công nhận. Việc rút tên của uỷ viên Ban Kiểm tra cấp nào do cấp đó hiệp thương
và báo cáo lên cấp bộ Hội, Ban Kiểm tra cấp trên. Nhiệm kỳ của Ban Kiểm tra
theo nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Hội Sinh viên cùng cấp.
Sau Đại hội, nếu Ban Chấp hành Hội khoá mới chưa hiệp thương thống nhất bầu
được Ban Kiểm tra thì việc quyết định các công việc liên quan đến công tác kiểm
tra, kỷ luật, khiếu nại tố cáo do Ban Thư ký Hội cùng cấp trực tiếp giải quyết.
- Ban Kiểm tra các cấp được sử dụng con dấu của Ban Chấp hành trên cơ sở được
uỷ quyền ký các văn bản thuộc lĩnh vực liên quan đến công tác kiểm tra.
2. Số lượng Ban Kiểm tra các cấp:
2.1. Ban Kiểm tra Trung ương Hội:
- Số lượng 11 - 15 đồng chí, cơ cấu gồm: Trưởng Ban là uỷ viên Ban Thư ký
Trung ương Hội, từ 1-3 Phó ban và một số uỷ viên công tác tại cơ quan thường
trực Trung ương Hội, một số Ban chức năng của Trung ương Đoàn; một số uỷ viên
đại diện cho Hội Sinh viên tỉnh, thành phố, Đại học khu vực và các trường.
2.2. Ban Kiểm tra cấp tỉnh, thành phố:
- Số lượng 5-7 đồng chí, cơ cấu gồm: Trưởng Ban là uỷ viên Ban Thư ký hoặc Phó
Chủ tịch Hội Sinh viên tỉnh, thành phố, từ 1-2 Phó ban và còn lại từ 3 đến 5 uỷ
viên cơ cấu như sau:
* 1 đến 2 uỷ viên công tác tại cơ quan thường trực Hội Sinh viên tỉnh, thành phố.
* Một số uỷ viên đại diện cho các Ban chức năng của tỉnh, thành Đoàn và đại diện
Ban Kiểm tra các trường trực thuộc.
2.3. Ban Kiểm tra cấp trường:
- Số lượng 3-5 đồng chí cơ cấu gồm: Trưởng Ban là uỷ viên Ban Thư ký hoặc Phó
Chủ tịch Hội Sinh viên trường, 1 Phó Ban và còn lại từ 1 đến 3 uỷ viên là cán bộ,
hội viên. Riêng Ban Kiểm tra của Hội Sinh viên Đại học Quốc gia, Đại học khu
vực có số lượng tối đa 7 đồng chí, có từ 1-2 Phó Ban, các uỷ viên còn lại cơ cấu
một số đồng chí đại diện Ban Kiểm tra các trường trực thuộc và một số đồng chí là
cán bộ, hội viên.
3. Tiêu chuẩn uỷ viên Ban Kiểm tra:
- Có lập trường chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa, quyết
tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, gương mẫu chấp hành đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, gương mẫu thực hiện Điều lệ
Hội.
- Có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết nội bộ, có
lối sống trung thực lành mạnh, khách quan; Có bản lĩnh đấu tranh với các biểu hiện
tiêu cực, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cán bộ, hội
viên, không cơ hội, cá nhân chủ nghĩa.
- Có tinh thần trách nhiệm cao, có năng lực, nghiệp vụ về công tác kiểm tra, công
tác xây dựng Hội và công tác sinh viên.
- Nhiệt tình, năng động, sáng tạo, khiêm tốn, thận trọng và có điều kiện tham gia
công tác kiểm tra, được hội viên tín nhiệm.
II. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA BAN KIỂM TRA CÁC CẤP
1. Chức năng:
1.1. Kiểm tra, giám sát cán bộ, hội viên và tổ chức Hội chấp hành Điều lệ, thực
hiện các nghị quyết, chủ trương công tác của Hội, tham mưu cho các cấp bộ Hội
đại diện quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cán bộ, hội viên.
1.2. Chỉ đạo, hướng dẫn Ban Kiểm tra cấp dưới thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm
tra.
1.3. Tham mưu cho Ban Chấp hành Hội cùng cấp về công tác kiểm tra và công tác
xây dựng Hội.
2. Nhiệm vụ:
2.1. Tham mưu cho Ban Chấp hành và Ban Thư ký cùng cấp kiểm tra việc thi hành
Điều lệ, Hướng dẫn thực hiện Điều lệ, nghị quyết, chủ trương và các chương trình
công tác của Hội, tập trung vào một số nội dung như sau:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra của cấp bộ Hội, phối hợp kiểm tra việc
triển khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết của cán bộ, hội viên và tổ chức Hội cấp
dưới.
- Phát hiện, đề xuất nhân rộng điển hình, nhân tố mới.
- Đề xuất để kịp thời uốn nắn những khuyết điểm, lệch lạc trong việc thực hiện chỉ
thị, nghị quyết của tổ chức Hội cấp dưới.
- Đánh giá được hiệu quả các chủ trương công tác của Hội, chất lượng các hoạt
động và phong trào do Hội chỉ đạo và tổ chức.
2.2. Kiểm tra cán bộ, hội viên, uỷ viên Ban Chấp hành cùng cấp và tổ chức Hội cấp
dưới khi có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Hội.
- Tập trung kiểm tra việc chấp hành các nguyên tắc tổ chức, chế độ dân chủ và các
quy định trong sinh hoạt Hội, tư cách hội viên và những trường hợp vi phạm Điều
lệ Hội.
- Nếu sau khi kiểm tra có hành vi vi phạm thì kết luận, đề xuất biện pháp giải quyết
và hình thức kỷ luật với Ban Chấp hành cùng cấp.
- Qua theo dõi nắm bắt tình hình; qua phản ánh trực tiếp hoặc đơn, thư của cán bộ,
hội viên và sinh viên.
2.3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của cán bộ, hội viên và nhân dân liên quan đến
cán bộ, hội viên; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên.
- Khi nhận được đơn khiếu tố của cán bộ, hội viên, nếu thuộc thẩm quyền giải
quyết thì Ban Kiểm tra các cấp có trách nhiệm điều tra, xác minh, kết luận và trả
lời cho người có đơn. Nếu không thuộc thẩm quyền giải quyết thì chuyển đơn đó
cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết và thông báo cho người có đơn.
- Việc xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo trong Hội thực hiện theo quy định của
Điều lệ Hội, pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Nếu người khiếu nại (hoặc tố cáo),
hoặc người bị tố cáo là đảng viên thì phải thực hiện theo các quy định của Đảng.
- Một số quy định cụ thể:
+ Khi nhận được đơn khiếu nại, tố cáo của cán bộ, hội viên, nếu thuộc thẩm quyền
giải quyết thì Ban Kiểm tra các cấp có trách nhiệm thẩm tra, xác minh, kết luận,
kiến nghị xử lý và trả lời cho người có đơn. Thời hạn giải quyết lần đầu không quá
30 ngày đối với khiếu nại, 60 ngày đối với tố cáo kể từ ngày thụ lý giải quyết; đối
với các trường hợp đặc biệt có thể kéo dài nhưng thời gian kéo dài thêm không quá
45 ngày đối với khiếu nại và 90 ngày đối với tố cáo.
