Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ


----o0o----

WORKING PAPER KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ


THUẾ QUAN TỐI ƯU:
CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG

Nhóm: 06

Lớp tín chỉ: KTE316(2324-2)1.1


Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Từ Thuý Anh
TS. Chu Thị Mai Phương

STT MSV Họ và tên


14 2114410038 Nguyễn Thị Duyên
29 2114410060 Nguyễn Thu Hiền
32 2114410069 Nguyễn Thu Hoài
63 2114410124 Tạ Quỳnh Nga
78 2114410159 Lê Thị Phan Ren
Hà Nội, tháng 3 năm 2024

1|Trang
THUẾ QUAN TỐI ƯU: CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG

Tạ Quỳnh Nga1, Nguyễn Thị Duyên, Nguyễn Thu Hiền,


Nguyễn Thu Hoài, Lê Thị Phan Ren

Sinh viên K60 – Khoa Kinh tế quốc tế


Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam

Từ Thuý Anh
Chu Thị Mai Phương
Giảng viên Khoa Kinh tế Quốc tế
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam

TÓM TẮT
Thuế quan được coi là một công cụ tài chính quan trọng đối với sự phát triển của một
quốc gia, được sử dụng như một tấm chắn bảo hộ nền sản xuất, điều tiết hoạt động
xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, thuế quan tối ưu khi được áp dụng được đánh giá là vô
cùng phức tạp, bởi sự rủi ro cũng như những tác động không mong muốn đối với
không chỉ nước nội địa mà còn đối với nền kinh tế toàn cầu. Bài nghiên cứu sử dụng
phương pháp định tính: tổng hợp thông tin, phân tích dữ liệu đựa trên mô hình lý
thuyết. Đặt trên bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc vẫn đang trên đà
căng thẳng, thuế quan leo thang có tác động tiêu cực đến nền kinh tế của hai nước nói
riêng và toàn thế giới nói chung. Theo dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (2023),
dự báo tăng trưởng toàn cầu sẽ chậm lại từ 3,5% năm 2022 xuống còn 3,0% vào năm
2023. Bên cạnh đó, cuộc thương chiến cũng mang đến ảnh hưởng không nhỏ đến nền
kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây. Cuối cùng, chúng tôi đưa ra đề xuất về chính
sách giúp cải thiện nền kinh tế trong nước dựa trên bối cảnh thế giới hiện nay.
Từ khoá: Thuế, thuế quan, thuế quan tối ưu, Mỹ, Trung Quốc.
Abstract
Tariffs are considered an important financial tool for a country's development, used as
a shield to protect production, and regulate import and export activities. However, the
optimal tariff when applied is considered extremely complicated, because there can be
risks as well as unwanted impacts on not only the domestic economy but also on the
global economy. The research uses a deterministic method: synthesizing information
and analyzing data based on a theoretical model. In the context of the still-tense US-
1
Tác giả liên hệ, Email: K60.2114410124@ftu.edu.vn
2|Trang
China trade war, escalating tariffs have a negative impact on the economies of the two
countries and the world. According to forecasts of the International Monetary Fund
(IMF) (2023), global growth is forecast to slow down from 3.5% in 2022 to 3.0% in
2023. Besides, the war also brings has had a significant impact on Vietnam's economy
in recent times. Finally, we make policy recommendations to help improve the
domestic economy in the current context.
Keywords: tax, import tax, optimal tariff, US, China.
1 Giới thiệu chung
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá trở thành một xu hướng quan
trọng của nền kinh tế toàn cầu. Đây là một khâu trong quá trình phát triển và tiền đề
của sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, thuế quan được coi như
một công cụ bảo hộ mậu dịch, đặt ra để bảo vệ thị trường nội địa. Đây cũng là một
trong những vũ khí sắc bén được các nước lớn sử dụng chính trong cuộc chiến thương
mại. Tuy nhiên, việc sử dụng thuế quan cũng mang lại nhiều tác động ngược chiều như
làm giảm hiệu quả tổng thể của toàn bộ nền kinh tế, tăng lạm phát, . . . cũng như đi
ngược với xu hướng hiện nay của toàn cầu.
Bài nghiên cứu đưa ra một cái nhìn tổng quan về thuế quan tối ưu và tác động
của chính sách thuế đến kinh tế toàn cầu, liên hệ trong bối cảnh chiến tranh Thương
mại Mỹ - Trung vẫn đang trên đà căng thẳng. Từ đó, đi sâu vào phân tích liệu việc
đánh thuế này có tác động như thế nào đến Việt Nam và đề xuất những giải pháp khắc
phục tác động tiêu cực của cuộc chiến thuế quan. Bài nghiên cứu được chia thành 7
phần. Đầu tiên, chúng tôi đưa ra cơ sở lý thuyết về thuế quan dựa trên bối cảnh các
nghiên cứu đi trước, đưa ra tác động cũng như hiệu quả công cụ này mang lại. Tiếp
theo, nhóm đưa ra lý thuyết cũng như phương pháp nghiên cứu phù hợp. Từ đó, chúng
tôi đi sâu vào phân tích cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, những chính sách
thuế quan hai bên đưa ra để đáp trả lẫn nhau, tác động của những chính sách đó đến
chính hai nước tham gia và phần còn lại của thế giới. Phần tiếp theo, chúng tôi phân
tích những tác động của cuộc thương chiến đến nền kinh tế Việt Nam, đưa ra những cơ
hội và thách thức, cũng như bài học về chính sách. Cuối cùng, nhóm đi đến kết luận
nhằm tổng quan lại tính hiệu quả, những tác động tích cực cũng như tiêu cực mà công
cụ này mang lại.
2 Tổng quan tình hình nghiên cứu
Theo Trần Thái Đình Lâm (2022), khi nghiên cứu trong quá trình diễn ra chiến
tranh thương mại, tỷ giá và thuế quan của hai bên Mỹ - Trung Quốc là hai yếu tố quan
trọng nhất. Bài viết cũng chỉ ra rằng ảnh hưởng của thuế quan trong thương mại không
chỉ dừng lại ở hai quốc gia mà còn lan rộng ra các nên kinh tế trên toàn cầu. Trong thời
3|Trang
gian từ năm 2014 đến quý 2 năm 2022, thuế quan của Mỹ và Trung Quốc áp đặt lên
nhau và tăng dần lại tạo ra các tác động cùng chiều với thương mại Việt Nam.
Trong bài nghiên cứu “Tác động của hiệp định EVFTA đến nhập khẩu dược
phẩm từ thị trường EU vào Việt Nam”, Nguyễn Tiến Hoàng và Trần Thị Vân (2021) đi
phân tích tác động của thuế quan của Hiệp định EVFTA đối với dược phẩm của Việt
Nam từ thị trường EU. Tác giả kết luận rằng tác động tạo lập thương mại được dự báo
lớn hơn tác động chuyển hướng thương mại, doanh thu thuế quan trên tổng thể có sự
suy giảm trong khi phúc lợi xã hội có xu hướng tăng lên khi Hiệp định EVFTA có hiệu
lực.
Nguyễn Mạnh Toàn và cộng sự (2020), nghiên cứu về tác động của hiệp định đối
tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) đến nền kinh tế Việt Nam, cũng cho rằng
việc cắt giảm thuế nhập khẩu làm nền kinh tế tăng trưởng dương trong dài hạn, tăng
phúc lợi hộ gia đình và giảm khoảng cách giàu nghèo giảm, đặc biệt trong cách ngành
da giày, sản xuất máy móc thiết bị phụ tùng. Tuy nhiên, VJEPA cũng là lý do chính
khiến ngân sách chính phủ giảm, gây thâm hụt thương mại.
Theo Moritz Schularick & Solomos Solomou (2011), khi nghiên cứu mối quan
hệ giữa thuế quan và tăng trưởng trong giai đoạn 1870 - 1914, không có bằng chứng
nào cho thấy gia tăng thuế làm tăng tốc độ tăng trưởng của họ. Mặc dù tồn tại mối
tương quan chéo tích cực giữa thuế quan và tăng trưởng nhưng điều này không đồng
nghĩa với việc đây là mối quan hệ nhân quả. Theo nhóm tác giả, chính sách kinh tế
quốc tế dường như không có tác động đối với quỹ tăng trưởng của các nước.
Dastenov, D. . (2023) cho rằng thuế quan và rào cản thương mại là công cụ cần
thiết trong một vài trường hợp, tuy nhiên cũng có thể gây ra nhiều hậu quả không
lường trước được. Ví dụ, thuế quan leo thang, chiến tranh thương mại xảy ra, các đối
tác sử dụng thuế quan như một vũ khí của cuộc chiến, dẫn đến thương mại toàn cầu
giảm, kinh tế bất ổn. Thuế quan gây ra một loạt các tác động không mong muốn: giảm
hiệu quả kinh tế, gián đoạn chuỗi cung ứng, giảm xuất nhập khẩu, tăng lạm phát, . . .
Vì vậy, cần có chính sách sử dụng công cụ này một cách khôn ngoan để cân bằng giữa
bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước và thúc đẩy thương mại quốc tế.
Năm 2017, Loren Brandt và Peter M. Morrow đưa ra nghiên cứu về tác động của
việc giảm thuế nhập khẩu của Trung Quốc đối với việc tổ chức xuất khẩu giữa thương
mại thông thường và thương mại gia công. Nhóm tác giả nhận thấy thuế đầu vào giảm
khiến tỷ trọng thương mại thông thường trong tổng xuất khẩu tăng lên. Bên cạnh đó,
những thay đổi trong tổ chức thương mại liên quan đến việc cắt giảm thuế đầu vào
cũng khiến tỷ trọng hàng nội địa của Trung Quốc trong tổng xuất khẩu tăng lên ở cấp
tỉnh.

