Dap An 38 de Thi TN 2020 Dachinhsua

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 198

HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 1

P C Nội dung Đ
h â i
ầ u ể
n m
I ĐỌC HIỂU
1 Người có tính khiêm tốn có biểu hiện:
-Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi 0
thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm nữa. .
- Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân mình trong 2
hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm thường, không đáng kể, 5
luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa

0
.
2
5
2 - Biện pháp liệt kê: Liệt kê các biểu hiện của khiêm tốn: tự cho mình là kém, phải phấn đấu 0
thêm, trau dồi thêm, học hỏi thêm… .
- Tác dụng của biện pháp liệt kê: diễn tả được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những biểu hiện của 2
lòng khiêm tốn. 5

0
.
2
5
3 Tài nghệ của mỗi người quan trọng nhưng hữu hạn, bé nhỏ như “những giọt nước” trong thế 1
giới rộng lớn, mà kiến thức của loài người lại mênh mông như đại dương bao la. Vì thế cần .
khiêm tốn để học hỏi. 0
4 -Đồng tình với quan điểm trên 1
-Vì: .
+ Tài năng là cái vốn có, nó chỉ thực sự phát huy khi ta có kiến thức và vận dụng kiến thức vào 0
thực tiễn.
+ Kiến thức là đại dương, không chỉ vậy mỗi ngày lượng kiến thức mới lại có thêm. Bởi vậy
chúng ta cần liên tục trau dồi để làm phong phú tri thức của bản thân.
LÀM VĂN
1 Từ nội dung phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy 2
nghĩ về ý kiến: “Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành công trên .
đường đời”. 0
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận: có đủ mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn 0
.
2
5
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: “Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai 0
muốn thành công trên đường đời”. .
2
5
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm, vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp 1
chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động về vấn đề nghị luận. Học .
sinh có nhiều cách trình bày khác nhau, có thể đảm bảo các ý sau: 0
* Giới thiệu vấn đề
* Giải thích vấn đề
- Khiêm tốn: là đức tính nhã nhặn, nhún nhường, không đề cao cái mình có và luôn coi trọng
người khác.
- Thành công là là đạt được kết quả như mong muốn, thực hiện được mục tiêu đề ra.
⟹ Khiêm tốn và thành công có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ khi bạn có lòng khiêm tốn
mới đạt được thành công thực sự trên đường đời.
*Bàn luận vấn đề
- Vì sao phải khiêm tốn mới đạt được thành công thực sự.
+ Cá nhân dù có tài năng đến đâu cũng chỉ là giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Bởi vậy
cần học nữa, học mãi để làm đầy, làm phong phú vốn tri thức, sự hiểu biết của bản thân.
+ Chúng ta đạt được thành công mà không khiêm tốn dẫn đến thói tự cao, tự đại, đề cao thái
quá thành tích của bản thân, không chịu tiếp tục cố gắng, tất yếu sẽ dẫn đến thất bại.
+ Khi đạt được thành công bước đầu, nếu có lòng khiêm tốn, không ngừng học hỏi thêm chúng
ta sẽ đạt được thành công lớn hơn, vinh quang hơn.
- Ý nghĩa của lòng khiêm tốn:
+ Khiêm tốn là biểu hiện của con người biết nhìn xa, trông rộng.
+ Khiêm tốn giúp hiểu mình, hiểu người.
* Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân.
+ Phê phán những kẻ thiếu khiêm tốn, luôn tự cao tự đại, cho mình tài giỏi hơn những người
khác.
+ Học lối sống khiêm tốn giúp chúng ta ngày càng hoàn thiện mình và không ngừng phấn đấu
vươn lên để đạt được thành công trong cuộc sống.
d. Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề cần nghị luận 0
.
2
5
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu theo quy tắc 0
.
2
5
2
* Đặt vấn đề:

- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc nhưng thành công
hơn cả là ở lĩnh vực thi ca, với hồn thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa. Quang
Dũng tham gia đoàn quân Tấy Tiến từ năm 1947 đến cuối năm 1948 thì chuyển sang đơn vị
khác. Trong một đêm liên hoan mừng công, ông viết bài thơ Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô.

- Khổ thơ đầu là nỗi nhớ của tác giả về những cuộc hành quân gian khổ gắn với thiên nhiên Tây
Bắc hùng vĩ, dữ dội:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

* Triển khai:

- Hai câu đầu khái quát nỗi nhớ :

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

+ Sông Mã là con sông lưu giữ nhiều kỉ niệm về đồng đội cũ, được nhắc đến như một cái cớ
khơi gợi cảm xúc. Cụm từ xa rồi, cảm giác tiếc nuối, xót xa đến quặn lòng như bị mất mát một
điều gì lớn lao. Lời thơ cảm thán Tây tiến ơi, là tiếng kêu xé lòng, day dứt về đồng đội.

+ Điệp từ nhớ lặp lại hai lần làm cho nỗi nhớ cháy bỏng, da diết đến quặn lòng. Nhớ rừng núi
là nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, nhớ về con đường hành quân cũng là nhớ về Tây Tiến. Từ láy
chơi vơi diễn tả cảm giác bồng bềnh, huyền ảo, lơ lửng. Đó là nỗi nhớ xóa nhòa không gian, thời
gian, đưa con người đắm vào quá khứ, sống với kỉ niệm. Với cách sử dụng điệp vần ơi trong các
tiếng ơi, chơi, vơi tạo âm hưởng mênh mang như kéo dài thêm nỗi nhớ.

- Nhớ Tây Bắc khắc nghiệt :

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi


Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

+ Tác giả liệt kê các địa danh Sài Khao, Mường Lát để tạo ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, bí ẩn
của những vùng đất lạ, chứa đựng nhiều khó khăn, thử thách ý chí của con người. Hình ảnh
sương lấp và đoàn quân mỏi là những hình ảnh miêu tả hiện thực. Các chiến sĩ hành quân trong
sương mù giá lạnh. Sương dày đặc, sương che lấp cả đoàn quân. Chữ mỏi nói lên bao gian khó
mà người lính phải trải qua.

+ Hình ảnh hoa về trong đêm hơi thật đẹp, vừa khắc họa vẻ thơ mộng của núi rừng Tây Bắc
vừa gợi nét lạc quan ở những người lính trẻ. (so sánh: Nhà thơ không nói hoa nở mà nói hoa về;
không nói đêm sương mà nói đêm hơi). Người lính như đi ở chốn bồng lai tiên cảnh, xứ sở thần
tiên, ở cõi mộng chứ không phải nơi trần thế)

- Nhớ địa hình Tây Bắc hiểm trở :

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm


Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

+ Điệp từ dốc và từ láy khúc khuỷu, thăm thẳm diễn tả sự quanh co, hiểm trở của dốc núi, đường
lên rất cao và xuống rất sâu. Câu thơ có năm thanh trắc (dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm) tạo
âm điệu trúc trắc, vừa gợi con đường ghập ghềnh cheo leo vừa gợi hơi thở gấp gáp của người
lính khi vượt dốc.

+ Từ láy heo hút gợi nét hoang sơ, vắng vẻ đồng thời vẻ ra thế núi hùng vĩ. Núi cao ngập vào
trong những cồn mây.

- Hình ảnh súng ngửi trời là cách nói nhân hóa thú vị, vừa tả núi, dốc như cao đến tận trời vừa
thể hiện nét tinh nghịch của người lính. Từ ngửi có hiệu quả nghệ thuật cao, thể hiện tư thế hiên
ngang, vững chãi của người lính bảo vệ vùng trời, vùng đất của Tổ quốc.

+ Điệp ngữ ngàn thước chỉ độ cao vô cùng, vô tận của núi. Câu thơ ngàn thước lên cao ngàn
thước xuống như bị bẻ làm đôi, diễn tả hai sườn núi dốc dựng đứng, vút lên cao rồi đổ đổ xuống
sâu rất nguy hiểm.

+ Câu thơ Nhà Pha Luông mưa xa khơi mở ra một không gian xa rộng, thoáng đãng. Người lính
tạm dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ra xa. Trong màn mưa giăng mịt mù, những ngôi
nhà sàn như bồng bềnh ẩn hiện. Câu thơ toàn thanh bằng gợi tả niềm vui, một chút bình yên
trong tâm hồn người lính.

- Nhớ những gian khổ hi sinh của đồng đội:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

- Từ láy dãi dầu nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu ngày. Người lính phải hành quân trong
thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, thiếu thốn mọi thứ khiến nhiều người kiệt sức vì mỏi
mệt. Nghệ thuật nói giảm,nói tránh không bước nữa, bỏ quên đời diễn tả cái chết nhẹ nhàng. Đó
là cách nói còn thể hiện thái độ trân trọng, tự hào về đồng đội. Câu thơ này còn có cách hiểu
khác là, người lính tạm dừng chân, nghỉ ngơi lấy lại sức để tiếp tục hành quân.

+ Các từ láy nhấn mạnh chiều chiều, đêm đêm chỉ thời gian nhiều chiều, nhiều đêm, người lính
phải đối mặt với hiểm nguy.

- Nhớ tình cảm sâu nặng của người dân Tây Bắc:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
+ Đảo ngữ Nhớ ôi nhấn mạnh nỗi nhớ thấm thía, sâu sắc của tác giả. Hình ảnh cơm lên khói vừa
chân thật vừa trữ tình nói lên tình quân dân ấm áp.

+ Cách dùng từ sáng tạo mùa em chứ không phải là mùa của quê em, gợi nét trẻ trung, tình cảm
sâu nặng của nhà thơ.
- Mười bốn câu thơ đầu, với sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn, Quang Dũng đã dựng
lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội trong nỗi nhớ miên man. Đoàn quân Tây Tiến đã vượt
những chặng đường dài gian khổ, có mất mát, hi sinh nhưng vẫn ánh lên niềm tin, nét trẻ trung
kiêu dũng.

* Đánh giá:

- Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng
người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ. Hình tượng
người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ mãi còn hấp dẫn mọi thế hệ.

- Đọc đoạn thơ, ta càng biết ơn, trân trọng quá khứ hào hùng của cha ông để từ đó sống tốt, sống
có trách nhiệm hơn với quê hương đất nước.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 2

PHẦN Câu Nội dung Điêm


A (3 1 Khả năng kỳ diệu nhất của con người đó là có được quyền tự 0,5
điểm) do chọn lựa, chọn lựa một thái độ, chọn lựa một cách sống,
một cách nhìn
2 - Những người suy sụp tinh thần hay thất bại, thường đưa ra 0,5
những lý do để biện minh…
- Không biết sử dụng quyền được lựa chọn của mình.
3 Bản chất của sự việc xảy đến không quan trọng bằng cách
chúng ta đối phó với nó
- Bản chất của sự việc xảy đến rất đa dạng, bất ngờ, không 0,5
thể lường trước được.
- Con người cần chọn cách ứng phó phù hợp với hoàn cảnh 0,5
để vượt qua, mới là điều quan trọng.
(Chấp nhận những cách diễn đạt tương đồng)
4 Cuộc sống là do chúng ta lựa chọn chứ không phải do may
rủi 0,25
- Đồng tình hoặc không đồng tình 0,5
- Lí giải 0,25
- Chính tả, dùng từ, ngữ pháp
PHẦN Câu 1. Suy nghĩ của mình về việc chọn để nghĩ và chọn để làm trong 2,0
B cuộc sống
(7 điểm) a. Đảm bảo cấu trúc thân mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn 0,25
b. Nội dung.
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận 0,25
- Suy nghĩ về vấn đề nghị luận 1,0
+ Trong cuộc sống, luôn có rất nhiều điều xảy ra, đôi khi là những trở
ngại rất lớn nên phải tính toán, tìm ra những giải pháp hợp lí nhất đề giải
quyết.
+ Từ những định hướng đã được xác định, con người bắt đầu quá trình
thực hiện công việc.
+ Đối với giải quyết sự việc, nghĩ và làm là một quá trình liên tục, có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau,..
- Bài học bản thân 0,25
c. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
d. Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ +
nhưng phải hợp lí. 0,25
(Đây là phần điểm mang tính khuyến khích, khi tổng điểm chưa đạt hoặc
tới 2,0 điểm) + 0,0
2 * Đặt vấn đề:
- Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành
công nhất vẫn là thơ. Ông có nhiều vần thơ hay viết về người lính trong đó tiêu
biểu có bài Tây Tiến. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng sáng tác năm 1948 ở
Phù Lưu Chanh. Thông qua nỗi nhớ da diết chơi vơi, bài thơ tái hiện lại chặng
đường hành quân đầy gian khổ với những hi sinh oanh liệt của người lính.

- Với cảm hứng lãng mạn hướng về cái cao cả, phi thường và nhạy cảm với
những vẻ đẹp mang màu sắc xứ lạ phương xa, Quang Dũng đã khắc họa được
những bức tranh về cảnh sinh hoạt văn nghệ mang đậm tình quân dân và cảnh
sông nước mờ ảo hoang dại mà chứa chan thi vị:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

* Triển khai:

- Nếu như phần thứ nhất của bài thơ là bức tranh vừa dữ dội hoang sơ vừa hùng
vĩ nên thơ của núi rừng miền Tây và con đường hành quân đầy gian khổ được
vẽ bằng nét bút gân guốc khỏe khoắn, thì đến phần thứ hai này bài thơ Tây Tiến
lại mở ra một thế giới khác của Tây Bắc, một Tây Bắc mĩ lệ tài hoa, duyên dáng
với những nét vẽ tinh tế mềm mại.

- Bốn câu đầu là kỉ niệm về đêm liên hoan văn nghệ mang đậm tình quân dân:
Hình ảnh một đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức tại doanh trại bộ đội được
gợi lên với vừa hiện thực, lại vừa huyền ảo:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ

- Đêm liên hoan văn nghệ ấy có thể được tổ chức tại doanh trại bộ đội có đồng
bào dân tộc để thắt chặt tình quân dân thì hình ảnh em chính là những cô gái
người dân tộc Mèo, Mường, Thái… Cũng có thể hiểu cách khác, đêm liên hoan
văn nghệ ấy được tổ chức tại doanh trại bộ đội chỉ toàn người lính và em đó là
những chàng trai đóng giả những cô gái múa những điệu múa dân tộc. Hiểu như
thế càng làm nổi bật vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần lạc quan của những chiến
binh Tây Tiến.

- Vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần lạc quan của những người lính Tây Tiến thể hiện
rõ nét qua tâm hồn lãng mạn và lạc quan của họ. Cách cảm nhận về cảnh và
người của người lính Tây Tiến mang đậm màu sắc lãng mạn.

- Nhà đại văn hào nước Pháp V.Huygo có nói: Chữ nào đặt đúng chỗ là chữ đó
hay nhất. Từ bừng vừa gợi hình, vừa gợi cảm. Bừng là bừng sáng lên bởi ánh
lửa từ ngọn đuốc trong đêm của bộ đội liên hoan văn nghệ cùng nhân dân; hay
là tưng bừng rộn rã của niềm vui của tiếng khèn bản nhạc man điệu, cùng giọng
hát vừa ngọt ngào vừa mê say, tình tứ của các cô gái dân tộc. Đuốc hoa là một
từ cổ để chỉ ngọn nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn. Hình ảnh này xuất
hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ
kính, vừa hiện đại, vừa thiêng liêng, vừa ấm áp keo sơn tình quân dân gắn bó.

- Không chỉ cảm nhận về cảnh lãng mạn mà còn là say đắm trước vẻ đẹp của
những bóng hồng sơn cước - những thiếu nữ Tây Bắc: Kìa em xiêm áo tự bao
giờ. Câu thơ như một tiếng trầm trồ đầy trìu mến, thích thú vui sướng đến ngỡ
ngàng trước vẻ đẹp vừa e ấp, vừa tình tứ nàng e ấp với bộ xiêm y lộng lẫy đủ
mọi sắc màu trong một vũ điệu mang màu sắc xứ lạ (man điệu). Tâm hồn người
lính hòa theo bản nhạc, điệu múaCâu thơ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ có sáu
thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng chới với như có thể đưa tâm hồn người lính
phiêu diêu về chốn Viên Chăn, thủ đô nước bạn xa xôi để xây hồn thơ.

- Như vậy chỉ bằng bốn câu thơ mà Quang Dũng đã khắc họa được một bức
tranh vừa phong phú về màu sắc, đường nét (đuốc hoa xiêm áo); vừa đa dạng
về âm thanh (tiếng khèn man điệu). Với tâm hồn lãng mạn tài hoa, bằng cảm
hứng nhạy cảm với cái lạ thường, cái thi vị, tác giả không chỉ cho ta thấy được
vẻ đẹp đầy bản sắc văn hóa phong tục của đồng bào miền biên cương Tổ quốc,
mà còn cho ta thấy được tình quân dân đằm thắm keo sơn và tâm hồn lạc quan
yêu đời, yêu cuộc sống kháng chiến gian khổ mà vui tươi của người lính Tây
Tiến.

- Bốn câu sau miêu tả cảnh sông nước Tây Bắc vừa hiện thực vừa huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Xuôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

+ Nếu khung cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say
ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cảm giác mênh mang
hoang dại mờ ảo tĩnh lặng và chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng
định rõ hơn nét tài hoa lãng mạn giàu mộng ảo của người lính Tây Tiến. Thiên
nhiên ở nơi chốn chỉ có bản sương giăng, đèo mây phủ, khi chiều về vốn mờ ảo
lại càng mờ ảo hơn khi có lớp sương mờ bảng lảng choáng lên như thực như
mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như đang sống dậy trong kí ức của tác
giả làm cho giọng thơ của ông cất lên như tiếng thì thầm, như lời tự hỏi có thấy-
có nhớ, day dứt càng gợi lên cảm giác bâng khuâng xa vắng đầy lưu luyến. Con
người có tâm hồn tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong
cây như xôn xao một nỗi niềm.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

+ Từ người được tác giả sử dụng thật tài tình. Ở đây nó mang tính chất vừa cụ
thể, vừa phiếm chỉ, vừa là tác giả vừa là đồng đội, những người tri âm, tri kỷ đã
từng đồng cam cộng khổ sống chết có nhau:

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

+ Khi viết câu này hẳn tác giả lại nhớ đến lời ca quan họ: Người ơi người ở
đừng về - một lời ca nặng tình, nặng nghĩa nhờ có từ người - một đại từ thần
diệu của Tiếng Việt. Từ ấy không xác định được thời gian, nhưng lại gợi về thời
khắc khó quên, một đi không trở lại, đã in đậm trong trái tim, trong nỗi nhớ đầy
vơi của Quang Dũng và những người lính Tây Tiến. Chữ ấy đó lại bắt vần với
chữ thấy ở câu dưới tạo nên một vần lưng đầy quyến luyến, vấn vương.
+ Có lẽ, trong những hình ảnh làm cho người lính Tây Tiến Nghìn năm chưa dễ
mấy ai quên ấy thì hình ảnh hồn lau nẻo bến bờ là hình ảnh gợi cảm nên thơ
nhất. Theo thi sĩ Chế Lan Viên thì “Lau”là biểu tượng cho mùa thu. Còn thi sĩ
Hoàng Hữu thì hồn lau trong gió qua hoài niệm lại gợi cảm giác buồn vắng,
lặng tờ nhạt nhòa như khói pha như thời tiền sử huyền thoại:

Trường vắng mưa mờ buông dốc xa

Dây leo nửa mái,sắc rêu nhòa

Người xa phơ phất hồn lau gió

Thổi trắng chân đồi như khói pha.

(Hoa lau trường cũ)

+ Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Cỏ lau lại có hình ảnh bông
lau; lơ thơ như thực, như mơ, ở miền rừng núi hoang vu được diễn tả bằng
những áng văn tuyệt hay ở đây, bầu trời, mặt đất thanh vắng hoang dại, hoa lau
phơ phất trên nền xanh uyển chuyển của rừng lau. Những triền cỏ lau mới nhú
mang một vẻ hiu hắt, vài đọt hoa hiếm hoi, điểm xuyết giữa hoàng hôn vùng
rừng một sắc tím bâng quơ. Những hồn lau như thế xuất hiện trong làn sương
chiều mờ ảo nơi bến bờ sông suối hoang sơ hẻo lánh của miền Châu Mộc, Châu
Mai đã nói với ta rất nhiều về vẻ đẹp tâm hồn của một thi sĩ tài hoa lãng mạn đã
có cách nhìn, cách cảm thiên nhiên rất lạc quan yêu đời và có phần mộng mơ.

+ Tâm hồn lãng mạn mộng mơ đó còn phát hiện ra trong cảnh sông nước chiều
sương mang đậm màu sắc cổ tích huyền thoại ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc
với dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo nước lũ:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

+ Đúng là thi chung hữu họa. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chấm phá vài
nét không chỉ gợi được cái hồn của những bông lau, mà còn cả cái dáng rất tạo
hình của cô gái lái đò người Mường,người Thái,…cái dáng ngả nghiêng rất tình
tứ đong đưa chứ không phải đung đưa của những bông hoa rừng như muốn làm
duyên bên dòng nước lũ. Đung đưa chỉ thuần túy tả chuyển động đưa đi đưa lại
mang tính chất Vật lý, còn đong đưa vừa tả chuyển động, tả cảnh vừa tả tình
làm cho bông hoa trở thành một sinh thể duyên dáng và rất đa tình. Cặp môi
hồng con mắt ướt đong đưa (Thị Mầu - Anh Ngọc)

+ Với một chữ trôi mà tác giả dùng ở đây cũng rất tinh tế, gợi lên sự nhẹ nhàng
thanh thoát Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Phải có tay lái ra hoa thì chiếc
thuyền độc mộc vượt qua suối lũ ghềnh thác mới êm nhẹ đến thế. Với một
chữ trôi tinh tế và một chữ đong đưa hơi phong tình, dòng nước lũ dữ dằn bỗng
trở thành suối mơ êm đềm yên ả, để con thuyền lướt nhẹ êm trôi.

- Tìm hiểu kĩ đoạn thơ của Quang Dũng, chúng ta thấy hai từ thấy và nhớ được
tác giả dùng trong hai câu thơ giữa cũng thật tài tình. Dường như cái hồn thiêng
của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả, còn cái dáng mềm mại,
thon thả của cô gái lái đò đẹp như hoa cùng bông hoa rừng đong đưa trên dòng
nước lũ lại khắc sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu non sông đất nước,
vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây này. Không có một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa thì
không thể nắm bắt được những hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế. Đoạn
thơ không chỉ được khắc, trạm hình sắc, đường nét vào người và cảnh, mà còn
được tác giả phổ vào câu thơ những nốt nhạc tinh tế. (Nhạc điệu thể hiện ở vần
chân: Bờ - đưa, vần lưng: ấy-thấy; ở điệp âm, điệp thanh: Châu Mộc, độc, dòng,
đong). Nhưng đây là nhạc điệu được cất lên từ một tâm hồn say đắm với cảnh
và người miền Tây Tổ quốc của người lính Giữa chiến trường nhiều khi thay
cho nhạc; là những tâm hồn có nhạc ở bên trong (Phạm Tiến Duật). Cho nên
rất có lý khi Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm giác như
ngậm âm nhạc trong miệng.

* Đánh giá:

- Như vậy hùng vĩ gắn với thơ mộng, những nét vẽ bạo khỏe, gân guốc; gắn với
nét vẽ uyển chuyển, tinh tế, mềm mại là cái nhìn riêng của tâm hồn lãng mạn và
hào hoa Quang Dũngtrước khung cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ mà nên thơ
đẹp đẽ. Xuyên qua cảnh vật và con người, là một niềm hoài niệm chơi vơi mà
sâu nặng, bâng khuâng da diết một tình yêu nói khôn cùng của tác giả với một
miền thiên nhiên Tổ Quốc đã gắn bó tha thiết với người lính về một thời oanh
liệt:

Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau; còn đủ sức soi đường.


