Professional Documents
Culture Documents
Các Yếu Tố Nguy Cơ Của Bệnh Nha Chu
Các Yếu Tố Nguy Cơ Của Bệnh Nha Chu
1. ĐỊNH NGHĨA
Yếu tố nguy cơ có thể là một yếu tố về hành vi cá nhân hoặc lối sống, một yếu tố về
môi trường, hay một đặc điểm bẩm sinh hay di truyền có khả năng thay đổi sự nhạy cảm của
cá thể với một bệnh lý nhất định, dựa trên các bằng chứng dịch tễ học. Cần phân biệt rõ yếu tố
nguy cơ với yếu tố gây bệnh. Yếu tố nguy cơ có liên quan đến việc làm tăng khả năng mắc
bệnh mà không cần thiết phải gây ra bệnh lý đó. Yếu tố nguy cơ có thể được thay đổi bằng các
hình thức can thiệp, từ đó, giảm khả năng mắc bệnh.
Cần phân biệt yếu tố nguy cơ với yếu tố tiên lượng bệnh. Yếu tố tiên lượng bệnh là các
đặc điểm liên quan đến sự tiến triển của một bệnh lý đã tồn tại từ trước, trong khi yếu tố nguy
cơ thật sự thì liên quan đến quá trình khởi bệnh. Ví dụ, trong một nghiên cứu theo thời gian về
sự tiến triển của bệnh nha chu, lượng xương ổ răng bị tiêu và số răng tại điểm bắt đầu nghiên
cứu có thể được sử dụng để dự đoán quá trình tiến triển tiếp theo của bệnh nha chu. Tuy vậy,
các yếu tố này không thể được coi là yếu tố nguy cơ do bản thân chúng là những thông số đo
lường mức độ của bệnh lý.
Yếu tố nguy cơ có thể được phân loại thành yếu tố nguy cơ tại chỗ và yếu tố nguy cơ
toàn thân:
⚫ Các yếu tố nguy cơ tại chỗ bao gồm cao răng, đường viền mão răng, miếng trám
dư, các sang thương vùng chẽ, các trũng rãnh giải phẫu trên bề mặt chân răng, sâu răng
dưới nướu hay các sang thương ngoại tiêu.
⚫ Các yếu tố nguy cơ toàn thân bao gồm hút thuốc lá, đái tháo đường, hệ vi khuẩn
đặc hiệu của cá thể, các yếu tố di truyền, các yếu tố nhân khẩu học (tuổi, giới tính, chủng
tộc, trình độ học vấn, địa vị kinh tế - xã hội…), các bệnh lý và các vấn đề toàn thân khác
(HIV, suy dinh dưỡng trầm trọng, suy chức năng bạch cầu,…).
Bên cạnh đó, còn có một số các yếu tố nguy cơ tiềm năng như thiếu canxi, loãng xương
sau mãn kinh, béo phì, stress và suy giảm kháng thể IgG2. Tuy nhiên, chưa có nhiều bằng
chứng rõ ràng về cơ chế ảnh hưởng của các yếu tố này.
Nhiều yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được như hút thuốc lá hay miếng trám dư. Một
miếng trám dư có thể được điều chỉnh hay loại bỏ, hút thuốc lá có thể được giảm hay bỏ hoàn
toàn nhờ vào các chương trình cai thuốc lá, tuy nhiên, nhiều yếu tố khác lại không thể thay đổi
được như các yếu tố về di truyền. Phần lớn các yếu tố nguy cơ của bệnh nha chu đều ảnh hưởng
đến nguy cơ trong việc điều trị implant.
Các yếu tố nguy cơ thường có các mức độ đáp ứng theo liều rõ ràng. Nói cách khác, sự
tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ càng nhiều, sự nhạy cảm với bệnh lý càng tăng. Ví dụ điển
hình là hút thuốc lá, người ta đã tìm ra mối quan hệ tuyến tính trực tiếp giữa hút thuốc lá tính
bằng (số gói thuốc) x (năm hút thuốc) với mức độ tiêu xương ở bệnh nhân nha chu. Ngoài ra,
còn có mối quan hệ tuyến tính trực tiếp giữa mức độ kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái
tháo đường với mức độ nghiêm trọng của bệnh nha chu.