+ Những tố cáo, khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết thì chuyển cho cơ
quan chức năng xem xét, giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết.
+ Đối với đơn tố cáo không ghi danh, mạo danh không rõ địa chỉ và những đơn đã
được cấp có thẩm quyền xem xét kết luận tố cáo lại nhưng không có thêm tài liệu,
chứng cứ mới; những đơn tố cáo sao chụp chữ ký thì không xem xét giải quyết;
trường hợp đơn tố cáo không ghi danh, không rõ địa chỉ tố cáo nhưng có nội dung
rõ ràng, bằng chứng cụ thể thì Ban Kiểm tra tiến hành xác minh, thẩm tra.
- Đối với đơn, thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến đại biểu Đại hội hoặc Hội
nghị đại biểu của Hội, thì chỉ nhận và xem xét, giải quyết đơn thư đó trước Đại hội,
Hội nghị đại biểu ít nhất 10 ngày.
- Trong khi giải quyết đơn khiếu tố phải đảm bảo khách quan, trung thực, đúng
pháp luật và đúng Điều lệ Hội, không được quy chụp, trù úm người có đơn, không
được huỷ bỏ đơn thư khiếu tố. Sau khi giải quyết xong phải báo cáo cấp có thẩm
quyền quyết định xử lý.
2.4. Kiểm tra công tác hội phí, việc sử dụng các nguồn quỹ khác của các đơn vị
trực thuộc Ban Chấp hành cùng cấp và cấp dưới.
- Kiểm tra công tác hội phí.
+ Đối với hội viên: Kiểm tra ý thức trách nhiệm nộp hội phí của hội viên (thể hiện
ở thời gian nộp hội phí và mức nộp hội phí).
+ Đối với tổ chức Hội: tập trung 2 nội dung sau:
* Kiểm tra việc thu, nộp hội phí thể hiện ở số đơn vị hoặc cơ sở đã trích nộp hội
phí, thời gian nộp, mức độ, tỷ lệ trích nộp lên cấp trên.
* Kiểm tra việc quản lý và sử dụng hội phí: mục đích sử dụng, việc thực hiện các
quy định nguyên tắc về thanh quyết toán, các loại sổ sách, chứng từ...v.v...
- Kiểm tra việc sử dụng các nguồn quỹ khác của đơn vị trực thuộc Ban Chấp hành
cùng cấp và cấp dưới.
+ Đối với ngân sách được cấp: kiểm tra việc sử dụng ngân sách được cấp cho Hội
hoạt động (tập trung kiểm tra khi thấy có dấu hiệu vi phạm). Khi tiến hành kiểm tra
cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan tài chính.
+ Đối với các nguồn thu khác (từ hoạt động kinh tế và các khoản thu khác).
* Kiểm tra việc sử dụng các nguồn thu trong đó chú ý các khoản phân phối cho cán
bộ, nhân viên; đầu tư cho sản xuất, làm công tác từ thiện và giúp đỡ cơ sở; để lại
quỹ phúc lợi của cơ quan, đơn vị... Xem xét việc sử dụng nguồn thu này có hợp lý,
công bằng đảm bảo nguyên tắc bàn bạc tập thể hay không.
* Kiểm tra việc thanh, quyết toán các loại sổ sách, hoá đơn, chứng từ theo các quy
định của Nhà nước.
2.5. Tham mưu cho Ban Chấp hành và Ban Thư ký cùng cấp về công tác kỷ luật và
kiểm tra việc thi hành kỷ luật của tổ chức Hội cấp dưới. Tập trung vào các nội
dung:
- Phương hướng, phương châm thi hành kỷ luật đối với tổ chức Hội và cán bộ, hội
viên.
- Nguyên tắc, thủ tục và thẩm quyền thi hành kỷ luật.
- Việc giải quyết đơn thư khiếu nại về kỷ luật ở cấp dưới.
+ Xem xét các vụ kỷ luật đó được xử lý nhưng có dấu hiệu xử lý không đúng mức
để kiến nghị, tham mưu với Ban Chấp hành, Ban Thư ký cùng cấp xem xét, quyết
định.
+ Kiểm tra việc chấp hành các chỉ thị, nghị quyết hoặc ý kiến của cấp bộ Hội cấp
trên có liên quan đến việc thi hành kỷ luật và giải quyết các vấn đề về kỷ luật.
Ngoài 5 nhiệm vụ trên đây, Ban Kiểm tra có trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn
Ban Kiểm tra cấp dưới thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra của Hội.
- Định kỳ 6 tháng, 1 năm và cuối nhiệm kỳ, Ban Kiểm tra tổ chức sơ kết, tổng kết
hoạt động công tác kiểm tra; hướng dẫn chương trình hoạt động cho Ban Kiểm tra
cấp dưới; thường xuyên bàn bạc với cấp dưới tăng cường lãnh đạo và tạo điều kiện
cho Ban Kiểm tra cấp dưới hoạt động, giúp Ban Kiểm tra cấp dưới giải quyết các
vụ việc phức tạp.
- Tổ chức trao đổi kinh nghiệm giữa Ban Kiểm tra các cấp.
- Hướng dẫn, tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm tra cho uỷ viên Ban Kiểm tra cùng
cấp và Ban Kiểm tra cấp dưới.
III. QUYỀN HẠN CỦA BAN KIỂM TRA CÁC CẤP
1. Quyền được kiểm tra cán bộ, hội viên và tổ chức Hội cấp dưới.
- Ban Kiểm tra cấp trên được quyền kiểm tra hoạt động của Ban Kiểm tra cấp dưới.
- Được quyền kiểm tra cán bộ, hội viên và uỷ viên Ban Chấp hành cùng cấp về
chấp hành Điều lệ và kỷ luật của Hội.
- Được quyền kiểm tra tổ chức Hội cấp dưới một số lĩnh vực sau:
+ Việc chấp hành Điều lệ và kỷ luật của Hội.
+ Việc thi hành kỷ luật cán bộ, hội viên và tổ chức Hội.
+ Công tác hội phí và sử dụng tài chính của đơn vị trực thuộc Ban Chấp hành cùng
cấp và cấp dưới.
2. Quyền được yêu cầu:
- Được yêu cầu tổ chức Hội cấp dưới, cán bộ, hội viên và những người có liên
quan báo cáo, cung cấp tài liệu, chứng từ và các vấn đề khác có liên quan trong quá
trình điều tra, xác minh để giải quyết các vụ việc.
- Được tham dự hội nghị Ban Chấp hành Hội cùng cấp và cấp dưới khi giải quyết
những vấn đề có liên quan đến công tác kiểm tra của Hội.
3. Quyền được đề nghị.
- Đề nghị tổ chức Hội cấp trên, các cơ quan của Đảng, Nhà nước trả lời, giải quyết
những đơn thư khiếu tố của hội viên.
- Đề nghị cấp bộ Hội thi hành kỷ luật cán bộ, hội viên đã thoái hoá, biến chất và đề
nghị xoá tên các uỷ viên Ban Chấp hành hay uỷ viên Ban Kiểm tra cùng cấp và cấp
dưới khi các uỷ viên đó vi phạm kỷ luật.