4|Trang
Kenichi Kawasaki (2018) đã ước tính về tác động kinh tế của việc tăng thuế bằng
mô hình Cân bằng chung có thể tính toán (CGE) kết hợp với cơ chế hình thành vốn
năng động. Tác giả chỉ ra rằng thuế nhập khẩu của Mỹ có thể bảo vệ các lĩnh vực liên
quan của Mỹ nhưng có tác động tiêu cực đến nền kinh tế nói chung ở cấp vĩ mô. Ước
tính việc tăng thuế nhập khẩu 1% trên toàn thế giới, thương mại toàn cầu sẽ giảm
khoảng 1,7% và GDP toàn cầu sẽ giảm khoảng 0,2%. Chủ nghĩa bảo hộ nổi lên như
một điều đáng lo ngại, làm giảm sự tăng tưởng của cả thương mại toàn cầu và nền kinh
tế toàn cầu.
Như vậy, thuế quan là một công cụ chính sách không thể thiếu khi các nước
muốn bảo hộ nền sản xuất trong nước. Tuy nghiên, các nghiên cứu hầu hết chỉ ra việc
tăng thuế quan không chỉ có những tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước mà
còn để lại một số hậu quả không mong muốn đối với nền kinh tế toàn cầu. Việc tăng
thuế quan khiến thương mại toàn cầu giảm đáng kể, gián đoạn chuỗi cung ứng, lạm
phát tăng, . . . Có thể thấy trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, chủ nghĩa bảo hộ nổi
lên là một điều đáng được quan tâm.
Các bài nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu về thuế quan trong bối cảnh
thế giới mà chưa quan tâm nhiều đến bối cảnh chiến tranh Thương mại Mỹ - Trung
vẫn đang trên đà leo thang thời gian gần đây. Vì thế, nhóm đưa ra đề tài Thuế quan tối
ưu liên hệ trong bối cảnh Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, nhằm phân tích khi thuế
quan được coi là một công cụ trong trận thương chiến sẽ có tác động như thế nào đến
nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, thuế quan có tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt
Nam, từ đó đề xuất bài học giúp cải thiện nền kinh tế trong nước dựa theo bối cảnh
này.
3 Cơ sở lý thuyết
3.1 Định nghĩa về thuế và thuế nhập khẩu
Để đưa ra khái niệm về thuế, các nhà kinh tế học đã có quá trình nghiên cứu sâu
sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau nhằm tìm khái niệm thuế theo cách đánh giá của
mình. Theo Karl Marx thì "Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn
đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu
của nhà nước”. Theo Vladimir Lenin ''Thuế là cái nhà nước thu của nhân dân mà
không bù lại”.
Thuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào
mỗi đơn vị hàng nhập khẩu, theo đó người mua trong nước phải trả cho những hàng
hóa nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được.
Thuế nhập khẩu được áp dụng khá phổ biến và rộng rãi ở tất cả các quốc gia trên thế
giới. (Đỗ Đức Bình, 2008)

5|Trang
3.2 Vai trò của thuế nhập khẩu đối với nền kinh tế
Tăng thu ngân sách: Thuế nhập khẩu đóng góp vào việc tăng thu ngân sách của
quốc gia thông qua việc thu thuế từ hàng hóa nhập khẩu. Khoản thu này không chỉ
giúp cân đối ngân sách mà còn có thể được sử dụng để đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở
hạ tầng, giáo dục, y tế và các dự án phát triển khác. Việc đầu tư này có thể tạo điều
kiện cho sự phát triển kinh tế bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân
và thúc đẩy sự phát triển tổng thể của đất nước.
Tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nội địa, tăng khả năng cạnh tranh cho các
doanh nghiệp trong nước: Thuế nhập khẩu làm tăng giá thành của hàng hóa nhập khẩu
so với hàng hóa sản xuất trong nước. Điều này khuyến khích doanh nghiệp nội địa
phát triển và cạnh tranh hơn trên thị trường. Điều này không chỉ tạo ra các sản phẩm
và dịch vụ chất lượng cao mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động
trong nước, đóng góp vào sự phát triển và ổn định của nền kinh tế.
Bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ, chưa có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới: Các ngành công nghiệp non trẻ thường gặp khó khăn khi phải cạnh
tranh với hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia có năng lực sản xuất và chi phí lao động
thấp. Thuế quan nhập khẩu giúp giảm sự cạnh tranh không lành mạnh từ hàng hóa giá
rẻ nhập khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển và cung cấp
thời gian để cải thiện năng suất và chất lượng sản phẩm. Nguồn thu từ thuế nhập khẩu
cũng đóng góp vào quá trình nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ cho quá trình phát triển các ngành công nghiệp non trẻ, đồng thời góp phần
vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp.
Bảo vệ an ninh quốc gia: Các quốc gia thường muốn bảo vệ và duy trì nguồn
cung ứng chiến lược của mình trong các lĩnh vực như năng lượng, thực phẩm và
nguyên liệu quan trọng. Bằng cách áp đặt thuế quan nhập khẩu lên hàng hóa từ các
nguồn cung ứng khác, quốc gia có thể khuyến khích việc sử dụng nguồn lực trong
nước hoặc từ các quốc gia đồng minh, giảm phụ thuộc vào các nguồn cung ứng từ
quốc gia có nguy cơ đối với an ninh quốc gia. Ngoài ra thuế quan nhập khẩu cũng có
thể được sử dụng để kiểm soát việc nhập khẩu hàng hóa nhạy cảm đến an ninh quốc
gia, như vũ khí, chất nổ, hoặc các loại hàng hóa có thể được sử dụng để sản xuất vũ
khí hoặc vật liệu nguy hiểm khác. Việc áp đặt thuế cao có thể làm giảm sự thu hút của
thị trường đối với các mặt hàng này và giảm nguy cơ từ việc sử dụng chúng trong các
hoạt động phi pháp hoặc tội phạm.
Thuế nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế từ nhiều khía cạnh
khác nhau. Tuy nhiên, thuế nhập khẩu cũng có thể gây căng thẳng trong quan hệ
thương mại quốc tế, làm cho giá hàng hóa trong nước tăng và chính người tiêu dùng