Vết dính đen/nâu Thuốc lá không khói gây tụt Viêm nướu hoại tử lở loét
nướu, mất bám dính lâm sàng gây mất gai nướu giữa các
và bạch sản miệng răng cửa giữa
Hình 1. Biểu hiện nha chu lâm sàng liên quan tới sử dụng thuốc lá
3.1.1 Ảnh hưởng của thuốc lá lên tỉ lệ mắc bệnh và mức độ trầm trọng của bệnh nha chu
Nhiều nghiên cứu lâm sàng đối chứng đã đưa ra rằng quá trình tiến triển của phản ứng
viêm đáp ứng với sự tích tích tụ mảng bám ở những người hút thuốc giảm so với những người
không hút thuốc. Thêm vào đó, nhiều nghiên cứu cắt ngang đều chỉ ra rằng những người hút
thuốc có tình trạng viêm nướu giảm so với người không hút thuốc. Tuy hút thuốc lá được cho
là làm giảm đáp ứng viêm và chảy máu khi thăm khám ở bệnh nhân viêm nướu, nhiều nghiên
cứu khẳng định rằng hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ chính trong việc làm tăng tỉ lệ và mức
độ trầm trọng của sự phá hủy âm thầm mô nha chu. Các nghiên cứu cắt ngang và theo thời gian
đã chỉ ra rằng độ sâu túi, mất bám dính lâm sàng và mức độ tiêu xương ổ có tỉ lệ và mức độ
trầm trọng cao hơn ở người hút thuốc so với người không hút thuốc. Trong một nghiên cứu
dịch tễ học tại Mỹ, người hút thuốc lá được cho là có nguy cơ mắc bệnh viêm nha chu cao gấp
4 lần so với người không hút. Nghiên cứu này cũng chỉ ra mối quan hệ đáp ứng theo liều giữa
số lượng thuốc lá hút trong ngày với nguy cơ mắc bệnh viêm nha chu. Ở những cá thể hút từ 9
điếu thuốc/ngày trở xuống, nguy cơ mắc bệnh nha chu cao khoảng gấp 3 lần so với người
không hút thuốc, trong khi ở những cá thể hút từ 31 điếu thuốc/ngày trở lên, nguy cơ mắc bệnh
nha chu cao gần gấp 6 lần so với người không hút thuốc. Với những người đã cai thuốc lá, tỉ lệ
mắc bệnh nha chu giảm theo số năm mà người này đã bỏ được thuốc lá. Những người hút thuốc
lá lớn tuổi có nguy cơ viêm nha chu mức độ nặng cao khoảng gấp 3 lần so với người không
hút và số năm sử dụng thuốc lá là một yếu tố đáng kể đối với việc mất răng, sâu chân răng và
bệnh nha chu. Hút thuốc lá còn được cho là có liên quan đến mức độ trầm trọng của viêm nha
chu tấn công dạng toàn thể ở người trẻ tuổi. Các nghiên cứu dài hạn chỉ ra rằng người trẻ hút
hơn 15 điếu thuốc lá/ngày có nguy cơ mất răng cao hơn so với những người không hút. Những
người hút thuốc có nguy cơ mất bám dính lâm sàng tiến triển cao gấp 6 lần so với người không
hút. Một nghiên cứu theo thời gian trong 10 năm đã báo cáo rằng mức độ tiêu xương ở những
người hút thuốc nhanh gấp đôi so với người không hút thuốc, mặc dù đã sử dụng các biện pháp
kiểm soát mảng bám chặt chẽ.
3.1.2 Ảnh hưởng của thuốc lá lên các cơ chế sinh bệnh học và tiến triển của bệnh nha chu
Hút thuốc lá có khả năng ảnh hưởng đến các tương tác giữa vi khuẩn - ký chủ, từ đó,
dẫn đến sự phá hủy mô nha chu với quy mô và mức độ trầm trọng hơn. Trong hơn 4000 thành
phần của thuốc lá, nhiều thành phần có khả năng làm tăng các đáp ứng viêm với các tác nhân
gây bệnh nha chu và một số thành phần khác làm giảm đáp ứng miễn dịch, làm mất cân bằng
giữa các kích thích vi khuẩn và đáp ứng của ký chủ. Hút thuốc lá ảnh hưởng đến bệnh nha chu
có thể được phân loại theo 3 cơ chế chính: ảnh hưởng về hệ vi sinh vật, ảnh hưởng đến đáp
ứng viêm - miễn dịch và ảnh hưởng về sinh lý.