(Trích Tiếng hát con tàu Chế Lan
Viên)

- Đoạn thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá tinh tế, mềm
mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật Tây Bắc. Với bút pháp thiên
về cảnh vật và con người ấy của Quang Dũng, bức tranh của cảnh và nguời miền
Tây Tổ quốc hiện lên thật duyên dáng, thơ mộng dễ làm đắm say lòng người
đọc. Đằng sau bức tranh đó, ta thấy nổi rõ tâm hồn lạc quan, yêu đời, lãng mạn,
giàu mộng mơ của tác giả nói riêng và của người lính Tây Tiến nói chung
trong Những năm tháng không thể nào quên của cuộc kháng chiến chống Pháp
gian khổ mà vô cùng oanh liệt.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 3
Phần Câu Nội dung Điểm
I ĐỌC HIỂU 3.0
Ông Jonathan và ông Authur giống và khác nhau ở chỗ:
- Giống: đều có bộ óc thông minh, nhanh nhạy
1 0.5
- Khác: Ông Jonathan là tỉ phú. Ông Authur là người lái xe cho
Jonathan.
Từ câu chuyện về ông Jonathan và Authur, tác giả chỉ ra điểm khác
2 biệt mấu chốt giữa thành công và thất bại là: khả năng trì hoãn những 0.5
mong muốn tức thời, kiềm chế được sự cám dỗ trên đường đời.
Ngoài sự lí giải của tác giả, chỉ ra một điểm khác biệt tạo nên thành
công và thất bại theo quan điểm của mình: Học sinh chọn ít nhất 2 lí
giải khác, miễn là hợp lí (mỗi lí giải đúng đạt 0.5 điểm):
3 1.0
- Những mục tiêu và quyết định đúng đắn.
- Sự đam mê và kiên trì.
- Sử dụng thời gian khôn ngoan…
Học sinh nêu ý kiến của mình và lí giải được quan điểm đó. Học sinh
có thể trả lời:
- Đồng tình, vì: tác giả cho rằng cuộc đời như một viên kẹo thơm ngọt
là một ví von để chỉ cuộc đời rất nhiều cám dỗ ngọt ngào đòi hỏi con
người phải tỉnh táo kiềm chế để vươn tới thành công.
4 - Đồng tình nhưng bổ sung thêm ý kiến riêng: vì cuộc đời có thể như 1.0
viên kẹo thơm ngọt nhưng cũng có thể như viên thuốc đắng, quan
trọng là thái độ ứng phó với cám dỗ cũng như trở ngại để vươn tới
thành công.
- Nếu học sinh trả lời không đồng tình, nhưng giải thích hợp lí vẫn
cho điểm.
II LÀM VĂN 7.0
1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một
đoạn văn (khoảng 200 chữ) về khả năng trì hoãn những mong 2.0
muốn tức thời của bản thân để vươn tới thành công.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng 0.25
– phân – hợp, song hành hoặc móc xích.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: khả năng trì hoãn những
0.25
mong muốn tức thời của bản thân để vươn tới thành công.
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận
Học sinh chọn lựa các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề
1.0
nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ các ý sau:
- Giải thích vấn đề:
+ Khả năng trì hoãn những mong muốn tức thời: Cái có thể làm được
trong điều kiện nhất định là làm chậm lại, kéo dài những ham muốn,
mong muốn đang diễn ra ngay lúc đó.
+ Vấn đề nghị luận: là khả năng kiềm chế cám dỗ, ham muốn tức thì
của bản thân để đạt được kết quả, mục tiêu xa hơn.
- Bàn luận:
+ Cuộc đời ẩn chứa rất nhiều cám dỗ ngọt ngào mà con người khó
vượt qua, dễ dẫn đến ham muốn tức thì, hưởng thụ tạm thời và dễ
dẫn đến thất bại.
+ Nếu biết vượt qua những cám dỗ tức thì đó có thể đưa con người
tới những mục tiêu xa hơn, những kết quả to lớn hơn.
- Bài học: Để làm được điều đó đòi hỏi con người phải hiểu rõ điểm
yếu, điểm mạnh của bản thân, phải có mục tiêu, kế hoạch và quyết
tâm hành động, phải biết kiên nhẫn, tỉnh táo trước cám dỗ,…
d. Chính tả, ngữ pháp
0.25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới 0.25
mẻ
2 * Đặt vấn đề:

- Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng,
hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính
Tây Tiến và xứ Đoài của mình. Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu
cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông.

- Bài thơ bằng bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ,
giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những
người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ
lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của Quang
Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc hoạ bức chân dung người
lính Tây Tiến:

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

* Triển khai:
- Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ Mây đầu ô ( xuất bản năm 1986 )
nhưng trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc.

- Tác giả sáng tác bài thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi
ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị
khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực
Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động
của đoàn quânTây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh
niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng.

- Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét
hoành hành nhưng vẫn lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được
hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn
52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau đó lại
đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm
của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi nhớ cồn
cào, da diết.

- Đoạn thơ thứ ba, Quang Dũng tái hiện lại chân dung người lính Tây Tiến:
+ Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi
tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ
lệ. Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những
người đồng đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào
sinh ra tử.

+ Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm
chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những
người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương
mặt chung của cả đoàn quân.

- Quang Dũng đã khắc họa thành công những khó khan, thiếu thốn mà
người lính phải trải qua:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
+ Hai câu thơ gợi nhắc đến hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí của
Chính Hữu:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.

+ Những câu thơ của Quang Dũng đề cập đến một hiện thực, đó là căn
bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc phải. Quang Dũng
trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh
quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính Tây Tiến, nhưng hiện thực
nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo
trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, nhữnh cái đầu bị rụng tóc, vẻ
xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của
Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn
rừng thiêng.

- Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu
thương:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

+ Mắt trừng là đôi mắt mở to, nhìn thẳng, hướng về phía trước để quan sát
kẻ thù. Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức trừng lên quyết tâm
hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều
thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân thương
quê nhà.

- Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính
không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm
hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.

- Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã
nêu lên hiện thực này không che giấu theo cách riêng của ông:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
+ Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: biên cương, mồ, viễn xứ, chiến
trường kết hợp với từ láy rải rác đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm
những đau thương vì mất mát lắng xuống.

+ Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì
Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói chẳng tiếc đời xanh
vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây
Tiến.

- Hai câu thơ :

Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

+ Nhắc đến một sự thật bi thương: những người lính Tây Tiến gục ngã bên
đường hành quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái
nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng
mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Cách nói giảm anh về đất làm vơi đi cái bi thương, rồi cái bi
ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông Mã. Nhà thơ đã
mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng Tây Bắc
để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng
vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi
luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

* Đánh giá:

- Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm
đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh
của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo,
trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người
lính Tây tiến đậm chất bi tráng.

- Đoạn thơ Tây Tiến thơ có nhạc, họa; bên cạnh cái bi là cái hùng, bên
cạnh mất mát, đau thương là anh hùng. Chính vì vậy mà nửa thế kỉ đã qua,
bài thơ ngày một thêm sáng giá và đoạn thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến
đã trở thành một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng
trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 4
Phần Câu Nội dung Điể
m
ĐỌC HIỂU 3.0
1 - Nội dung chính bàn về xu hướng thần tượng lệch lạc đáng báo động
0.5
trong giới trẻ
I 2 - Hậu quả : khiến bạo lực học đường gia tăng. ; sẽ góp phần làm tăng các
0.5
vụ án nghiêm trọng về cả mức độ lẫn số lượng
3 - Nguyên nhân: do thiếu hiểu biết về các chuẩn mực đạo đức và pháp
luật, đua đòi theo đám đông, tâm lý tò mò, thích nổi loạn để khẳng định
1.0
bản thân, không ý thức được hậu quả...

4 - Học sinh trả lời ngắn gọn rõ ý theo quan điểm cá nhân
- Học sinh giải thích hợp lí, tránh lối diễn đạt chung chung hoặc sáo rỗng
0.5
(hiện tượng giang hồ mạng thường gắn liền với hành vi bạo lực và các tệ
0.5
nạn xã hội khác; từ đó sẽ kích động giới trẻ adua, học đòi dùng bạo lực
để giải quyết các mâu thuẫn, hoặc khẳng định bản thân,...)
LÀM VĂN 7.0
1 Viết một đoạn văn với chủ đề : lẽ sống đẹp cho giới trẻ ngày nay 2.0
II a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
0.2
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng -
5
phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: lẽ sống đẹp 0.2
5
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề cần
nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ
Có thể theo hướng sau:
- Giải thích được lẽ sống đẹp là gì (tuân theo các chuẩn mực đạo đức pháp
luật, phát huy được năng lực sở trường của bản thân, sống nhân hậu, sống có
ích,..)
- Bàn luận được về vai trò, giá trị của lẽ sống đẹp : 1.0
+ Sống đẹp mang lại hạnh phúc cho bản thân và những điều tốt đẹp cho
người thân, bạn bè, đồng nghiệp, cộng đồng nói chung (dẫn chứng..)
+ Sống đẹp không đồng nghĩa với một cuộc sống giàu có dùng tiền bạc
để làm từ thiện nhằm đánh bóng tên tuổi , hay một cuộc sống nổi tiếng
mà tai tiếng,... (dẫn chứng..)
- Rút ra được bài học cho bản thân – làm thế nào để hình thành nếp sống
đẹp
d. Sáng tạo
0.2
Có cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ riêng sâu sắc về vấn đề nghị luận
5
nhưng cần phù hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp luật.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.2
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt. 5
2 * Đặt vấn đề:

- Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông gắn liền
với từng chặng đường lịch sử của đất nước.

- Việt Bắc là một trong những bài thơ hay của ông viết sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, là khúc ca hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp, là khúc hát
ân nghĩa thủy chung của tình quân dân thắm thiết. Tám câu thơ đầu là những
giai điệu mở đầu của cuộc chia li:

Mình về mình có nhớ ta.

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.

* Triển khai:

- Bốn câu thơ đầu là lời của người Việt Bắc:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn ?

+ Nhà thơ để cho người ở lại lên tiếng trước. Hai đại từ mình - ta được lặp lại
nhiều lần. Đó là cách xưng hô thân mật lấy trong ca dao, dân ca, là lời xưng hô
trong tình yêu lứa đôi, nghe thiết tha bâng khuâng được Tố Hữu sử dụng rất
linh hoạt.

- Trong ca dao:

Mình nói với ta mình hãy còn son

Ta đi ngang ngõ thấy con mình bò

Con mình những trấu cùng tro

Ta đi ghánh nước tắm cho con mình.

Hay:

Mình về có nhớ ta chăng?


Ta về nhớ bạn như trăng nhớ trời.

+ Trong bài thơ Việt Bắc, mình là người cán bộ về xuôi, ta là người Việt Bắc.
Cụm từ Mười lăm năm ấy gợi nhắc câu Kiều của Nguyễn Du: Mười lăm ấy biết
bao nhiêu tình. Đó là sự kế thừa thơ ca truyền thống của dân tộc của Tố Hữu.
Câu hỏi tu từ có nhớ ta, có nhớ không nghe da diết, nhắn nhủ, tâm tình. Lời hỏi
cũng là lời nhắc nhở, nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc.

- Bốn câu thơ tiếp là lời cán bộ về xuôi.

Tiếng ai tha thiết bên cồn,

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi.

Áo chàm đưa buổi phân ly,

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

+ Ai là đại từ phiếm chỉ, chỉ người Việt Bắc. Từ láy: tha thiết, bâng khuâng,
bồn chồn đặc tả chính xác tâm trạng vấn vương, lưu luyến, bịn rịn. Hình ảnh
áo chàm là nghệ thuật hoán dụ để chỉ đồng bào Việt Bắc, vì người Việt Bắc
thường mặc áo loại áo này. Màu chàm là màu đơn sơ, chân thực, không lòe loẹt
mà giản dị, chân thành, chung thủy. Câu hỏi tu từ và dấu chấm lửng ở cuối câu:
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… Thể hiện tình cảm tha thiết, mặn nồng, ấm
áp. Ngôn ngữ bàn tay nóng ấm gắn với trái tim đầy xúc động. Cụm từ Biết nói
gì, không phải là cả người ra đi và người ở lại không biết nói gì, không có gì
để nói mà là không biết nói sao cho thỏa nỗi nhớ thương.

- Việt Bắc chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy
đủ âm hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru
nhẹ nhàng sâu lắng. Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng
ta có thể cảm nhận một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố
Hữu.

* Đánh giá:

- Đoạn thơ được viết bởi thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối
đáp tạo ra giai điệu phong phú cho đoạn thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác
giả vận dụng khéo léo (Điệp từ, hoán dụ, câu hỏi tu từ). Ngôn ngữ trong sáng,
nhuần nhị và có nhiều nét cách tân.
- Tám câu thơ đầu khái quát cảm xúc bao trùm bài thơ: Tình cảm gắn bó, ân
tình, thủy chung sâu nặng giữa người dân Viết Bắc và chiến sĩ cách mạng được
diễn tả chân thật, tha thiết, trìu mến bằn âm điệu thơ lục bát. Chính tình quân
dân cao quý này đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.
Đề 5 – HƯỚNG DẪN CHẤM
I ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau:
“Nhiều người chúng ta từ lâu đã quen đối phó với cuộc sống và hoàn cảnh thay vì hãy
hành động. Chúng ta để thái độ người khác chi phối cảm nhận của mình về bản thân. Để có
sự lựa chọn hành động một cách kín đáo thay vì đối phó, chúng ta cần có sự suy nghĩ chín
chắn. Sẵn sàng chịu trách nhiệm về bản thân, cam kết giữ vững lập trường thay vì sự phụ
thuộc vào ý kiến người khác là điều góp phần thiết lập nên cái nhìn tổng quát về bản chất của
mỗi cá nhân. Đối với nhiều người đây là một bước tiến vĩ đại.
Khi quyết định chịu trách nhiệm về bản thân và cố gắng kiểm soát mọi hành động và
cảm xúc cho phù hợp với từng hoàn cảnh, chúng ta đã tạo tiền đề cho việc hình thành những
mối quan hệ tốt đẹp. Nhiều người tỏ ra không thích “sự độc lập” mà chúng ta lựa chọn, bởi
điều đó đồng nghĩa với việc họ không còn có khả năng kiểm soát hành động của chúng ta nữa.
Việc giải phóng bản thân khỏi sự kiểm soát của người khác có lợi cho cả hai bên. Mỗi lần áp
dụng cách cư xử này, bạn sẽ cảm nhận được nguồn sức mạnh tiềm ẩn mà bạn chưa từng biết
mình đang sở hữu.
Hành động thay vì đối phó không chỉ hữu ích trong những cuộc chạm trán gây go. Và
việc tự giác chịu trách nhiệm về hành vi của mình là một yêu cầu quan trọng.”
( “Khi thay đổi thế giới sẽ đổi thay”- Karen Casey,
NXB Tổng hợp TP. HCM, 2010, tr.72)
Thực hiện các yêu cầu dưới đây:
Câu 1. Dựa vào đoạn trích hãy cho biết điều “góp phần thiết lập nên cái nhìn tổng quát về bản
chất của mỗi cá nhân” là gì?
Trả lời: Điều góp phần thiết lập nên cái nhìn tổng quát về bản chất của mỗi cá nhân: “Sẵn
sàng chịu trách nhiệm về bản thân, cam kết giữ vững lập trường thay vì sự phụ thuộc vào ý
kiến người khác.”(0.5 điểm)
Câu 2. Theo tác giả, tại sao “Nhiều người tỏ ra không thích “sự độc lập” mà chúng ta lựa
chọn”? (0.5 điểm)
Trả lời:Theo tác giả, “Nhiều người tỏ ra không thích “sự độc lập” mà chúng ta lựa chọn” vì
nó đồng nghĩa với việc họ không còn có khả năng kiểm soát hành động của chúng ta nữa.
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến: “Việc giải phóng bản thân khỏi sự kiểm soát của
người khác có lợi cho cả hai bên” ?
Trả lời: Có thể hiểu về ý kiến: “Việc giải phóng bản thân khỏi sự kiểm soát của người
khác có lợi cho cả hai bên”như sau:
-Đối với người bị kiểm soát: khiến họ tự tin, phát huy ưu thế của bản thân.(0.5 điểm)
- Đối với người kiểm soát: học được cách tôn trọng người khác, từ đó có được mối quan
hệ bình đẳng, hài hòa.(0.5 điểm)
Câu 4. Bài học có ý nghĩa mà anh/chị rút ra cho bản thân từ việc đọc văn bản trên?
Trả lời: Có thể rút ra những bài học khác nhau:
Phải có sự độc lập trong suy nghĩ và hành động; chịu trách nhiệm về suy nghĩ và bản thân,…
(1.0 điểm)
II LÀM VĂN
Câu 1.
Từ nội dung văn bản phần Đọc-hiểu, anh/chị viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu
ý kiến của mình về sự cần thiết của “việc tự giác chịu trách nhiệm về hành vi” đối với bản
thân của mỗi người trong cuộc sống.
Trả lời:
a.Đảm bảo cấu trúc đoạn văn:
HS có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân- hợp, móc xích, song
hành.(0,25 điểm).
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận:(0,25 điểm)
Nêu kiến của bản về sự cần thiết của “việc tự giác chịu trách nhiệm về hành vi” đối với bản
thân của mỗi người trong cuộc sống
c.Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm)
Học sinh lựa chọn thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề một cách mạch lạc sáng
rõ. Có thể trình bày theo hướng sau:
-“Việc tự giác chịu trách nhiệm về hành vi” là một biểu hiện của lòng tự trọng, khiến con
người trưởng thành hơn, không dựa dẫm vào người khác…
-“Việc tự giác chịu trách nhiệm về hành vi” là cần thiết để cải thiện các mối quan hệ, giúp xã
hội phát triển
d.Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, đặt câu. (0,25 điểm)
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới lạ, suy nghĩ sâu sắc.(0,25 điểm)
Câu 2.
Cảm nhận lời nhắn nhủ thiết tha của Việt Bắc – người ở lại qua đoạn thơ sau:

Mình đi có nhớ những ngày,

Tân Trào Hồng Thái mía đình cây đa.

* Đặt vấn đề:

- Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông gắn liền với từng chặng đường
lịch sử của đất nước.

- Việt Bắc là một trong những bài thơ hay của ông viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ, là khúc ca hào
hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp, là khúc hát ân nghĩa thủy chung của tình quân dân thắm thiết.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ về cái nôi của cách mạng:

Mình đi có nhớ những ngày,

Tân Trào Hồng Thái mía đình cây đa.


* Triển khai:

- Hình thức lặp mình đi, mình về, có nhớ đặt trong hàng loạt câu hỏi khiến đoạn thơ tràn đầy cảm xúc,
gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đầy tự hào và yêu thương. Hai tiếng mình đi, mình về được luân phiên,
chuyển đổi, gợi hình ảnh người cán bộ kháng chiến về xuôi mỗi lúc một xa dần:

Mình đi có nhớ những ngày,

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.

- Hình ảnh ẩn dụ mưa nguồn, suối lũ, mây mù nhằm miêu tả thời tiết Việt Bắc thật khắc nghiệt, mưa
lớn gây lũ sông suối, trời luôn u ám đầy mây đen. Thời tiết càng khắc nghiệt, họ càng gắn bó đoàn
kết để vượt qua và chiến đấu. Ngoài ra, những hình đó nhằm hàm chỉ những gian khó, thử thách mà
cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phải trải qua trong những năm tháng dài máu lửa.

- Nhớ về cuộc sống khó khăn, vất vả, mối thù đè nặng lên đôi vai:

Mình về có nhớ chiến khu,

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai.

- Chi tiết có thực miếng cơm chấm muối nhằm phản ánh cuộc sống thiếu thốn gian khổ về vật chất
nhưng họ vẫn lạc quan chiến đấu bởi người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc có chung một lý
tưởng, một mối thù. Cách nói mối thù nặng vai nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân Pháp đang
đè nặng lên đôi vai dân tộc ta.

- Tình cảm của người ở lại được dấu kính trong lòng:

Mình về rứng núi nhớ ai

Trám búi để rụng măng mai để già.

- Nghệ thuật hoán dụ rừng núi nhớ ai, người ở lại đã lấy nỗi buồn của núi rứng để thổ lộ thầm kính
nỗi buốn của mình trong niềm vui chung đất nước được giải phóng. Việt Bắc có nỗi buồn riêng, có
nỗi nhớ riêng đó là phải chia tay với cán bộ cách mạng. Họ buồn đến nỗi không còn tha thiết trong
lao động Trám bùi để rụng măng mai để già. Trám, măng là những nguồn lương thực vô tận của núi
rừng Việt Bắc để nuôi cán bộ đánh giặc, nay cán bộ về xuôi thì họ đi hái trám, bẻ măng để làm gì?.
Câu thơ gợi nỗi buồn thiếu vắng trong lòng người ở lại.

- Nỗi nhớ về bản làng nghèo khó mà thủy chung:

Mình đi có nhớ những nhà,

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.


- Cụm từ những nhà được nhà thơ nhắc đến ý chỉ đồng bào Việt Bắc. Câu tiểu đối hắt hiu lau xám
đậm đà lòng son chứa đựng sự tương phản giữa cuộc sống nghèo khó về vật chất và phẩm chất cao
đẹp cuả người Việt Bắc, đó là nhiệt tình và thủy chung cách mạng.

- Nhớ Việt Bắc là nhớ cội nguồn quê hương cách mạng cùng với những địa danh lịch sử:

Mình đi có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

- Điệp từ nhớ và hình ảnh liệt kê Tân Trào, Hồng Thái mài đình cây đa nhằm nhắc nhở người cán bộ
cách mạng luôn nhớ đến cội nguồn, nhớ đại điểm thành lập quân đội đầu tiên của nước ta đó là cây
đa Tân Trào. Nhớ đình Hồng Thái là nơi hội họp quốc dân lần đầu khai sinh ra chính phủ lâm thời
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

- Đây là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười mấy năm với biết ba kỉ niệm ân
tình, từng chia sẻ mọi cay đắng ngọt vùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định tình
cảm thủy chung và hướng về tương lai tươi sáng.

- Chuyện ân tình cách mạng được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng tình tình đôi lứa. Diễn biến
tâm trạng được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao dân ca, mở ra bao nhiêu kỉ niệm về
một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà annh hùng.

* Đánh giá:

- Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu
sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân
gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến.

- Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta,
khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 6
P C Nội dung Đ
h â i
ầ u ể
n / m
Ý
I Đọc hiểu 3
.
0
1 Những nghịch lí trong những lời xin lỗi của các bạn trẻđược nêu trong 0.
đoạn trích: 5
- Nội dung lời xin lỗi na ná nhau, không xuất phát từ tình cảm chân thành
của con cái với đấng sinh thành;
- Tâm trạng của người xin lỗi: áy náy ray rứt theo làn sóng, xuất hiện rồi
tan biến ngay sau đó.
- Người được nhận lời xin lỗi: khó có thể vui hơn.
2 Trước thực trạng những lời xỉn lỗi phong trào tràn ngập mỗi dịp làm về chủ 0.5
đề về ơn nghĩa sinh thành, tác giả thể hiện tâm trạng băn khoăn, lòng ngậm ngùi
buồn.
3 Học sinh có thể để xuất những nguyên nhân khác nhau. Yêu cầu hợp lí và 1.0
thuyết phục
Gợi ý:
-Tâm lí e ngại thể hiện tình cảm của người Á Đông.
-Lối sống hời hợt, thiếu sâu sắc.
- Bị cuốn theo nhịp sống vội vã khiến con người dễ quên đi những việc ân
nghĩa.
4 Học sinh có thể có nhiều lựa chọn trả lời. 1.0
Gợi ý: Sự chân thành; Thái độ hối lỗi...
Ví dụ: Điều quan trọng nhất trong một lời xin lỗi là thái độ chân thành. Vì
một lời xin lỗi chân thành cho thấy sự hối lỗi thực sự, tỏ rõ người xin lỗi muốn
được cảm thông, tha thứ và muốn khắc phục, sửa chữa lỗi lầm mình mắc phải.
I Làm văn
I
1 Từ thông điệp của đoạn trích, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ với 2.0
chủ đề: Giá trị của lời xin lỗi đúng cách.
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ 0.2
Có đủ các phần mở đoạn, phát triển đoạn, kết đoạn. Mở đoạn nêu được vấn đề, 5
phát triển đoạn triển khai được vấn đề, kết đoạn kết luận được vấn đề.
( Nếu HS viết từ 2 đoạn trở lên thì không cho điểm cấu trúc)
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một tư tưởng đạo lí: Giá trị của lời xin
lỗi đúng cách.
0.2
5

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập 1.0
luận; các phương thức biểu đạt, nhất là nghị luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và 0
dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động. Cụ thể:
c.1. Câu mở đoạn: Dẫn ý liên quan (có thể lấy câu chuyện trong phần Đọc hiểu
) để nêu vấn đề cần nghị luận.
c.2. Các câu phát triển đoạn:
- Giải thích: Lời xin lỗi là lời nói, hành động thể hiện sự nhận thức và hối
lỗi của mình khi có những suy nghĩ, hành động sai trái.
- Bàn luận:
+ Có nhiều cách để thực hiện lời xin lỗi, tuy nhiên để lời xin lỗi có giá trị
cao nhất, cần thực hiện nó đúng cách.
+ Xin lỗi đúng cách sẽ dễ nhận được sự đồng cảm tha thứ hơn.
+ Xin lỗi đúng cách sẽ giúp bạn thoải mái hơn vì được giải tỏa mặc cảm tội
lỗi.
+ Xin lỗi đúng cách cũng góp phần nâng cao phẩm giá, nhân cách của bạn.
c.3. Câu kết đoạn: đưa ra bài học nhận thức và hành động phù hợp: Cần rèn
luyện cho mình một cái tâm chân thành để khi sai lỗi, biết nhận lỗi và thực hiện
việc hối lỗi đúng đắn.
d. Sáng tạo 0,2
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận. 5
2 * Đặt vấn đề:

- Tố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể
nói, những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng, lẽ sống của bản thân mình
mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà.