6|Trang
phải trang trải cho gánh nặng thuế quan này. Do đó cần phải cân nhắc kỹ lưỡng để
đảm bảo rằng các biện pháp thuế nhập khẩu được thực hiện một cách hợp lý để tránh
các tác động tiêu cực không mong muốn.
3.3 Thuế quan tối ưu
3.3.1 Thuế tối ưu
Lý thuyết tiêu chuẩn về thuế tối ưu (The standard theory of optimal taxation) cho
rằng hệ thống thuế tối ưu là hệ thống thuế được lựa chọn để cực đại hoá hàm phúc lợi
xã hội của một tập hợp người cụ thể (Mankiw, Weinzierl, Yagan, 2009).
3.3.2 Thuế quan tối ưu
Thuế quan tối ưu là mức thuế làm cho lợi ích ròng của quốc gia thu được từ việc
đánh thuế là lớn nhất. (Từ Thuý Anh, 2013)
Xét trường hợp trong thị trường hàng hoá X chỉ có hai nước tham gia vào hoạt
động thương mại quốc tế trong đó có một nước nhập khẩu và một nước xuất khẩu).
Khi nước nhập khẩu đánh thuế nhập khẩu lên hàng hoá X thì sẽ gây ra những ảnh
hưởng sau:

Nước nhập khẩu Thế giới Nước xuất khẩu


Hình 1 Tác động của thuế quan tới giá cả, sản lượng và phúc lợi
Nguồn: International Economics (Pugel T.A., 2016)

7|Trang
Bảng 1 Ảnh hưởng của thuế nhập khẩu lên phúc lợi xã hội
Nước xuất khẩu Nước nhập khẩu
Thặng dư người tiêu dùng a -a - b -c - d
Thặng dư người sản xuất -a - b’ - d’ - e a
Thu ngân sách 0 c+e
Tổng phúc lợi xã hội quốc gia -b’ - d’ - e e-b-d
Tổng phúc lợi xã hội thế giới -b - d - b’ - d’
Nguồn: International Economics (Pugel T.A., 2016)
Từ bảng trên có thể thấy rằng khi có thuế nhập khẩu, nước nhập khẩu có sự thay
đổi trong tổng phúc lợi xã hội là e - b - d, với mức thuế bằng dưới đây, nước nhập
khẩu thì sẽ đạt được mức thuế quan tối ưu (Theo International Economics, Pugel,
2009)
¿ 1
t=
Ex
Trong đó, 𝐸x là mức độ co giãn của cung xuất khẩu
Vậy mức độ co giãn của cung xuất khẩu càng thấp thì mức thuế quan tối ưu sẽ
càng cao, ngược lại mức độ co giãn của cung xuất khẩu càng cao thì mức thuế quan tối
ưu sẽ càng thấp. Nếu mức co giãn của cung xuất khẩu là vô hạn thì thuế tối ưu sẽ bằng
0. Điều này cũng dễ hiểu khi độ co giãn của cung xuất khẩu thấp thì khi giá cả giảm đi,
họ vẫn cung cấp cho nước nhập khẩu một lượng hàng hoá tương đương, nước nhập
khẩu sẽ được lợi khi mua được lượng hàng hoá như trước với giá rẻ hơn và ngược lại.
Từ đó, có thể kết luận rằng nước nhỏ sẽ luôn chịu thiệt thòi khi đánh thuế nhập khẩu.
Đối với trường hợp một nước có quy mô đủ lớn về mặt hàng để ảnh hưởng đến giá cả
quốc tế thì thuế quan sẽ cải thiện điều kiện thương mại của đất nước này và mang lại
lợi ích cho họ (khi ấy phần còn lại của thế giới sẽ bị thiệt hại).
Trên góc độ quan hệ giữa các quốc gia, khi một quốc gia đánh thuế sẽ làm cho
các bạn hàng vào vị trí bất lợi vì tỷ lệ mậu dịch của họ bị giảm đi, lợi ích của họ cũng
bị giảm đi. Kết quả là, đến lượt mình các quốc gia bạn hàng sẽ đánh thuế trừng phạt
quốc gia kia. Sau đó quốc gia này lại tiếp tục trả đũa. Quá trình này cứ tiếp tục và cuối
cùng các quốc gia đều mất đi lợi ích từ thương mại. Kể cả trường hợp một quốc gia bị
đánh thuế tối ưu để làm cực đại lợi ích của họ thì quốc gia đó vẫn bị thiệt hại vì lợi ích
từ thương mại là lớn hơn lợi ích thu được từ thuế quan. Quá trình trả đũa lẫn nhau giữa
các nước là một trong những nguyên nhân chính gây ra chiến tranh thương mại.

8|Trang
4 Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào cơ sở trên, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu về thuế nhập khẩu tối ưu
của các nước lớn và ứng dụng lý thuyết này trong cuộc chiến tranh thương mại Mỹ -
Trung. Bài nghiên cứu thực hiện áp dụng các phương pháp sau đây:
4.1 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, dựa trên mô hình phân tích
lý thuyết, bài nghiên cứu nhằm mục đích cung cấp một góc nhìn tổng quát về chính
sách thuế nhập khẩu tối ưu được áp dụng bởi các nước lớn.
4.2 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Nghiên cứu này thực hiện thông qua phương pháp định tính dùng các thông tin
và số liệu về thuế nhập khẩu tối ưu của nước lớn trong thương mại quốc tế được lấy từ
những tài liệu và những bài nghiên cứu trước đó có độ uy tín cao phù hợp với đề tài
nghiên cứu. Sau đó, nhóm tác giả tiến hành chắt lọc thông tin và xử lý để đánh giá
quy mô, bản chất, sự khác nhau của đối tượng nghiên cứu theo thời gian và không
gian.
4.3 Phương pháp thu thập tài liệu
Bài nghiên cứu tham khảo tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như cơ sở dữ liệu
quốc tế và quốc gia: World Bank, Eurostat, Tổng cục thống kê, Bộ Công thương, cùng
các tạp chí kinh tế, luận văn, tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước.
5 Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc
5.1 Tình hình thương mại của Mỹ - Trung Quốc trước khi xảy ra chiến tranh
thương mại
5.1.1 Khái quát tình hình kinh tế Mỹ
Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp đa ngành nghề, thị
trường lao động rộng mở, phát triển nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có và là
một trong những thị trường tài chính lớn nhất và ảnh hưởng nhất toàn cầu. Trong nhiều
thập kỷ tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ luôn đứng đầu thế giới. Năm 2017, kinh tế
Mỹ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ với GDP đạt 2.3% (đây là mức cao nhất kể từ năm
2015), tương đương 19.5 nghìn tỷ USD.
Thị trường lao động Mỹ tiến dần đến trạng thái toàn dụng lao động khi kể từ năm
2016, nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã liên tục duy trì được tỷ lệ thất nghiệp ở mức
tương đối thấp dưới 5%, trong đó tháng 11/2016 tỷ lệ thất nghiệp chỉ còn 4,1% (Cục
thống kê Lao động Hoa Kỳ) - mức thấp nhất trong 17 năm trước đó. Song song với sự
cải thiện trên thị trường lao động, tỷ lệ lạm phát tại Mỹ hiện đã vượt ngưỡng mục tiêu
2% mà Fed đề ra. Lạm phát toàn phần tại thời điểm tháng 1/2017 tăng lên mức 2,5%
so với cùng kỳ năm 2015 và là mức lạm phát cao nhất kể từ năm 2011.