Hút thuốc lá được cho là làm tăng sự phức tạp của hệ vi khuẩn và tăng sự xâm nhập
của các tác nhân gây bệnh vao các túi nha chu. Một nghiên cứu báo cáo rằng những người hút
thuốc lá có lượng vi khuẩn Tannerella forsythia cao hơn đáng kể và có tỉ lệ các túi nha chu có
nhiễm Tannerella forsythia cao gấp 2,3 lần so với những người không hút thuốc hay đã từng
hút thuốc. Trong một nghiên cứu gần đây dùng phương pháp lai chéo ADN theo bàn cờ, các vi
khuẩn thuộc phức hợp cam và đỏ, bao gồm Eikenella nodatum, Fusobacterium nucleatum,
Fusobacterium vincentii, Prevotella intermedia, Prevotella nigrescens, Peptostreptococcus
micros, Tannerella forsythia, Porphyromonas gingivalis và Treponema denticola được tìm thấy
ở những người hút thuốc lá nhiều hơn đáng kể so với những người không hút. Nhiều nghiên
cứu khác đã củng cố cho kết quả này chỉ ra rằng hệ tạp khuẩn dưới nướu ở những người hút
thuốc lá có thành phần rất đa dạng, ít các vi khuẩn có lợi, nhiều tác nhân gây bệnh và các vi
khuẩn kỵ khí, tương tự với hệ vi khuẩn của các bệnh nhân viêm nha chu mức độ nặng, từ đó,
tạo ra môi trường và hệ sinh thái thuận lợi cho sự tiến triển của bệnh nha chu.
Hút thuốc lá có ảnh hưởng đáng kể đến đáp ứng viêm - miễn dịch đối với các kích thích
từ vi khuẩn, từ đó, dẫn đến việc tăng về quy mô và mức độ trầm trọng của quá trình phá hủy
mô nha chu. Bạch cầu trung tính là một thành phần quan trọng của đáp ứng miễn dịch ký chủ
với tác nhân vi khuẩn, vì thế, sự thay đổi về số lượng hay chức năng của bạch cầu trung tính
có thể dẫn đến sự nhiễm khuẩn tại chỗ hay toàn thân. Những chức năng chủ yếu của bạch cầu
trung tính bao gồm hóa ứng động, thực bào và tiêu diệt qua các cơ chế oxi hóa và không oxi
hóa. Bạch cầu trung tính thu nhận từ máu ngoại vi, khoang miệng hay nước bọt của những
người hút thuốc hoặc bị phơi nhiễm với khói thuốc lá hay nicotine trong phòng thí nghiệm có
sự thay đổi về những chức năng này. Nhiều nghiên cứu in vitro về ảnh hưởng của các sản phẩm
thuốc lá lên bạch cầu trung tính đã chỉ ra sự suy giảm về khả năng di chuyển cũng như ứng
kích oxi hóa của tế bào. Thêm vào đó, tỉ lệ kháng thể/tác nhân gây bệnh nha chu cần thiết cho
quá trình thực bào và tiêu diệt vi khuẩn, đặc biệt là kháng thể IgG2, được cho là giảm mạnh ở
những người hút thuốc lá, từ đó, gợi ý rằng hút thuốc lá làm giảm khả năng bảo vệ của cơ thể
chống lại các vi khuẩn gây bệnh nha chu. Ngược lại, yếu tố hoại tử khối u (tumor necrosis
factor - TNF) -ɑ trong dịch khe nướu và nồng độ prostaglandin E2, enzym neutrophil elastase
và matrix metalloproteinase-8 (MMP-8) tăng cao ở những người hút thuốc lá so với người
không hút. Những kết quả này gợi ý rằng sự suy giảm chức năng của bạch cầu trung tính đối
với các kích thích vi khuẩn làm tăng sự phóng thích của các enzym gây phá hủy mô, từ đó, làm
trầm trọng thêm quá trình phá hủy mô nha chu.