- Tháng 10- 1954 sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ bộ đội ta phải chuyển lực lượng
thủ đô và chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở người đi lòng không khỏi nhớ thương
nuối tiếc tình quân dân trong mười lăm năm khánh chiến. Trước những lời chia tay
thương nhớ thiết tha của đồng bào Việt Bắc, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải
lòng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó:

Ta với mình, mình với ta


Ngòi Thia sông Đáy suối Lê vơi đầy.

* Triển khai:
- Khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến:

Ta với mình, mình với ta


Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh.

+ Cách ngắt nhịp 3/3 ta với mình/mình với ta làm cho người đọc cảm nhận, ta với mình
tuy hai mà một gắn bó không thể tách rời. Cấu trúc so sánh, tăng tiến kết hợp với từ
láy mặn mà, đinh ninh nhằm nhấn mạnh tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc bao
la và sâu nặng.

+ Câu thơ gợi nhớ câu Kiều của Nguyễn Du:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời


Đinh ninh hai miệng một lời song song.

- Nỗi nhớ được cụ thể hóa:

Mình đi mình lại nhớ mình


Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.

+ Từ mình được dùng đa nghĩa thể hiện sự sáng tạo, độc đáo trong việc bộc lộ tình
cảm. Từ lại như nhân tình cảm lên gấp đôi.

+ Nghệ thuật so sánh Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu thể hiện cụ thể và
sinh động hơn nghĩa tình sâu đậm của người cán bộ kháng chiến với quê hương Việt
Bắc. Câu thơ gợi liên tưởng đến câu ca dao:

Qua đình ngả nón trông đình


Đình bao nhiêu ngói em thương mỉn bấy nhiêu.

- Nỗi nhớ lại được khắc họa cụ thể:

Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ tùng bản khói cùng sương
sớm khuy bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy suối Lê vơi đầy.

+ Qua hồi tưởng của cán bộ cách mạng, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp, vừa
hiện thực lại vừa thơ mộng, tạo nét đẹp riêng biệt không nơi nào có được. Nỗi nhớ Việt
Bắc được tác gỉa so sánh nhớ gì như nhớ người yêu, mà nhớ người yêu thì thật da diết,
cồn cào. Ca dao có viết:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi


Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Hay:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai.

- Đó là nỗi nhớ bao trùm lên mọi không gian và thời gian, nhớ ánh nắng ban chiều,
ánh trăng buổi tối, bản làng mờ trong sương sớm, bếp lửa hồng trong đêm khuya lạnh.
Núi rừng sông suối mang những tên quen thuộc được thể hiện bằng hàng loạt hình ảnh
liệt kê ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê.

- Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc ắp
đầy kỉ niệm. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ,
tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh
hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc.

* Đánh giá:

- Trong mọi khoảnh khắc thời gian và không gian lung linh kỉ niệm, núi rừng Việt Bắc
đã thể hiện rất chân thực mà cũng rất thơ mộng, thú vị.

- Chỉ những người đã từng gắn bó với Việt Bắc, coi Việt Bắc là quê hương thân thiết
của mình thì mới có nỗi nhớ thật da diết,có những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về
ánh nắng ban chiều, về ánh trăng buổi tối,về những bản làng mờ trong sương sớm, về
những bếp lửa hồng trong đêm khuya, về núi rừng, sông suối thân thương.
ĐÁP ÁN – ĐỀ 7
Nội dung Điểm
Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu:
Câu 1Cơ Điều cơ bản làm nên sự thành công của con người là sự bền bỉ. 0,5

Câu 2 Vì cuộc chạy marathon là một cuộc chạy dài, người muốn chiến thắng
cần nỗ lực liên tục trong suốt cuộc hành trình . Bền bỉ cũng cần cố gắng 0,5
liên tục không ngừng nghỉ như thế
Câu 3 Tác dụng của việc liệt kê: 1,0
+ Các nhân vật văn học đều rất nổi tiếng, rất quen thuộc và gần gũi với
người đọc, do đó khiến lập luận chặt chẽ, thuyết phục hơn.
+Nhấn mạnh vào dẫn chứng lập luận, tăng sức thuyết phục bởi các nhân
vật ấy đều là kết quả của sự bền bỉ, nỗ lực của các nhà văn.
Câu 4 - Đồng tình. 1,0
- Phải có nghị lực phi thường thì những con người đó mới có thể vượt
qua mọi khó khăn, thử thách để đi đến thành công
Phần làm văn ( 7,0 điểm)
Câu 1 Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về
điều quan trong nhất để có được thành công trong cuộc đời.
* Về hình thức yêu cầu
- Viết đúng một đoạn văn, khoảng 200 chữ
- Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
* Về nội dung, đoạn văn cần thể hiện được những ý cơ bản sau:
a. Câu mở đoạn: Nêu vấn đề cần nghi luận 0.25
b. Các câu phát triển đoạn: 0,25
- Giải thích: Thành công là kết quả quý giá mà con người đạt được sau
một quá trình lao động, đấu tranh mất nhiều công sức. 0.5
- Bàn luận: 0.5
+ Điều quan trọng nhất để có được thành công : …
+ Lý do : 0,25
+ Dẫn chứng minh họa 0,25
- Phê phán một bộ phận giới trẻ hiện nay không dám đương đầu với thử
thách, chỉ biết sống nhờ, sống gửi, lệ thuộc vào người khác…
c.Câu kết đoạn: đưa ra bài học nhận thức và hành động phù hợp:
2 * Đặt vấn đề:
- Tháng 10 năm 1954, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, trung ương Đảng và chính phủ đã rời Việt Bắc để trở về Hà Nội tiếp
tục lãnh đạo phong trào cách mạng. Trước sự kiện đó, Tố Hữu đã viết bài thơ
Việt Bắc.
- Bài thơ như một chất men say ngấm sâu vào lòng người, trở nên gần gũi, đằm
thắm hơn với những cung bậc lan toả của nó. Trước lúc về xuôi, người cán bộ
kháng chiến khẳng định một điều đinh ninh tình nghĩa của mình vẫn rất sâu
nặng, dẫu có thế nào thì sự keo sơn, gắn bó bền chặt vẫn không phai nhạt theo
thời gian:

Ta đi ta nhớ những ngày



Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

* Triển khai:

- Nhớ sự gần gũi, quấn quýt chia ngọt sẻ bùi của tình quân dân:

Ta đi ta nhớ những ngày,


Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi.

+ Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những
ngày gần gũi mình đây ta đó, cùng chia sẻ đắng cay ngọt bùi. Có những ngày
lũ rừng về xối xả, mưa rừng ào ào, gạo muối bị cuốn trôi, địch phục kích sau
lưng…Những đêm bị sốt rét rừng hành hạ được các mẹ, các chị chăm
sóc…thấm thía vô cùng tình quân dân keo sơn gắn bó.

+ Hàng loạt tính từ đắng cay, ngọt bùi thể hiện những khó khăn tột cùng của
cuộc sống trong kháng chiến. Nhờ tinh thần đồng cam cộng khổ giữa nhân dân
Việt Bắc và cán bộ cách mạng, họ đã thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chia từng
củ khoai, sẻ từng bát cơm và cùng đắp chung chăn để vượt qua mùa đông lạnh
lẽo.

Thương nhau chia củ sắn lùi,


Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.

- Nhớ hình ảnh người lao động khó nhọc:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,


Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.

+ Hình ảnh người mẹ giúp người đọc cảm nhận hình ảnh người dân Việt Bắc
lao động tạo ra của cải vật chất thật khó nhọc, thế mà họ vẫn sẵn sàng nuôi
dưỡng cách mạng. Nhớ Việt Bắc là nhớ những hình ảnh mộc mạc, thân thương,
chân thực:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

+ Điệp ngữ nhớ sao được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của tác
giả càng lúc càng day dứt. Nhớ cảnh học tập của lớp bình dân học vụ, nhớ niềm
vui trong đêm liên hoan, nhớ tinh thần lạc quan yêu đời của nhân dân Việt Bắc,
đặc biệt là nhớ âm thanh đặc trưng của núi rừng với tiếng mõ, tiếng chày giã
gạo. Nếu thờ ơ nhà thơ sẽ chẳng thấy có gì nên thơ nhưng sự lưu luyến gắn bó
yêu thương thực sự khiến tác giả thấy có ngọn lửa lung linh, bền bỉ của sự sống.

- Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu.
Điệp từ nhớ cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt
dào. Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang
âm điệu ngọt ngào, êm ái.

* Đánh giá:

- Sự gắn bó sâu nặng với Việt Bắc đã làm cho khung cảnh và con người Việt
Bắc tái hiện trong nỗi nhớ của người về xuôi đã đẹp lại càng trở nên đẹp hơn,
càng trở nên lung linh huyền ảo .

- Nỗi nhớ trong lòng người đi day dứt, thiết tha đến độ cồn cào, ám ảnh như
nhớ người yêu. Lấy nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi để đo nỗi nhớ về ngọn nguồn
kháng chiến, về nghĩa tình cách mạng, đó là một sáng tạo của hồn thơ Tố Hữu.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 8
Phần Câu Nội dung Điểm
ĐỌC HIỂU 3.0
1 Bài thơ là lời của người cô, nói với các em học sinh chuẩn bị ra
trường 0.5
I
2 Vẻ đẹp của “em” trong ngày bế giảng hiện lên qua những hình ảnh
0.5
: em cầm sen tạo dáng, thướt tha áo dài điệu múa
3 Qua hai câu thơ: Lau nước mắt đi những tâm hồn rất trẻ/Ngoài cửa
sổ này, chân trời mới đợi em, người cô bộc lộ tình cảm yêu mến, xúc
động, niềm tin, niềm hi vọng vào các em học sinh cuối cấp- thế hệ 1.0
trẻ của đất nước. Đó cũng là lời nhắn nhủ, động viên các em về con
đường rộng mở, tương lai tươi sáng phía trước.
4 Học sinh trả lời ngắn gọn rõ ý theo quan điểm cá nhân và giải thích
1.0
hợp lí, tránh lối diễn đạt chung chung hoặc sáo rỗng.
LÀM VĂN 7.0
1 Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về: Vai trò của nghị lực, sự
kiên trì, biết chấp nhận thất bại trên con đường vươn đến mục
2.0
tiêu trong cuộc sống.

a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn


Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, 0.25
tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Trên con đường vươn đến
các mục tiêu trong cuộc sống mỗi cá nhân cần có nghị lực, sự kiên 0.25
trì, biết chấp nhận thất bại
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề
II cần nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ vai trò của ý chí,
nghị lực, lòng kiên trì, biết chấp nhận thất bại trên con đường vươn
đến mục tiêu trong cuộc sống.
Có thể theo hướng sau:
- Giải thích được có nghị lực, sự kiên trì là gì, thế nào là biết chấp
nhận thất bại?
+ Có nghị lực, sự kiên trì: có bản lĩnh, không nản chí, lùi bước, quyết
tâm với mục tiêu đề ra 1.0
+ Biết chấp nhận thất bại: bình thản trước khó khăn, thử thách,
biết chấp nhận dù kết quả ra sao
 Ý nghĩa cả câu: Để đi đến thành công, đạt được mục tiêu trong
cuộc sống mỗi cá nhân cần có ý chí, bản lĩnh, bình thản chấp nhận
thất bại, quyết tâm không nản chí lùi bước.
- Bàn luận được về vai trò, giá trị của ý chí, nghị lực, lòng kiên trì,
biết chấp nhận thất bại trên con đường vươn đến mục tiêu trong
cuộc sống.
- Rút ra được bài học cho bản thân.
d. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, có suy nghĩ riêng sâu sắc về vấn đề nghị 0.25
luận nhưng cần phù hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp luật.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt. 0.25
2 * Đặt vấn đề:

- Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như
khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

- Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về
cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô
cùng tươi đẹp:

Ta về, mình có nhớ ta

....

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

* Triển khai:

- Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

+ Tác giả sử dụng điệp ngừ hai lần ta về. Cùng một thời điểm chia tay
nhưng ở trên là hỏi người, ở dưới là giãi bày lòng mình. Cặp từ ta, mình
được xưng hô như cách đối đáp giao duyên của trai gái trong ca dao, dân
ca khiến cho cuộc chia tay của người cán bộ và Việt Bắc thành cuộc giã
bạn của lứa đôi. Ta là người cán bộ kháng chiến, mình là nhân dân Việt
Bắc đang lưu luyến chia tay. Câu hỏi tu từ mình có nhớ ta thể hiện sự lưu
luyến của người đi, kẻ ở.

+ Nhớ hoa là nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng làm đắm say lòng người.
Nhớ người là nhớ người dân Việt Bắc từng cưu mang, gắn bó, đồng cam
cộng khổ với cán bộ cách mạng.

- Bức tranh mùa đông:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

+ Hoa chuối rừng đỏ như son nổi bật trên nền xanh bạt ngàn của lá. Sự
tương phản của hai màu xanh, đỏ làm cho núi rừng bớt hoang vu, lạnh
lẽo mà trở nên ấm áp hơn. Hoa chuối là bông hoa có thật chứ không mông
mênh chóng tàn như những loài hoa khác.

+ Vượt qua mùa đông lạnh giá, con người lên nương, lên rừng. Nghệ thuật
đảo ngữ nắng ánh (động từ) là các luồng sáng của nắng chói lên bởi sự
phản quang của lưỡi dao rừng thắt trên lưng người dân khi họ đi khai thác
lâm, thổ sản. Đó là cái đẹp rất đời thường, rất giản dị của người lao động.

- Bức tranh mùa xuân:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

+ Hoa mơ tinh khôi, thanh khiết phủ trắng cả cánh rừng, gợi cảm giác
choáng ngợp trước cảnh thơ mộng. Âm điệu mạnh mẽ của hai chữ trắng
rừng bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc của con người. Một bài thơ
khác, Tố Hữu cũng viết rất hay về mùa xuân của núi rừng Việt Bắc:

Ôi sáng xuân nay xuân, xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.

Bác về nín lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

(Xuân 41)

+ Hình ảnh người lao động chuốt từng sợi giang rất nhịp nhàng, khoan
thai. Động từ chuốt là làm cho thật nhẵn sợi giang để đan nón. Hai từ
chuốt và từng gợi tả đức tính cẩn thận, tỉ mỉ, chịu thương chịu khó của
người đan nón. Họ làm ra sản phẩm để phục vụ cho lao động và còn để
tặng cán bộ kháng chiến.

- Bức tranh mùa hạ:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

+ Câu thơ sáu chữ xôn xao cả màu sắc lẫn âm thanh. Khi tiếng ve râm
ran, cả một rừng phách như hối hả, nhanh chóng thay màu, cùng đồng
loạt đổ vàng. Hai động từ kêu và đổ thể hiện không khí rạo rực rất đặc
trưng của mùa hạ. Đổ vàng là ngả vàng hàng loạt hoặc là cây trút lá vàng.
Hai câu thơ gợi nhắc ý thơ của Xuân Diệu:

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.

(Trích Thơ duyên)

+ Hình ảnh người lao động: Cô gái đi hái măng, khơi dậy trong ta những
rung động ngọt ngào, sâu lắng. Đọc câu thơ, ta nghe như có tiếng nhạc
ngân nga bởi nghệ thuật gieo vần lưng (gái, hái) và điệp phụ âm đầu m
(măng, một, mình). Cô gái say sưa lao động trong một không gian vui
tươi, trong trẻo. Sự hiện diện của cô gái càng tăng thêm nét duyên dáng,
trẻ trung cho bức tranh mùa hạ.

- Bức tranh mùa thu:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

+ Ánh trăng vàng êm dịu trải dài lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình,
yên ả. Từ hòa bình vừa khẳng định cuộc sống êm đềm, vừa nói đến sự
thanh tĩnh của rừng khuy. Đêm trăng thu huyền ảo nơi núi rừng Việt Bắc
thấp thoáng ước mơ thầm kính về cuộc sống thanh bình êm ả.

+ Trên cái nền gợi cảm ấy văng vẳng tiếng hát ân tình thủy chung của ai
đó nghe thật bâng khuâng, xao xuyến. Tiếng hát ấy chính là tấm lòng của
người Việt Bắc, dù nghèo khó nhưng suốt đời thủy chung với cách mạng.

- Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh
có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa
âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu
xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ,
vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người
hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.

* Đánh giá:

- Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn
thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua
bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô
điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động
và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết
tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

- Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất, tài hoa nhất
trong bài Việt Bắc. Nó góp phần làm cho bài thơ xứng đáng là viên ngọc
sáng long lanh trong kho tàng văn học hiện đại Việt Nam.
ĐÁP ÁN – ĐỀ 9
Phần I Nội dung Điểm
(Đọc hiểu)
Câu 1 Tác giả đã chỉ ra những thái độ nào của con người đối với công việc 0,5
: thèm khát, rẻ rúng, trân trọng, mặc cảm, bình thản ,tự ti.
Câu 2 Theo tác giả, chúng ta “ không vì thèm khát vị thế cao sang này mà
rẻ rúng công việc bình thường khác” 0,5
Vì mỗi người đều có vai trò trong cuộc đời này và đều đáng được ghi
nhận.
Câu 3 - Biện pháp: Điệp( từ, ngữ, điệp cấu trúc), Liệt kê, Câu hỏi tu từ 0,5
- Hiệu quả:
+ Nhấn mạnh mỗi người có một nhiệm vụ, một vai trò khác nhau 0,5
trong xã hội và tất cả đều đáng trân trọng vì đều góp phần giúp ích
cho cuộc sống, xây dựng xã hội.
+ Tạo giọng điệu khẳng định, tăng sức thuyết phục trong bàn luận và
tạo sự liên kết câu trong đoạn văn.

Câu 4 - Đồng ý với quan điểm của tác giả 0,25


- Vì: 0,75
+ Cuộc sống luôn vận động và phát triển đòi hỏi con người phải có ý
thức sống tích cực (sống có mục đích, lí tưởng,…), cố găng, vươn
lên từng ngày.
+ Phải quyết tâm, tâm huyết với nghề mình đã chọn, nỗ lực không
ngừng để đạt được thành quả cao nhất, đạt đến đỉnh cao của nghề.
+ Vươn lên trong cuộc sống để khẳng định giá trị bản thân, hoàn
thành vai trò trách nhiệm công dân trong việc xây dựng và phát triển
đất nước.
PHẦN 2:
Câu 1 Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 100 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị
hiểu về việc theo đuổi ước mơ.
* Về hình thức yêu cầu
- Viết đúng cấu trúc một đoạn văn NLXH , khoảng 100 chữ.
- Vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận đã học.
- Lập luận chặt chẽ, lý lẽ xác đáng, có dẫn chứng thuyết phục
- Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt
câu,...
* Về nội dung, đoạn văn cần thể hiện được những ý cơ bản sau:
- Uớc mơ là gì ? 0.5
- Vai trò, ý nghĩa của ước mơ trong cuộc sống con người. 0.5
- Làm thế nào để biến ước mơ thành hiện thực 0.5
- Rút ra bài học cho bản thân. 0.5
* Đặt vấn đề:

- Tố Hữu là một trong những là cờ đầu của nền văn học cách mạng Việt
Nam. Con đường thơ của Tố Hữu gắn bó và phản ánh chân thật những chặn
đường cách mạng đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh
quang của dân tộc Đồng thời cũng là những chặng đường vận động quan
điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.

- Bài Việt Bắc trong tập thơ cùng tên là một trong những bài thơ hay nhất
của Tố Hữu, của thơ ca Việt Nam. Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và
nghệ thuật mà tiêu biểu là đoạn thơ sau :
Nhớ khi giặc đánh giặc lùng

Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà.

* Triển khai:

- Đứng trước gian khổ khó khăn, ý chí quật cường và tinh thần đoàn kết của
dân tộc ta được nhân lên gấp bội. Theo dòng hồi tưởng của nhà thơ, ta như
được chứng kiến sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng
chiến trường kì chống thực dân Pháp với bao chiến thắng lẫy lừng:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng


Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù.

+ Nhớ những lần giặc càn quét săn lùng, chúng như bầy dã thú khát máu,
tìm mọi cách khủng bố, đàn áp nhân dân ta, để lại bao oán hận.

+ Nghệ thuật nhân hóa đã làm sinh động hơn hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc.
Thiên nhiên cũng như con người Việt Bắc kiên cường, anh dũng. Đoạn thơ
trên, tác giả đã làm rõ sứ mệnh của rừng núi che bộ đội, vây quân thù.

+ Các điệp từ rừng, núi và nghệ thuật đối lập che bộ đội, vây quân thù càng
làm nổi bật vai trò của những cánh rừng trùng điệp, nhấn mạnh một trong
ba yếu tố vô cùng quan trọng trong cuộc chiến: thiên thời, đại lợi, nhân hòa.
Việt Bắc quả là một vùng đại linh quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho ta
đánh giặc:
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

- Cả núi rừng Việt Bắc cùng nhịp đập trái tim quyết hoàn thành sứ mệnh
bảo vệ quê hương đất nước mến yêu.

+ Cụm từ cả chiến khu một lòng cho thấy rõ sự đồng tâm hiệp lực của quân
dân ta, sự nhất trí cao độ của ý Đảng, lòng dân. Đó cũa là bí quyết thành
công của ta trong kháng chiến.

- Chính sức mạnh đoàn kết và ý chí quyết tâm đã giúp quân dân VB lập nên
những chiến công vang dội:

Ai về ai có nhớ không ?
Ta về ta nhớ phủ Thông đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.

+ Hàng loạt những địa danh gắn với thắng lợi vinh quang: phủ Thông, đèo
Giàng, sông Lô, phố Ràng,..Đó là chiến công ngập tràn không gian, trải dài
theo nỗi nhớ.

+ Câu hỏi tu từ Ai về ai có nhớ không ? nghe đậm đà âm hưởng ca dao. Hỏi


mà như khẳng định: người ra đi làm sao quên được những trận đánh, những
chiến công. Bởi trong vinh quang còn bao đau thương phải trả giá bằng máu
xương của đồng đội. Nhớ về chiến công cũng là nhớ về những người đã ngã
xuống để mà tự hào, để mà nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình trong
hiện tại.

- Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu.
Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang
âm điệu ngọt ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảh cùng địa danh
của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến
sĩ - thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình.

* Đánh giá:

- Bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, qua nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi
đã mang lại cho đọc giả không khí nóng hổi từ những cuộc kháng chiến
đỉnh điểm của dân tộc ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Đoạn thơ cũng khắc họa được hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc trù phú, giữ
dội nhưng cũng rất lãng mạn. Đồng thời thể hiện niềm tin vào chiến thắng
cuối cùng của quân và dân ta và khẳng định một điều: Việt Bắc chính là cái
nôi, nuôi dưỡng cách mạng.
ĐÁP ÁN – ĐỀ 10
Phần Câu Ý/ Nội dung Điểm
1 Câu nêu ý khái quát của đoạn trích: Đọc sách văn học thực sự giúp 0,5
con người trở nên thông minh và tốt tính hơn.
2 Tham khảo cách trả lời sau: Ý kiến đó nhấn mạnh tầm quan trọng của 0,5
việc chú tâm “đọc một nội dung sâu sắc” giống như “người ta cần bảo
tồn những công trình lịch sử hay những tác phẩm nghệ thuật quý giá”
vì: những tác phẩm và công trình ấy cần công phu, cẩn trọng, tỉ mỉ,…
Việc “chú tâm đọc một nội dung sâu sắc” cũng phải như vậy: giúp
người ta có khả năng thấu hiểu, cảm thông, và nhìn nhận sự việc từ
nhiều góc độ.
3 Có thể nói Việc thiếu đi thói quen đọc nghiêm túc sẽ gây ảnh hưởng 1.0
tới sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của những thế hệ “sống trên mạng”
Đọc - vì: không đọc nghiêm túc người ta sẽ không có khả năng thấu hiểu,
hiểu cảm thông, nhìn nhận sự việc từ nhiều góc độ. Việc đọc “mì ăn liền”
của chúng ta khi lướt qua các trang mạng hiện nay đang gây ảnh hưởng
tới sự phát triển trí tuệ và cảm xúc của chúng ta.