4. Quyền được chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ các quyết định về kỷ luật của tổ chức
Hội và Ban Kiểm tra cấp dưới.
- Trong quá trình giải quyết đơn, thư khiếu nại về kỷ luật hoặc kiểm tra việc thi
hành kỷ luật của tổ chức Hội cấp dưới, nếu phát hiện thấy trường hợp xử lý kỷ luật
không đúng, Ban Kiểm tra cấp trên báo cáo với Ban Chấp hành, Ban Thư ký Hội
cùng cấp và yêu cầu Ban Chấp hành Hội cấp dưới sửa đổi; nếu Ban Chấp hành Hội
cấp dưới không sửa đổi thì Ban Kiểm tra cấp trên có quyền thay đổi hoặc xoá bỏ
các quyết định về kỷ luật đó.
IV. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG, CHẾ ĐỘ LÀM VIỆC CỦA BAN KIỂM
TRA CÁC CẤP
- Ban Kiểm tra các cấp làm việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ tập
thể, chịu sự lãnh đạo của Ban Chấp hành, Ban Thư ký Hội cùng cấp và sự chỉ đạo,
hướng dẫn của Ban Kiểm tra cấp trên. Mỗi uỷ viên phải chấp hành và chịu trách
nhiệm trước Ban Kiểm tra về nhiệm vụ được phân công.
- Ban Kiểm tra cấp dưới có trách nhiệm chấp hành sự hướng dẫn của Ban Kiểm tra
cấp trên về phương hướng, nhiệm vụ, nghiệp vụ công tác kiểm tra, chịu sự kiểm
tra, đôn đốc của Ban Kiểm tra cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Ban Kiểm tra theo quy định của Điều lệ và hướng dẫn thực hiện điều lệ Hội.
- Tham mưu cho Ban Chấp hành, Ban Thư ký Hội cùng cấp trong việc xây dựng,
ban hành quy chế làm việc của Ban Kiểm tra, kiện toàn Ban Kiểm tra, đào tạo, bồi
dưỡng và tổ chức tập huấn cho đội ngũ các bộ làm công tác kiểm tra.
- Hội nghị thường kỳ của Ban Kiểm tra trùng với thời gian Hội nghị thường kỳ của
Ban Chấp hành cùng cấp. Trong các phiên họp, ngoài việc giải quyết các công việc
cụ thể, Ban Kiểm tra cần kiểm điểm việc thực hiện 5 nhiệm vụ do Điều lệ quy
định, những trọng tâm, phương hướng công tác mới.
- Nếu vì lý do đặc biệt mà Ban Chấp hành chưa hiệp thương thống nhất bầu được
Ban Kiểm tra thì có thể đề nghị cấp bộ Hội cấp trên trực tiếp chỉ định. Hồ sơ đề
nghị chỉ định gồm: công văn đề nghị của Ban Chấp hành (có ý kiến của Đoàn
Thanh niên và cấp uỷ Đảng cùng cấp); danh sách và tóm tắt lý lịch của các uỷ viên
chỉ định. Thời gian hoạt động Ban Kiểm tra chỉ định không được kéo dài quá 2 kỳ
họp của Ban Chấp hành cùng cấp.
+ Ban Kiểm tra được chỉ định có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn như Ban
Kiểm tra do Ban Chấp hành bầu. Quá thời gian chỉ định thì Ban Kiểm tra chỉ định
không còn hiệu lực để hoạt động. Do đó, Ban Chấp hành Hội phải phối hợp với
Ban Kiểm tra cấp trên nhanh chóng hiệp thương thống nhất bầu ra Ban Kiểm tra
của cấp mình để đi vào hoạt động.
- Uỷ viên Ban Kiểm tra vì lý do tốt nghiệp ra trường không có điều kiện tham gia
hoạt động thì đương nhiên cho rút khỏi Ban Kiểm tra, Ban Thư ký Hội cấp đó
quyết định cho rút và tiến hành hiệp thương, giới thiệu để bầu đồng chí khác thay
thế.
PHẦN THỨ NĂM
KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT
I- KHEN THƯỞNG
Thực hiện theo quy chế thi đua khen thưởng của Hội Sinh viên Việt Nam khóa IX
ban hành kèm theo quyết định 61 QĐ/TWHSV ngày 30/3/2015 của Ban Thư ký
Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam.
II- KỶ LUẬT
Căn cứ vào mức độ và tính chất của khuyết điểm mà áp dụng những hình thức kỷ
luật khác nhau theo nguyên tắc cấp trên trực tiếp ra quyết định thi hành kỷ luật cấp
dưới.
1. Đối với tập thể: Có 3 hình thức:
- Giải thể tổ chức thành viên, thu hồi con dấu trong trường hợp tổ chức Hội hoạt
động trái với Điều lệ, làm tổn hại đến uy tín của Hội, làm ảnh hưởng đến sự phát
triển của phong trào sinh viên.
- Cảnh cáo: Trong trường hợp tổ chức Hội phạm sai lầm về nguyên tắc tổ chức,
hoạt động làm ảnh hưởng tới sự phát triển của phong trào sinh viên và suy yếu tổ
chức Hội trong nhà trường.
- Khiển trách: Trong trường hợp tổ chức Hội phạm sai lầm về phương pháp công
tác, không chấp hành nghiêm túc nghị quyết Đại hội của Hội, thiếu trách nhiệm với
phong trào sinh viên.
2. Đối với cá nhân hội viên:
Căn cứ vào đề nghị của tập thể nơi hội viên sinh hoạt và được quá nửa số hội viên
tán thành sau khi thảo luận dân chủ, có 3 hình thức kỷ luật với hội viên: Khai trừ,
cảnh cáo, khiển trách.
- Khai trừ: Hội Sinh viên trường được quyền ra quyết định kỷ luật khai trừ ra khỏi
Hội đối với những hội viên vi phạm nghiêm trọng Điều lệ, làm tổn hại tới uy tín
của Hội hoặc bị nhà trường buộc thôi học.
Chi hội, Hội Sinh viên khoa, khoá được quyền áp dụng 2 hình thức kỷ luật sau đây:
- Cảnh cáo: Đối với hội viên vi phạm Điều lệ Hội, làm tổn hại đến uy tín của Hội,
gây mất đoàn kết, chia rẽ sinh viên hoặc bị nhà trường, khoa cảnh cáo.
- Khiển trách: Đối với hội viên mắc khuyết điểm ở mức độ thấp hơn mức cảnh cáo
trên.
Ban Chấp hành Hội các cấp áp dụng hình thức miễn nhiệm (cho thôi chức vụ) đối
với các uỷ viên Ban Chấp hành của cấp mình trong trường hợp cá nhân đó không
đủ khả năng đại diện và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Sau 12 tháng kể từ khi cán bộ, hội viên có quyết định kỷ luật, nếu không tái phạm
hoặc không có những vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì đương nhiên được
chấm dứt hiệu lực của quyết định kỷ luật.
PHẦN THỨ SÁU
VỀ TÀI CHÍNH CỦA HỘI
Trong điều 19 Điều lệ Hội đã nêu rõ các khoản thu và chi của Quỹ Hội ở các cấp.