Các dấu chứng lâm sàng của quá trình viêm (như nướu sưng đỏ, chảy máu khi thăm
khám) diễn ra ít rầm rộ hơn ở những người hút thuốc so với người không hút. Điều này có thể
là do những thay đổi về đáp ứng mạch máu của mô nướu, đặc biệt là những đáp ứng vi mạch
đối với sự tích tụ mảng bám. Ở những người hút thuốc lá, tuy quá trình viêm vẫn tiến triển
mạnh mẽ, nhưng các dấu chứng lâm sàng bao gồm chảy máu khi thăm khám, hệ thống mạch
máu nướu và lưu lượng dịch khe nướu lại giảm. Thêm vào đó, tuy quá trình viêm diễn ra ở
mức độ trung bình, nồng độ oxi và lưu lượng máu trong mô nướu của người hút thuốc lại
thường thấp hơn so với người không hút. Nhiệt độ của vùng dưới nướu giảm, và sự hồi phục
của tình trạng co mạch do sử dụng thuốc tê tại chỗ cũng mất nhiều thời gian hơn ở những người
hút thuốc. Ngoài ra, thuốc lá còn có các ảnh hưởng tại chỗ khác bao gồm ảnh hưởng gây độc
trực tiếp đến mô và tế bào, ảnh hưởng nhiệt, tăng vôi răng và vết dính.
Bảng 4. Ảnh hưởng của việc hút thuốc đối với nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của
bệnh nha chu
Các yếu tố nguyên nhân Tác động của hút thuốc
Vi khuẩn Tăng độ phức tạp của hệ vi sinh vật và sự xâm lấn của các
túi nha chu bởi mầm bệnh nha chu
Đáp ứng viêm-miễn dịch Thay đổi hóa ứng động bạch cầu trung tính, thực bào và
bùng nổ oxy hóa
↑ Yếu tố hoại tử khối u-α và prostaglandin E2 trong dịch
kẽ nướu
↑ Bạch cầu trung tính collagenase và elastase trong dịch
kẽ nướu
↑ Sản xuất prostaglandin E2 bởi bạch cầu đơn nhân để đáp
ứng với lipopolysaccharide
Sinh lý ↓ Mạch máu nướu và ↑ tình trạng viêm
↓ Khe nướu chảy dịch và chảy máu khi thăm dò và ↑ viêm
↓ Nhiệt độ dưới nướu
↑ Thời gian cần thiết để phục hồi sau khi gây tê tại chỗ
3.1.3 Ảnh hưởng của thuốc lá lên việc điều trị bệnh nha chu
Người hút thuốc lá thường không đáp ứng với điều trị tốt như những người không hút.
Một nghiên cứu đưa ra rằng lượng vi khuẩn Tanneralla forsythia, Aggregatibacter
actinomycetemcomitans và Porphyromonas gingivalis còn lại trong túi nha chu sau khi điều trị
nha chu ở người hút thuốc lá cao hơn đáng kể so với người không hút thuốc. Hút thuốc lá không
những ảnh hưởng đến kết quả điều trị nha chu phẫu thuật, không phẫu thuật, mà còn ảnh hưởng
đến quá trình duy trì của bệnh nhân nha chu sau phẫu thuật.
Ở các trường hợp điều trị bệnh nha chu không phẫu thuật, mức độ giảm độ sâu túi nha
chu ở những người hút thuốc lá thường không cao bằng những người không hút thuốc lá. Thêm
vào đó, độ tăng bám dính lâm sàng sau điều trị viêm nha chu không phẫu thuật ở người hút
thuốc thường kém hơn so với người không hút thuốc. Tuy nhiên, với các phương pháp kiểm
soát mảng bám triệt để, những sự khác biệt về đáp ứng điều trị giữa người không hút thuốc và
hút thuốc được giảm thiểu. Khi so sánh người hút thuốc với những người không hút thuốc và
người đã từng hút thuốc, những cá thể không hút thuốc và đã cai thuốc có đáp ứng điều trị viêm
nha chu tương đương với nhau, từ đó, nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc cai thuốc lá ở
những bệnh nhân viêm nha chu.
Đối với điều trị nha chu phẫu thuật, đáp ứng điều trị của bệnh nhân có hút thuốc lá cũng
giảm so với người không hút thuốc. Thuốc lá cũng được cho là có ảnh hưởng tiêu cực đến kết
quả điều trị của phẫu thuật tái tạo mô có hướng dẫn và điều trị các khiếm khuyết xương bằng
phương pháp ghép xương. Hút thuốc lá còn ảnh hưởng đến các điều trị thẩm mỹ liên quan đến
mô nha chu. Nhiều nghiên cứu đã khảo sát về ảnh hưởng của thuốc lá lên kết quả ngắn hạn và
lâu dài của việc điều trị implant và kết luận rằng hút thuốc lá làm tăng nguy cơ thất bại của
việc cấy ghép implant. Những thất bại này bao gồm mất implant, tiêu xương quanh implant,
lung lay, đau và viêm quanh implant. Nguy cơ thất bại trong phẫu thuật implant ở những người
hút thuốc lá cao khoảng gấp đôi so với người không hút thuốc. Nguy cơ này càng tăng cao hơn
nữa trong những trường hợp cấy ghép implant ở hàm trên hay ở những vị trí có chất lượng
xương không tốt. Điều này có thể là do ảnh hưởng của thuốc lá đến mô xương làm giảm mật
độ khoáng hóa của xương. Hút thuốc lá còn được coi là một yếu tố nguy cơ của viêm quanh
implant. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ tiêu xương quanh implant tăng mạnh khi bệnh
nhân có sử dụng thuốc lá.