4 Tham khảo 2 bài học: 1.0


 Cần hình thành thói quen thường xuyên đọc sách văn học và cổ
vũ mọi người đọc sách văn học để trở nên thông minh và tốt tính
hơn. Mặt khác góp phần làm cho những lối sống đẹp, những giá
trị nhân văn được nhân rộng lên.
 Cần rèn luyện thói quen chú tâm “đọc một nội dung sâu sắc” để
trở thành người có khả năng thấu cảm tốt, không nên đọc theo
kiểu “mì ăn liền”.
* Đặt vấn đề:

- Việt Bắc là bài thơ được Tố Hữu sáng tác sau khỉ cuộc kháng chiến chống
Pháp đã kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điện Biên Phủ vang dội, chấn
động địa cầu. Có thể coi Việt Bắc là một bản tổng kết về một giai đoạn lịch
sử bằng thơ, tái hiện lại hiện thực đau thương và oanh liệt của cuộc kháng
chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược bảo vệ chủ quyền độc lập tự
do của dân tộc Việt Nam.

- Đoạn trích dưới đây là bức tranh sống động, hào hùng về khí thế tiến công
như vũ bão của quân dân ta:

Những đường Việt Bắc của ta


Vui lên Việt Bắc, đèo De núi Hồng.

* Triển khai:

- Cả núi rừng đất trời vang dậy trong bước hành quân. Cả nước ta đang
chuyển sang giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Hàng vạn người ra trận,
từng đoàn bộ đội, dân công đi như sóng cuộn, rung chuyển cả núi rừng, đêm
đốt đuốc sáng rừng:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

+ Một loạt điệp từ, điệp âm, điệp vần và từ láy: đêm đêm, rầm rập, điệp
điệp, trùng trùng miêu tả cảnh hành quân thật sinh động, khiến người đọc
cảm thấy hối hả, luân chuyển không ngừng của những đoàn quân ra trận dài,
dài mãi dường như không dứt. Âm hưởng thơ thật hào hùng.

+ Hình ảnh thơ chân thực, đậm chất lãng mạn: Ánh sao đầu súng bạn cùng
mũ nan.

- Cùng với đoàn chiến binh còn có bao đoàn dân công xung phong ra tuyến
lửa:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

+ Nghệ thuật đảo ngữ và điệp phụ âm đ (đỏ, đuốc) tạo âm hưởng mạnh mẽ,
vững vàng. Nhịp thơ 2/2 như nhịp bước hành quân sôi nổi, háo hức. Lối nói
quá khắc họa sức mạnh của con người được nhân lên gấp bội: Bước chân
nát đá muôn tàn lửa bay. Nghệ thuật đối lập: Nghìn đêm thăm thẳm và đèn
pha bật sáng và nghệ thuật so sánh như ngày mai lên thể hiện tinh thần lạc
quan, khí thế hào hùng của quân dân Việt Bắc.
- Sự hào hùng ấy biểu hiện rõ trên con đường Việt Bắc trải dài bất tận, có
sự hoà hợp tiếp nối của mọi lực lượng từ bộ đội du kích dân công đến những
đoàn xe vận tải. Con đường đi đến tiền tuyến là con đường đến chiến thắng:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp An Khê,

Vui lên Việt Bắc, đèo De núi Hồng.

- Trong bốn câu thơ, tác giả đã liệt kê một loạt 8 địa danh, kết hợp với điệp
từ vui, nhịp thơ nhanh, mạnh, dồn dập bộc lộ một cách sâu sắc niềm sung
sướng về chiến thắng của dân tộc. Chiến thắng ấy trải dài khắp mọi miền
Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn thể dân tộc ta.

- Đoạn thơ 12 câu diễn tả khí thế hào hùng sục sôi của Việt Bắc kháng chiến.
Đoạn thơ có âm điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình ảnh
phóng đại, tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.

* Đánh giá:

- Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng,
thật sôi nổi, hào hùng, thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này đã thể
hiện nổi bật khí thế hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến
chống Pháp ở Việt Bắc.

- Đoạn thơ tái hiện lại quá trình phát triển lực lượng của dân ta trong kháng
chiến, từ những chiến công nhỏ đến những chiến thắng lớn hơn, dồn dập
hơn, vang dội hơn. Đó là nỗi nhớ sâu sắc, là niềm tự hào lớn lao của nhà
thơ.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 11

Phần Câu Đáp án - Hướng dẫn chấm


Đọc- 1 Đề tài: Vai trò, tầm quan trọng của thời gian với cuộc sống của con người
Hiểu hiện đại.
2 Đoạn văn trình bày theo cách: diễn dịch
3 Dẫn chứng: Chưa đầy một giờ, công nghệ Nhật Bản đã có thể sản xuất một
tấn thép; con tàu tốc hành của các nước phát triển trong vài giờ đã có thể
vượt qua được vài ngàn kilomet
4 Tác giả viết như vậy bởi:
- Giải trí giúp chúng ta cân bằng lại cuộc sống, cân bằng lại tâm trạng sau
những giờ lao động mệt nhọc, lấy lại tinh thần và thể chất để tiếp tục công
việc.
- Còn chơi bời là sự ăn chơi quá mức, không lo đến tương lai, công việc, để
thời gian trôi đi một cách vô nghĩa.
Bởi vậy, giải trí trong một thời gian nhất định sẽ giúp ta làm việc tốt hơn,
còn chơi bời là tiêu tốn thời gian một cách vô ích nên sẽ làm hại đên tương
lai bản thân và đất nước.
Làm 1 * Yêu cầu về kĩ năng:
văn - Viết đúng 1 đoạn văn khoảng 200 chữ.
- Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
- Hiểu đúng yêu cầu của đề, có kĩ năng viết đoạn văn nghị luận, vận dụng
tốt các thao tác lập luận trong một đoạn văn. Thí sinh có thể làm bài theo
nhiều cách khác nhau, có thể bày tỏ quan điểm, suy nghĩ riêng nhưng phải
có lí lẽ và căn cứ xác đáng; có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp với
chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
* Yêu cầu về kiến thức:
- Giải thích:
+ Tương lai: là những diễn biến, sự kiện diễn ra ở phía trước, cái mà không
thể đoán trước, biết trước được.
+ Hiện tại: là thời điểm này, lúc này, là không gian và thời gian mà chúng
ta đang hít thở, đang sống.
Vậy tại sao nói Tương lai được mua bằng hiện tại ?
Bởi: * Cuộc sống của chúng ta không phải ngẫu nhiên mà có, cứ vậy mà
diễn ra mà nó là cả một quá trình, là mối quan hệ nhân - quả.
* Tương lai ngày mai sẽ là kết quả của những cố gắng, nỗ lực của
chúng ta trong cuộc sống hiện tại.
=> Câu nói hoàn toàn chính xác: chỉ khi chúng ta cố gắng, nỗ lực ở hiện tại
thì kết quả mới tốt đẹp ở tương lai.
- Bình luận:
+ Bất cứ một kết quả nào cũng là hệ quả của một quá trình mà trong đó sự
chuẩn bị là điều quan trọng nhất. Nếu chúng ta không hành động - không
học tập, không lao động, không rèn luyện thì tương lai chúng ta không có
gì cả.
+ Để không lãng phí thời gian, chuẩn bị tốt cho tương lai chúng ta cần:
. Phân bố thời gian hợp lí giữa việc học tập và giải trí.
. Có mục tiêu cụ thể, rõ ràng cho mỗi giai đoạn và hoàn thành được các
mục tiêu đó.
. Có ý chí quyết tâm thực hiện, không ngại khó, ngại khổ.
+ Phê phán lối sống lãng phí thời gian, chơi bời vô bổ, không có mục tiêu
của nhiều bạn trẻ hiện nay.
- Liên hệ và rút ra bài học cho bản thân: Để có một tương lai tươi sáng,
ngay từ hôm nay các bạn trẻ cần phải biết quý trọng thời gian, lao động,
làm việc hăng say, tích lũy kinh nghiệm, trau dồi tri thức.
* Đặt vấn đề:

- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước. Đất nước,
nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. Đất Nước
là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca Mặt đường khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Chín câu thơ đầu của đọan thơ :

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi



Đất Nước có từ ngày đó.
là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất
Nước qua những hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm sôi nổi và thiết tha.
2
* Triển khai:

- Tòan đọan thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức
liên tưởng…, nhà thơ giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội
nguồn và sự hình thành của Đất Nước một cách sâu sắc.
- Trước hết, ở hai câu thơ đầu của đọan thơ, Tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh
thành của Đất Nước. Đất Nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà
thơ đã viết :

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi,


Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay
kể.
+ Tham vọng tính tuổi Đất Nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái ngày xửa
ngày xưa (thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm
chỉ, trừu tượng, không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang
màu sắc huyền thoại. Song chính ở cái ngày xửa ngày xưa đó, nhà thơ đã giúp
cho chúng ta nhận thức được: Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng
biết. Chỉ biết rằng: Khi ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu.

- Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của Đất Nước, nhà thơ còn nỗ lực hình
dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của Đất Nước:

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

+ Phải chăng, khởi thủy của Đất Nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và
tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Ở đây, hình ảnh miếng trầu đã là
một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện
cổ tích, ca dao, tục ngữ. Bởi lẽ, miếng trầu là hiện thân của tình yêu thương, lòng
thủy chung của tâm hồn dân tộc.

- Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành
biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ
nước.
- Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời
sống văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng
chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân:

Tóc mẹ búi sau đầu


Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…
+ Đọan thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng, nhà thơ đã đưa người đọc trở
về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình
ảnh tóc mẹ búi sau đầu, gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt;
và những câu ca dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ
chồng cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Không những vậy, hình
ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về Đất Nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp
lúa nước.
- Có thể nói, đọan thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước - một câu
hỏi quen thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất
mới lạ: Nhà thơ không tạo ra khoảng cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi Đất
Nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ, mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý
giải, mà dùng cách nói rất đỗi giản dị, tự nhiên với những gì gần gũi, thân thiết,
bình dị nhất.
Gịong thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp: Đất nước đã
có; Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc
hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian
trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết
hoa hai từ Đất Nước (vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình
yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về đất nước, quê hương của mình.

* Đánh giá:

- Chín câu thơ mở đầu cho đọan trích Đất Nước đã thật sự để lại những ấn tượng
và cảm xúc sâu sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của đất nước.
Bởi lẽ, đọan thơ đã giúp cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà
còn có những nhận thức mơ hồ về đất nước mình thật sự phải suy ngẫm.

- Đọan thơ còn cho chúng ta hiểu được Đất Nước thật thân thương và gần gũi biết
nhường nào. Từ đó đọan thơ bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu đất nước,
quê hương mình và biến tình yêu ấy bằng thái độ, hành động dựng xây, bảo vệ
đất nước.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 12
Phần Câu Nội dung Điểm
I. Đọc hiểu
1 Theo tác giả, trên thế giới có quá nhiều loại sách dạy con người tương 0,5
tác và giao tiếp, dạy chúng ta làm thế nào để trở thành một “cao thủ
thuyết phục”, chuyên gia đàm phán, nhưng lại không có sách nào dạy
chúng ta làm thế nào để đối thoại với chính mình.
2 tác giả cho rằng, “biết được bản thân cần gì, bạn mới biết được người 0,5
khác cần gì”. Vì phải hiểu rõ nhu cầu của bản thân mới đủ sâu sắc
hiểu được nhu cầu của người khác. Không hiểu rõ bản thân mình sẽ
khó có sự cảm thông để hiểu người khác.
3 - Đoạn văn được trích viết về những lời độc thoại nội tâm, cũng chính 0,5
là đối thoại với chính mình của Chí Phèo.
- Sau những lời ấy, Chí Phèo bắt đầu tỉnh táo, ý thức sâu sắc về những 0,5
buồn tủi, cay cực trong cuộc đời mình.
4 HS có thể tự rút ra những thông điệp phù hợp và bình luận thông điệp 1,0
ấy. Sau đây là một số gợi ý:
- Hãy cố gắng hiểu mình sâu sắc để biết thêm yêu bản thân mình và
mọi người xung quanh.
- Đừng sống thờ ơ, vô cảm mà hãy biết cảm thông, yêu thương và thấu
hiểu người khác,....
II. Làm
văn
1 Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn về ý nghĩa của việc hiểu 2.0
mình và hiểu người.
- Yêu cầu về hình thức: Viết đúng đoạn văn nghị luận ngắn khoảng
200 từ, yêu cầu trình bày mạch lạc rõ ràng, không mắc lỗi chính tả,
dùng từ đặt câu.
- Yêu cầu về nội dung: HS có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau
nhưng cần đạt được các ý sau:
- Hiểu mình và hiểu người là biểu hiện cao của trí tuệ. 0,5
+ Hiểu mình là biết rõ những ưu điểm, nhược điểm của mình, hiểu rõ
những điều gì là mình thực sự yêu thích và mong muốn cũng như
những điều khiến mình không hài lòng trong cuôc sống.
+ Hiểu người là phát hiện chính xác nhu cầu, mục đích, nỗi lo lắng,
niềm hi vọng, cách nhìn thế giới, các mối quan tâm, hiện trạng cảm
xúc của người đó.
- Hiểu mình và hiểu người là một trong những điều kiện quan trọng 0,75
giúp chúng ta biết cách ứng xử và giải quyết các vấn đề trong cuộc
sống. Hiểu người để rồi đáp ứng người, thì kết quả là người cũng sẽ
đáp ứng lại mọi điều ta mong muốn. Nếu không hiểu mình và hiểu
người thì mội suy nghĩ của ta chỉ là áp đặt hoặc hời hợt, mọi vấn đề
gặp phải đều khó giải quyết thấu đáo. Hiểu mình để có cái nhìn cảm
thông người khác và hiểu được tất cả những điều người khác nghĩ.
- Phê phán những người sống ích kỉ, hời hợt, vô tâm không hiểu mình 0,25
mà cũng không hiểu người, sống lạnh nhạt với mọi vấn đề của cuộc
sống.
- Bài học: Nhìn nhận lại bản thân một cách nghiêm túc đề thấy ưu, 0,5
khuyết điểm của mình, hiểu rõ ước mơ khát vọng của bản thân. Hãy
tập để ý quan tâm đến mọi người mình gặp gỡ thường ngày trong cuộc
sống, trong công việc, lắng nghe những điều họ nói, quan sát những
điều họ làm,...
* Đặt vấn đề:

- Hiện thực khốc liệt lịch sử năm 1945-1975 khiến dòng văn học sản sinh
ra nhiều hình tượng giàu tính thẩm mĩ: Hình tượng người lính, hình tượng
mẹ, hình tượng đất nước... Trong đó hình tượng đất nước là một trong
những hình tượng nổi bật nhất trong giai đoạn mang tính lịch sử này.

- Tác phẩm Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mang đậm đà phong
vị dân gian gắn với cội nguồn văn hóa của dân tộc, cùng tỏa sáng tình yêu
và niềm tự hào đối với đât nước. Đoạn trích dưới đây là một trong những
đoạn trích hay nhất của chương Mặt đường khát vọng viết năm 1971 nhằm
khơi dậy, cổ động thế hệ trẻ niềm tin yêu về Tổ Quốc Việt thân thương:

Đất là nơi anh đến trường


Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

* Triển khai:

- Đoạn trích Đất Nước thâu tóm ý nghĩa của cả chương V, sự cảm nhận về
Đất Nước một cách toàn diện, cụ thể, sâu sắc, cốt lõi là tư tưởng Đất Nước
của Nhân Dân. Từ đó nhà thơ bộc lộ lòng yêu quý, niềm tự hào, sự gắn bó
và trách nhiệm với đất nước thân yêu, Tư tưởng chủ đạo này đã được
Nguyễn Khoa Điềm triển khai ở nhiều bình diện: địa lý, lịch sử, văn hóa và
thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ
đậm đà giàu sắc thái dân gian nhưng đặc biệt gợi cảm, để lại ấn tượng rất
sâu sắc trong lòng bạn đọc.
- Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với người con gái yêu thương. Nhà
thơ định nghĩa Đất Nước, Đất Nước là gì theo cách riêng của mình, theo
cách đặc biệt của thơ. Và ở đoạn thơ tiếp theo. Vận dụng tính đơn lập của
tiếng việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tách từ Đất nước thành hai thành tố Đất
và Nước để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm Đất Nước trừu
tượng thành cụ thể sinh động, gợi cảm:

Đất là nơi anh đến trường


Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi hai ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

+ Ý thơ ở đây rất mới mẻ cụ thể. Đất Nước đã trở thành rất gần gũi thân
thương, gắn bó với mỗi người. Thân thương như trường ta học, như dòng
sông em tắm, như góc phố đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa bến nước nơi
lứa đôi hò hẹn. Một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất
riêng tư, nhưng cũng đây hồn quê hương xứ sở. Đất Nước còn thân thương
như câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên từ mỗi xóm làng:

Khăn thương nhớ ai


Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai.

- Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say xưa lý giải:

Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biết khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ

+ Lấy ý từ những câu dân ca Huế mượt mà, câu thơ đưa người đọc về với
không gian Đất Nước thân thương, những từ núi bạc biển khơi mang âm
hưởng thành ngữ dân gian gợi ra một đất nước mênh mông giàu đẹp. Sự
mênh mông giàu đẹp đó không tự nhiên mà có được thời gian đằng đẵng,
dài lâu, liên tục, bền bỉ, mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt, cả máu
nữa, để xây dựng bảo vệ bề cõi đất nước, thành giải đất chữ S cho dân mình
đoàn tụ, đoàn tụ trong yêu thương tự hào.

- Tự hào bởi:

Đất là nơi Chim về


Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.

+ Ở đoạn thơ này, những hình tượng quen thuộc trong thần thoại truyền
thuyết như Chim Rồng, lạc Long Quân, Âu Cơ bọc trăm trứng cùng tụ về
trong sự liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái
quát cao: Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, trai tài gái sắc. Đất Nước ta là
nơi đất lành Chim về, đất thiêng Rồng ở, dân tộc Việt là anh em một nhà,
cùng sinh ra từ bọc trăm trứng cảu cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.

+ Một đất nước có cội nguồn văn hóa, có truyền thống lâu đời, rất đỗi thân
thương và tự hào như thế, chính là Đất Nước của Nhân Dân.

+ Đất nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan
trìu tượng mà tươi sáng cảm xúc Đất Nước gắn liền với đời sống, số phận
của từng cá nhân ở mọi phương diện: Lịch sử, địa lý, văn hóa.

- Đất Nước còn là sự kết tinh, thống nhất sâu sắc những giá trị tinh thần từ
quá khứ:

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

+ Những ai đã khuất, đến hiện tại những ai bây giờ và tương lai yêu nhau
và sinh con đẻ cái. Đặc biệt, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều gắn bó với Đất
Nước. Nhất là trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh
quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề
mà ông cha ta giao lại vừa phải dặn gò con cháu chuyện mai sau một cách
ân cần chu đáo để cách thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa Đất Nước đi xa đến một
chân trời hòa bình hạnh phúc, ấm no giàu mạnh. Đó là mơ mộng, là ước mơ
khát vọng của thời đại nhà thơ, nhưng lại là hiện thực tất yếu của tương lai.
Ước mơ ấy ngày nay đã thành sự thực. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin
giữa những ngày đánh Mỹ của nhà thơ, của ông cha ta.

- Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu,
nhưng trong thẳm sâu tâm hồn của mỗi chúng ta, đều mang trong mình
dòng máu Việt. Những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với
Đất Nước, lại trỗi dậy nồng nàn:

Hằng năm ăn đâu làm đâu,


Cũng biết cúi đầu nhớ về những ngày giỗ Tổ.

+ Hai dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã mượn ý tứ của câu ca dao xưa:

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười

+ Chỉ một câu ca dao cũng đủ nói lên sự gắn bó máu thịt của người Việt
với quê hương đất nước. Dù có bộn bề công việc, dù có ngược xuôi nơi nào,
họ cũng luôn hướng vè cội nguồn, miền đất tổ linh thiêng đã trở thành biểu
tượng, thành linh hồn của đất nước. Hai chữ cúi đầu đầy thể hiện tấm lòng
thành kính của nhàn thơ với Đất Nước thương yêu.

- Bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian, nhà
thơ đã lý giải một cách sinh động, cụ thể cho câu hỏi: Đất Nước là gì? Từ
đó, hình ảnh Đất Nước hiện lên qua đọan thơ vừa gần gũi - cụ thể, vừa
thiêng liêng- khái quát trên cả bề rộng không gian địa lý mênh mông và thời
gian lịch sử đằng đẵng của dân tộc.

* Đánh giá:

- Có thể nói, đọan thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước
từ chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến
chiều rộng của không gian đất nước.

- Nhà thơ vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian để cảm nhận và
định nghĩa về đất. Từ đó, đọan thơ giúp cho chúng ta hiểu và gắn bó hơn
với đất nước, quê hương mình bằng một tình yêu và ý thức trách nhiệm sâu
sắc.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 13
PHẦN HƯỚNG DẪN CHẤM

PHẦN Câu 1: Theo tác giả, phẩm chất cốt lõi của một "công dân toàn cầu" là biết yêu
I: thương và luôn tìm cách cải biến thế gian này.
ĐỌC -
HIỂU Câu 2: HS có thể chỉ ra và nêu tác dụng của một trong các phép tu từ sau:
- Phép so sánh (Có bao giờ chúng ta yêu thế gian này như yêu ngôi nhà có bếp
lửa ấm áp của mình không? Có bao giờ chúng ta yêu nhân loại như yêu một
người máu thịt của mình không?) khiến cho câu văn giàu cảm xúc, hình ảnh, tạo
sự gần gũi, thân mật khi đề cập đến một vấn đề thoạt nghe rất cao siêu: tình yêu
thế gian, yêu nhân loại.
- Phép điệp cấu trúc câu (Có bao giờ chúng ta yêu thế gian này như yêu ngôi
nhà có bếp lửa ấm áp của mình không? Có bao giờ chúng ta yêu nhân loại như
yêu một người máu thịt của mình không?; Khi bạn yêu một cái cây bên cạnh
bạn thì bạn yêu mọi cái cây trên thế gian. Khi bạn yêu thương một con người
bên cạnh thì bạn yêu cả nhân loại. Và khi tất cả những con người dù bé nhỏ đến
đâu yêu thương người bên cạnh thì tình thương yêu ấy sẽ ngập tràn thế gian
này.) có tác dụng liên kết và nhấn mạnh ý nghĩa, tác dụng của tình yêu thương,
tạo nên giọng điệu nghị luận đầy nhiệt huyết.
- Sử dụng câu hỏi tu từ (Có bao giờ chúng ta yêu thế gian này như yêu ngôi nhà
có bếp lửa ấm áp của mình không? Có bao giờ chúng ta yêu nhân loại như yêu
một người máu thịt của mình không?) tác động mạnh mẽ đến tình cảm và lí trí
của người đọc. .