Mọi hội viên đều phải đóng hội phí.
Hội Sinh viên các trường, các chi hội, các câu lạc bộ, đội, nhóm chủ động bàn bạc
và quyết định cách thu, các mức thu hội phí của đơn vị mình cho phù hợp với khả
năng đóng góp của hội viên và tăng cường thêm điều kiện tổ chức các hoạt động
(mức thu 2.000đ/hội viên/tháng); thời gian thu do Ban Thư ký Hội Sinh viên
trường quyết định. Việc trích nộp hội phí theo 3 cấp (chi hội-Liên chi hội-Hội Sinh
viên trường) và thực hiện theo quy định sau: Từ chi hội trở lên, mỗi cấp giữ lại 2/3
và nộp lên Hội cấp trên 1/3 số tiền hội phí do hội viên nộp hoặc trích nộp của tổ
chức Hội cấp dưới. Việc quản lý thu chi hội phí do Ban Chấp hành Hội Sinh viên
trường bàn bạc thống nhất thực hiện. Các cấp bộ Hội cần sáng tạo, tìm cách tạo
nguồn kinh phí cho Hội thông qua các hoạt động kinh tế, lao động sản xuất, nghiên
cứu khoa học...v.v..
Kinh phí thu được từ các khoản Hội phí, các hoạt động kinh tế, lao động sản xuất
của Hội...v.v... chỉ được chi vào các hoạt động phục vụ thiết thực cho phong trào
sinh viên và công tác Hội Sinh viên. Các khoản thu chi tài chính phải đảm bảo
nguyên tắc thu chi tài chính hiện hành (có sổ sách theo dõi, hoá đơn chứng từ
chi...). Định kỳ 6 tháng, Ban Thư ký công khai tài chính với Ban Chấp hành nếu
Ban Chấp hành yêu cầu.
Hướng dẫn này được phổ biến rộng rãi tới các cấp bộ Hội và hội viên để thống
nhất thực hiện. Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc đề nghị các cấp bộ
Hội phản ánh về Ban Thư ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam để giải thích
hoặc xem xét điều chỉnh.
TM. BAN THƯ KÝ
TRUNG ƯƠNG HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM
CHỦ TỊCH
(Đã ký)
Lê Quốc Phong
Nội dung cốt lõi trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh
13/01/2020 08:16 Màu chữ Submit Cỡ chữ
Nội dung cốt lõi trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng dân tộc vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của Đảng và
dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất, chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc.
Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng. Người
gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân
tộc ta; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân cho đến hơi thở cuối
cùng. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng, đạo đức, phong cách thống nhất biện chứng, làm
thành diện mạo
nhân cách văn hoá, nhất là văn hoá lãnh đạo.
Từ tổng kết những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện Chỉ thị 06-CT/TW
(năm 2006), Chỉ thị 03-CT/TW (năm 2011), ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII đã ban hành Chỉ thị 05-CT/TW “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Chỉ thị 05). Đây
là lần đầu tiên (kể từ năm 1951), Đảng ta đặt vấn đề học tập và làm theo di sản Hồ
Chí Minh một cách toàn diện trong cấu trúc tổng thể.
1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - Những giá trị cốt lõi bền
vững.
Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một gia tài đồ sộ, một di
sản hết sức quý báu: Tư tưởng Hồ Chí Minh; đạo đức Hồ Chí Minh; phong cách
Hồ Chí Minh. Đó là di sản vô cùng đa dạng và phong phú, thấm đượm trong toàn
bộ cuộc đời, sự nghiệp, trong tư tưởng, đạo đức phong cách của Người; toả sáng
trong những trước tác phẩm, trong từng việc làm, từng cử chỉ và mối quan tâm sâu
sắc, ân cần đối với con người với dân, đất nước và nhân loại, nhất là nhân dân các
dân tộc bị áp bức.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của những năm bôn ba, lăn lộn
trong hoạt động thực tiễn, nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Từ đó, Hồ
Chí Minh đã có những sáng tạo lớn, đặc sắc về lý luận, hiện thực hoá, làm phong
phú, giàu có Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tiếp cận tư
tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống tri thức tổng hợp với các chuyên
ngành Khoa học xã hội và nhân văn, theo tinh thần Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, cần
tập trung đẩy mạnh học tập và làm theo các nội dung cốt yếu nhất, gắn liền với
những nội dung cơ bản của công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh theo
tinh thần nghị quyết Đại hội XII của Đảng như: (1) Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiến tạo một xã hội vì con người và các
giá trị làm người; (2) Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát triển kinh tế,
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; (3) Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ,
xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam, hình thành một Chính phủ kiến tạo, liêm
khiết, quản trị tốt và giải trình trách nhiệm trước nhân dân; (4) Tư tưởng Hồ Chí
Minh về hệ thống chính sách xã hội trong điều kiện Việt Nam; (5) Tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hoá con người Việt Nam; (6) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết,
hội nhập và hợp tác quốc tế.
Đặc biệt, cần chú trọng nắm bắt cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; độc lập, tự do, hạnh phúc. Đây chính là giá trị nền móng
phát triển bền vững, có khả năng giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn của
cách mạng Việt Nam.
Giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá, mãi mãi soi
đường cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tư do, vì chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt
Nam giành thắng lợi.
Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một tấm gương vô cùng trong sáng và cao
thượng, kết tinh của tinh hoa văn hoá Việt Nam. Người không chỉ là một nhà tư
tưởng lỗi lạc về văn hoá, sáng tạo ra một nền văn hoá mới, văn hoá cách mạng Việt
Nam, kiến tạo ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của văn hoá dân tộc, mà
chính bản thân Người, cuộc sống của Người, những việc làm bình thường hằng
ngày của Người là hiện thân của nền văn hoá Việt Nam, là mẫu mực của con người
Việt Nam. Tư tưởng, tâm hồn, cốt cách của Người là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết tinh
những giá trị văn hoá phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại, dân
tộc và quốc tế.
Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không chỉ để lại những tác phẩm lý
luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt
Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt
quan trọng là những tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã
thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Trong đó, theo
Người đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, biểu hiện tập trung thông qua ba mối
quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Đức là gốc, những đức
và tài phải kết hợp, phải đi đôi với nhau; người cách mạng phải có cả đức và tài
mới hoàn thành được trọng trách Đảng và nhân dân giao cho.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là một biểu tượng trong sáng, cao đẹp về chí khí cách mạng
kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo
đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để
lại cho chúng ta một tấm gương sáng, về lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa
yêu thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn
xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về phong cách tư duy, phong cách diễn
đạt, phong cách làm việc; phong cách ứng xử và phong cách sinh hoạt; sự nhất
quán giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm.
Về mặt đạo đức, trong thời gian tới cần tập trung vào các chủ đề:
(1) Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh suốt đời đấu tranh cho
Đảng, cho cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân;
(2) Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ra sức làm việc cho
Đảng, thực hiện đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, giữ
nghiêm kỷ luật Đảng;
(3) Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh luôn luôn đặt lợi ích của
Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, vì
Đảng, vì nhân dân mà hy sinh quyên minh, gương mẫu trong mọi việc;
(4) Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hoà mình với nhân dân,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp thu sự phê bình và chịu sự giám sát của
nhân dân;
(5) Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không ngừng học tập,
luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao trình độ, tư tưởng, cải tiến
công tác, cùng giúp nhau tiến bộ.