Ảnh hưởng tiêu cực của thuốc lá lên việc điều trị nha chu được cho là kéo dài và không
phụ thuộc vào tần số của những lần điều trị duy trì. Trong một nghiên cứu, sau khi điều trị viêm
nha chu, bệnh nhân được điều trị duy trì mỗi 3 tháng trong vòng 7 năm. Những bệnh nhân có
hút thuốc lá liên tục có túi nha chu sâu hơn và mức độ bám dính lâm sàng thấp hơn trong suốt
7 năm đó. Trong một nghiên cứu khác, mặc dù với phương pháp điều trị duy trì triệt để hơn
mỗi 6 tháng sau khi điều trị lật vạt, bệnh nhân hút thuốc lá vẫn còn tồn tại nhiều túi nha chu và
các túi nha chu sâu hơn, mặc dù không có sự khác biệt đáng kể về lượng mảng bám và mức độ
chảy máu khi thăm khám so với người không hút thuốc. Một nghiên cứu khác về những bệnh
nhân không đáp ứng với việc điều trị nha chu, khoảng 90% trong số đó có hút thuốc lá. Những
kết quả này gợi ý rằng thuốc lá có ảnh hưởng kéo dài lên đáp ứng của ký chủ và khả năng lành
thương của mô nha chu, từ đó, đối với những bệnh nhân hút thuốc lá, cần các biện pháp kiểm
soát triệt để hơn trong quá trình duy trì sau điều trị. Hút thuốc lá còn liên quan đến tình trạng
mất răng ở các bệnh nhân đã điều trị viêm nha chu. Mặc dù vẫn thực hiện điều trị duy trì thường
xuyên, những người hút thuốc lá vẫn có nguy cơ mất răng cao gần gấp 4 lần so với những
người không hút thuốc. Tương tự, hút thuốc lá cũng có những ảnh hưởng xấu đến khả năng
thành công lâu dài của implant, mặc dù bệnh nhân vẫn tuân theo các kế hoạch điều trị duy trì
và phòng ngừa viêm quanh implant chặt chẽ.
Bảng 5. Ảnh hưởng của việc hút thuốc đối với đáp ứng với điều trị nha chu
Phương pháp điều trị Tác động của hút thuốc lá
Không phẫu thuật ↓ Đáp ứng lâm sàng đối với xử lý bề mặt chân răng
↓ Hiệu quả của điều trị giảm túi nha chu
↓ Khả năng đạt được mức bám dính lâm sàng
↑ Mức độ kiểm soát mảng bám
Phẫu thuật và implant ↓ Hiệu quả điều trị giảm độ sâu túi và ↓ hiệu quả điều trị tăng
mức độ bám lâm sàng sau phẫu thuật tạo vạt
↑ Tổn thương vùng chẽ sau phẫu thuật
↓ Mức độ bám dính lâm sàng, ↓ hiệu quả làm đầy xương, ↑
tụt nướu và ↑ lộ màng sau khi tái tạo mô có hướng dẫn
↓ Che phủ chân răng sau thủ thuật ghép điều trị tụt nướu
↓ Hiệu quả điều trị giảm độ sâu túi sau thủ thuật ghép xương
↑ Nguy cơ hỏng implant và viêm quanh implant
Điều trị duy trì ↑ Độ sâu túi và mất bám dính trong quá trình điều trị duy trì
↑ Bệnh tái phát ở người hút thuốc
↑ Nhu cầu điều trị lại ở người hút thuốc
↑ Mất răng ở người hút thuốc sau điều trị phẫu thuật
Như vậy, ta có thể kết luận rằng: 1) những người hút thuốc lá có thể khởi phát bệnh
viêm nha chu từ lúc còn trẻ tuổi; 2) việc điều trị hiệu quả bệnh nha chu ở người hút thuốc lá
với các phương pháp điều trị cổ điển có thể khá khó khăn; 3) khả năng tiến triển và tái phát sau
phẫu thuật ở các bệnh nhân hút thuốc lá là khá cao; và 4) những người hút thuốc lá có nguy cơ
mất răng và mất implant cao hơn, mặc dù có điều trị duy trì phù hợp.