Câu 3: Bàn về "bản chất duy nhất của công dân toàn cầu", tác giả sử dụng thao
tác lập luận bác bỏ: nêu ý kiến cho rằng yêu thương nhân loại là một ước mơ
hay nhân cách hão huyền, rằng mỗi người chỉ là một sinh linh bé nhỏ làm sao có
thể yêu thương và che chở cả thế gian rộng lớn, sau đó đưa ra lí lẽ để lật lại vấn
đề. Điều này khiến cho lập luận trở nên thuyết phục, sắc bén, hấp dẫn.
Câu 4: HS có thể nêu một trong các cách định nghĩa dưới đây:
- Công dân toàn cầu là những người sống, làm việc ở nhiều quốc gia khác nhau,
có thể có một hoặc nhiều quốc tịch.
- Công dân toàn cầu là công dân có kiến thức nền tảng về các vấn đề văn hoá
nhân loại, có thể giao lưu, học tập, làm việc tại bất cứ quốc gia nào; có khả năng
hoà nhập với những người dân trên khắp thế giới; có năng lực giải quyết những
vấn đề chung của toàn nhân loại: bảo vệ môi trường, chống chiến tranh, đẩy lùi
dịch bệnh,...
- Công dân toàn cầu là người coi những vấn đề của nhân loại là vấn đề của dân
tộc mình, của cá nhân mình và biết suy nghĩ, hành động vì một thế giới tốt đẹp
hơn,...
Câu 1 (2,0 điểm)
- Yêu cầu chung
LÀM + Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau song cần bám sát vào quan
VĂN niệm sống được thể hiện qua hai câu thơ ở phần Đọc – hiểu, từ đó bày tỏ quan
điểm, suy nghĩ của mình về quan điểm sống đó.
+ Đảm bảo bố cục một đoạn văn nghị luận: có đủ các phần mở đoạn , thân đoạn ,
kết đoạn. Mở đoạn nêu được vấn đề, thân đoạn triển khai được vấn đề, kết đoạn
kết luận được vấn đề.
- Yêu cầu về kiến thức:Có thể có những quan điểm khác nhau nhưng phải phù hợp
với chuẩn mực đạo đức, lẽ phải.
- Giải thích "công dân toàn cầu" là gì.
- Để trở thành "công dân toàn cầu", con người cần phải làm gì?
+ Xây dựng nền tảng tri thức phổ thông cơ bản, vững chắc;
+ Có những hiểu biết về các nền văn hoá khác nhau trên thế giới; có những kĩ
năng thiết yếu như kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc
nhóm, kĩ năng tự học, sáng tạo,... trong đó năng lực tiéng Anh, năng lực sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông là cực kì quan trọng.
+ Bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức mang tính cốt lõi: lòng tự trọng, tự tôn,
tỉnh thần yêu nước, tinh thần trách nhiệm, lòng bác ái, khát vọng thay đôi, sự
trung thực, tinh thần kỉ luật,...
- "Công dân toàn cầu" có thể hoà nhập vào thế giới phẳng nhưng vẫn giữ được
bản sắc dân tộc của mình. Đây là một thách thức lớn đối với giới trẻ trong xu
hướng hội nhập với thế giới.
- Phê phán những người vì hiểu chưa đúng về khái niệm "công dân toàn cầu" mà
sẵn sàng đánh mất bản sắc dân tộc, biểu dương những con người lao động
không mệt mỏi để cống hiến cho dân tộc, cho đất nước, cho nhân loại.
- Liên hệ bản thân
* Đặt vấn đề:

- Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có
những cảm nhận và cách thể hiện riêng. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường cảm
nhận về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay qua các triều đại phong kiến
thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, bình dị: Đất Nước của nhân dân,
của ca dao thần thoại.

- Với tư tưởng ấy nhà thơ gửi lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của
mỗi người với đất nước :

Trong anh và em hôm nay



Làm nên Đất Nước muôn đời.

* Triển khai:
- Sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương
diện không gian- địa lý,thời gian- lịch sử, phong tục- văn hóa …, Nguyễn Khoa Điềm
đã đi đến khẳng định :

Trong anh và em hôm nay,


Đều có một phần Đất Nước.

+ Đây là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy. Đất Nước đã hóa
thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn
lên trên đất nước này. Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị
vật chất, tinh thần của Đất Nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm, nếp nghĩ và cách
sống của mình.

- Từ việc khẳng định: Đất Nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người,
nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với Đất Nước bằng
những dòng thơ giàu chất chính luận :

Khi hai đứa cầm tay


Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn.

+ Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung,
giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ hài hòa, nồng thắm,
vẹn tròn, to lớn đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn
từ (Khi /Khi; Đất Nước / Đất Nước), nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông
điệp: Đất Nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa
cá nhân với cộng đồng.

- Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất Nước và nhân dân, giữa tình yêu
cá nhân với tình yêu lớn của Đất Nước, nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào
tương lai tươi sáng của Đất Nước :

Mai này con ta lớn lên


Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.
+ Ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai
tươi sáng của đất nước.Thế hệ sau con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa/ Đến những
tháng ngày mơ mộng. Đất Nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ
trở thành hiện thực ở ngày mai.
- Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của Đất Nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi
người :

Em ơi em Đất nước là máu xương của mình


Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…

+ Bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận, bằng cách sử dụng câu cầu khiến,
điệp ngữ phải biết - phải biết nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh gắn bó, san sẻ,
hóa thân … nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người ( nhất
là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với Đất Nước. Cái hay là lời nhắn
nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như
lời tự dặn mình - dặn người của nhà thơ.

- Đoạn thơ trên, nhà thơ đã thể hiện những suy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng
một giọng trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyện về đất nước đối với mỗi người luôn là câu
chuyện của trái tim, vừa thiêng liêng, cao cả, cũng vừa gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ
và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dân tộc, hẳn người ta phải biết làm gì cho Tổ
quốc, giang sơn.

* Đánh giá:

- Đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm. Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa
mỗi người với Đất Nước.

- Từ đó, chúng ta ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương.
Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình- chính
luận của nhà thơ.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 14
PHẦ HƯỚNG DẪN CHẤM THAN
N G
ĐIỂM
PHẦ - HS chỉ ra 2 trong các biện pháp tu từ sau: Liệt kê, điệp cấu trúc, hoặc nhân 0.50
N I: hóa...
ĐỌC Ngọn nến thứ nhất cho rằng mình quan trọng bởi nó là hiện thân của hòa 0,25
- bình.
HIỂ - Hòa bình là một nơi không có chiến tranh và chết chóc, nơi mọi người gắn
U bó với nhau cùng giúp đỡ nhau phát triển vì sự phồn vinh và hạnh phúc của 0,25
nhân loại.
- Hòa bình sẽ mang lại cuộc sống và hạnh phúc cho mỗi người, mỗi gia đình
và xã hội. Khi con người được sống trong cảm giác yêu thương, hòa ái, an 0,25
lạc, vô ưu sẽ tạo nên động lực mạnh mẽ cho con người sống, học tập và lao
động cống hiến hết mình cho sự phát triển chung của nhân loại.
- Nếu không có hòa bình con người phải sống trong đau thương, đói nghèo,
bệnh tật, chia li chết chóc…
Ngọn nến thứ hai cho rằng mình quan trọng bởi nó là hiện thân của lòng
trung thành.
- Trung thành là phẩm chất tốt đẹp cần có ở tất cả mọi người bởi đó là lối 0,5
sống trước sau như một, một lòng một dạ, giữ trọn niềm tin và tình cảm gắn
bó không thay đổi trước bất kì hoàn cảnh nào trong quan hệ giữa người với 0,25
người.
- Trung thành sẽ tạo dựng được niềm tin, sự tín nhiệm của mọi người và vun
đắp các mối quan hệ ngày càng bền chặt, trở nên tốt đẹp hơn.
(HS có thể rút ra những thông điệp khác nhau nhưng phải có căn cứ và
thuyết phục)
Yêu cầu
- Gọi tên thông điệp 0,25
- Lý giải thuyết phục
Sau đây là 1 số gợi ý: Thông điệp về hòa bình, về lòng trung thành, về tình 0,75
yêu, về niềm hy vọng trong cuộc sống.
Viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về câu hỏi: Hãy 2.0
thử xem cuộc sống sẽ như thế nào nếu thiếu đi tình yêu ?
a.Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn 0.25
LÀM Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo một trong các cách diễn dịch, quy
VĂN nạp, song hành hoặc tổng – phân – hợp
b.Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Giá trị, vai trò, ý nghĩa, tầm quan 0.25
trọng của tình yêu thương trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận:
- Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp, có thể triển khai vấn đề
nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của
tình yêu trong cuộc sống. Có thể triển khai theo hướng sau 0,25
- Tình yêu là tình cảm cao đẹp của con người; biết yêu thương quan tâm,
chia sẻ ... những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống.
- Nếu thiếu đi tình yêu cuộc sống sẽ 0,5
+ Trở nên nhàm tẻ và không đáng sống
+ Con người sẽ trở nên lạnh lùng và vô cảm với nhau
+ Sẽ không thấu hiểu và cảm nhận được niềm hạnh phúc khi cho và
nhận
+ Thay vì yêu thương quan tâm sẻ chia sẽ là chiến tranh chết chóc,
hận thù…
- Vì vậy con người cần yêu thương để
+ Xoa dịu và chữa lành những vết thương 0,5
+ Cảm hóa những con người lầm đường lạc lối
+ Xóa bỏ hận thù, chiến thắng cái ác và bóng tối
+ Cảm nhận được hạnh phúc khi mang đến hạnh phúc cho người khác
.
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn về chính tả và ngữ pháp tiếng Việt 0.25
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về
vấn đề nghị luận
2 * Đặt vấn đề:

- Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách mạng
để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhìn suốt
chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định: Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?.
Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh: Từ dáng
đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất/Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời: Ôi! Việt Nam từ trong biển máu/Người
vươn lên như một thiên thần. Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng,
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về Đất Nước, về nhân
dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất
nước.

- Tư tưởng Đất Nước của nhân dân là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại
Cách mạng. Đoạn trích sau đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự hoá thân của
nhân dân vào đất nước muôn đời:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

* Triển khai:

- 12 câu thơ mở đầu phần hai của đọan thơ Đất Nước với nội dung ngợi ca, khẳng
định tư tưởng đất nước của nhân dân.

+ Tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lý về những danh lam
thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liêt kê một loạt kì quan
thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ
văn hóa đất nước. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo
nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của
dân tộc. Những ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó
gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc.

+ Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu
thương thủy chung để ta có những núi Vọng Phu, những hòn Trống mái như những
biểu tượng văn hóa:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

+ Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những
ao đầm,con rồng,con cóc, con gà…như những di tích lịch sử về quá trình dựng
nước và giữ nước hào hùng:

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh.

+ Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến
thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu. Cũng như nếu không có truyền thuyết
Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi
quanh đền Hùng. Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái,
những núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa,
mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn
nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người
không tên, không tuổi.
- Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một
phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước
này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất
này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã khái quát
sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta….

+ Với cấu trúc quy nạp (đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh…đến khái quát mang
tính triết lý), dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh
và những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước.
Nên cuối cùng, nhà thơ đã khẳng định : trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa
danh đều là một địac chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc
đời, bao tâm hồn người Việt.

- Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ mở
rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu
sức biểu hiện và sức khái quát cao.

- Đó là hình ảnh Đất Nước của nhân dân - nhân dân đã hoá thành đất nước. Bởi
trên khắp ruộng đồng gò bãi, núi sông đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hoá, của
đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam.

* Đánh giá:

- Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca Mặt đường khát vọng
của Nguyễn Khoa Điềm: chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự;
ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng.
- Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm
vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc. Những nhận thức mới mẻ về vai trò
của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý - văn hóa
càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 15
PHẦN HƯỚNG DẪN CHẤM THAN
G
ĐIỂM
PHẦN I: Câu 1: HS nêu được 05 trong số các cụm từ: "đừng mất lòng 0,5
ĐỌC - tin", "đừng bỏ cuộc", "hãy cό gắng", "hãy tiếp tục", "hãy yêu
HIỂU việc mình làm", "đừng từ bỏ"...
Câu 2: HS trình bày cách hiểu của mình một cách hợp lí, 0,75
thuyết phục. Tham khảo các cách trả lời sau
- Câu nói cho thấy trong cuộc sống, đôi khi chúng ta đã cố
gắng rất nhiều nhưng vẫn thất bại.
- Câu nói cho thấy trong cuộc sống, đôi khi có những khó khăn
khách quan bất ngờ xảy ra khiến chúng ta thất bại.

Câu 3: Tham khảo cách trả lời sau 0,75


Mỗi người cần phải tìm ra được cái mình yêu quý - đó có thể
là một công việc hoặc một con người. Đó là công việc/ con
người mà chúng ta thích thú, đam mê, theo đuổi và tin tưởng là
tuyệt vời. Chỉ khi đó chúng ta mới có động lực để làm việc
hoặc sống có trách nhiệm hơn.
Câu 4: HS trình bày hợp lí, thuyết phục về thông điệp của 1.0
đoạn trích có ý nghĩa nhất đối với mình. Tham khảo một số
thông điệp sau:
- Phải luôn có lòng tin vào những việc mình làm.
- Phải yêu quý những công việc mình làm.
- Không được bỏ cuộc khi thất bại.
- Hãy kiên trì và cố gắng liên tục.
- Học sinh viết một đoạn văn có dung lượng khoảng 200 chữ, 0.5
đảm bảo đúng yêu cầu về nội dung và hình thức của một đoạn
LÀM văn. Có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần có
VĂN lập luận hợp lí, thuyết phục, bày tỏ quan điểm rõ ràng, không
vi phạm các chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật. 1.5
Sau đây là gợi ý:
- Đồng tình với ý kiến: lập luận cần theo hướng khẳng định
niềm tin, tình yêu đối với công việc (tin rằng đó là những việc
tuyệt vời) sẽ là động lực mạnh mẽ để mỗi người vượt qua
những khó khăn, trở ngại (bao gồm cả những yếu tố khách
quan và chủ quan) để thành công. Người ta không thể thành
công nếu không có niềm tin vào công việc và không tin đó là
việc tốt (tuyệt vời).
- Phản đối ý kiến: lập luận cần theo hướng để thành công trong
công việc, nếu chỉ có niềm tin, tình yêu thôi thì chưa đủ, cần
phải có hiểu biết kiến thức về công việc, kĩ năng và kĩ xảo để
thực hiện công việc đó, ngoài ra, các yếu tố khách quan và sự
may mắn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thành công của mỗi
người trong công việc.
- Vừa đồng tình, vừa phản đối ý kiến: kết hợp hai cách lập luận
trên.
2 * Đặt vấn đề:

- Viết về lịch sử, nhiều nhà văn thường nhắc tới những triều đại vàng
son, những vĩ nhân được lưu danh trong sử sách. Trong bình ngô đại
cáo, Nguyễn Trãi từng tạ hào khẳng định: Từ Triệu Đinh Lý Trần
bao đời gây nền độc lập/Cùng hán Đường Tống Nguyên mỗi bên
xưng đế một phương. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng dặt câu hỏi
:Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? và cũng tự trả lời:

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc


Nuyễn Du viết Kiều và đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa bắc
Hưng đạo đại vương diệt quân Nguyên trên sóng Bạch
Đằng.

- Còn ở đây, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muồn hướng người đọc đến
một đối tượng khác:

Em ơi em!

Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
* Triển khai:

- Sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa
lý - văn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục baỳ tỏ những suy
tư, nhận thức của mình về vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch
sử và truyền thống của đất nước.

- Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được
một sự thật đó là: Người làm nên lịch sử không chỉ là những anh
hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị. Thật sự
trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ
cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên
tuổi của họ cả anh và em đều nhớ:

Nhiều người đã trở thành anh hùng


Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ.

- Nhưng cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình
xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã xuống, họ đã sống và chết, không
ai nhớ mặt đặt tên, nhưng tất cả, họ đều có công làm ra Đất Nước.
Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của nhà thơ.V
à từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn
vinh lòng yêu nước của nhân dân :

Khi có giặc người con trai ra trận


Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh…

- Với tư tưởng Đất Nước của nhân dân, tác giả đã khẳng định tất cả
những gì do nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như hạt
lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên làng…cũng như chính những con
người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ
sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước.
Chính họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân.
Không những vậy, họ còn luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm,
đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước thân yêu của
mình:

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái


trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại.

- Nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền
với lòng biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích
thực làm ra đất nước và bảo vệ đất nước.

- Hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ
tình…đọan thơ vừa là lời tâm tình,vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ
với tất cả mọi người phải nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân
trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất nước bằng
chính lòng biết ơn của mình.

* Đánh giá:

- Chủ đề về đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ
trong văn học Việt Nam. Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có
nhiều bài thơ về đất nước của nhiều nhà thơ có tên tuổi…Nhưng, có
thể nói Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định được vai
trò to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ
nhớ và sâu sắc.

- Đọan thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ Miền Nam thời
chống Mỹ và tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại
lai. Đọan thơ đã làm sống lại truyền thống yêu nước hào hùng trong
mỗi chúng ta.
ĐÁP ÁN MÔN NGỮ VĂN – ĐỀ 16

CÂU NỘI DUNG ĐIỂM


1 Nghệ thuật : Nhân hóa ( hạt lúa…ngày đêm mong…thật sự sung sướng) 1 điểm
2 Ý nghĩa văn bản: Từ sự lựa chọn cách sống của hai hạt lúa, câu chuyện đề cập đến 2 điểm
quan niệm sống của con người: nếu bạn chọn cách sống ích kỉ, bạn sẽ bị lãng quên;
ngược lại, nếu bạn chọn cách sống biết cho đi, biết hi sinh, bạn sẽ nhận lại quả ngọt
của cuộc đời
Nhan đề: Học sinh tự đặt theo suy nghĩ của mình
3 Học sinh đưa ra quan điểm của bản thân và lí giải thuyết phục 2 điểm
4 * Mở bài:
– Dẫn dắt vấn đề, giới thiệu câu chuyện trong đề bài 1 điểm
– Nêu vấn đề cần nghị luận
* Thân bài:
-Hai hạt lúa nêu lên hai quan niệm sống, hai lối sống trái chiều nhau: một bên luôn sẵn
sàng cho đi, một bên ích kỷ chỉ biết giữ lại những điều tốt đẹp cho bản thân mình.
- Hạt lúa muốn giữ lại chất dinh dưỡng cho riêng mình trong một hình hài nguyên vẹn
tuy không nát tan trong đất nhưng lại tan nát trong cuộc đời, lại bị tuyệt diệt.
- Trong cuộc sống đôi khi chúng ta cần phải biết hi sinh, sống vì người khác, sẵn sàng
chấp nhận sự thiệt thòi, không nên ích kỉ, hẹp hòi, chỉ biết bản thân…
- Đừng tự hủy diệt mình bằng sự ích kỷ. Cứ sẵn sàng dâng hiến cho cuộc đời những gì
mình có 3 điểm
- Phải biết sống vì người khác, dám chấp nhận cả những thiệt thòi, hi sinh về phía bản
thân mình. Đó cũng chính là một trong những cách sống của mỗi con người cần hướng
đến trong cuộc đời
Bên cạnh những người sống ích kỉ , nhỏ nhen vẫn còn có nhiều người biết sống vì
người khác, biết cống hiến, sẻ chia
- Câu chuyện gợi cho chúng ta cần phải lựa chọn cho mình một lối sống tích cực:
không nhỏ nhen, ích kỉ
- Chúng ta cần phải tu dưỡng, rèn luyện, bồi dưỡng đời sống tâm hồn phong phú hơn,
sống phải vị tha, chan hòa, biết vì mọi người, không nên tư lợi cá nhân..
* Kết bài:

Liên hệ rút ra bài học về nhận thức và hành động

1 điểm
* Đặt vấn đề:

- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ chống
Mỹ cứu nước. Trong nền thơ ca hiện đại, Nguyễn Khoa Điềm cũng khẳng định
được tên tuổi của mình với một giọng điệu và cảm quan thơ ca khá ấn tượng. Thơ
Nguyễn Khoa Điềm thường viết về hình ảnh con người và đất nước trong gian lao
và anh dũng.

- Đất Nước thuộc chương năm của bản trường ca Mặt đường khát vọng được viết
năm 1971 và in năm 1974. Bản trường ca này viết nhằm thức tỉnh thanh niên đô
thị miền Nam nhận ra chân tướng của kẻ thù, hiểu sâu sắc về đất nước để từ đó
có quyết tâm đấu tranh giành lại đất nước. Đoạn thơ cuối khẳng định Đất Nước là
của nhân dân và niềm tin vào tương lai huy hoàng của Đất Nước:

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân


Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

* Triển khai:

- Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca - sự nhận thức về nguồn gốc
sâu xa của nhà thơ về đất nước về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân. Để từ
đó, nhà thơ khẳng định: Nhân dân chính là người - là chủ thể làm nên đất nước.

- Câu thơ mở đầu đọan thơ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân chính là sự
thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên tòan đọan trích và cả Chương V của bản
trường ca Mặt đường khát vọng. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì
đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu
của dòng cảm hứng trữ tình - chính luận.

- Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại. Như vậy cũng
chính là đã sáng tạo ra Đất Nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm
đã lấy ý từ ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng
nhất của truyền thống nhân dân:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”


Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.

+ Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương ân tình của người Việt đã bắt nguồn từ thời
xa xưa với những lời dân ca ngọt ngào:

Yêu em từ thuở trong nôi,


Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru.

+ Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn cả
vật chất ngàn vàng. Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca
dao một thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc:

Cầm vàng mà lội qua sông


Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.
+ Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất của trong quá
trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Để từ đó có thể khẳng định:
nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tinh cách, lẽ sống tâm
hồn mình.

- Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân
dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân
trọng và yêu thương. Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật
đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Bội Châu … đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong
lịch sử. Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ , nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới.

* Đánh giá:

- Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận,
ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân
gian…từ những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đọan thơ đã khắc sâu cho chúng ta
những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân.

- Từ đó, đọan thơ bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người
Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đaị hôm nay.
HƯỚNG DẪN CHẤM – ĐỀ 17

Phần I Yêu cầu Điểm


Câu 3,0
1 Những người thành công luôn dùng thất bại như là một công cụ để học hỏi 0,5
và hoàn thiện bản thân.

2 “Suy nghĩ tích cực về thất bại” được nói đến trong đoạn trích được hiểu là: 0,5
Thất bại không phải là bước cản mà là động lực để đi tới thành công.

3- Việc tác giả trích dẫn các câu chuyện của Thomas Edison, J.K.Rowling, Ngôi
sao điện ảnh Thành Long có tác dụng:
1,0
- + Nhấn mạnh ý nghĩa tích cực của thất bại đối với thành công của mỗi người.
- + Câu chuyện của Thomas Edison, J.K.Rowling, Ngôi sao điện ảnh Thành
Long đều là người thật, việc thật được nhiều người biết đến như những “tấm
gương sống” nên có giá trị thuyết phục cao cho luận điểm được nêu.
4- Học sinh có thể đưa ra quan điểm cá nhân, đồng tình hoặc không đồng tình
nhưng phải lý giải vì sao.
1,0
- Gợi ý:
- - Trong thực tế cuộc sống thất bại nhiều khi đúng là “cái cớ để ta chần chừ”.
Vì nhiều người thường chùn bước trước khó khăn, cản trở hay vấp ngã; không
tự tin vào năng lực bản thân; thấy chán nản,…
- - Tuy nhiên Thất bại không phải là cái cớ để ta chần chừ. Ngược lại nó phải
là động lực tiếp thêm sức mạnh để ta vươn tới thành công. Vì:
- + Không có con đường nào đi tới thành công mà dễ dàng, luôn có những
khó khăn thử thách nếu ta coi thất bại chỉ như một thử thách, ranh giới cần
vượt qua;
- + Thực tế chứng minh nhiều người thành công sau thất bại;
- + Thất bại còn như một phép thử, là thước đo cho ý chí, nghị lực và lý
tưởng, năng lực của bản thân.
Phần II
Câu 1 2,0
- Giải thích: Thất bại: là 1 thời điểm mà người ta chưa thể thực hiện được
những mục tiêu mà mình đề ra, là những vấp ngã, khiến ta cảm thấy dễ dáng
chán nản và mệt mỏi. Vấn đề nêu ra: cách ứng xử, thái độ của bản thân cần
chấp nhận sự thất bại như thế nào để thành công trong cuộc sống.
- Bình luận: bản thân cần chấp nhận sự thất bại như thế nào để thành công
trong cuộc sống.
+ Cần nhận thức rõ: Thất bại chỉ là khoảnh khắc, là câu chuyện của một thời
điểm; Con đường đi đến thành cong là con đường đi xuyên qua sự thất bại.
+ Thừa nhận và đối diện với thất bại. Chính nhờ thất bại mà con người tích
lũy được kinh nghiệm, mài sắc được ý chí và nghị lực.
+ Kiểm điểm và nhìn nhận, đánh giá lại bản thân mình: Đánh giá lại năng lực,
những kinh nghiệm mình đã gặt hái được.
+ Tìm kiếm một hướng đi mới hoặc tiếp tục cuộc hành trình.
- Bài học, liên hệ:
+ Vấn đề nêu ra đã thể hiện lối sống lành mạnh tiến về phía trước. Thế hệ trẻ
hiện nay rất ít chịu đựng được thất bại và vượt qua thất bại, hoặc bỏ cuộc,
hoặc lảng tránh,..
+ Thất bại và thành công không đối lập với nhau. Thất bại là thành công bị trì
hoãn. Chấp nhận thất bại là một cách, thậm chí là cách duy nhất để kiến tạo
thành công.