Đặc biệt, cần chú trọng quán triệt, làm theo những giá trị cốt lõi của tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư (dĩ công vô
thượng), tất cả vì con người.
Cuộc đời Hồ Chí Minh xuất phát từ một triết lý nhân sinh lấy khiêm tốn, giản dị
làm nền; lấy chuẩn mực đức độ làm chuẩn; lấy trong sạch thanh cao làm vui; lấy
gắn bó con người, thiên nhiên làm niềm say mê vô tận, là tình thương yêu con
người quyện với tình yêu thiên nhiên tạo lên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ,
kết hợp chặt chẽ với những rung động say mê của một tâm hồn nghệ sĩ...

Phong cách có quan hệ chặt chẽ với đạo đức, đạo đức được thể hiện qua phong
cách, qua phong cách có thể đánh giá được đạo đức, đánh giá được nhân cách con
người. Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, tạo thành một hệ thống bao
gồm: Phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách làm việc, phong cách
ứng xử, phong cách sinh hoạt,vv...
Về phong cách Hồ Chí Minh, cần được nghiên cứu thấu đáo, quán triệt và làm theo
một cách toàn diện, bao gồm: (1) Học tập và làm theo phong cách tư duy Hồ Chí
Minh; (2) Học tập và làm theo phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh; (3) Học tập và
làm theo phong cách làm việc Hồ Chí Minh; (4) Học tập và làm theo phong cách
ứng xử Hồ Chí Minh; (5) Học tập và làm theo phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh.
Trong đó, cốt lõi của phong cách Hồ Chí Minh là phong cách khoa học, dân chủ,
quần chúng, hài hoà, nêu gương.
2. Tiếp tục đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi con người, học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải trở thành nhu cầu nội tại, tự giác, là
nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, nhằm tự giáo dục rèn luyện bản thân
mình. Trước hết là hoàn thiện nhân cách làm người, trên nền tảng đó, mới nói đến
việc trở thành nhân cách cộng sản, làm người cán bộ, xứng đáng là đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”.
Theo tinh thần Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khoá XII, muốn việc học tập và làm
theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đi vào chiều sâu, thiết
thực, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp thực hiện mang tính liên hoàn. Ngoài
việc phát huy những kinh nghiệm trong chỉ đạo, tổ chức, triển khai thực hiện và
nhân rộng các cách làm hay, các mô hình sáng tạo trong việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong những năm qua, trong thời gian tới, cần
thực hiện tốt các nhóm giải pháp cơ bản sau:
Nhóm giải pháp về nhận thức tư tưởng
Để thực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành
tự giác, thường xuyên, phải nâng cao nhận thức, phải suy nghĩ đúng, theo lương
tâm và lẽ phải, ít nhất là hai điều căn bản:
Một là, nhận thức đúng các giá trị mang tính bền vững của di sản tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh. Những giá trị này được thể hiện qua các tác phẩm,
bài nói, bài viết và nhất là quan hệ, việc làm, ứng xử của tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Mặc dù thời gian qua, bằng nhiều con đường khác nhau, mỗi cán bộ,
đảng viên ít hay nhiều đã được biết đến những giá trị di sản Hồ Chí Minh. Nhưng
theo chúng tôi, những hiểu biết này chưa mang tính hệ thống, chắp vá và quan
trọng nhất là chưa lý giải đến ngọn ngành chiều sâu khoa học của từng giá trị nền
móng hàm chứa trong di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Giáo
dục mới dừng lại ở việc truyền đạt các tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương biên
soạn. Người đi tuyên truyền cũng chưa thật sự thấu hiểu, cảm nhận sâu sắc những
gì viết ra để biến thành đam mê, khát vọng, tình cảm máu thịt. Vì thế, người nghe
cũng chưa thực sự thẩm thấu khi tiếp nhận những tri thức về di sản đạo đức Hồ Chí
Minh.
Việc nhận thức đúng giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đặt ra nhu
cầu rất lớn: Phải tổ chức nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh một cách căn bản, có hệ
thống, cả chiều rộng và chiều sâu. Muốn vậy, phải bắt đầu từ công tác tư liệu, biên
soạn tài liệu. Chúng ta phải xây dựng được một hệ thống tư liệu đầy đủ nhất, chuẩn
xác nhất theo khả năng hiện có về di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh. Thiếu nguồn tư liệu chuẩn xác được thẩm định thì không bao giờ có được
cái nhìn toàn cục, hệ thống, đầy đủ về giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh. Từ không biết chắc chắn sẽ dẫn đến không hiểu; từ không biết, không hiểu
sẽ không có khả năng hướng dẫn thực hành. Cho đến nay, trên cả bình diện vĩ mô
và vi mô (nguồn tư liệu chung về Chủ tịch Hồ Chí Minh và nguồn tư liệu có liên
quan đến các địa phương, các ngành, các lĩnh vực hoạt động), nguồn tư liệu thuộc
lĩnh vực này cũng làm chưa được tốt, thiếu sự kiểm định, dễ dẫn đến những thông
tin không chính xác, phản giáo dục, thậm chí là xuyên tạc.
Nghiên cứu di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải đạt đến yêu
cầu của một chuyên ngành khoa học thì mới cung cấp cứ liệu đầy đủ cho việc triển
khai học tập và làm theo. Về tư tưởng - lý luận, từ nghiên cứu cơ bản phải khái
quát được các quan điểm của Hồ Chí Minh thành các nguyên lý mang tính bền
vững, phổ biến. Về thực tiễn, phải chắt lọc, tinh lọc các nguồn tư liệu có liên quan
đến cuộc đời, con người Hồ Chí Minh mà khái quát thành các giá trị chuẩn mực
đạo đức tiêu biểu.
Trên phương diện lý thuyết và thực tiễn, đã đến lúc chúng ta cần biên soạn bộ giáo
trình “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” cho các loại hình đào tạo
trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị.
Hai là, nhận thức được sự cần thiết phải tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhằm trang bị cho mỗi người cái căn cốt, gốc rễ,
nền móng để hình thành bản lĩnh, đủ sức đề kháng, chống lại sự tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường, xu thế hội nhập quốc tế và sự lan truyền có hại của sự suy
thoái, tha hoá đạo đức trong đời sống hiện nay. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh là tạo lập môi trường để trong đó làm lành mạnh
hoá quan hệ xã hội mang tình người, để mỗi người dễ trở thành người tốt, khó
thành xấu. Bởi vậy, nói như một nhà Báo nước ngoài: Người ta không thể trở thành
một Hồ Chí Minh, những ở Hồ Chí Minh người ta có thể học được một điều gì đó
để làm cho mình tốt hơn, người hơn!