9|Trang
Tuy vậy, thâm hụt thương mại quốc tế của Mỹ tăng trong năm 2017 theo Cục
Phân tích Kinh tế và Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ. Do nhập khẩu tăng nhiều hơn xuất
khẩu dẫn đến tình trạng thâm hụt tăng từ 504,8 tỷ USD năm 2016 lên 568,4 tỷ USD
năm 2017. Cụ thể, xuất khẩu hàng hóa dịch vụ tăng 5,6% tương đương 2.331,6 tỷ
USD, nhập khẩu hàng hóa dịch vụ tăng 6,9% tương đương 2.900 tỷ USD trong năm
2017.
5.1.2 Khái quát tình hình kinh tế Trung Quốc
Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nền kinh tế đang phát
triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch. Kể từ khi cải cách và mở cửa,
kinh tế Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng, thông qua các chính sách công nghiệp
và chiến lược 5 năm, Trung Quốc đã vươn lên trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế
giới sau Mỹ. Theo thống kê quý IV/2017, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 6,8%, tính
chung cả năm 2017, tổng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nước này tăng trưởng 6,9%
so với năm 2016 và cũng là lần gia tăng đầu tiên kể từ năm 2010. Con số này cũng cao
hơn mục tiêu 6.5% do Chính phủ Trung Quốc đề ra trong bối cảnh Trung Quốc đang
đẩy mạnh việc giám sát hoạt động rủi ro, nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Thêm vào đó, mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là rất
lớn, liên tục và ổn định. Theo số liệu của Ngân hàng Thế Giới, nếu năm 2007, chỉ tiêu
này là 2,6 nghìn USD thì năm 2017 đã lên tới 8,8 nghìn USD, gần gấp 4 lần chỉ trong
vòng một thập kỷ và đứng trong nhóm đầu của các nước có thu nhập trung bình.
Dân số đông, lực lượng lao động dồi dào vì thế tỷ lệ thất nghiệp tại quốc gia
này giao động ở mức thấp dưới 5% trong nhiều năm liền, đạt mức 4.5% năm 2017
(theo World Bank). Năm 2016, Trung Quốc đã bổ sung thêm 13,14 triệu việc làm mới
ở đô thị và đặt thêm mục tiêu tăng thêm 11 triệu việc làm vào năm 2017 trong khi vẫn
duy trì tỷ lệ thất nghiệp như đã đăng ký. Theo số liệu của Cục Thống kê Quốc gia
Trung Quốc (NBS), tỷ lệ lạm phát của nước này cũng đạt mức thấp từ 1,6 – 2,6%
trong giai đoạn 5 năm 2012 – 2017.
Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới cũng công bố dữ liệu mạnh mẽ cho năm 2017 với
tổng thặng dư thương mại là 422,5 tỷ USD giảm so với năm 2016 trong đó xuất khẩu
tăng 7,9% và nhập khẩu tăng 15,9%. Tuy nhiên Tổng cục Hải Quan dự báo rằng tăng
trưởng ngoại thương của Trung Quốc sẽ khó duy trì ở mức 2 con số như trong năm
này.
5.1.3 Tình hình thương mại của Mỹ - Trung Quốc trước khi xảy ra chiến tranh thương
mại
Trước chiến tranh quan hệ thương mại song phương Mỹ - Trung vô cùng mở
rộng và phát triển. Chỉ tính riêng năm 2015, giá trị thương mại song phương đã là gần

10 | T r a n g
600 tỷ USD. Trước đó Trung Quốc là đối tác thương mại lớn thứ hai của Mỹ và
Mỹ cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong nhiều năm.
Điểm đáng lưu ý trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung là cán cân thương mại
song phương ngày càng nghiêng về phía Trung Quốc.Điều đó dễ dàng thấy đó là kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa của Mỹ vào Trung Quốc tăng chậm trong khi xuất khẩu
hàng hóa của Trung Quốc vào Mỹ tăng với tốc độ nhanh chóng và có nhiều năm tăng
đột biến, cụ thể được thể hiện trong bảng dưới đây
Bảng 2 Thương mại hàng hoá Mỹ - Trung giai đoạn 2006 – 2016
Đơn vị: triệu USD
Với Trung Quốc Với Mỹ

Năm Cán cân Cán cân


Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu
thương mại thương mại

2006 53. 673,0 287.774,4 -234.101,3 .1.025.969,0 1.853 939,0 -827.970,0


2007 62. 936,9 321.442,9 -258.506,0 1.148.197,0 1 956.962,0 -808765,0
2008 69.732,8 337.772,6 -268.039,8 1.287 441,0 2.103.641,0 -816.200,0
2009 69. 496,7 296.373,9 -226.877,2 1.056.042,0 1.559625,0 -503 583,0
2010 91.911,1 364.952,6 -273.041,6 1.278.49,0 1.913.858,0 -635.365,0
2011 104.121,5 399.371,2 -295249,7 1.482.507,0 2.207.954,0 -725.447,0
2012 110.516,6 425.619,1 -315.102,5 1.545.820,8 2.276.267,1 -730.446,3
2013 121.746,2 440.430,0 -318.683,8 1.578.516,9 2.267.986,7 -689.469,9
2014 123.620,7 468483,9 -344.863,2 1.621 171,6 2.356.365,5 -735 193,9
2015 116.071,8 483 244,7 -367172,9 1.502.572,2 2.248.232,4 -745 660,2
2016 115.775,0 462.813,0 -347.038,0 1.454.624,0 2.188.940,0 -734 316,0
Nguồn: U.S. Census Bureau
(https ://www. census. gov/foreign-rade/balancẹ/c5700.html)
Một số mặt hàng Mỹ chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc bao gồm: thiết bị nội
thất, đồ gia dụng, quần áo nữ, giày dép, sản phẩm đồ chơi và đồ thể thao,... Trong khi
đó, Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu từ Mỹ các sản phẩm công nghệ như: máy bay, ô tô,
thiết bị máy tính, thiết bị thông tin liên lạc, hóa chất hữu cơ, các sản phẩm chế tạo như
đồ chơi, hàng may mặc, chất bán dẫn và các linh kiện điện tử khác.
Như vậy, có thể thấy, tình hình thương mại Mỹ - Trung không ngừng phát triển
và sôi nổi, tuy nhiên điều đó cũng dẫn đến những bất đồng và tranh chấp thương mại
ngày càng nhiều trong quan hệ kinh tế giữa hai nước và đỉnh điểm là tiền đề cho cuộc
chiến tranh diễn ra.