3.2 Đái tháo đường
Vai trò của đái tháo đường trong việc là một yếu tố nguy cơ của bệnh nha chu đã được
bàn luận trong nhiều thập kỷ nay. Nhiều nghiên cứu về dịch tễ học và các cơ chế tiềm năng về
ảnh hưởng của đái tháo đường lên bệnh nha chu đã và đang được thực hiện và các kết quả từ
những nghiên cứu này đã củng cố luận điểm rằng bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ mắc
bệnh nha chu cao hơn. Nguy cơ mắc bệnh nha chu ở bệnh nhân đái tháo đường thường cao gấp
2-3 lần so với người bình thường. Bên cạnh đó, đái tháo đường còn được cho là có ảnh hưởng
đáng kể đến sự tiến triển và mức độ trầm trọng của bệnh nha chu.
Đái tháo đường tuýp 2 và viêm nha chu có mối liên quan khá mật thiết, tuy nhiên, bằng
chứng về mối liên quan giữa đái tháo đường tuýp 1 và viêm nha chu còn gây khá nhiều tranh
cãi. Nguyên nhân có thể là do cơ chế sinh bệnh học khác biệt giữa 2 tuýp đái tháo đường. Các
cơ chế về mối liên quan giữa đái tháo đường và bệnh nha chu phần lớn xoay quanh ảnh hưởng
lên các đáp ứng miễn dịch bảo vệ và quá trình lành thương mô. Ở những bệnh nhân có đường
huyết tăng cao và kéo dài, nồng độ các sản phẩm glycat hóa bền vững (advanced glycation end
products - AGEs) được tích tụ và tương tác giữa chúng và thụ thể của chúng tăng cao. Điều
này dẫn đến sự hoạt hóa của nhiều tế bào miễn dịch tại chỗ và các đáp ứng viêm, từ đó, tăng
sự phóng thích của các chất trung gian như interleukin-1β, interleukin-6 và TNF-ɑ. Điều này
còn làm mất cân bằng oxi hóa và làm gián đoạn quá trính hoạt hóa gốc kết hợp của thụ thể NF-
kB/osteoprotegerin. Tất cả những sự thay đổi này đều dẫn đến việc tăng quá trình phá hủy
xương và mô liên kết, đồng thời, làm giảm khả năng lành thương mô. Nhiều nghiên cứu còn
chỉ ra rằng tình trạng rối loạn lipid máu, một tình trạng thường thấy ở những bệnh nhân đái
tháo đường, cũng góp phần vào việc làm mất cân bằng cytokine và rối loạn chức năng miễn
dịch tại chỗ qua cơ chế điều tiết các adipokine gây viêm. Một vài nghiên cứu còn đưa ra rằng
đái tháo đường còn ảnh hưởng đến hệ tạp khuẩn trong miệng, từ đó, làm tình trạng bệnh nha
chu trầm trọng hơn. Tuy nhiên, ý kiến này còn gặp phải nhiều tranh cãi.
Ảnh hưởng tiêu cực của đái tháo đường lên tình trạng nha chu đặc biệt rõ ràng hơn ở
những bệnh nhân có thời gian bị đái tháo đường kéo dài và kiểm soát đường huyết không tốt.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ đáp ứng theo liều giữa việc kiểm soát đường huyết
với mức độ trầm trọng cũng như sự tiến triển của viêm nha chu. Mở rộng mối quan hệ đáp ứng
theo liều này với các bệnh nhân tiền đái tháo đường, người ta cũng nhận thấy mức độ không
dung nạp glucose ở những bệnh nhân này cũng tương quan với mức độ trầm trọng của bệnh
nha chu. Kết quả điều trị bệnh nha chu ở những bệnh nhân đái tháo đường có kiểm soát đường
huyết tốt tương đương với những bệnh nhân không mắc bệnh đái tháo đường, trong khi ở những
bệnh nhân đái tháo đường kiểm soát đường huyết không tốt, kết quả điều trị có sự giảm mạnh.