Nhóm giải pháp về chỉ đạo, lãnh đạo tổ chức thực hiện
Lãnh đạo, chỉ đạo thuộc về chức năng của các tổ chức đảng các cấp. Trên cơ sở
nhận thức đúng, thống nhất, các tổ chức đảng triển khai lãnh đạo, xây dựng chương
trình hành động với các bước đi, lộ trình xác thực, cụ thể. Quan trọng nhất là chỉ
đạo hình thành các tiêu chí, chuẩn mực đạo đức, phong cách cho đơn vị, cá nhân,
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, chức năng công tác đang đảm nhiệm. Về nguyên
tắc, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chú trọng vào các chuẩn
mực đạo đức nền móng: Một là, thực hiện tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh ở
tầm triết lý nhân sinh “Trung với nước, hiếu với dân”; Hai là, thực hiện đúng lời
dạy: “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”, nêu cao phẩm giá con người Việt
Nam trong thời kỳ mới ; Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với
nhân dân, vì nhân dân phục vụ; Bốn là, học tập và làm theo tư tưởng, phong cách
Hồ Chí Minh, tiếp tục phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hoá, chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế.
Nhóm giải pháp về kiểm tra, đánh giá, tổng kết thực tiễn
Hồ Chí Minh từng căn dặn: Tổ chức học tập, làm theo mà thiếu khâu kiểm tra,
đánh giá thì coi như không tổ chức học tập. Trước hết, việc kiểm tra học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải bắt đầu từ trong tổ chức
đảng: thường xuyên, có hệ thống, từ trên xuống, từ dưới lên; tổ chức đảng giám
sát, kiểm tra đảng viên; đảng viên kiểm tra, giám sát lẫn nhau; đảng viên thường
giám sát đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Điều mấu chốt là hình thành đội
ngũ những người đi kiểm tra có phẩm chất, năng lực hiểu biết công việc và trên
thực tế, họ là những con người thực hành tốt tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh.
Mặt khác, phải đặt sự tu dưỡng, rèn luyện, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh dưới sự giám sát của nhân dân. Tin dân, nghe dân và xử
lý những điều dân góp ý đúng sẽ giúp cán bộ, đảng viên chú trọng thực hành tư
tưởng, phương pháp, nói ít làm nhiều, làm hay hơn nói, trở thành tấm gương sáng
trước mặt quần chúng.
Thêm vào đó, trong từng thời kỳ, mỗi đơn vị, cá nhân, mỗi ngành, mỗi cấp cần
phải có sự tổng kết rút kinh nghiệm làm căn cứ cho việc đánh giá xếp loại; nêu ra
được những việc làm hay, cách làm tốt, có hiệu quả; chỉ rõ những bất cập, hạn chế,
hình thức, biểu dương những gương điển hình, tiên tiến phải gắn với việc phê bình,
kỷ luật những cá nhân chưa làm tốt, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh. Khen thưởng, kỷ luật chính xác, công tâm, khách
quan có tình có lý cũng là một trong những động lực quan trọng để đưa việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đi vào thực chất, thực
tế trở thành công việc thường xuyên, hàng ngày, liên tục.
Cần xây dựng, xuất bản thường xuyên bộ sách về tấm gương học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh như Bác Hồ đã chỉ đạo làm sách
“Người tốt, việc tốt” trước đây.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước đang đặt ra những yêu cầu ngày
càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con
người Việt Nam. Hơn lúc nào hết, hiện nay, vấn đề tư tưởng, phương pháp, phong
cách, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ;
đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý tư tưởng, nhận thức, thế giới
quan, phương pháp luận trong Đảng và trong nhân dân trở thành nhu cầu sống còn.
Kế thừa giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng
để khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tha hoá nhân cách đạo đức, lối
sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh hệ thống quan hệ xã hội;
xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam mới theo tinh thần Nghị quyết số 33 về
“Xây dựng và phát trriển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu bền vững
đất nước”. Từ đó, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, tạo động lực cho sự
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại như tinh thần Nghị quyết Đại hội XII đã xác
định.
Trên cả bình diện lý thuyết và thực tiễn, Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị là
một quyết sách sáng suốt, kịp thời chắc chắn nhận được sự đồng thuận của cán bộ,
đảng viên và toàn xã hội.

PGS, TS Phạm Ngọc Anh


Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(Theo Tạp chí Tuyên giáo, số 6-2016).
(Q.D)

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của


Chủ tịch Hồ Chí Minh
27/10/2020 | 08:58
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng suốt, vị
lãnh tụ thiên tài. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử
vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung
của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Năm 1987, Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Hồ Chí
Minh là "Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam".
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1911
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn
Tất Thành, khi hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc). Người
sinh ngày 19/05/1890, tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Trùa)
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An). Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan. Người
sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, ngay từ thuở nhỏ đã tiếp thu được
truyền thống yêu nước, lòng nhân ái từ gia đình và quê hương đất nước. Trong thời
gian 10 năm sống ở Huế - trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, Người tiếp
xúc với nhiều sách báo Pháp, với nền văn hóa mới và những bàn luận về các phong
trào chống Pháp của các sĩ phu yêu nước.
Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Người đã
chứng kiến sự đối lập giữa cuộc sống lao động nghèo khổ của nhân dân với cảnh
sống xa hoa, phè phỡn của bọn thực dân Pháp. Người đã thấy được những cuộc
biểu tình chống sưu thuế của nông dân bị đàn áp dã man và sự thất bại của các
phong trào yêu nước. Theo Người, muốn cứu nước phải tìm ra một con đường cách
mạng mới. Có thể nói, tình yêu quê hương, đất nước và gia đình đã hình thành nên
người thanh niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nước, có hoài
bão cứu nước cứu dân và thấu hiểu được sức mạnh của ý chí độc lập tự cường của
dân tộc. Với một ý chí nghị lực phi thường, Người đã quyết tâm tìm cách sang
Pháp và các nước phương Tây, Người khẳng định: "Tôi muốn ra nước ngoài xem,
xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở
về giúp đồng bào chúng ta". Người cho rằng dân tộc Việt Nam đang là một dân tộc
mất quyền độc lập và nhiệm vụ của những người Việt Nam yêu nước là phải đấu
tranh giành lại quyền độc lập.
Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920
Để thực hiện hoài bão của mình, ngày 05/06/1911, Người lên con tàu Đô đốc
Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ
Chí Minh) rời Tổ quốc đi sang Pháp. Người vừa lao động để kiếm sống, vừa học
tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Khi trả lời phỏng vấn một nhà báo Nga,
Người nói: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự
do, Bình đẳng, Bác ái…Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm
xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy" (1). Khi được chứng kiến ở Pháp
cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, Người nhận ra rằng những người
Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những bọn thực dân Pháp ở Đông Dương. Từ
năm 1911 đến năm 1917, Người đã đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Phi,
châu Mỹ đã tận mắt thấy cuộc sống khổ cực của nhân dân và những tội ác, thủ
đoạn của chủ nghĩa thực dân. Người cho rằng nhân dân lao động các nước, trong
đó có giai cấp công nhân, đều bị bóc lột có thể là bạn của nhau, còn chủ nghĩa đế
quốc, bọn thực dân ở đâu cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù của nhân dân lao động. Năm
1917, Người tham gia phong trào công nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân.