11 | T r a n g
5.2 Chính sách thuế mà Mỹ và Trung Quốc áp đặt lẫn nhau
Căng thẳng xảy ra khi chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump quyết định áp
thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu trị giá 34 tỷ USD từ Trung Quốc, chủ yếu là máy
móc, thiết bị điện tử và công nghệ cao, đã chính thức có hiệu lực từ 0 giờ 01 phút ngày
06-7-2018 giờ Mỹ. Đây được xem là bước đi đầu tiên có thể dẫn tới một loạt các mức
thuế mới.
Tổng thống Mỹ Trump cũng cảnh báo Washington sẵn sàng áp thêm mức thuế
10% nhằm vào hàng hóa của Trung Quốc trị giá 200-300 tỷ USD nếu Bắc Kinh từ chối
nhượng bộ các yêu cầu của Mỹ và tiếp tục trả đũa. Nếu cảnh báo này được hiện thực
hóa, tổng số hàng hóa của Trung Quốc bị Mỹ áp thuế có thể lên tới hơn 550 tỷ USD,
cao hơn cả mức 506 tỷ USD giá trị hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ năm
2017.
Trung Quốc ngày lập tức thông báo các biện pháp áp thuế trả đũa đối với hàng
hóa nhập khẩu từ Mỹ đã bắt đầu có hiệu lực sau quyết định của Washington áp thuế
đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc chính thức có hiệu lực. Bộ Thương mại
Trung Quốc (MOC) đã ra tuyên bố phản đối quyết định này của Mỹ, đồng thời khẳng
định Washington đã châm ngòi cho cuộc chiến thương mại lớn nhất trong lịch sử kinh
tế.
5.3 Tác động của chính sách thuế đến Mỹ và Trung Quốc
5.3.1 Chính sách thuế tối ưu ảnh hưởng đến Mỹ
Tác động của cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc gây lo ngại cho
doanh nghiệp và người tiêu dùng từ cả hai quốc gia. Cuộc chiến đang tạo ra tổn thất
kinh tế cho cả hai bên và dẫn đến sự chuyển đổi trong luồng thương mại ra khỏi cả
Trung Quốc và Mỹ.
Cụ thể, thâm hụt thương mại hàng hóa của Mỹ với Trung Quốc tiếp tục tăng, đạt
mức kỷ lục 419,2 tỷ USD vào năm 2018. Đến năm 2019, thâm hụt thương mại đã giảm
xuống còn 345 tỷ USD, gần bằng mức của năm 2016. Theo Moody’s Analytics vào
tháng 9 năm 2019, cuộc chiến thương mại đã khiến nền kinh tế Mỹ mất đi gần 300,000
việc làm, ước tính khoảng 0.3% GDP thực tế. Một báo cáo khác của Bloomberg
Economics năm 2019 ước tính rằng cuộc chiến này sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ
lên đến 316 tỷ USD vào cuối năm 2020.
Trên khắp đất nước, nhiều nông dân đang phải đối diện với tình trạng phá sản,
trong khi lĩnh vực sản xuất và vận tải hàng hóa đang chạm mức thấp chưa từng thấy kể
từ cuộc suy thoái kinh tế gần đây. Người phát ngôn của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ tuyên
bố rằng “nông dân đã mất phần lớn thị trường từng là thị trường trị giá 24 tỷ USD ở
Trung Quốc” do các biện pháp trả đũa của Trung Quốc.

12 | T r a n g
Các hoạt động công nghiệp trên toàn thế giới đang trải qua sự suy giảm, đồng
thời các nhà máy ở Mỹ cũng không phải là ngoại lệ. Trong báo cáo việc làm được
công bố vào tuần trước, Bộ Lao động Mỹ cho biết rằng các nhà sản xuất Mỹ đã giảm
12,000 việc làm trong tháng 12/2019. Tuy nhiên, hầu hết người dân Mỹ làm việc trong
những lĩnh vực không liên quan tới cuộc chiến thương mại và tỷ lệ việc làm gia tăng
chủ yếu ở các ngành công nghiệp như dịch vụ chuyên nghiệp, giải trí và khách sạn và
chăm sóc sức khỏe.
Sau khi cuộc chiến tranh thương mại bùng nổ, xuất khẩu hàng hóa của Mỹ đã
phải chịu ảnh hưởng đáng kể. Hàng hóa từ Trung Quốc chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ nhất trong
lịch sử 20 năm qua trong việc nhập khẩu của Mỹ. Thay vào đó, các nhà nhập khẩu Mỹ
đang tăng cường mua hàng hoá từ Mexico, châu Âu và các khu vực khác của châu Á.
Theo dữ liệu thương mại được Cục Thống kê Dân số Mỹ mới công bố và được tờ Wall
Street Journal phân tích, cho thấy rằng trong 6 tháng đầu năm nay, Trung Quốc chiếm
13,3% nhập khẩu hàng hoá của Mỹ, từ mức đỉnh 21,6% thiết lập vào năm 2017. Tỷ
trọng hiện tại là mức thấp nhất kể từ mức 12,1% ghi nhận vào năm 2003 - thời điểm 2
năm sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Số liệu thống kê cho thấy, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Mỹ từ Trung Quốc
trong năm 2022 đã đạt mức cao nhất kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh thương mại.
Tuy nhiên lượng nhập khẩu những sản phẩm này từ Trung Quốc của Hoa Kỳ vẫn thấp
hơn 8% so với mức trước khi thuế quan có hiệu lực vào tháng 9 năm 2019. Với lượng
nhập khẩu từ phần còn lại của thế giới cao hơn 46% so với cùng kỳ, Hoa Kỳ đã bắt
đầu chuyển đổi nguồn cung ứng một số sản phẩm - chẳng hạn như quần áo và giày dép
sang các nước thứ ba.

13 | T r a n g
Đơn vị: tỷ USD
$600

$500

$400

$300

$200

$100

$0
99 00 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22
19 20 2 0 20 2 0 20 2 0 2 0 2 0 2 0 2 0 2 0 2 0 2 0 2 0 20 2 0 20 20 2 0 20 2 0 20 20

Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc Mỹ xuất khẩu tới Trung Quốc


Hình 2 Thương mại hàng hoá và dịch vụ của Mỹ và Trung Quốc
giai đoạn 1999 - 2022
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp
5.3.2 Chính sách thuế tối ưu ảnh hưởng đến Trung Quốc
Không chỉ mỗi Hoa Kỳ phải chịu ảnh hưởng trong cuộc chiến này, tại Trung
Quốc, trong tháng 4, sản lượng công nghiệp, doanh thu bán lẻ và đầu tư tại Trung
Quốc đều giảm mạnh hơn so với dự báo. Đồng thời, giá thực phẩm ở Trung Quốc cũng
tăng mạnh, đạt 6,1% trong tháng 4. Năm 2020, Cục thống kê quốc gia Trung Quốc đã
công bố số liệu, GDP Trung Quốc chỉ tăng 6,1% trong năm 2019, là mức thấp nhất
trong 30 năm qua.
Theo đánh giá của Capital Economist, Trung Quốc được cho là gánh chịu thiệt
hại nhiều hơn Mỹ trong cuộc chiến thương mại này với lý do chính là thương mại quốc
tế có tầm quan trọng lớn hơn đối với Trung Quốc so với Mỹ. Việc xuất khẩu hàng hóa
từ Mỹ sang Trung Quốc chỉ chiếm chưa đầy 1% GDP và 8% tổng xuất khẩu của Mỹ.
Trong khi đó, xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ chiếm gần 4% GDP và 20% tổng
xuất khẩu của quốc gia này. Giá trị gia tăng từ việc xuất khẩu sang Mỹ cũng chiếm 3%
GDP của Trung Quốc. Báo cáo của UNCTAD cũng chỉ ra rằng việc áp thuế của Mỹ đã
gây tổn thất lên đến 25% cho xuất khẩu, đồng thời gây thiệt hại 35 tỷ USD cho xuất
khẩu của Trung Quốc sang thị trường Mỹ đối với các sản phẩm bị đánh thuế trong nửa
đầu năm 2019.
Theo báo cáo, do chính sách áp thuế hàng nhập khẩu của chính phủ Mỹ dưới thời
Tổng thống Donald Trump, việc nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào Mỹ trong nửa

