Professional Documents
Culture Documents
Ch6 Slide
Ch6 Slide
Ngành công nghiệp chất bán dẫn trên thế giới là một ngành công
nghệ cao. Nó xuất hiện trong hầu các sản phẩm công nghệ từ điện
thoại di động, ô tô, máy bay…
Ngành công nghiệp này tạo ra khoảng một nghìn tỷ con chip mỗi
năm (khoảng 128 con chip/người dân)
Trong ngành công nghiệp này Mỹ vẫn là quốc gia đóng vai trò
quan trọng. Ảnh hưởng của ngành công nghiệp này không đơn
thuần là vấn đề kinh tế mà còn liên quan đến quân sự
Dưới thời chính quyền Trump, nước Mỹ đã có những hạn chế
trong việc Trung Quốc tiếp cận công nghệ của Mỹ. Trung Quốc
là nhà nhập khẩu chip lớn nhất thế giới. Nhưng chỉ chiếm 5%
năng lực sản xuất của thế giới.
Điều này đã tạo nên hành động quyết liệt của Trung Quốc trong
việc giảm lệ thuộc vào NK chip từ nước ngoài.
Mở đầu
Trong 70 năm qua đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ của thương mại quốc
tế. Động lực của hoạt động này chính là lợi ích từ thương mại tự do.
Thương mại tự do cho phép các quốc gia chuyên môn hóa sản xuất (và
xuất khẩu) các hàng hóa, dịch vụ mà họ sản xuất hiệu quả, trong khi
nhập khẩu hàng hóa và các dịch vụ mà họ sản xuất kém hiệu quả.
Bằng cách này, hiệu quả sử dụng tài nguyên trong nền kinh tế toàn cầu
sẽ tăng lên, thương mại giữa các quốc gia dẫn đến tăng trưởng kinh tế
lớn hơn và mang lại lợi ích kinh tế cho tất cả các quốc gia tham gia.
Những lập luận này đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới. Rào cản
thương mại dần được cắt giảm. Thế giới đã thành công trong việc thúc
đẩy tiến tới một chế độ thương mại tự do được điều hành bởi WTO.
Tuy nhiên, kể từ năm 2017, Hoa Kỳ, dưới sự lãnh đạo của Donald
Trump đã chủ trương áp dụng một chế độ gọi là thương mại được quản
lý, những gì có thể được giao dịch, và bao nhiêu, không chỉ được xác
định bởi các nhân tố của thị trường, mà còn theo quy định và kết quả
thương lượng của chính phủ
Nội dung chính của chương này sẽ thảo luận các vấn đề lý thuyết và
thực tiễn về lợi ích của thương mại tự do.
1. Tổng quan về học thuyết thương mại
Để giải thích được lý do vì sao các quốc gia lại ủng hộ việc
mua bán hàng hoá, dịch vụ với nhau, cần nghiên cứu các lập
luận trong các học thuyết thương mại sau:
• Chủ nghĩa trọng thương
• Học thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối
• Học thuyết lợi thế so sánh tương đối
• Học thuyết Heckscher – Ohlin
• Thuyết về chu kỳ đời sống sản phẩm
• Học thuyết Thương Mại mới
• Học thuyết Lợi thế cạnh tranh của Michael Porter
Tổng quan
Lợi ích của của thương mại
• Điểm cơ bản nhất trong các học thuyết của Smith, Ricardo, và
Heckscher-Ohlin là chúng xác định rõ những lợi ích cụ thể của
thương mại quốc tế.
• Nếu mở rộng thương mại tự do sẽ giúp các nước đạt được hiệu quả
cao hơn, thông qua việc sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn
• Việc hạn chế nhập khẩu có thể có lợi cho nhà sản xuất nội địa,
nhưng bất lợi cho người tiêu dùng và gây lãng phí nguồn lực
Các mô hình thương mại quốc tế: Các học thuyết đã giúp giải
thích mô hình của thương mại quốc tế ở một mức độ nào đó.
Học thuyết thương mại và chính sách của chính phủ:
• Mặc dù tất cả các học thuyết trên đều cho rằng thương mại quốc tế là có
lợi đối với một quốc gia, nhưng lại không đưa ra được các khuyến nghị
chung về chính sách của chính phủ.
• Chỉ có một số học thuyết đã cung cấp những gợi ý cho chính phủ về việc
phát triển các chính sách của mình.