Năm 1919, Người tham gia "Hội những người Việt Nam yêu nước" vào Đảng Xã
hội Pháp- đảng của giai cấp công nhân Pháp, theo Người đây là tổ chức theo đuổi
lý tưởng cao quý của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Người đã
cùng với một số nhà yêu nước Việt Nam thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An
Nam lấy tên Nguyễn Ái Quốc gửi Hội nghị Vécxây đòi quyền tự do dân chủ cho
nhân dân Việt Nam. Đây là tiếng nói chính nghĩa đầu tiên của đại biểu phong trào
giải phóng dân tộc. Người khẳng định các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể
dựa vào sức của bản thân mình, Người viết: "Muốn được giải phóng, các dân tộc
chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình" (2).
Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin trên báo L'Humanité (Nhân Đạo). Khi
đọc Luận cương của Lênin, Người hiểu hơn về chủ nghĩa Lênin, Quốc tế Cộng sản,
về cách mạng vô sản, về phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Người viết:
"Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng
biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói
to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"(3). Từ
bản Luận cương của Lênin, Người đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản
của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản,
trong đó có cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Lênin, từ
một người Việt Nam yêu nước trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là
bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, một sự
chuyển biến về chất, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930
Cùng với những nhà hoạt động cách mạng của các thuộc địa Pháp, Người thành lập
Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria)
bằng tiếng Pháp vào năm 1922. Trong bài Lời kêu gọi đăng ở số báo đầu tiên,
Người cũng chỉ ra mục đích của tờ báo là đấu tranh để giải phóng con người.
Trong thời gian hoạt động ở Quốc tế Cộng sản, Người chỉ ra tình cảnh của giai cấp
công nhân, nông dân nghèo ở các nước thuộc địa đang chết dần vì đói rét, bệnh tật
và kêu gọi Quốc tế Cộng sản giúp đỡ họ.
Năm 1925, Người đã viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, nhằm tố cáo tội
ác của chủ nghĩa thực dân Pháp, nêu rõ nỗi thống khổ và sức mạnh của nhân dân
các nước thuộc địa. Tại Quảng Châu, Nguời thành lập Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí hội mở lớp huấn luyện, đào tạo trực tiếp cán bộ cho cách mạng Việt
Nam, ra báo Thanh niên bằng tiếng Việt. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên của
Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận cách mạng cho những
người yêu nước. Các bài giảng của Người tại lớp huấn luyện được tập hợp in thành
cuốn Đường Cách mệnh (1927) đề cập nhiều nội dung, nhiều vấn đề trong đường
lối và phương pháp cách mạng Việt Nam. Đây là một trong những văn kiện lý luận
đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam sau này.
Ngoài ra, Người còn viết rất nhiều tác phẩm và nhiều bài trên báo Việt Nam độc
lập, với nội dung ca ngợi truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, quật cường
của dân tộc, kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hội, đoàn thể cứu
quốc, kêu gọi các đảng cộng sản ở chính quốc phải giúp đỡ phong trào giải phóng
ở thuộc địa. Thông qua báo chí và các hoạt động thực tiễn, Người tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam; Người đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần dân tộc,
hướng dẫn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang góp phần tạo ra một
cao trào cứu nước mạnh mẽ để đón thời cơ, tiến tới tổng khởi nghĩa giành độc lập,
tự do cho dân tộc.
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được
lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị, Người khẳng định: "Lực lượng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng
ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi"(4). Người chỉ rõ cách mạng
Việt Nam phải có đảng lãnh đạo, có chủ nghĩa Mác-Lênin làm nòng cốt. Năm
1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập ra một Đảng
Cộng sản thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc dự thảo, các văn
kiện này trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Bản Cương lĩnh chính
trị thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc
giải quyết mối quan hệ giai cấp-dân tộc- quốc tế về đường lối cách mạng Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu một thời kỳ mới trong lịch sử dân
tộc, đưa nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cùng các
dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc, xóa bỏ hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, góp phần giải phóng loài người khỏi bóc lột và bất công. Người đã
hoàn thành sứ mệnh lịch sử, trở thành Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối,
phương pháp và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu cho một thời kỳ mới trong lịch
sử của dân tộc. Tuy Đảng vừa mới ra đời nhưng đã trực tiếp lãnh đạo cao trào cách
mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Người kêu gọi một số tổ chức
quốc tế, các đảng anh em có những hình thức phối hợp đấu tranh nhằm động viên,
giúp đỡ phong trào về vật chất và tinh thần. Bên cạnh đó, Người còn thẳng thắn
góp ý phê bình Đảng còn kém đường bí mật công tác, nhắc nhở Đảng phải tìm
cách bảo vệ cán bộ, không để kẻ thù tìm cách bắt giữ hết cán bộ của ta. Người
không chỉ kêu gọi sự giúp đỡ phong trào mà còn ngăn chặn sự đàn áp đẫm máu của
bọn đế quốc, nhờ đó mà Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ca ngợi cuộc đấu
tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời đánh
giá cao công lao to lớn của Người.
Tháng 10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp và ra nghị quyết: Hội nghị hiệp
nhất Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì là phạm sai lầm, chỉ lo đến việc phản đế mà
quên lợi ích giai cấp đấu tranh, việc phân chia thành trung, tiểu, đại địa chủ trong
sách lược của Đảng là không đúng nên Hội nghị đã bỏ tên "Đảng Cộng sản Việt
Nam" mà lấy tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương" hoạt động theo như chỉ thị của
Quốc tế Cộng sản. Bên cạnh đó, Đại hội I của Đảng Cộng sản Đông Dương ở Ma
Cao vẫn cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu chính thức của Đảng đi dự Đại
hội VII Quốc tế Cộng sản. Điều đó chứng tỏ quan điểm và uy tín của Người trong
Đảng vẫn rất lớn.
Tháng 10/1934, Người được vào học Trường Quốc tế Lênin, Người học đầy đủ các
môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và những phương pháp học tự
nghiên cứu kết hợp với thực tế. Cuối năm 1936, Người trúng tuyển vào lớp nghiên
cứu sinh, ngành lịch sử của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Năm
1937, Người dự kỳ thi học kỳ I của lớp nghiên cứu sinh đạt kết quả tất cả các môn
học. Do chiến tranh ngày một ác liệt, Người không thể yên tâm ngồi học mà nóng
lòng muốn trở về nước hoạt động. Năm 1938, Người đã gửi thư cho Quốc tế Cộng
sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.
Trước khi về nước, trong thời gian khi còn hoạt động ở nước ngoài, dù đã từng bị
tù đầy trong lao tù đế quốc vượt qua bao khó khăn gian khổ nhưng Người vẫn kiên
định thực hiện con đường đã chọn là giải phóng dân tộc. Người vẫn luôn theo dõi
tình hình trong nước, kịp thời chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Được Quốc tế Cộng
sản chấp thuận, vào ngày 28-01-1941, Người trở về Việt Nam sau 30 năm hoạt
động ở nước ngoài.
Tháng 05/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác Bó (Cao Bằng) dưới
sự chủ trì của Người. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
Người khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.
Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống
nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng"(5). Để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân,
tranh thủ mọi lực lượng yêu nước chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc, chĩa
mũi nhọn vào kẻ thù. Hội nghị quyết định thành lập "Việt Nam độc lập đồng
minh", gọi tắt là Mặt trận Việt Minh vào ngày 19/05/1941. Ngày 22/12/1944, Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, là tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam. Ngày 18/08/1945, Người viết thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền, Người viết: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến.
Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(6). Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến, lật đổ ách thống
trị của thực dân Pháp và giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít Nhật. Đây là thắng
lợi to lớn của dân tộc vừa là sự kế thừa truyền thống của cha ông ta trong lịch sử,
vừa là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lãnh đạo tài
tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình
đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" (7). Bản
tuyên ngôn khẳng định quyền tự do, độc lập của các dân tộc và nói lên ý chí của
toàn dân quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập
ấy"(8). Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó
độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng
chính trị cốt lõi vốn đã được Người phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của Đảng
năm 1930, nay đã trở thành hiện thực cách mạng đồng thời trở thành chân lý của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới của dân tộc Việt
Nam.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969
Mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay lại xâm
lược Việt Nam. Quân Pháp núp sau quân đội Anh, đã nổ súng ở Nam Bộ. Ở miền
Bắc thì hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng và
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vận mệnh dân tộc lúc đó như "ngàn cân treo
sợi tóc" trước tình thế đó, Người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt
qua thác ghềnh hiểm trở. Người cùng Trung ương Đảng một mặt lãnh đạo đồng
bào Nam Bộ kháng chiến, mặt khác chăm lo xây dựng Đảng, củng cố chính quyền
non trẻ, đầy lùi giặc đói, giặc dốt, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt. Về đối ngoại,
Người vận dụng sách lược mềm dẻo, khôn khéo, thêm bạn, bớt thù, "dĩ bất biến,
ứng vạn biến", với những nhân nhượng cần thiết để tranh thủ thời gian chuẩn bị lực
lượng đi vào cuộc kháng chiến lâu dài. Nhờ vậy mà tháng 12-1946, chính quyền
cách mạng trong cả nước được giữ vững với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá vào
cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Người ra Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến: "Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng
kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!"(9). Người đề ra đường lối
kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh đồng thời Người lãnh
đạo, tổ chức, chỉ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và kiên quyết chiến đấu
bảo vệ tổ quốc với ý chí "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ"(10)
Năm 1951, Người cùng Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội toàn quốc
lần thứ II của Đảng, đưa Đảng ra công khai với tên là Đảng Lao động Việt Nam và
bầu Người làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trong Thư gửi Đại hội
trù bị, Người viết: "Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng
lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam"(11). Đại hội đã thông qua
Cương lĩnh mới, Điều lệ mới của Đảng đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, giải
quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta đẩy mạnh kháng chiến đưa đến thắng lợi ở Điện Biên Phủ lịch sử (năm
1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Người chỉ đạo, động viên cán bộ
chiến sĩ trên mặt trận và truyền thêm sức mạnh, ý chí quyết chiến quyết thắng, một
niềm tin sắt đá để quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ giành thắng lợi.
Trong Thư gửi Mặt trận Điện Biên Phủ, Người viết: "Thu Đông năm nay, các chú
lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở
rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào còn bị giặc đè nén"(12).
Tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc Việt Nam được giải
phóng, nhưng miền Nam vẫn bị đế quốc Mỹ xâm lược. Người cùng Trung ương
Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam.
Năm 1960, Đại hội lần thứ III của Đảng, Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp
hành Trung ương Đảng và Người nêu ra hai nhiệm vụ chiến lược: "Xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà"(13). Cả hai
nhiệm vụ đều nhằm mục tiêu chung là củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Người còn nêu rõ miền Bắc là hậu phương lớn,
có vai trò quyết định đối với cách mạng cả nước, miền Nam có vai trò quyết định
trực tiếp đối với hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Để đưa miền
Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam, Người nhấn mạnh trong Bài nói tại Hội nghị cán bộ công đoàn: "muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có người xã hội chủ nghĩa"(14). Con người mới xã
hội chủ nghĩa là những người có đạo đức và tri thức, là những người vừa "hồng"
vừa "chuyên" và có ý thức làm chủ, xây dựng nước nhà. Người lãnh đạo nhân dân
miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh thắng chiến tranh phá hoại của giặc
Mỹ, đồng thời ra sức hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam.
Người cũng luôn tin tưởng và khẳng định sự tất thắng của cách mạng miền Nam.
Sau Hiệp định Giơnevơ, Người nêu rõ: "Để giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân,
quân đội và cán bộ ta từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải
thống nhất, hành động phải nhất trí"(15). Người còn viết Thư gửi đồng bào cả
nước vạch trần những âm mưu trong nước và thế giới về những hành động sai trái
của đế quốc Mỹ, Người khẳng định: "Nước Việt Nam ta nhất định phải thống nhất.
Đồng bào Nam và Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà"(16). Đây là một cuộc đấu
tranh lâu dài và gian khổ, đòi hỏi toàn thể đồng bào phải quyết tâm kháng chiến.
Năm 1965, trước thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ đã
chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ". Chúng dùng mọi thủ đoạn, mọi
phương tiện hiện đại đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng hải quân, không quân kể
cả máy bay chiến lược B.52. Trước những hành động leo thang xâm lược tàn bạo
của đế quốc Mỹ, Người khẳng định: "dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn"(17)
Người đã ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, Người nói: "Chiến tranh có
thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một
số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!"(18). Người khẳng định nhân dân Việt
Nam chẳng những không sợ mà còn còn quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, đồng bào và chiến sĩ từ hậu phương đến
tuyền tuyến đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với tinh thần dũng
cảm đã đoàn kết chiến đấu lần lượt đánh thắng mọi chiến lược của kẻ thù và giành
được thắng lợi vẻ vang nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Ngày 02/09/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qua đời, Người để lại cho nhân dân
Việt Nam bản Di chúc thiêng liêng. Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy
tâm huyết, nói lên tình sâu nghĩa nặng của Người với nước, với dân; nói lên niềm
tin tất thắng ở sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Đề ra những phương sách lớn để xây
dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: "Xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"(19). Di chúc là một văn kiện lịch sử vô
giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Người
đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam –
Thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong suốt chặng đường
hoạt động cách mạng, Người đã vạch đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của
Người luôn là tấm gương sáng ngời cho chúng ta học tập và noi theo. Mỗi chúng ta
cần cố gắng, nỗ lực hết mình để chăm lo hạnh phúc của nhân dân, ra sức phấn đấu,
rèn luyện, noi gương tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực sự là những người
cán bộ, đảng viên chân chính hết lòng phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định: "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường
xuyên của các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy
thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ"(20). Việc nghiên cứu, tuyên truyền, học tập tấm
gương Hồ Chí Minh góp phần thiết thực vào việc làm cho tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh trở thành một bộ phận cấu thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội Việt Nam hiện đại.
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2011, tập 1, tr.461
(2) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự
Thật, Hà Nội, 1975, tr.33
(3), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.562, tr.123
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.609
(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.230, tr.596
(7), (8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.1, tr.3, tr.534
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.579
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.15
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.378
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.477
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.3
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.359-360
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.577
(18), (19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.131, tr.614
(20) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.202.

You might also like