14 | T r a n g
đầu năm 2019 giảm hơn 25%, từ 130 tỷ USD xuống còn 95 tỷ USD so với cùng kỳ
năm ngoái. Trong số đó, 15 tỷ USD là do giảm nhập khẩu sản phẩm kỹ thuật và thiết
bị điện tử. Bên cạnh đó, các mặt hàng hóa chất, nội thất và thiết bị điện cũng giảm
đáng kể.
Trong năm 2023, xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ sụt giảm xuống mức thấp
nhất trong gần 30 năm qua. Theo số liệu từ Hải quan Trung Quốc công bố ngày
12/1/2024, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ trong năm ngoái là 500,3 tỷ
USD, giảm 13,1% so với năm 2022. Trung Quốc đã mất vị trí là nước xuất khẩu hàng
hóa lớn nhất sang Mỹ trong 5 tháng đầu năm 2023 - lần đầu tiên trong 15 năm qua vào
tay Mexico và Canada. Theo dữ liệu từ Bộ Thương mại Mỹ, nhập khẩu hàng hóa
Trung Quốc của Mỹ từ tháng 1 đến tháng 5/2023 đã giảm khoảng 25% so với cùng kỳ
năm trước, xuống còn 169 tỷ USD. Trong tổng số hàng hóa nhập khẩu của Mỹ, Trung
Quốc chỉ chiếm khoảng 13,4%, mức thấp nhất trong 19 năm và giảm 3,3 điểm phần
trăm so với cùng kỳ năm 2022. Kim ngạch nhập khẩu giảm ở nhiều danh mục, đặc biệt
là chất bán dẫn giảm tới 50%.

Hình 3 Giá trị nhập khẩu hàng hoá từ Mexico, Canada và Trung Quốc vào Mỹ
trong 6 tháng đầu năm 2023 và cùng kỳ 2022
Nguồn: Bộ Thương mại Mỹ/Bloomberg.

15 | T r a n g
70.0%
60.0%
50.0%
40.0%
30.0%
20.0%
10.0%
0.0%
-10.0%
-20.0%
-30.0%

Xuất khẩu Nhập khẩu


Hình 4 Xu hướng xuất, nhập khẩu của Trung Quốc
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp
5.4 Tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc đến phần còn lại của
thế giới
Cuộc chiến thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc đang gây lo ngại bởi
sự ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế toàn cầu. Ngân hàng Morgan Stanley đã
cảnh báo về nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu trong trường hợp tiếp tục leo thang của
xung đột thương mại. Theo dự báo của họ, mức tăng trưởng kinh tế thế giới có thể
giảm dưới 2,5% vào cuối năm 2020 nếu Mỹ và Trung Quốc tiếp tục mâu thuẫn nhau.
Nghiên cứu từ Macrobond, NiGEM, Rabobank dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu
trong năm 2020 và 2021 chỉ là 2,9%, mức thấp nhất từ sau cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu. Áp thuế và rắc rối trong chuỗi cung ứng đã giảm niềm tin đầu tư và tiêu
dùng.
Nghiên cứu của DBS về tác động của cuộc chiến thương mại cho thấy ảnh hưởng
đến nhiều quốc gia châu Á, đặc biệt là Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan và Singapore.
Các quốc gia này đều có độ mở thương mại cao và tham gia nhiều vào chuỗi cung ứng,
đồng thời đối mặt với nguy cơ rủi ro cao do cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
Trong đó, Hàn Quốc, một trong những nền kinh tế lớn của khu vực mất tới 0,4% trong
tăng trưởng GDP năm 2020. Malaysia và Đài Loan cũng sẽ gánh chịu mức độ tương
tự, mất 0,6%. Còn Singapore, một trung tâm tài chính và thương mại quan trọng, có
thể mất tới 0,8%.
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung sẽ ngăn cản trao đổi toàn cầu và dẫn đến một
thời kỳ bảo hộ mới đối với những quốc gia liên quan chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, cuộc
chiến thương mại Mỹ-Trung lại mở ra cánh cửa cho các quốc gia ngoài cuộc, chủ yếu
các nước này tăng xuất khẩu sang Mỹ và toàn cầu nhưng lại không có thay đổi đáng kể

16 | T r a n g
nào về xuất khẩu sang Trung Quốc. Điển hình như một số quốc gia, như Việt Nam,
Thái Lan, Hàn Quốc và Mexico, đã có thể tăng cường xuất khẩu một cách đáng kể,
một phần là do cung cấp các sản phẩm thay thế cho hàng hóa chịu thuế từ Mỹ và
Trung Quốc. Báo cáo gần đây của Ngân hàng Nomura (Nhật Bản) có đưa ra kết quả
đánh giá về các quốc gia hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ -Trung liệt kê theo
biểu đồ tổng hợp dưới đây.
Đơn vị: %GDP

Hình 5 Ước tính các bên thụ hưởng thương mại theo quốc gia
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp
Cụ thể, nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mạnh đang vận hành theo
đường cung dốc xuống và bán các sản phẩm thay thế cho những sản phẩm do Mỹ hoặc
Trung Quốc cung cấp trước đây. Những quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất là những
quốc gia có mức độ hội nhập quốc tế cao, được thể hiện qua việc tham gia vào các
hiệp định thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
6 Liên hệ đến nền kinh tế Việt Nam
6.1 Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc tác động đến ngành xuất – nhập
khẩu Việt Nam
Mỹ và Trung Quốc là những “anh cả” của nền kinh tế thế giới. Do đó, mọi biến
động của hai nền kinh tế này đặc biệt là chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra vào
năm 2018 đã gây ra sự xáo trộn chung đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
Đặc biệt, Mỹ và Trung Quốc đều là những đối tác xuất - nhập khẩu lớn và có ảnh
hưởng nhất định tới GDP của Việt Nam. Cụ thể, theo số liệu của Tổng cục Hải quan
ghi nhận Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim
ngạch nhập khẩu đạt 31,1 tỷ USD trong 06 tháng đầu năm 2018, tương đương gần

17 | T r a n g
28% tổng nhập khẩu của Việt Nam. Ở phía đối diện, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam với doanh thu 06 tháng đầu năm là 21,5 tỷ USD, tương đương gần
19% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Đơn vị: USD