(1) Chủ nghĩa trọng thương (mercantilism)
Học thuyết đầu tiên về thương mại quốc tế, xuất hiện tại Anh vào giữa
thế kỷ 16. Trụ cột của học thuyết này là:
• Gắn liền của cải với quyền lực chính trị
• Cho rằng tiền tệ (vàng, bạc) là của cải của quốc gia, và thương mại phải hướng tới
việc tạo thặng dư về tiền bạc.
• Ủng hộ sự can thiệp của chính phủ mạnh mẽ của chính phủ để duy trì cán cân
thặng dư.
Quan điểm chính của chủ nghĩa trọng thương là quốc gia sẽ thu được
nhiều lợi ích nhất khi duy trì thặng dư mậu dịch, nghĩa là xuất khẩu
nhiều hơn nhập khẩu. Bằng cách đó, một quốc gia có thể tích lũy vàng
và bạc, và vì vậy làm tăng của cải, uy tín, và sức mạnh quốc gia.
Chủ nghĩa trọng thương đã bộc lộ nhiều hạn chế
• Thực tế không có quốc gia nào duy trì được thăng dư tuyệt đối
• Học thuyết này cho rằng thương mại là trò chơi tổng bằng 0.
Chủ nghĩa trọng thương vẫn chưa mất hẳn, đôi lúc vẫn tồn tại trong thế
giới ngày nay.
(2) Học thuyết Lợi thế tuyệt đối (Absolute Advantage)
Ra đời năm 1776 bởi Adam Smith, người đã phê phán giả định
của chủ nghĩa trọng thương cho rằng thương mại là trò chơi có
tổng bằng không.
Lợi thế tuyệt đối – một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sản
xuất một sản phẩm khi quốc gia này có thể sản xuất hiệu quả hơn
bất kỳ quốc gia nào khác
Adam Smith cho rằng các quốc gia nên chuyên môn hoá trong sản xuất
những hàng hoá mà họ có lợi thế tuyệt đối và sau đó trao đổi chúng lấy
những hàng hoá khác được sản xuất tại các quốc gia khác
Thuộc tính thứ tư của lợi thế cạnh tranh quốc gia trong mô
hình của M.Porter là chiến lược, cấu trúc và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong phạm vi một quốc gia. Ở
đây, Porter chỉ ra hai điểm quan trọng.
• Thứ nhất, các quốc gia khác nhau có các đặc điểm về hệ tư tưởng
quản trị khác nhau có thể hoặc không thể giúp được cho họ trong
việc tạo dựng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
• Điểm thứ hai là sự liên hệ chặt chẽ giữa mức độ cạnh tranh gay gắt
trong nước, sự sáng tạo và sự duy trì lâu dài của lợi thế cạnh tranh
trong một ngành. Mức độ cạnh tranh mạnh mẽ trong nước khiến các
doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất, từ đó làm
cho họ trở nên có sức cạnh tranh mạnh mẽ hơn trên thị trường thế
giới. Cạnh tranh trong nước tạo ra áp lực phải cải tiến, nâng cao chất
lượng, giảm chi phí và đầu tư nâng cấp các yếu tố sản xuất cao cấp.
Tất cả những điều này tạo ra sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp
ở tầm cỡ thế giới. Ví dụ trường hợp của Nhật Bản
Đánh giá học thuyết này
Theo Porter mức độ thành công mà một quốc gia có thể đạt được trên
thị trường thế giới trong một ngành nhất định là một hàm số chịu tác
động tổng hợp của 4 biến số. Sự hiện diện của tất cả bốn thuộc tính là
cần thiết để hình thành lên mô hình kim cương nhằm thúc đẩy năng lực
cạnh tranh (mặc dù vẫn tồn tại những ngoại lệ)
Chính phủ có thể can thiệp một cách tích cực hoặc tiêu cực vào từng
thuộc tính trong thành phần của mô hình kim cương:
• Tính sẵn có của các yếu tố sản xuất có thể chịu tác động bởi các khoản trợ cấp,
các chính sách đối với thị trường vốn, các chính sách đối với giáo dục...
• Chính phủ có thể xác lập nhu cầu nội địa thông qua các tiêu chuẩn của sản phẩm
nội địa hoặc các quy định bắt buộc hoặc ảnh hưởng đến nhu cầu của người mua.