Điều này nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc kiểm soát đường huyết trong việc kiểm soát,
điều trị và duy trì bệnh nha chu.
Hình 2. Cơ chế phá huỷ mô nha chu do đái tháo đường
Những nghiên cứu về bệnh nha chu trên trẻ em và trẻ vị thành niên có bệnh đái tháo
đường cho thấy mức độ viêm nướu ở những cá thể này rầm rộ hơn so với các cá thể không có
bệnh đái tháo đường. Tình trạng mất bám dính lâm sàng ở những bệnh nhân đái tháo đường trẻ
tuổi cũng thường nặng hơn so với những người trẻ không có bệnh. Trong một nghiên cứu trên
350 trẻ em có bệnh đái tháo đường tuýp 1 hoặc tuýp 2, một mối tương quan thuận giữa nồng
độ HbA1c trung bình trong vòng 2 năm với tình trạng viêm nha chu đã được báo cáo. Trong
một nghiên cứu khác so sánh giữa những trẻ em có bệnh đái tháo đường và nhóm chứng không
có bệnh, người ta thấy được tình trạng phá hủy mô nha chu cao hơn đáng kể ở nhóm các trẻ
em có bệnh đái tháo đường. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ 2 chiều của đái tháo đường
và bệnh nha chu. Các bệnh nhân có bệnh đái tháo đường thường có mức độ phá hủy mô nha
chu trầm trọng hơn, và ngược lại, các bệnh nhân có bệnh viêm nha chu thường có nguy cơ mắc
các biến chứng của bệnh đái tháo đường cao hơn và khả năng kiểm soát đường huyết thấp hơn.
3.4.5 Stress
Stress và tình trạng căng thẳng kéo dài được cho là có nhiều ảnh hưởng tiêu cực lên
đáp ứng miễn dịch của chủ thể, từ đó, tăng độ nhạy cảm của chủ thể lên nhiều bệnh lý, trong
đó có bệnh nha chu. Bệnh nhân viêm nha chu thường cho biết là có nhiều căng thẳng đến từ
gia đình hay công việc. Trong một nghiên cứu, những người có vấn đề tài chính và có tâm lý
căng thẳng về việc đó thường có nguy cơ viêm nha chu mức độ nặng cao hơn những người
không có vấn đề tài chính. Một nghiên cứu khác trên 1089 người trưởng thành ở Nhật Bản,
stress liên quan đến công việc và sức khỏe có liên quan thuận với mất bám dính lâm sàng. Kết
quả tương tự được quan sát trên một nghiên cứu ở những người nhập cư từ Ethiopia, rằng căng
thẳng tâm lý có liên quan thuận với các túi nha chu sâu. Tương quan thuận giữa nồng độ cortisol
(hóoc-môn biểu thị tình trạng stress tâm lý) và các chỉ số lâm sàng nha chu (chỉ số mảng bám,
chỉ số nướu), quy mô và mức độ trầm trọng của bệnh nha chu cũng được ghi nhận. mối quan
hệ của stress với vai trò là yếu tố nguy cơ của bệnh nha chu còn tăng cao hơn nữa khi bệnh
nhân có hút thuốc lá. Các cơ chế sinh học để stress ảnh hưởng đến bệnh nha chu gồm có: 1)
làm giảm hệ miễn dịch do nồng độ cao cortisol được tiết ra do tình trạng stress kéo dài; 2) tình
trạng vệ sinh răng miệng giảm ở các bệnh nhân stress mạn tính; 3) bệnh nhân bị stress thường
ít đi điều trị nha khoa định kỳ hơn; và 4) bệnh nhân bị stress thường hút thuốc lá nhiều hơn.
KẾT LUẬN
Nhiều nghiên cứu đã đưa ra rằng việc kiểm soát đường huyết ở các bệnh nhân tiểu
đường hay cai thuốc lá có tác dụng cải thiện tiên lượng của việc điều trị bệnh nha chu và là
thông số lâm sàng quan trọng trong việc phòng ngừa sự tái phát của bệnh nha chu. Từ đó, đánh
giá đầy đủ, chính xác và có các phương pháp loại bỏ hay kiểm soát các yếu tố nguy cơ này giữ
vai trò thiết yếu trong việc chẩn đoán, điều trị và tiên lượng bệnh nha chu.