Hình 6 Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam
Nguồn: Tổng cục hải quan
Cơ hội cho Việt Nam: Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung làm cho đồng Nhân
dân tệ bị mất giá so với USD. Chính điều này đã tạo ra cơ hội lí tưởng cho Việt Nam
với việc nhập khẩu được các mặt hàng của Trung Quốc như động cơ, thiết bị, nguyên
phụ liệu với giá rẻ hơn để phục vụ sản xuất. Đồng thời, Mỹ - Trung tăng thuế cao tạo
ra lỗ hổng cho thị trường của cả hai nước. Do đó, Mỹ và Trung Quốc sẽ tăng nhập
khẩu từ Việt Nam để giáp lại tổn thất này. Nông sản là mặt hàng chủ lực của Việt Nam
xuất khẩu sang Mỹ nên có nhiều cơ hội mở rộng thị phần tại thị trường này.
Thách thức cho Việt Nam: Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đem lại nhiều cơ
hội nhưng cũng để lại thách thức không nhỏ cho thương mại Việt Nam. Nhiều mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ và Trung Quốc sẽ chịu tác động tiêu cực. Ðặc
biệt, hàng công nghệ cao và nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Khi hàng Trung
Quốc xuất khẩu vào Mỹ bị áp thuế, để giảm phụ thuộc, duy trì năng suất, Trung Quốc
có thể có những chính sách phá giá, đẩy hàng hóa sang các nước xung quanh, trong đó
có Việt Nam. Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), đồng
Nhân dân tệ liên tục bị phá giá và mất giá nhiều hơn so với mức mất giá của đồng
VND trước đồng USD khiến cho giá hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam nói chung, các
mặt hàng thủy sản xuất khẩu nói riêng sang Trung Quốc sẽ cao hơn, gây khó khăn cho
18 | T r a n g
việc xuất khẩu của Việt Nam. Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, tăng trưởng xuất
khẩu tính đến giữa tháng 6/2019 của Việt Nam chỉ đạt 7,1%. Theo Bộ Công Thương,
hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang Trung Quốc có sự lao dốc nhanh là gạo - giảm
gần 330 triệu USD; điện thoại - giảm gần 550 triệu USD, khiến cho xuất khẩu Việt
Nam giảm gần 1 tỷ USD.
6.2 Bài học dành cho Việt Nam
6.2.1 Từ Trung Quốc
Với Việt Nam, Trung Quốc luôn là một trong những đối tác thương mại lớn nhất
và có mối quan hệ gắn bó khăng khít. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại Mỹ -
Trung có nhiều biến động như hiện tại, Việt Nam cần có tâm lý đề phòng “người hàng
xóm thân cận này” để tránh gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Cụ thể, Việt Nam phải liên tục cập nhật diễn biến của chiến tranh thương mại từ
đó phân tích tình hình, đưa ra dự báo kịp thời và những chính sách phù hợp để ứng phó
với sự biến động của mối xung đột này, đặc biệt là chính sách phá giá của đồng Nhân
dân tệ có ảnh hưởng trực tiếp tới xuất - nhập khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt
Nam cũng cần kiểm soát chặt chẽ, quy củ quá trình nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt là
các cửa khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam để tránh rủi ro.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận Trung Quốc luôn là đối tác xuất khẩu quan trọng
hàng đầu của Việt Nam do đó Việt Nam cần có động thái duy trì bền vững mối quan hệ
có lợi này. Đặc biệt, các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường xuất khẩu bằng con
đường chính ngạch để hạn chế những bất ổn từ xuất khẩu theo đường tiểu ngạch không
chính thức. Hơn nữa, như đã nói ở trên, khi Trung Quốc không xuất khẩu được hàng
hóa sang Mỹ, sẽ phải thúc đẩy tiêu dùng nội địa, giảm nhu cầu nhập khẩu. Do đó,
doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động liên kết với doanh nghiệp Trung Quốc để xây
dựng kế hoạch xuất nhập khẩu và ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu dài hạn; phát
triển hệ thống phân phối trên thị trường Trung Quốc; thâm nhập kênh phân phối bán
buôn thông qua việc thiết lập công ty liên doanh với doanh nghiệp Trung Quốc.
6.2.2 Từ Mỹ
Với Việt Nam, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất và cũng là thị trường xuất
khẩu đầu tiên của Việt Nam vượt mốc 100 tỷ USD trong giai đoạn 2020 - 2022. Đặc
biệt trong năm 2023, Việt Nam và Mỹ đã chính thức nâng cấp quan hệ lên đối tác
chiến lược toàn diện. Rõ ràng, trong thời gian gần đây, Mỹ đã có sự “ưu ái” nhiều hơn
dành cho Việt Nam, đặc biệt mối quan hệ này góp phần nâng cao tiềm năng xuất khẩu
rất lớn cho các doanh nghiệp Việt. Do đó, đây có thể coi là “thời điểm vàng” để các
doanh nghiệp Việt tận dụng nhằm gia tăng đơn hàng hoặc khai thác triệt để các thị
trường ngách, chiếm ưu thế về thị trường.

19 | T r a n g
Cùng với đó, các doanh nghiệp nhỏ cần tăng cường liên kết, tổ chức lại hoạt
động sản xuất, để tạo ra sức mạnh chung, thương hiệu chung cho từng ngành hàng.
Ngành dệt may và da giày được dự báo là một trong những ngành được hưởng lợi trực
tiếp từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Ngoài ra, nông sản là mặt hàng chủ
lực của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ nên cũng có nhiều cơ hội mở rộng thị phần tại thị
trường này.
Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần có sự thận trọng cao trong các khâu sản xuất,
kiểm duyệt mặt hàng nếu muốn chinh phục được một trong những thị trường khó tính
nhất thế giới như Mỹ. Như vậy, để tạo được uy tín và phổ biến ở thị trường xuất khẩu,
doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua đổi mới
sáng tạo và ứng dụng công nghệ.
7 Kết luận
Bài nghiên cứu đã nhấn mạnh tác động nặng nề của chính sách thuế quan tới
không chỉ các nước trong cuộc là Mỹ và Trung mà còn có ảnh hưởng sâu rộng tới các
nước ngoài cuộc, trong đó có Việt Nam. Các hoạt động công nghiệp ở cả hai nước bị
trì trệ, hoạt động xuất khẩu hàng hóa gặp nhiều cản trở gây thiệt hại nặng nề đến nền
kinh tế. Rõ ràng, cuộc chiến thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc đang gây lo
ngại bởi sự ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế toàn cầu. Đây không chỉ là một
cuộc xung đột giữa hai quốc gia mà còn đang đe dọa đảo ngược sự hồi phục kinh tế
mà nhiều người kỳ vọng. Với Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ đều là những đối tác chiến
lược hàng đầu. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng
để lại thách thức không nhỏ cho thương mại Việt Nam. Chiến tranh thương mại Mỹ -
Trung mở ra cơ hội xuất khẩu lớn hơn cho Việt Nam với tham vọng chinh phục một
trong những thị trường khó tính nhất thế giới như Mỹ. Tuy nhiên, thách thức với Việt
Nam cũng là không nhỏ khi Trung Quốc sẽ có những hành động bảo toàn sự tăng
trưởng nền kinh tế của quốc gia, đồng thời làm con đường xuất khẩu hàng hóa giữa
Việt Nam và Trung Quốc có nhiều khó khăn. Điều này như một hồi chuông cảnh tỉnh
đối với Việt Nam, cần luôn cảnh giác và thích ứng nhanh với sự biến động của các sự
kiện trên thế giới.
MỤC LỤC THAM KHẢO
Hoàng, N. T., & Thị Vân, T. (2021), “Tác động của hiệp định EVFTA đến nhập
khẩu dược phẩm từ thị trường EU vào Việt Nam”, Tạp Chí Nghiên cứu Tài chính -
Marketing, 61(1), 64-81, https://doi.org/10.52932/jfm.v1i61.67.
Nguyễn, M.T., Huỳnh, T.D.L, & Huỳnh, T.D.T. (2020), “Tác động của Hiệp định
đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đến nền kinh tế Việt Nam”, Bản B của Tạp Chí