• Chính sách của chính phủ có thể tác động tới các ngành liên kết và phụ trợ thông
qua các quy định và thông qua các công cụ như các quy định trên thị trường vốn,
chính sách thuế, và luật chống độc quyền.
Nếu hình này đúng có thể hy vọng rằng mô hình này sẽ dự đoán được
mô hình thương mại quốc tế trong thế giới thực. Các nước xuất khẩu
những sản phẩm của những ngành có bốn thành phần của mô hình kim
cương thuận lợi, và nhập khẩu trong những lĩnh vực, mà tại đó các
thành phần này không có điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên chưa có kiểm
chứng cụ thể về điều này.
Ý nghĩa quản trị: (1) Vị trí, (2) Lợi thế của người tiên phong, (3) Chính sách
của Nhà nước (4) Những thay đổi trong chính sách của chính phủ
Vị trí: Các quốc gia khác nhau có những lợi thế nhất định trong
các hoạt động sản xuất khác nhau Doanh nghiệp nên phân bố
hoạt động sản xuất tới những quốc gia khác nhau, nơi mà hoạt
động sản xuất có thể được thực hiện một cách hiệu quả nhất.
Lợi thế của người tiên phong, từ học thuyết thương mại mới:
• Các công ty xác lập được lợi thế của người tiên phong có thể có lợi
thế thương mại về sản phẩm đó trên phạm vi toàn cầu. Điều đó đặc
biệt đúng trong các ngành công nghiệp mà thị trường thế giới chỉ có
thể hỗ trợ cho một số ít DN.
• Đối với các công ty khác, cần phải chi các khoản đầu tư tài chính
cho nỗ lực giành lấy lợi thế của người tiên phong, ngay cả chịu thua
lỗ trong nhiều năm trước khi hoạt động kinh doanh có lãi Phải
giành được nhu cầu thị trường sẵn có, giành được lợi thế về chi phí
theo quy mô, xây dựng thương hiệu bền vững đi trước các đối thủ
gia nhập sau, và cuối cùng xây dựng một lợi thế cạnh tranh bền
vững và dài hạn.
Chính sách của nhà nước:
• Các học thuyết về thương mại quốc tế cũng có ý nghĩa quan trọng
đối với các doanh nghiệp quốc tế (xuất khẩu hoặc nhập khẩu). Các
doanh nghiệp có thế tác động mạnh mẽ đến các chính sách thương
mại của chính phủ, bằng các vận động hành lang nhằm đẩy mạnh
thương mại tự do hay hạn chế thương mại.
• Học thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia của Porter cũng có ý nghĩa
đối với các chính sách. Các doanh nghiệp có thể vận động hành lang
để chính phủ áp dụng các chính sách ảnh hưởng có lợi cho mỗi yếu
tố của mô hình kim cương quốc gia.
Những thay đổi trong chính sách của chính phủ, đầu tư
và chiến lược doanh nghiệp:
• Trong hầu hết ba thập kỷ qua, chính sách của chính phủ liên quan
đến thương mại quốc tế đã ổn định và rõ ràng hơn. Trật tự quốc tế
dựa trên các thỏa thuận chi phối thương mại thế giới đã được thiết
lập và đặt dưới sự kiểm soát của WTO, điều này giúp:
⁃ Tạo ra một môi trường KDQT rõ ràng hơn và ít rủi ro hơn cho các DN;
⁃ Các DN đã cấu hình chuỗi giá trị của họ để tận dụng trật tự này (sản xuất đã
được phân tán đến nhiều địa điểm khác nhau để thực hiện hiệu quả nhất).
• Bên cạnh xu thế trên, sự thay đổi trong chính sách thương mại do
Mỹ khởi xướng đã tạo ra sự không chắc chắn về tương lai, tăng rủi
ro của hoạt động kinh doanh quốc tế. Các DN đã đối phó bằng cách:
⁃ Giảm đầu tư của họ vào các dự án rủi ro
⁃ Đi nước đôi (đa dạng hoá thị trường hoặc nguồn cung ứng, kể cả mở rộng sản
xuất, tiêu thụ trong nước).
⁃ DN có thể và sẽ vận động hành lang để các chính phủ giải quyết các tranh chấp
và tạo ra một môi trường ổn định hơn và có thể dự đoán được.