20 | T r a n g
Khoa học Và Công nghệ Việt Nam, 62(10),
https://b.vjst.vn/index.php/ban_b/article/view/826.
Trần, Đ.T.L. (2022), “Phân tích tác động của tỷ giá hối đoái và thuế quan đến cán
cân thương mại của Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh.
ANTV (2024), “Xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ thấp nhất trong gần 30
năm”, https://antv.gov.vn/the-gioi-7/xuat-khau-cua-trung-quoc-sang-my-thap-nhat-
trong-gan-30-nam-4A07276DE.html, truy cập ngày 28/02/2024.
Báo điện tử Chính phủ (2023), Quan hệ kinh tế - thương mại – đầu tư Việt – Mỹ
nhiều tiềm năng phát triển, https://baochinhphu.vn/quan-he-kinh-te-viet-my-nhung-
diem-nhan-noi-bat-102230904162103725.htm, truy cập ngày 28/02/2024.
Bộ tài chính (2018), “GDP Trung Quốc năm 2017 tăng trưởng cao nhất 7 năm
qua”, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?
dDocName=MOFUCM120104, truy cập ngày 28/2/2024.
Đài truyền hình Việt Nam (2017), “Kinh tế Mỹ năm 2017 có nhiều tiến triển tích
cực”, https://vtv.vn/kinh-te/kinh-te-my-nam-2017-co-nhieu-tien-trien-tich-cuc-
20171222174508345.htm#:~:text=Kinh%20t%E1%BA%BF%20M%E1%BB
%B9%20t%C4%83ng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Fng%20%E1%BA%A5n%20t
%C6%B0%E1%BB%A3ng%20trong%20Qu%C3%BD%20III%2F2017&text=Th
%E1%BB%8B%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20lao%20%C4%91%E1%BB
%99ng%20ti%E1%BA%BFp,ph%C3%A1t%20%E1%BB%9F%20quanh%20m
%E1%BB%A9c%202%25, truy cập ngày 27/2/2014.
Dịch vụ thủ tục hải quan, “Các hiệp định thương mại FTA của Việt Nam và mẫu
C/O đang được sử dụng tại Việt Nam”, https://dichvuthutuchaiquan.vn/cac-hiep-dinh-
thuong-mai-fta-cua-viet-nam-va-mau-co-dang-duoc-su-dung-tai-viet-nam, truy cập
ngày 28/02/2024.
Tạp chí cộng sản (2019), “Việt Nam đứng trước thời cơ và thách thức của cuộc
chiến thương mại Mỹ - Trung”, https://www.tapchicongsan.org.vn/quoc-phong-an-
ninh-oi-ngoai1/-/2018/54033/viet-nam-dung-truoc-thoi-co-va-thach-thuc-cua-cuoc-
chien-thuong-mai-my---trung.aspx, truy cập ngày 28/02/2024.
Tạp chí công thương (2020), “Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và tác động
đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam”, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/chien-
tranh-thuong-mai-my-trung-va-nhung-tac-dong-den-thi-truong-xuat-khau-cua-viet-
nam-67861.htm, truy cập ngày 28/02/2024.
Tuyên giáo – Tạp chí của Ban tuyên giáo trung ương (2018), “Mỹ - Trung chính
trức bắt đầu các biện pháp áp thuế trả đũa lẫn nhau, https://tuyengiao.vn/my-trung-

21 | T r a n g
chinh-thuc-bat-dau-cac-bien-phap-ap-thue-tra-dua-lan-nhau-119483, truy cập ngày
28/02/2024.
Việt Nam hội nhập (2020), “Một số vấn đề về quản lý thuế trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế”, ISSN 2815-6315, https://vietnamhoinhap.vn/vi/mot-so-van-de-
ve-quan-ly-thue-trong-boi-canh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-20664.htm, truy cập ngày
28/02/2024.
VnEconomy (2023), “Toàn cảnh suy giảm quan hệ thương mại Mỹ - Trung”,
https://vneconomy.vn/toan-canh-suy-giam-quan-he-thuong-mai-my-trung.htm, truy
cập ngày 28/02/2024.
VnEconomy (2023), “Trung Quốc mất vị trí số 1 về xuất khẩu hàng hoá sang
Mỹ, địa vị “công xưởng của thế giới” lung lay”, https://vneconomy.vn/trung-quoc-mat-
vi-tri-so-1-ve-xuat-khau-hang-hoa-sang-my-dia-vi-cong-xuong-cua-the-gioi-lung-
lay.htm, truy cập ngày 28/02/2024.
VOV (2020), “Kinh tế Mỹ ảnh hưởng như thế nào từ cuộc chiến thương mại với
Trung Quốc”, https://vov.vn/the-gioi/kinh-te-my-anh-huong-nhu-the-nao-tu-cuoc-
chien-thuong-mai-voi-trung-quoc-1000234.vov, truy cập ngày 28/02/2024.
Dastenov, D. (2023), “The effects of international trade agreements, tariffs, and
globalization on national economies”, Central Asian Journal of Education and
Innovation, 2(10 Part 2), p.19–20,
https://www.in-academy.uz/index.php/cajei/article/view/21650
Kenichi, K. (2018), Economic Impact of Tariff Hikes -A CGE model analysis,
GRIPS Discussion, Paper 18-05, National Graduate Institute for Policy Studies.
Loren, B., Peter, M.M. (2017), “Tariffs and the organization of trade in China”,
Journal of International Economics, Volume 104, 2017, Pages 85-103, ISSN 0022-
1996, https://doi.org/10.1016/j.jinteco.2016.10.010.
Schularick, M., Solomou, S. (2011), “Tariffs and economic growth in the first era of
globalization”, J Econ Growth 16, 33–70 (2011), https://doi.org/10.1007/s10887-011-
9061-6
Brookings (2020), “More pain than gain: How the US-China trade war hurt
America”, https://www.brookings.edu/articles/more-pain-than-gain-how-the-us-china-
trade-war-hurt-america/, truy cập ngày 28/02/2024.
Bureau of Economic Analysis (2018), “2017 trade gap is $568.4 billion”,
https://www.bea.gov/news/blog/2018-03-07/2017-trade-gap-5684-billion#:~:text=The
%20U.S.%20international%20trade%20deficit,imports%20increased%20more
%20than%20exports, truy cập ngày 28/02/2024.

22 | T r a n g
CEPR (2023), “The “bystander effect” of the US-China trade war”,
https://cepr.org/voxeu/columns/bystander-effect-us-china-trade-war, truy cập ngày
28/02/2024.
Council foreign relations (2023), “The contentious US-China trade relationship”,
https://www.cfr.org/backgrounder/contentious-us-china-trade-relationship, truy cập
ngày 28/02/2024.
International monetary fund (2023), “World econoic outlook”,
https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2023/10/10/world-economic-
outlook-october-2023, truy cập ngày 28/2/2024.
National Bureau of economic research (2022), “How the US-Chine trade war
affected the rest of the world”, https://www.nber.org/digest/202204/how-us-china-
trade-war-affected-rest-world, truy cập ngày 28/02/2024.
PIIE (2023), “Five years into the trade war, China continues its slow decoupling
from US exports”, https://www.piie.com/blogs/realtime-economics/five-years-trade-
war-china-continues-its-slow-decoupling-us-exports, truy cập ngày 28/02/2024.
PIIE (2023), “US import from China are both decoupling and reaching neu
highs”, https://www.piie.com/research/piie-charts/us-imports-china-are-both-
decoupling-and-reaching-new-highs-heres-how, truy cập ngày 28/02/2024.
Reuters (2017), “China ‘s unemploymentrate falls below 4 percent at end of first
quarter”, https://www.reuters.com/article/idUSKBN17R0JM/, truy cập ngày
28/02/2024.
The US – China Business council, “Understanding the US-China trade
relationship”, https://www.uschina.org/reports/understanding-us-china-trade-
relationship, truy cập ngày 28/02/2024.
Ucla Anderson Review (2023), “In US-China trade war, Bystander countries
increase exports”, https://anderson-review.ucla.edu/in-u-s-china-trade-war-bystander-
countries-increase-exports/, truy cập ngày 28/02/2024.
World economy, “China’s 2017 exports rose 7.9% in dollar terms – imports
jumped 15.9%”, https://www.cnbc.com/2018/01/11/china-reports-december-exports-
import-trade-data.html, truy cập ngày 28/02/2024.
World bank data open, World Bank, https://data.worldbank.org/, truy cập ngày
29/02/2024.

23 | T r a n g

You might also like