2 * Đặt vấn đề:

- Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai
đọan sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời
đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ
thực dân, phong kiến.

- Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao,
tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng
của đổng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị
trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức
sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái
xinh đẹp mà bất hạnh.

* Triển khai:

- Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng
của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi
với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương
ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái
bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài
người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào.
Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài
năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm
đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân
chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.

+ Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh
đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa
của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm
của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ
bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Những đêm tình mùa xuân đã tới.

- Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh.
Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và
đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy
đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.

- Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi
khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn
tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô
hay hát:

Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.

+ Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con
dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm.

+ Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí
Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa
xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị
cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà
như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật
say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến
khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.

- Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm
mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát Men rượu đánh thức nỗi
nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình
văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh
xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ
nhà thống lí Pa Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và
thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Bao kỉ niệm
đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi… có biết bao nhiêu
người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp
thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng
sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.

- Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa
thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi
Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi
dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi
vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?!

- Mải mê chìm đắm trong quá Khứ nên Mị tạm quên hiện tại: Rượu đã tan lúc
nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một
mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường
chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn
còn trẻ, Mị muốn đi chơi.

- Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một
phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn
đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở
với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa.
Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường:

Anh ném pao, em không bắt,

Em không yêu, quả pao rơi rồi…

- Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo
cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.

- Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con
gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ
bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái
áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động “nổi loạn”
diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình
như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và
hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa… là Mị đã thực sự sống lại thời con gái
với bao ước mơ tươi đẹp.

- Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì
tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh
thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.

- Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau
câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: Mày muốn đi chơi à ?, A sử trói Mị bằng cả
một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng
được đầu nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị.
Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa
bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với
những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói
buộc được tâm hồn Mị.

- Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân,
Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im
lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn
Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đảm
chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm
hồn: Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu
người nào, em bắt pao nào… Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với
thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa
được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào
vách… Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

- Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya… Mị nín
khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ
người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào
nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ,
phẫn uất trước thực tại phũ phàng : Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc
thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ.
Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tĩnh. Cho tới khi
trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ. Mị bàng hoàng tỉnh… Không
một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan…
Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ
biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta
vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba
ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa
quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại,
đau dứt từng mảnh thịt.

- Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể
thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn
là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời
khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng
dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng
những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà
bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn
khỏi Hồng Ngài.

* Đánh giá:

- Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc
vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một
sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được.

- Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn
biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm
trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm
trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách
nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh
thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chổng A Phủ.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 18
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Hawking nói: Không nhiều lắm, tôi cố gắng sống một cuộc sống bình thường nhất
có thể, không nghĩ về tình trạng của mình...
2 - Hawking là một người giàu ý chí, nghị lực và có ý thức nỗ lực vượt qua nghịch
cảnh.
3 - Những giải thưởng mà Stephen Hawking nhận được cho thấy ông là một người trí
tuệ, tài năng và là một con người đam mê nghiên cứu khoa học.
- Những giải thưởng khoa học danh giá ấy là sự tôn vinh con người có những cống
hiến lớn lao cho khoa học.
4 Có thể rút ra một trong những thông điệp sau:
- Nghị lực có thể giúp con người vượt qua những khó khăn, trở ngại.
- Niềm đam mê ở bất cứ một lĩnh vực nào cũng có thể đưa con người đến những thành
công.
- Khát vọng cống hiến trí tuệ, tài năng cho nhân loại là những cống hiến vẻ vang và
cao quý.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn ngắn bàn về ý nghĩa của nghị lực và niềm đam mê trong cuộc
sống.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc
xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Ý nghĩa của nghị lực và niềm đam mê trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa của nghị lực và niềm đam mê trong cuộc sống.
Có thể theo hướng sau:
- Giải thích được: Nghị lực là gì? Niềm đam mê là gì?
- Bàn luận, chứng minh:
+ Nghị lực và niềm đam mê hết sức có ý nghĩa trong cuộc sống đối với mỗi một con
người. Nghị lực giúp con người vượt lên trên hoàn cảnh còn niềm đam mê sẽ giúp
con người phát huy hết khả năng của mình để đạt được những thành công trong cuộc
sống.
+ Con người cần phải có nghị lực và niềm đam mê để sẵn sàng đối mặt với những
thử thách và đi đến tận cùng mơ ước của mình.
+ Đề cao những người có nghị lực và biết theo đuổi niềm đam mê đến cùng. Phê phán
những con người thiếu nghị lực, dễ từ bỏ niềm đam mê khi gặp khó khăn.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
* Đặt vấn đề:
- Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với số lượng tác
phẩm đồ sộ. Văn của ông hấp dẫn bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, có vốn hiểu
biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền. Năm1952, Tô Hoài cùng
bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, chuyến đi đem lại cảm hứng để ông sáng tác truyện
Vợ chồng A Phủ, in trong tập Truyện Tây Bắc.

- Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, tác phẩm phản ánh cuộc sống lầm
than tủi nhục, khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ của người dân nghèo miền
núi dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến. Sức sống tiềm tàng, sự phản
kháng mạnh mẽ của Mị được thể hiện rõ nét trong đêm đông cởi trói cứu A Phủ.

* Triển khai:

- Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, có
tài thổi sao, thổi lá giỏi, nhiều người theo, với nhiều phẩm chất đáng quý: chăm chỉ,
hiếu thảo, tự trọng,…

- Từ khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhừ thống lí Pá Tra, Mị bị đày đọa về thể xác, áp
chế về tinh thần, dần trở nên vô cảm, chai sạn, chấp nhận cuộc sống đau khổ, tủi nhục
lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.

- Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, trong đêm tình mùa xuân năm
trước, sức sống ấy đã từng trỗi dậy nhưng bị A Sử dập tắt khi trói đứng Mị vào cột
nhà, không cho đi chơi.

- Diễn biến tâm trạng và hành động trong đêm đông:

+ A Phủ đánh A Sử nên phải làm nô lệ trả nợ cho thống lí Pá Tra. Do sơ ý để hổ bắt
mất một con bò nên anh bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy
đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài.

+ Lúc đầu, Mị vô cảm thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng
đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Từ mùa
xuân năm trước, khi bị trói đứng, Mị đã trở lại con người trước kia chai sạn, vô cảm,
cam chịu. Cô đã không còn quan tâm đến chính cuộc sống của mình huống gì là người
khác.

+ Nhưng sau đó, khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám
đen lại của A Phủ, Mị đồng cảm với nỗi đơn độc và tuyệt vọng của anh ta. Mị nhớ
lại tình cảnh của mình năm trước khi bị trói đứng nhiều lần khóc, nước mắt chảy
xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Sự đồng cảm bắt nguồn từ sự thương
cảm bởi có thương mình thì mới thương người thương người như thể thương thân.
Mị nhận ra nỗi đau đớn của mình năm trước trong nỗi đau của A Phủ. Tô Hoài miêu
tả diễn biến tâm lí rất tự nhiên, phù hợp.

+ Mị tỉnh táo nhận ra sự độc ác của cha con nhà thống lí, của bọn chúa đất phong
kiến chúng nó thật độc ác, thấy lo A Phủ sẽ chết chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết.

+ Lòng trắc ẩn của người đàn bà đau khổ trỗi dậy đã đem lại sức mạnh cho Mị hành
động: táo bạo, dũng cảm.

+ Mị cắt dây trói, cứu A Phủ rón rén bước lại, rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây
mây, nhưng Mị không cảm thấy sợ, lúc này tình thương mạnh hơn nỗi sợ. Mị giục A
Phủ chạy trốn.

+ Mị đứng lặng trong bóng tối giằng xé, suy nghĩ đi hay ở. Ở lại thì chỉ có con đường
duy nhất là chết thay A Phủ, còn bỏ trốn thì may ra tìm được một con đường sống.

+ Nhìn thấy hình ảnh A Phủ dù đã kiệt sức nhưng vẫn vùng lên chạy, Mị như được
tiếp thêm sức mạnh và cô vụt chạy ra, băng đi, đuổi kịp A Phủ.

- Mị cứu A Phủ vì thương người cùng cảnh ngộ với mình, cắt dây trói cứu A Phủ
cũng chính là cắt đứt sợi dây trói đời mình với nhà thống lí Pá Tra. Mị cũng tự cứu
đời mình vì khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Qua đó cũng cho thấy tinh
thần phản kháng mạnh mẽ của Mị, cũng là của người dân lao dộng bị áp bức ở vùng
núi Tây Bắc.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo, chọn lọc chi tiết đặc sắc của Tô
Hoài.

- Khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm: Giá trị nhân đạo: là một giá trị cơ bản của
những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối
với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn
con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của nó.

- Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở:

+ Nhà văn đã bộc lộ niềm cảm thông, thương xót trước số phận đau khổ, bất hạnh
của những con người lao động nghèo khổ ở vùng núi Tây Bắc, thể hiện qua cuộc đời
bất hạnh của Mị.

+ Nhà văn lên tiếng tố cáo, phê phán bọn chúa đất phong kiến miền núi đã dùng
cường quyền, thần quyền và lợi dụng những tập tục cổ hủ của người Mèo để áp bức,
bóc lột người dân.

+ Nhà văn cũng phát hiện, trân trọng, khẳng định và ngợi ca những vẻ đẹp phẩm chất
cao quý của con người dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Đó là sức sống tiềm tàng của
Mị trong đêm tình mùa xuân và sự phản kháng trong đêm cứu A Phủ.

+ Nhà văn cũng thể hiện niềm tin sâu sắc và chỉ ra cho nhân vật của nhân vật con
đường đến với tự do, hạnh phúc: phản kháng và hướng đến ánh sáng cách mạng.

* Đánh giá:

- Với màu sắc dân tộc đậm đà, chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ giàu tính tạo hình,
nghệ thuật miêu tả nội tam nhân vật tinh tế, sắc sảo, đoạn trích cho thấy sức sống tiềm
tàng và sức mạnh phản kháng mãnh liệt của Mị khi cởi trói cứu A Phủ, đó cũng chính
là khát vọng sống, tinh thần vùng dậy của nhân dân laoo động nghèo khổ dưới ách
thống trị của bọn chúa đất phong kiến.

- Qua tác phẩm, chúng ta thấy rằng, truyện ngắn đã thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp
trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
sâu sắc.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 19
Ph Nội dung
ần
/C
âu
I ĐỌC HIỂU
1 - Tác hại của lối sống thờ ơ với những gì gần gũi với trái tim bạn được nêu trong đoạn trích:
Nếu không có chúng, cuộc sống của bạn phần nào sẽ mất đi ý nghĩa.
2 - Điều gì tốt nhất cho chính mình được nói đến trong đoạn trích là: Sự tự nhận thức về khả
năng, trình độ của bản thân mỗi người để có thể thích ứng với thực tế nghề nghiệp theo đuổi.
3 - Việc tác giả nêu lên mối tương quan giữa nghề nghiệp với những trách nhiệm khác của con
người nhằm:
+ Giúp sinh viên biết cách định hướng nghề nghiệp gắn với những trách nhiệm khác của con
người.
+ Truyền thông điệp tới độc giả, hãy rèn luyện thêm nhiều hơn nữa những kĩ năng sống thiết
yếu để hoàn thiện mình và sống trọn vẹn cuộc sống.
4 - Bày tỏ thái độ: đồng tình hay không đồng tình.
+ Nếu lập luận theo hướng khẳng định, cần nhấn mạnh: Mạo hiểm giúp con người có thêm
bản lĩnh trước cuộc sống, chiến thắng ngay chính bản thân mình; nhờ mạo hiểm con người có
thể bộc lộ chính năng lực, bản ngã cá nhân của mình để làm được những điều lớn lao, giúp
con người có chính kiến, quyết đoán và không ỷ lại…
+ Nếu lập luận theo hướng phủ định ý kiến, cần nhấn mạnh: Cuộc sống muôn hình vạn trạng,
luôn chấp chứa cả những rủi ro, thất bại, sự mạo hiểm đôi khi không mang lại cho con người
thành công, thắng lợi như mong muốn. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của bản thân
và xã hội.
- Nếu lập luận theo hướng vừa khẳng định vừa phủ định ý kiến thì cần kết hợp cả hai nội dung
trên.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý kiến của Brian Dison trong
phần đọc hiểu: “Không có gì là hoàn toàn bế tắc, mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc khi ta
thôi không cố gắng nữa”.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích
hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Không có gì là hoàn toàn bế tắc, mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc khi ta thôi không cố gắng
nữa.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách
nhưng phải làm rõ nội dung câu nói, không có gì là hoàn toàn bế tắc, mà nó chỉ thật sự trở nên
bế tắc khi ta thôi không cố gắng nữa. Có thể theo hướng sau:
- Giải thích ngắn gọn nội dung ý kiến: Không có khó khăn nào là không tìm ra cách giải quyết
nhưng sẽ không thể tìm ra cách giải quyết những khó khăn đó nếu ta không hết sức cố gắng
vì nó.
- Bàn luận, chứng minh:
+ Khi đứng trước những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua, chúng ta thường nghĩ đó
là sự bế tắc, đường cùng. Nhưng thực ra, đó chỉ là rào cản tạm thời để thử thách ý chí, nghị
lực con người.
+ Mỗi người đừng tự đẩy mình vào bế tắc, phải luôn cố gắng, nỗ lực không ngừng để vượt
qua khó khăn.
+ Ý chí, nghị lực, sự tự tin, bản lĩnh, dũng cảm...sẽ giúp chúng ta chiến thắng mọi khó khăn,
thách thức trong cuộc sống.
+ Đề cao những người luôn biết cố gắng vượt qua khó khăn và phê phán những người chưa
cố gắng đã vội nản lòng, bỏ cuộc.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 * Đặt vấn đề:

- Tô Hoài cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam ở trên nhiều lĩnh vực. Nổi bật trong sáng
tác của ông là truyện ngắn Vợ chồng A phủ. Truyện ngắn này trích từ tập Truyện Tây Bắc, là
kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của nhà văn.

- Tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người
nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính
là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc
nhiều xúc cảm .

* Triển khai:

- A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến
người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người
ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.

- A Phủ là chàng trai có hoàn cảnh gia đình bất hạnh: A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả
những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ,
anh chị em, để lại một mình A Phủ bơ vơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng
buồn hơn nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc.

- A Phủ là người khỏe mạnh, gan dạ và dũng cảm:


+ A Phủ đã vượt lên trên mọi khó khăn của hoàn cảnh để sống và trở thành một chàng trai
khỏe mạnh và dũng cảm. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang
mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh
niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự
bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.

+ Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu
khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất biết đúc lưỡi
cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo. Chính nghị lực và sức khỏe của A
Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc
quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, A phủ chỉ có độc một chiếc vòng
cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu
ở các làng trong vùng.

+ Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra,A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng
của mình, A phủ không than , không van xin lấy một lời, a Phủ không bao giờ chịu khuất phục
dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập
chảy máu. Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng
hút. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà
văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn
mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền
trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị.

+ Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có
thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một
thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến
các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề
nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ
chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội
thì cũng phải chịu phạt Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất
quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng
cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng
anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt . Và giọt nước
mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực
và tuyệt vọng.
- A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ: Điều này được nuôi dưỡng từ khi còn bé . Anh
chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng
muốn lấy công chuộc tôi và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai
nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát
mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát,
đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi
xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ
thì A Phủ để cho Mị đi theo,anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

* Đánh giá:

- Bằng khả năng khắc họa nhân vật tài tình, Tô Hoài đã xây dựng được một nhân vật hết sức
tiêu biểu cho những chàng trai miền Tây Bắc – A Phủ. Một chàng trai khỏe mạnh, có tài năng
và cá tính mạnh mẽ.

- A Phủ là một biểu tượng của chàng trai núi rừng mộc mạc, chân chất. Đồng thời, xây dựng
nhân vật A Phủ cũng góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn này.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 20
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Cách tốt nhất để đánh giá năng lực của một người là nhìn vào cách người đó đã
vượt qua những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống.
2 - Thái độ của người viết là phê phán những người thiếu ý chí, dễ bỏ cuộc khi gặp
khó khăn, thất bại.
3 - Khó khăn giúp con người trưởng thành hơn về ý chí, nghị lực khi đối mặt với những
thử thách.
- Con người sẽ có thêm những kinh nghiệm, bài học và đặc biệt họ sẽ biết cách vượt
qua khó khăn.
4 - Học sinh có thể trả lời có/không và lý giải thuyết phục.
II LÀM VĂN
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về ý nghĩa của những khó khăn, thử thách
trong cuộc sống của mỗi con người.
1 a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Ý nghĩa của những khó khăn, thử thách trong cuộc sống của mỗi con người.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa của những khó khăn, thử thách trong cuộc
sống của mỗi con người. Có thể theo hướng sau:
- Giải thích: Khó khăn là những trở ngại, thử thách mà con người thường gặp trong
cuộc sống.
- Bàn luận, chứng minh: Ý nghĩa của những khó khăn, thử thách trong cuộc sống
của mỗi con người.
+ Nếu xem khó khăn như một chướng ngại việc vượt qua chướng ngại ấy có nghĩa
là bạn có cơ hội chứng tỏ được năng lực của mình.
+ Khó khăn là một thách thức mà con người cần phải vượt qua nó để vươn tới ước
mơ, khát vọng của mình.
+ Khó khăn càng lớn thì thành công sẽ càng ngọt ngào.
+ Khó khăn sẽ là cơ hội để con người rèn luyện nghị lực, ý chí và lòng can đảm khi
đương đầu với những thách thức của cuộc sống.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 * Đặt vấn đề:

- Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với số lượng tác
phẩm đồ sộ. Văn của ông hấp dẫn bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, có vốn hiểu
biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền. Năm1952, Tô Hoài cùng
bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, chuyến đi đem lại cảm hứng để ông sáng tác truyện
Vợ chồng A Phủ, in trong tập Truyện Tây Bắc.

- Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, tác phẩm phản ánh cuộc sống
lầm than tủi nhục, khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ của người dân nghèo
miền núi dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến. Sau hơn nửa thế kỉ, đến
nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Có được thành công
như vậy là vì truyện ngắn không chỉ mang giá trị hiện thực sâu sắc mà còn thể hiện
rõ giá trị nhân đạo cao cả.

* Triển khai:

- Giá trị nhân đạo là một thuật ngữ, chỉ một giá trị của tác phẩm văn học. Một tác
phẩm mang giá trị nhân đạo là một tác phẩm thể hiện sâu sắc giá trị con người, tình
yêu thương, sự đồng cảm, ca ngợi những phẩm chất và bảo vệ quyền con người.
Giá trị ấy được thể hiện trên nhiều phương diện như đề tài, chủ đề các tình huống,
chi tiết trong tác phẩm.

- Đối với tác phẩm Vợ chồng A Phủ, giá trị nhân đạo được thể hiện ngay từ đề tài,
chủ đề của tác phẩm. Ngay nhan đề Vợ chồng A Phủ, tác giả đã thể hiện tư tưởng
cốt lõi, chủ đạp của truyện. Đọc nhan đề, ta có thể hình dung ra ngay cuộc đời của
một đôi vợ chồng người Mèo vùng núi trước cách mạng tháng tám, chịu bóc lột dưới
ách thống trị của bọn phong kiến, thực dân đồng thời ca ngợi sự đổi đời của họ khi
cách mạng về.

- Tác phẩm còn thể hiện sâu sắc sự đồng cảm, tình thương yêu của nhà văn đối với
con người. Tô Hoài đồng cảm với số phận của những người phụ nữ qua nhân vật Mị.
Trong tác phẩm, Mị là một cô gái xinh đẹp nhất vùng, bao chàng trai theo đuổi, chăm
chỉ lao động, tràn đầy sức sống và khát vọng tự do. Nàng còn là một người con hiếu
thảo khi chấp nhận gả cho nhà thống lý Pá Tra để trả nợ cho cha và cũng vì hiếu thảo
nên dù có uất ức đến mức trốn chạy và định ăn lá ngón tự tử thì khi nhìn thấy người
cha già không co khả năng trả nợ nàng lại không đành lòng ra đi. Cuộc sống của
nàng trên danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là người ở của nhà giàu ấy cứ lặp
đi lặp lại một cách nhàm chán và khổ cực.

- Hằng ngày nàng làm đi làm lại những công việc như giặt đay, xe đay, lên nương
bẻ bắp, hái củi, bung ngô,… Và mấy năm trôi qua, cái cuộc sống khốn khổ ấy đã
giết chết cuộc đời của một cô gái trẻ ở lâu trong cái khổ, Mị đã quen khổ rồi. Bây
giờ thì Mị cũng tưởng mình là con trâu, mình là con ngựa, là con ngựa phải đổi từ
cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi
làm mà thôi và Mị đã trở thành lùi lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa. Nhưng thân
phận nàng trong cái gia đình này có khi còn chẳng bằng những loài động vật ấy. Tô
Hoài so sánh đầy chua chát con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà, con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm
cả ngày.

- Không chỉ Mị, A Phủ cũng là một người mang số phận bất hạnh. A Phủ sinh ra
trong một gia đình nghèo, cha mẹ và anh em đều đã mất trong một trận dịch, tuổi
thơ thì bị bắt đem bán, lớn lên thì đi làm thuê khắp nơi. Tuy là một chàng trai mạnh
khỏe, giỏi giang, chăm chỉ được nhiều cô gái ngưỡng mộ nhưng A Phủ không thể
lấy vợ vì không có cha mẹ, không có ruộng, không có bạc.

- Vì đánh nhau với A Sử trong đám chơi xuân, A Phủ đã bị bắt về nhà thống lí, bị
đánh đập dã man phạt vạ 100 đồng bạc trắng và từ đó con người yêu tự do đã trở
thành đứa ở gạt nợ cho nhà thống lý. Và vì làm mất bò của nhà thống lý, A Phủ bị
trói vào cột, bị bỏ đói, bỏ khát cho đến chết thì thôi . những tưởng số phận của A
Phủ đến đây là kết thúc nhưng không, A Phủ được Mị cứu và hai người cùng chạy
trốn khỏi Hồng Ngài.

- Giá trị nhân đạo còn được thể hiện khi nhà văn đã phát hiện, trân trọng và ngợi ca
những nét đẹp tâm hồn của người nghèo miền núi. Đó là vẻ đẹp phẩm chất và sức
sống của Mi. Mị là một người con hiếu thảo và cũng là một người con gái khát khao
tự do. Dù trong hoàn cảnh tù túng, bị bóc lột, bị chà đạp cả về thể xác lẫn tinh thần,
dù nhìn bề ngoài tưởng Mị chỉ còn là cái xác không hồn thì bên trong Mị một ngọn
lửa phản kháng vẫn đang cháy âm ỉ, chỉ chờ ngày bộc phát.

- Trong đêm hội mùa xuân, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, nàng muốn đi chơi. Đó
là kết quả của men rượu và tiếng sáo thôi thúc trong lòng, của quá khứ tươi đẹp của
mình. Mị nhân ra mình vẫn còn trẻ và cô lại muốn sắm sửa quần áo để bước ra ngoài
hòa vào không khi hội xuân. Chỉ là trong suy nghĩ và chưa đi đến kết quả, nhưng chỉ
một ý niệm ấy thôi của Mị cũng chứng tỏ sức sống mãnh liệt của cô chưa bao giờ tắt
và nó đang cháy rực lên trong lòng.

- Tuy nhiên, khi chồng cô, A Sử về hắn đã trói cô lại, cuộc phản kháng bị ngăn cản.
Nhưng nó không hề tắt, nó chỉ tạm thời bị lớp tro tàn vùi lại, chờ ngày gió thổi qua
để cháy lên. Và trong đêm mùa đông, khi nhìn thấy dòng nước mắt bò trên má của
A Sử, cảm xúc bấy lâu tưởng như đã mất của cô lại ùa về. Cô nhớ về người đàn bà
trước đây chết trong nhà, cô nhớ ngày năm trước cô cũng bị trói đứng thế này, nhiều
lần khóc mà không lau đi được. Cô thương A Phủ, cô thương bản thân mình phải
sống kiếp trâu ngựa. Từ thương người cho đến thương mình, cô chợt nhận thứ ra
điều bất công trong cuộc sống vì sao người này phải chết? và cô sẵn sàng hi sinh bản
thân mình để cứu chàng trai vô tội ấy. Tình thương đã khiến cô có hành động vô
cùng dũng cảm là cắt trói cho A Phủ để anh chạy trốn. Nhưng không chỉ dừng lại ở
đó, khi sức sống mãnh liệt trỗi dậy, cô đã chạy trốn theo A Phủ để tìm kiếm một
cuộc sống tốt đẹp hơn mà mình đáng được nhận.

- Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tố cáo tội ác của bọn thống trị miền núi. Chúng
dùng hình thức cho vay nặng lãi để chi phối số phận con người. Chúng cướp đi quyền
sống, quyền tự do của những người dân lao động như A Phủ, như Mị. Chúng đối xử
với con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa, chúng bóc lột sức lao động bắt
những người dưới quyền chúng làm việc quanh năm suốt tháng, không một ngày
nào được nghỉ ngơi. Không chỉ về thể xác và vật chất, chúng còn cướp đi quyền hạnh
phúc của con người khi cướp vợ, chia cách Mị và người yêu, chia cách gia đình
người khác.

- Đồng thời, tác phẩm còn ca ngợi quá trình đấu tranh, tự giải phóng, giác ngộ cách
mạng của những con người lao động nghèo khổ vùng núi Tây Bắc. Mị và A Phủ đã
đấu tranh cho tự do và hạnh phúc khi Mị cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ cũng như
đồng thời giải thoát cho chính mình, hai người đã cùng nhau chạy trốn, chấp nhận
việc nếu bị bắt thì cả hai sẽ phải chết.

- Sau khi chạy trốn khỏi Hồng Ngài, đến Phiềng Sa, Mị và A phủ đã được giác ngộ
cách mạng, tham gia vào du kích bảo vệ bản làng, bảo vệ quê hương. Quá trình vợ
chồng A Phủ đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ nô lệ đến cuộc sống làm người tự do,
đó cũng chính là nhà văn đã mở ra một hướng giải thoát cho số phận con người. Đây
là điểm mới của giá trị nhân đạo trong các tác phẩm văn học sau cách mạng tháng
tám so với văn học hiện thực trước đây.

* Đánh giá:

- Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã làm
sống lại trước mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi
dưới ách thống trị dã man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Quá trình giác ngộ
cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách
mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi.

- Qua các hình tượng văn học trong tác phẩm, tác giả gián tiếp khẳng định chỉ có
cách mạng mới giải phóng con người ra khỏi ách thống trị đầy áp bức bất công, giúp
con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân
đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời
gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 21
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Hình ảnh hi vọng được tác giả miêu tả qua những từ ngữ: tuyệt diệu. cong, xoắn,
nó khuất đi, nó tan vỡ…
2 - Việc lặp lại hai từ hi vọng có tác dụng: Làm cho văn bản thêm tính hài hoà, cân
đối, nhịp nhàng, sinh động, hấp dẫn; Tăng tính liên kết giữa các câu trong văn bản;
Nhấn mạnh vai trò quan trọng của hi vọng trong cuộc sống của mỗi con người. Hi
vọng là điều kỳ diệu, là điểm tựa để đưa con người vượt qua những khó khăn thử
thách hướng đến những điều tốt đẹp ở phía trước.
3 - Đồng ý với ý kiến: Hi vọng duy trì cuộc sống của chúng ta mà không có gì có thể
thay thế được.
- Vì cuộc sống nhiều khó khăn và thử thách, nhờ hi vọng mà ta có được năng lượng
để duy trì cuộc sống. Hi vọng tạo ra niềm tin, ý chí, động lực, lòng can đảm; Hi vọng
sẽ giúp con người sống lạc quan, yêu đời, chiến thắng nghịch cảnh.
4 - Thông điệp tâm đắc nhất: Đừng bao giờ mất hy vọng!. Vì mất hi vọng chúng ta sẽ
mất năng lượng và động lực sống. Hãy nuôi hi vọng mỗi ngày, tạo động lực và hành
động mỗi ngày để sống lạc quan.
II LÀM VĂN
1 Viết 01 đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về ý nghĩa của “hi vọng” trong cuộc
sống.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Ý nghĩa của hi vọng trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ ý nghĩa của hi vọng trong cuộc sống. Có thể theo
hướng sau:
- Hi vọng là chìa khóa thành công của mỗi người.
- Hi vọng mang đến cho cuộc sống này nhiều ý nghĩa.
- Hi vọng tạo cho con người động lực để sống, để tồn tại. Nó cũng tạo cho con người
niềm tin, sự lạc quan hướng đến thế giới của tương lai.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 - Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về những phong tục văn hóa cổ truyền,
đời sống làng quê với giọng văn chân thật, xúc động, tài hoa. Vợ nhặt là tác phẩm
xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập truyện Con chó xấu xí, tiền thân của truyện
ngắn này là Xóm ngụ cư. Truyện tố cáo thực dân, phát xít đẩy dân ta vào nạn đói thê
thảm đồng thời ca ngợi những người lao động trong đói khổ vẫn cưu mang đùm bọc
lẫn nhau, vẫn khao khát sống, khao khát hạnh phúc và hướng tới cách mạng đầy tin
tưởng.

- Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ
nhưng giàu tình yêu thương , luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị , biết hướng
tới tương lai tươi đẹp .

* Triển khai:

- Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn
Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm
đói được miêu tả với khuôn mặt hốc hác u tối, Những gia đình từ những vùng Nam
Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những
bóng ma, và bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Trong
không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ gào lên từng
hồi thê thiết cùng với mùi gây của xác người càng tô đậm cảm giác tang tóc thê
lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp.

- Tràng là dân lao động ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Anh xấu xí, thô kệch hai
con mắt nhỏ tí, cái đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu. Là người ko bình
thường, ngờ nghệch vừa đi vừa nói, ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Ăn nói thô
lỗ, chỉ là những câu đối đáp ngắn, thậm chí thô tục làm đếch gì có vợ.

- Là người hiền lành, vui vẻ nên trẻ con trong xóm rất mến anh. Tràng nhân hậu, mời
người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Tràng cho Thị ăn ko phải vì để trả ơn hay lợi
dụng mà vì sự cảm thông, vì tình người.

- Tràng nhặt vợ thật dễ dàng, chỉ bằng câu nói nửa đùa, nửa thật này nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân hàng kên xe rồi cùng về. Khi người phụ nữ quyết định theo
mình, Tràng nghĩ thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nỗi ko,
lại còn đèo bồng. Cuối cùng anh quyết định liều lĩnh dẫn Thị về. Nghĩa là anh khao
khát có hạnh phúc gia đình, khao khát lứa đôi, điều mà trong hoàn cảnh bình thường,
với Tràng chỉ là mơ ước.
- Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị.
Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc. Khát
vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói đến thân còn chẳng
lo nổi, lại còn đèo bòng. Tràng chậc lưỡi kệ cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài
xu dầu và đang thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình.

- Trên đường về nhà, thái độ của Tràng có nhiều khác lạ:

+ Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai
mắt thì sáng lên lấp lánh. Đó là niềm vui mộc mạc của người đàn ông nghèo, lần
đầu được đi bên một người phụ nữ.

+ Trước con mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư Tràng thấy vậy làm thích ý lắm,
cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình.

- Khi dẫn Thị vào nhà:

+ Xăm xăm bước vào trong nhà, dọn dẹp nhà cửa, thanh minh về cảnh nhà bừa bộn
vì thiếu tay đàn bà. Ngượng nghịu đứng ngây ra giữa nhà chờ mẹ về. Cũng vì Tràng
và thị chưa hiểu gì về nhau. Hơn nữa, Tràng sợ thị đổi ý vì gia cảnh quá nghèo. Cũng
có thể Tràng sợ mẹ ko chấp nhận.

- Khi thấy mẹ về:

+ Tràng reo lên như một đứa trẻ, mời mẹ vào trong nhà, trình bày ngắn gọn câu
chuyện lấy vợ đặc biệt của mình và cũng là để xin phép mẹ. Và khi được mẹ đồng ý
thì Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi…bước từng bước dài ra sân.

- Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn
đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che
mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong
cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột
tràn ngập trong lòng. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.

- Chi tiết: Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự
phần tu sửa lại căn nhà là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số
phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời,
từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: hắn thấy hắn có
bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Tràng thật sự phục sinh tâm hồn đó là giá trị
lớn lao của hạnh phúc.
- Câu kết truyện Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới
chứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ
đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa
quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm
văn học hiện thực giai đoạn 1930 - 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới
sau cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo
một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

* Đánh giá:

- Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện
thực, nhân đạo, là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin
bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người .

- Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo
khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện
và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang
chất thơ cảm động và hấp dẫn.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 22
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Đoạn (2) có thể hiểu là: Chính chúng ta lựa chọn và quyết định để làm nên một
tâm hồn tốt đẹp hay u ám; Mỗi người phải nỗ lực làm đẹp cuộc sống, tâm hồn của
mình; đừng nên trông chờ vào người khác.
2 - Việc nuôi dưỡng tâm hồn có ý nghĩa:
+ Hướng con người tới những giá trị tốt đẹp; tránh xa những điều tối tăm, u ám.
+ Tâm hồn đẹp sẽ giúp chúng ta tự tin, yêu đời; nhận ra những điều giản đơn nhưng
vô cùng ý nghĩa đối với tâm hồn.
3 - Biện pháp tu từ ẩn dụ (hạt giống tốt đẹp; cỏ dại xấu xa).
- Tác dụng: làm tăng tính hình tượng, biểu cảm cho đoạn; chỉ ra những sự lựa chọn
phải trái; đúng sai trong cuộc sống.
4 - Thông điệp tâm đắc nhất: Con người phải nỗ lực không ngừng để làm nên một
cuộc sống tốt đẹp.
- Lý giải: Nhiều người vẫn đang loay hoay đi tìm lời giải về hạnh phúc, giá trị sống
đích thực mà quên mất đáp án tồn tại ngay trong họ; Cuộc sống và lòng người đang
có nhiều biến đổi, nếu mỗi người biết tự ý thức làm đẹp tâm hồn cuộc sống này sẽ
đáng yêu biết bao.
II LÀM VĂN
1 Viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về hậu quả của việc “bỏ
mặc tâm hồn mình khô cằn hoặc mọc đầy cỏ dại” đối với tuổi trẻ trong cuộc sống
hôm nay.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Suy nghĩ về hậu quả của việc bỏ mặc tâm hồn mình khô cằn hoặc mọc đầy cỏ dại đối
với tuổi trẻ trong cuộc sống hôm nay.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, hậu quả của việc bỏ mặc tâm hồn mình khô cằn hoặc
mọc đầy cỏ dại đối với tuổi trẻ trong cuộc sống hôm nay. Có thể theo hướng sau:
- Câu mở đoạn: Dẫn ý liên quan (có thể lấy cảm hứng từ văn bản ở phần Đọc hiểu);
nêu vấn đề cần nghị luận: hiện tượng về việc bỏ mặc tâm hồn mình khô cằn hoặc
mọc đầy cỏ dại.
- Các câu phát triển đoạn:
+ Bỏ mặc tâm hồn mình khô cằn: những người không biết làm cho đời sống tinh
thần của mình trở nên phong phú, tươi mới; họ lựa chọn và hài lòng với lối sống
khô khan, thờ ơ, vô cảm với mọi người và chính mình…
+ Mọc đầy cỏ dại: những kẻ không biết tu dưỡng tâm hồn; để mặc những điều xấu
xa, đen tối xâm nhập tâm hồn…
- Bàn luận:
+ Nêu tác hại: tạo ra những nhân cách tầm thường, mở ra cơ hội cho những suy
nghĩ, hành vi đen tối len lỏi vào cuộc sống; tạo nên một lớp người sống hoặc khô
cứng hoặc buông thả ảnh hưởng đến gia đình và xã hội; cuộc sống ngày càng trở
nên u ám hơn, đất nước thiếu đi những công dân tốt ngược lại đầy rẫy những nhân
cách tha hóa tác động xấu đến cộng đồng.
+ Chỉ ra nguyên nhân: mỗi người chưa tìm ra cho mình một ý nghĩa, động lực sống
đích thực; những lối suy nghĩ ảo tưởng, chạy theo những hạnh phúc phù phiếm,
những niềm vui sa đọa; lối sống đua đòi, thể hiện bản thân bằng những hành vi phản
cảm, trái đạo lý; gia đình, xã hội ngày càng thực dụng, khô khan; giáo dục chạy
theo thành tích mà không chú trọng giá trị nhân bản; đào tạo tâm hồn…
- Câu kết đoạn: Nêu những bài học thiết thực cho bản thân (cố gắng làm đẹp cuộc
sống của mình và mọi người; rèn luyện lối sống ấy từ những việc nhỏ nhất; luôn nỗ
lực tìm thấy giá trị sống, hạnh phúc đích thực từ những điều giản đơn; tạo nên sợi
dây gắn kết yêu thương trong gia đình và ngoài xã hội…).
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình
ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên,
không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng
ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít
ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận
gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người
trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ
Tứ?
1. Lai lịch, ngoại hình:
- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa.
Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người
đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng
gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái
ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công
việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu
phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
- Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông
thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần
hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ
đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả
trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải.
2. Tính cách:
- Khi mới gặp Tràng:
+ Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò
một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với
anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến.
Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng
có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy
của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn
bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang
miệng mà thở.
+ Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc
theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình.
Thị làm tất cả chỉ để được… ăn!
- Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+ Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có
một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng
lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái
nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng
so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở
ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nàh chồng (ai
mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo
không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp
nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
+ Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân.
Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con
chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà
áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò,
thị càng ngượng ngiụ, chân nọ diíucả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy
vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường.
Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người.
+ Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu
mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh
Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm
xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u.
Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc
nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò
xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy
thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai
đều hoàn toàn xa lạ.
+ Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức
dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh
Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng
là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy
lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi
thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế,
thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên
mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho
thóc Nhật, chia cho người đói.
Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm
như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình,
người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng
hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm
trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song,
thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm
người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có
thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua
là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người
đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
3. Số phận:
- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo
đói, bị rẻ rúng.
- Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình
mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã
sống lại.
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập
trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một
người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ).
- Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người
đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn
tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị
nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết
thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào
miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng... Nhiều chi tiết nho
nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con
người.
5. Kết luận:
- Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con
người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng,
trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới
tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
- Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác
nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị đọc đáo của tác phẩm. Ba
nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh
lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 23
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Học sinh đặt được một nhan đề phù hợp với văn bản.
2 - Bạn Phương tạm xa rời môn Văn, vì:
+ Thứ nhất: Tính gia trưởng.
+ Thứ hai: Hay mơ mộng.
3 - Bạn Phương cho rằng học văn rất hữu ích, vì trong cuộc sống mình sử dụng văn
nhiều hơn toán.
- Câu nói, Thế nhưng mèo ở Việt Nam, 100 con thì tới 99 con có đôi mắt như hai
hòn bi ve! chỉ học sinh học theo văn mẫu/thụ động/…
4 - Học sinh có thể đồng tình hoặc không đồng tình, nhưng cần thể hiện qua một đoạn
văn ngắn từ 5-7 câu hợp lí.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ về vai trò, ý nghĩa của
việc học Ngữ văn ở bậc phổ thông ngày nay.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Suy nghĩ về vai trò, ý nghĩa của việc học Ngữ văn ở bậc phổ thông ngày nay.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa của việc học Ngữ văn ở bậc phổ thông ngày
nay. Có thể theo hướng sau:
- Trong trường, Ngữ Văn là môn học rất quan trọng vì nó góp phần giáo dục tư
tưởng, bồi dưỡng hoàn thiện nhân cách học sinh.
+ Mỗi bài thơ, bài văn, mỗi tác phẩm văn học trong chương trình học phổ thông là
một bài học đạo đức dành cho chúng ta.
+ Nếu không học môn văn thì làm sao thế hệ trẻ ngày nay hiểu được những tấm
gương chiến đấu ngoan cường của những chiến sĩ cách mạng, những người đã hy
sinh xương máu nhằm giành lại độc lập, tự do để bao thế hệ ngày sau được sống
yên vui, hạnh phúc?...
+ Học tốt môn văn, tâm hồn học sinh như được nuôi dưỡng bởi một liều thuốc bổ
để hoàn thiện nhân cách của mình.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 Nhân vật bà cụ Tứ:

* Đặt vấn đề:

- Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối, với nạn
đói khủng khiếp năm 1945. Kim Lân không miêu tả kĩ cái hiện thực tàn khốc của
nạn đói lúc bấy giờ mà tập trung thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài
xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cảnh ấy, họ vẫn nhen nhúm
niềm tin và hi vọng vào tương lai tươi đẹp.

- Trong Vợ nhặt xuất hiện ba nhân vật: Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt, thì bà cụ
Tứ - mẹ anh Tràng đã gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc hơn cả bởi tấm
lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh rất đáng trân trọng của bà.

* Triển khai:

- Bà cụ Tứ là một người phụ nữ nông thôn nghèo: Tài sản của bà chỉ mái nhà tồi
tàn ở xóm ngụ cư và đứa con trai khờ khạo.

- Hình dáng: Lọng khọng, xuất hiện vào một buổi chiều tàn tạ, trời chiều nhá nhem
của ngày đói cùng với tiếng hung hắng ho. Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời
điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa
câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này,
lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của
người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý
của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi
nhà của mình.

- Bà cụ Tứ là một người mẹ nhân hậu, vị tha, giàu yêu thương: Niềm khao khát
mong ước duy nhất của người mẹ là hi vọng con mình có vợ. Nhưng vì cái nghèo
quẩn quanh, đeo bám mà bà không có tiền cưới vợ cho con, điều này luôn là nỗi áy
láy thường trực trong trái tim người mẹ. Khi anh Tràng đưa người vợ nhặt về nhà,
tâm lí bà cụ đã có những thay đổi liên tục

- Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà
mình Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì ling tính
cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa
sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn
bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người
ấy lại đướng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?..
Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá
cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn
ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là
có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào.
Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như
vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà
thương mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết chóc
như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế
này bà không lo, không buồn sao được.

- Bà cụ Tứ là một người mẹ bao dung và thấu hiểu cuộc đời:

+ Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm
ra, đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà
thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi
không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho
người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm
vợ. Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong
lòng người đọc đến như vậy.

+ Diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín
hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ nhặt của đứa con, cũng
giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các
con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục:
Nhà ta nghèo, liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động
viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ,
ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau. Sự ân tình, chu đáo của người
mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận
người vợ mới của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.

+ Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm
dăm ba mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này
đã cho thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo.
Sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.
+ Hình ảnh nồi cháo cám ngày đói mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng
ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như
nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn
lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ
đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng
từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.

- Bà cụ Tứ là một người mẹ rất biết lạc quan: Bà kể toàn chuyện vui cho các con
nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng
ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục
được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.

* Đánh giá:

- Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân
thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm
1945. Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm
nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có
thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc.

- Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có
đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá
trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: Lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan
hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân
đã khám phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 24
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Người có thái độ tích cực nhìn cuộc sống bằng lăng kính lạc quan, màu sắc rực
rỡ, còn người tiêu cực lại chỉ thấy một màu xám xịt, ảm đạm.
2 - Thái độ sống tích cực chính là chìa khóa của hạnh phúc:
+ Thái độ sống tích cực sẽ làm cho con người luôn thấy lạc quan, dễ chịu, yêu đời...
đó là cảm xúc của hạnh phúc.
+ Thái độ tích cực sẽ dẫn đến hành động tích cực, như thế con người dễ đạt được
thành công.
3 - Học sinh có thể rút ra một trong những thông điệp:
+ Giá trị của thái độ sống tích cực
+ Hai thái độ sống khác nhau (tích cực và tiêu cực) sẽ mang lại những giá trị khác
nhau trong cuộc sống.
4 - Học sinh đặt được một nhan đề hợp lí.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về giá trị của việc sở hữu một thái độ sống
tích cực.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Giá trị của việc sở hữu một thái độ sống tích cực.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, giá trị của việc sở hữu một thái độ sống tích cực. Có
thể theo hướng sau:
- Giải thích: Thái độ sống tích cực là thái độ chủ động trước cuộc sống, được biểu
hiện thông qua cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động.
- Bàn luận, chứng minh:
+ Thái độ sống tích cực làm cho con người luôn chủ động trước mọi hoàn cảnh.
+ Người có thái độ sống tích cực luôn phấn đấu để đạt được ước mơ cho dù phải
đối diện với nhiều thử thách, khó khăn.
+ Thái độ sống tích cực giúp con người có khát vọng vươn lên khẳng định bản thân
và hoàn thiện mình.
+ Một thái độ sống tích cực là yếu tố quan trọng giúp con người đạt đến thành
công.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
* Đặt vấn đề:

- Vợ nhặt là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện
anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra
kinh khủng, người chết đói đầy đường. Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và
niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận
con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất
của câu chuyện chính là tính nhân đạo.

- Cho đến nay, nền văn học hiện đại Việt Nam ít có tác phẩm nào viết về nạn đói
năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn Vợ nhặt. Cảm hứng
nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện. Điều đó càng khẳng định vai trò
và vị trí của nhà văn Kim Lân trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

* Triển khai:

- Nhân đạo là lòng yêu thương con người, lên án những điều xấu xa, bất công tàn
bạo trong xã hội, là thái độ trân trọng những giá trị cũng như khả năng vươn lên của
con người. Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa, thương cảm đối với cuộc sống bi đát của
người dân nghèo trong nạn đói, qua đó nhà văn tố cáo tội ác tày trời của bọn thực
dân, phát xít đối với nhân dân ta.

- Truyện Vợ nhặt đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người
nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình,
đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma nằm ngổn
ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên như những
đám mây đen trên nền trời. Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người
chết đói như ngả rạ. Sáng nào cũng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.

- Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên
mảnh vườn đầy cỏ dại. Cửa nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa
bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng nén
một tiếng thở dài. Bà cụ Tứ mặt bủng beo u ám. Anh cu Tràng bước mệt mỏi, cái
đầu trọc nhẵn chúi về đàng trước với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ,
trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường không
buồn nhúc nhích. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái ngồi vêu ra. Đặc biệt
nhân vật thị, cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh
em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần
tả tơi như tổ đỉa. Thị gầy sọp hẳn đi, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, chỉ còn thấy hai
con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi
của thị tất cả. Chỉ nghe Tràng nói muốn ăn gì thì ăn, thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe
rích bố cu, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên. Tình tiết thị cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất
đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được
sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

- Cái xóm ngụ cư càng về chiều càng xơ xác, heo hút, nhà cửa úp súp, tối om, những
khuôn mặt hốc hác u tối. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo
cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể nhặt được. Thị lấy
chồng không một quả cau, không một lá trầu. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng,
nàng dâu mới khép nép, cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt. Tối tân hồn
tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thê thiết não
nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi dồn dập, vội vã.

- Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót
thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang
hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo
vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật - Pháp bắt trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân
ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị
chết đói.

- Truyện Vợ nhặt đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con
người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và
những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu tầm phơ tầm phào, Tràng
đãi thị bốn bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ. Nhặt được vợ nhưng hắn cũng
phải liều: Chặc, kệ !. Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn đèo bòng.
Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như
mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để
làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng phởn phơ khác thường. Hắn
tủm tỉm cười nụ. Hai mắt sáng lên lấp lánh. Có lúc cái mặt hắn cứ vênh lên tự đắc
với mình.
- Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông hay đáo để. Tràng khoe hai hào dầu, rồi
cười hì hì, bị thị phát đánh đét vào lưng với câu mắng yêu: Khỉ gió. Tràng nghển
cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ !. Những
tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.

- Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập
quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ,
thương con và thương minh, bà nhận nàng dâu mới: Ừ thôi thì các con đã phải
duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng. Tình thương của bà mênh mông, bà
nghĩ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được…Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là con.
Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy
nhau lúc này u thương quá…. Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân
lao động nghèo khổ đứng trước tai họa, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san
sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin
và hi vọng: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…. Người đọc cảm thấy ngọn đèn vàng đục
chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và
hạnh phúc ấm no.

- Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu
nhất trong truyện Vợ nhặt. Bà cụ Tứ gọi là chè khoán… ngon đáo để. Bà tự hào nói
với hai con là xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. Trong bữa cháo cám, bà
nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng
đầm ấm hòa hợp hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa
cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không bao giờ có thể quên được bữa
cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám đắng chát mà lại ngọt ngào chứa đựng
bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc
tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát
trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng
mẹ,… mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh bằng.

- Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của
người dân cay Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch
reo lên: Chồng vợ hài. Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy có một cái
gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ. Bà cụ Tứ vui
sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh rạng rỡ hẳn lên. Vợ
Tràng trở thành người đàn bà hiền hậu đúng mực. Tràng như từ một giấc mộng
bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy êm ái lửng lơ. Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc
hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải.

- Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước
thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín
nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sach. Mẹ chồng,
nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc.
Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời.
Tràng cảm thấy hắn đã nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ
con sau này !

- Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở
mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của
Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình lá cờ đỏ bay phấp
phới. Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện Vợ
nhặt không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn
động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

* Đánh giá:

- Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này,
chúng ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của
ông về cuộc sống của người nông dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm,
cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim Lân đối với những người lao động
nghèo khó trước Cách mạng

- Sự thành công của tác phẩm Vợ nhặt chính là kết quả của cây bút tài năng, gắn bó
sâu sắc với cuộc đời, biết yêu thương trân trọng giá trị của con người. Giá trị nhân
đạo được tiếp tục đề cao trong mỗi tác phẩm. Từ đó, cái tâm của người cầm bút
càng khẳng định được giá trị của mình.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 25
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Sức mạnh của tình yêu thương: giúp người khác vững tin hơn trong cuộc sống,
giúp người khác vượt qua gian khổ, nó cảm hóa và làm thay đổi những người sống
chưa tốt.
2 - Tình yêu thương đưa ta vượt lên trên những điều tầm thường:
+ Có tình thương, con người sẽ không ích kỷ, đố kị, tranh giành, giẫm đạp lên nhau
để sống.
+ Con người sẽ sống bao dung, vị tha hơn, nhân ái hơn.
3 - Phép điệp: tình yêu thương.
- Tác dụng: vừa tạo ra sự liên kết vừa nhấn mạnh ý nghĩa của tình yêu thương trong
cuộc sống.
4 - Học sinh có thể trả lời có hoặc không và lý giải thuyết phục.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình yêu
thương trong cuộc sống.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Ý nghĩa của tình yêu thương trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa của tình yêu thương trong cuộc sống. Có thể
theo hướng sau:
- Giải thích: Tình yêu thương là sự đồng cảm, giúp đỡ, chia sẻ giữa người với người
trong cuộc sống.
- Bàn luận, chứng minh:
Tình yêu thương trong cuộc sống có ý nghĩa:
+ Mang đến cho con người niềm vui, sự ấm áp và hạnh phúc.
+ Làm vơi đi những khổ đau, bất hạnh và khiến cho con người có niềm tin vào cuộc
sống.
+ Có khả năng cảm hóa những con người lầm lạc để họ trở thành một người tốt.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
* Đặt vấn đề:

- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng
là người mở đường tinh anh và tài năng (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn
học từ sau 1975. Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, đậm
tính chiến đấu và thiên hướng trữ tình lãng mạn, thời kì sau chuyển sang cảm hứng
thế sự cùng những vấn đề triết lí nhân sinh.

- Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong thời
kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng, qua đó thể
hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về vấn đề nghệ thuật và cuộc sống. Những phát hiện
của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng làm nổi bật tư tưởng của nhà văn.

* Triển khai:

- Phát hiện thứ nhất: Bức danh họa mực Tàu thời cổ điển – vẻ đẹp tuyệt đỉnh của
ngoại cảnh: Đó là bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa, một cảnh đắt trời cho, một bức
họa kì diệu mà thiên nhiên ban tặng cho người nghệ sĩ sau nhiều ngày phục kích.

+ Bức tranh ấy ghi lại cảnh bình minh trên biển với hình ảnh một chiếc thuyền lưới
vó từ từ cập bến: Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù
trắng như sữa có pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào; vài bóng người lớn
lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum, đang hướng
mặt vào bờ.

+ Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp một vẻ đẹp
thực đơn giản và toàn bích

- Thiên nhiên mang vẻ đẹp mỹ lệ, khoáng đạt của một vùng phá nước mênh mông,
trên nền bức tranh thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên làm cho bức tranh sống
động và có hồn hơn.

- Cảm nhận của người nghệ sĩ:

+ Đứng trước tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối và xúc động mãnh
liệt trong trái tim như có cái gì bóp chặt vào. Tâm hồn anh rung động thực sự, cảm
xúc thẩm mĩ dâng trào.

+ Phùng khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá cái khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn và bản thân cái đẹp chính là đạo đức. Cái đẹp có sức mạnh
kì diệu, có thể thanh lọc(Arixtốt) tâm hồn con người, cái đẹp luôn đi liền với cái
chân và cái thiện.

+ Trong khoảnh khắc ấy, anh bấm máy liên tục để thu lại cái khoảnh khắc hạnh phúc
tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại.

- Ý nghĩa:

+ Niềm hạnh phúc tột đỉnh của người nghệ sĩ chân chính là khám phá và sáng tạo
nghệ thuật, cảm nhận được cái đẹp tuyệt diệu của cuộc sống.

+ Nghệ thuật chân chính chỉ có thể tạo nên từ lao động nghệ thuật nghiêm túc, kiên
trì và lòng say mê, nhiệt huyết của người nghệ sĩ.

+ Phùng là một nghệ sĩ tài hoa, tâm hồn nhạy cảm, tràn đầy đam mê và tâm huyết
với nghệ thuật.

- Phát hiện thứ hai là hiện thực cuộc sống đầy bất ngờ và nghịch lí của một gia đình
ngư phủ: Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là đôi vợ chồng thuyền chài.

+ Người vợ xấu xí, mệt mỏi trạc ngoài bốn mươi tuổi, thân hình cao lớn với những
đường nét thô kệch, rỗ mặt, lưng áo bạc phếch và rách rưới, khuôn mặt mệt mỏi, tái
ngắt và buồn ngủ. Chị ta là hiện thân của sự nghèo khổ, lam lũ, vất vả, cam chịu.

+ Người chồng to lớn, đầy dữ dằn với tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc
thuyền, mái tóc tổ quạ, chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày
cháy nắng rủ xuống hai con mắt độc dữ. Cuộc sống đói nghèo, lam lũ in hằn trên
dáng vẻ khắc khổ của người đàn ông này.

- Nghệ sĩ Phùng đã chứng kiến một cảnh tượng vô cùng tàn nhẫn:

+ Người chồng tức giận, thẳng tay đánh vợ không thương tiếc. Lão ta hùng hổ, mặt
đỏ gay, rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa quật tới tấp
vào lưng người đàn bà. Hắn vừa trút cơn giận như lửa cháy, vừa thở hồng hộc,
nghiến răng ken két. Hắn nguyền rủa bằng giọng rên rỉ, đau đớn: Mày chết đi cho
ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ. Trông hắn chẳng khác gì một gã đàn
ông vũ phu, thô bạo.

+ Còn người vợ nhẫn nhục, chịu đựng đầy tội nghiệp. Chị ta không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn. Khi thấy đứa con đánh lại cha nó,
chị vái lấy vái để thằng bé, rồi lại ôm chầm lấy nó, nước mắt lăn dài đầy đau khổ.
Người đàn bà khốn khổ ấy vì thương con nên chị sợ cảnh tượng đau lòng ấy làm tổn
thương tâm hồn đứa trẻ.

+ Đứa con trai (thằng Phác) vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái tát
tai ngã dúi xuống cát. Rồi trước nỗi đau khổ của người mẹ, nó lặng lẽ đưa mấy ngón
tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ để lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong
những vết rỗ chằng chịt.

- Cảm nhận của người nghệ sĩ:

+ Phùng kinh ngạc đến sững sờ, anh đứng há hốc mồm ra mà nhìn, có lúc tưởng như
chết lặng trước cảnh tượng ấy đau lòng ấy. Anh không thể tin vào mắt mình, không
thể ngờ rằng sau cái đẹp toàn bích, kì diệu của tạo hóa kia là cái xấu, cái ác chứ
không phải là cái thiện. Cảm giác hụt hẫng khi người nghệ sĩ ấy vừa mới đây thôi
còn đang hạnh phúc ngập tràn với phát hiện của mình thì giờ đây như sụp đổ tất cả.

+ Anh phẫn nộ trước cái ác nên vứt máy ảnh, chạy nhào đến để can ngăn, bảo vệ
công lí.

- Ý nghĩa:

+ Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà rất phức tạp, chứa đựng nhiều bất ngờ,
nghịch lí cho nên, không nên vội đánh giá con người, sự vật ở hình thức bên ngoài
mà phải phát hiện bản chất bên trong. Nhà văn cần phải thận trọng khám phá bằng
cái nhìn đa diện, nhiều chiều.

+ Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: Nghệ thuật chân chính luôn bắt nguồn
từ cuộc đời và phải luôn gắn bó với cuộc đời, vì cuộc đời. Nói cách khác, nghệ thuật
phải có giá trị hiện thực sâu sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Đó là sứ mệnh
của nghệ thuật nghệ thuật vị nhân sinh.

* Đánh giá:

- Chiếc thuyền ngoài xa là một hình ảnh ẩn dụ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc đời: nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời, phải đi sâu vào cuộc đời chứ không
thể nhìn nó một cách hời hợt bên ngoài, hay nhìn nó “ngoài xa”. Ở xa thì nhìn thấy
nó rất đẹp, nhưng khi đến gần, hoặc đi sâu vào bên trong mới phát hiện biết bao điều
oái oăm, ngang trái.

- Những phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng rất độc đấo, qua đó truyền tải những
bức thông điệp của nhà văn. Nguyễn Minh Châu từng phát biểu: Sáng tác văn học
là quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người. Thông điệp phát đi từ
hình tượng Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của nghệ sĩ Phùng là sự bổ
sung hết sức thuyết phục cho thông điệp đó.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 26
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Theo tác giả, trên thế giới này có quá nhiều sách dạy con người tương tác và giao
tiếp nhưng lại thiếu loại sách dạy chúng ta làm thế nào để đối thoại với chính mình.
2 - Tác giả cho rằng, biết được bản thân cần gì, bạn mới biết được người khác cần gì
vì phải hiểu rõ nhu cầu của bản thân mới đủ sâu sắc để hiểu được nhu cầu của người
khác. Không hiểu rõ bản thân mình cần gì sẽ khó có được sự cảm thông để hiểu nhu
cầu của người khác.
3 - Học sinh có thể tự rút ra cho mình thông điệp ý nghĩa sâu sắc phù hợp và bình luận
ngắn gọn về thông điệp ấy. Sau đây là một số gợi ý:
+ Hãy cố gắng hiểu mình sâu sắc để biết thêm yêu bản thân và mọi người xung quanh
+ Đừng sống thờ ơ, vô cảm mà hãy biết cảm thông, yêu thương và thấu hiểu người
khác.
4 - Học sinh đặt được một nhan đề khác phù hợp với nội dung của văn bản.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về ý nghĩa của việc hiểu mình và hiểu
người.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Ý nghĩa của việc hiểu mình và hiểu người.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, ý nghĩa của việc hiểu mình và hiểu người. Có thể theo
hướng sau:
- Giải thích hiểu mình và hiểu người là biểu hiện cao của trí tuệ:
+ Hiểu mình là biết rõ những ưu điểm, nhược điểm của mình, hiểu rõ những gì mình
thật sự yêu thích và mong muốn cũng như những điều khiến mình không hài lòng
trong cuộc sống.
+ Hiểu người là phát hiện chính xác nhu cầu, mục đích, nỗi lo lắng, hi vọng, cách
nhìn thế giới, các mối quan tâm, hiện trạng cảm xúc... của người đó.
- Bàn luận:
+ Hiểu mình và hiểu người là một trong những điều kiện quan trọng giúp chúng ta
biết cách ứng xử và giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Hiểu người, để rồi đáp
ứng đúng nhu cầu, sở thích của người thì kết quả là cũng được người đáp ứng mọi
điều mình mong muôn.
+ Nếu không hiểu mình, hiểu người thì mọi suy nghĩ của ta chỉ là áp đặt hoặc hời
hợt, mọi vấn đề gặp phải đều khó giải quyết thấu đáo.Hiểu mình để có cái nhìn cảm
thông với người khác và hiểu được tất cả những điều người khác nghĩ.
- Phê phán những con người sống ích kỉ, hời hợt, vô tâm, không hiểu mình và cũng
không hiểu người, sống lạnh nhạt với mọi vấn đề trong cuộc sống.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 * Đặt vấn đề:

- Nguyễn Minh Châu là cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông
là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự
thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của
ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách.

- Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với
vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc
sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh
khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là
hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ
nữ.

* Triển khai:

- Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu
chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng
về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà
án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn
trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

- Người đàn bà không có lấy một cái tên cụ thể. Tác giả đã gọi một cách phiếm định:
khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta. Không phải
ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này,
cũng không phải nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên
mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là
người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người
phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.

- Ngoại hình và tuổi tác: Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí
tàn tạ trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn
với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức
trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam
lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

- Người đàn bà hàng chài là một phụ nữ có số phận Bất hạnh: Cái nghèo và sự cơ
cực đã đeo bám chị đến suốt cuộc đời. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều
trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn
roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh
mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ: có mang với một
anh hàng chài đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên
biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì
chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng.

- Nổi bật nhất ở hình ảnh người đàn bà hàng chài là một người mẹ giàu lòng yêu
thương, đức hi sinh và vị tha. Bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí,
thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp.

+ Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó
như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van,
không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng
vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển
không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết
nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người
đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình
thương con vô bờ bến của chị. Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống.
Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm
bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn
hơn phải bỏ chồng: Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng
đừng bắt con bỏ nó. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: Cần có
chồng để cùng nuôi những đứa con. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình,
không để các con bị tổn thương.

+ Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn
có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu
nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người
vợ, lão từng là: anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập
tôi. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ
của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn
mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.

- Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Bà
hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ
phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước: Đám đàn bà hàng
chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba.
Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng
vũ phu tàn bạo.

- Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là người đàn bà, có lẽ không phải
chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn
bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên
một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống
của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp
được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái
nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn
bà này có lẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa.

* Đánh giá:

- Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công hình ảnh người đàn bà hàng chài với
những nét thô kệch về ngoại hình nhưng lại mang vẻ đẹp rất đời thường. Qua người
đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam
nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

- Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,đơn giản trong
việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,không thể có cái nhìn một
chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi
sau năm 1975 mà NMC chính là người khởi xướng.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 27
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Nếu bạn lo buồn hay gặp bất trắc thì ít nhất, thầy cô, cha mẹ, bạn bè đều cảm thấy
xót xa, lo lắng cho bạn.
2 - Hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân, riêng tư mà còn ảnh hưởng, tác động đến
nhiều người khác, từ cha mẹ, thầy cô, bạn bè tới cả những người xa lạ.
3 - Tác dụng:
+ Nhấn mạnh những quan niệm khác nhau về hạnh phúc của con người
+ Nhắn nhủ con người phải biết hài hòa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc tập thể để
có hạnh phuc trọn vẹn.
4 - Học sinh nêu ra quan điểm của mình có thể đồng ý hoặc không đồng ý.
+ Đồng ý: Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội nên mỗi con người là một
mắt xích, dù rất nhỏ nhưng đều gắn kết và ảnh hưởng nhất định đến người khác.
+ Không đồng ý: Phải lí giải được quan điểm của mình.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể
trong cuộc sống con người.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống con người.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống
con người. Có thể theo hướng sau:
- Giải thích: Cá nhân: những con người cụ thể tồn tại và hoạt động không chỉ là một
thực thể tự nhiên mà còn là một thực thể xã hội. Tập thể: tập hợp của những cá nhân
trong xã hội
- Vai trò của tập thể với cá nhân: Môi trường để con người bộc lộ tài năng; Được
đồng cảm, sẻ chia khi gặp khó khăn; Tạo áp lực để mỗi cá nhân phấn đấu.
- Vai trò của cá nhân với tập thể: Là nhân tố quan trong làm nên tập thể; Quyết định
thành công hay thất bại của tập thể
- Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể: Gắn bó khăng khít, tác động qua lại nhau,
mỗi cá nhân đều cần tập thể và tập thể cũng cần các cá nhân.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 * Đặt vấn đề:

- Nguyễn Minh Châu là một nhà văn, một cây bút tiên phong của văn học Việt Nam
thời kì đổi mới với quan điểm sáng tác: học và đời sống là những vòng tròn đồng
tâm mà tâm điểm là con người. Con người trong cuộc sống là tiêu điểm mà Nguyễn
Minh Châu rất quan tâm, tìm tòi, khám phá những điều thú vị, mới mẻ. Và nói về
con người thì toàn bộ sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu là một bài ca tràn
đầy cảm hứng nhân đạo nồng nhiệt.

- Chiếc thuyền ngoài xa là sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới
sau 1975. Đây là một trong những tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo và toát
lên tính triết lí sâu sắc về cuộc sống, về con người Việt Nam thời hậu chiến.

* Triển khai:

- Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trước nhất thể hiện ở thái
độ cảm thông của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với cuộc sống của những con
người nghèo khổ nơi vùng biển.

+ Nhà văn xót xa trước cảnh nghèo khổ, đông con của những gia đình hàng chài:
nhà nào cũng trên dưới chục đứa phải sống chen chúc nhau trong những chiếc
thuyền lưới vó chật hẹp.Vào những vụ bắc, biển động hàng tháng, thuyền không ra
biển được cả nhà vợ chồng con cái phải ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối.

+ Nhà văn hết sức cảm thông trước tình cảnh người đàn bà hàng chài thường xuyên
bị chồng đánh đập: khuôn mặt mệt mỏi, tấm lưng áo bạc thếch và rách rưới. Hơn
thế nữa, nhà văn còn muốn bênh vực cho chị, không muốn chọ bị chồng đánh đập
tàn nhẫn. Vì vậy, trong tác phẩm, ít nhất hai lần tác giả đã để cho Phùng xông ra
bênh vực cho chị đến nỗi anh phải bị thương.

+ Nhà văn cũng cảm thông với tình cảnh của người chồng vũ phu: Cũng chính vì
cuộc sống quá nghèo khổ lại phải lao động vất vả để nuôi cả một gia đình đông con
nên anh con trai cục tính những hiền lành, không bao giờ biết đánh vợ xưa kia, giờ
đã trở thành một người chồng vũ phu thường xuyên đánh vợ tàn nhẫn ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.

- Thứ hai, giá trị nhân đạo của Chiếc thuyền ngoài xa còn thể hiện ở sự khẳng định,
ngợi ca vẻ đẹp của con người nghèo khổ, bất hạnh và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt
đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của tình mẫu tử (những đau khổ, tủi nhục đến cùng cực,
những niềm vui nhỏ nhoi tội nghiệp của người mẹ đều xuất phát từ con). Trong hoàn
cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của đức
hi sinh thầm lặng

+ Hình ảnh người đàn bà xấu xí nhẫn nhục vẫn lóe lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng
liêng, một vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển còn đói
nghèo, lạc hậu.

+ Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện một cái nhìn
rất nhân đạo về con người. Ông đã phát hiện và khẳng định nhiều phẩm chất cao đẹp
ở người phụ nữ có cái vẻ bên ngoài xấu xí và cam chịu, nhẫn nhục này.

+ Bằng một cái nhìn đa dạng, nhiều chiều và sâu sắc, Nguyễn Minh Châu đã giúp ta
cảm nhận được một tấm lòng vị tha và giàu đức hi sinh của chị. Đối với chồng, mặc
dù bị ngược đãi, người vợ vẫn chịu đựng và cảm thông chứ không hề trách móc hay
lên án, tố cáo. Đối với con, chị là người mẹ giàu đức hi sinh. Chị nói: đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình. Chị đã chấp nhận
sự khổ đau để hi sinh cho cuộc sống của đàn con.

- Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa còn thể hiện ngay trong
quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: Nghệ thuật chân chính phải gắn với
cuộc và vì cuộc đời, vì con người.

+ Cách kết thúc tác phẩm đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Là tấm ảnh đen trắng
nhưng mỗi lần nhìn vào Phùng đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương
mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh.

- Ngoài ra, tư tưởng nhân đạo còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra vấn đề: Làm
thế nào để giải phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống con
người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ. Phải cần những giải pháp thiết thực
chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn, cần
rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống.

* Đánh giá:
- Tóm lại, giá trị nhân đạo trong Chiếc thuyền ngoài xa chính là tấm lòng yêu thương,
thông cảm, băn khoăn, trăn trở của Nguyễn Minh Châu trong việc phát hiện đời sống
và con người ở bình diện đạo đức thế sự.

- Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day dứt về thân phận con người và tràn
đầy khát vọng làm người cao đẹp. Đó chính là quan điểm nghệ thuật mà tác giả muốn
gởi gắm với mọi người: Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời, nghệ
thuật phải gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời, vì con người.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 28
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Những cái cây chỉ biết hút và tận hưởng giống như những người chỉ sử dụng thời
gian để lớn lên, hưởng những thú vui đời thường và rồi những thách thức cuộc đời
sẽ đánh gục họ, khiến họ phải đau khổ, thậm chí sự sống có thể bị đe doạ.
2 - Câu văn khẳng định vai trò, tầm quan trọng của việc sử dụng thời gian. Con người
muốn tồn tại trong xã hội cạnh tranh khốc liệt hiện nay cần biết sử dụng thời gian
hợp lí để đầu tư cho sự phát triển của bản thân.
3 - Hình ảnh cây sồi Tenere với bộ rễ đâm sâu xuống lòng đất để tìm kiếm nguồn nước
là biểu tượng cho những người biết tranh thủ thời gian để học tập mọi kĩ năng và
kiến thức cần thiết để sinh tồn.
- Hình ảnh những cây chỉ biết “hút và tận hưởng” là biểu tượng cho những người chỉ
biết lãng phí thời gian vào những việc vô bổ và hưởng thụ lạc thú của cuộc đời mà
không biết lo xa, phòng bị trước cho bản thân.
4 - Có thể lựa chọn một trong các thông điệp sau:
+ Thông điệp về thái độ sống biết lo xa, phòng trước mọi biến cố không may trong
cuộc đời.
+ Thông điệp về việc tranh thủ thời gian để học hỏi mọi kiến thức và kĩ năng cần
thiết.
II LÀM VĂN
1 Trình bày suy nghĩ về ý kiến: Bạn khó có thể thành công nếu không có sự chuẩn
bị tốt về kỹ năng và kiến thức nền tảng.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Bạn khó có thể thành công nếu không có sự chuẩn bị tốt về kỹ năng và kiến thức nền
tảng.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, bạn khó có thể thành công nếu không có sự chuẩn bị
tốt về kỹ năng và kiến thức nền tảng. Có thể theo hướng sau:
- Giải thích:
+ Thành công: Là có được thành quả, đạt được những mục đích mà mình đặt ra.
+ Kỹ năng: Là khả năng thích nghi, ứng phó và giải quyết các tình huống thực tiễn.
+ Kiến thức: Là những hiểu biết có được từ sách vở và đời sống thông qua quá trình
học tập, trải nghiệm.
-> Ý kiến khẳng định: muốn có được thành công trong cuộc sống cần phải chuẩn bị
tốt cả về kỹ năng và kiến thức cơ bản.
- Bàn luận:
+ Thành công luôn là đích đến của mỗi người trong cuộc sống. Cuộc sống luôn có
những khó khăn, thuận lợi chia đều cho mỗi người, vì vậy cần biết vượt qua những
khó khăn, tận dụng những thuận lợi để đạt được mục đích của mình.
+ Kỹ năng và kiến thức chính là nền tảng để có được thành công.
- Mở rộng: Chuẩn bị tốt kiến thức, kĩ năng nền tảng phải gắn liền với việc thực hành
những kiến thức và kĩ năng ấy mới đem lại hiệu quả cao.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 * Đặt vấn đề:

- Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa, uyên bác. Cái
đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ sĩ đích thực,
bằng cái nhìn phát hiện và đầy sáng tạo. Người lái đò sông Đà là một trong những
bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà (1960). Đây là
thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi thực
tế Tây Bắc năm 1958.

- Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc, đồng thời thể
hiện tình yêu tha thiết của tác giả với đất nước, con người và cuộc sống. Hình tượng
con sông Đà được nhà văn cảm nhận và miêu tả như một sinh thể sống động với
những nét tính cách đối lập mà thống nhất nhau: Hung bạo và trữ tình.

* Triển khai:

- Lai lịch: Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy theo hướng tây
bắc - đông nam đi qua một vùng núi ác đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt
Nam. Sông Đà chảy qua các tỉnh Tây Bắc Việt Nam là Lai Châu, Điện Biên, Sơn
La, Hòa Bình, Phú Thọ, có tổng cộng 73 con thác dữ và dài 883 kilomet.

- Tính thơ mộng:

+ Con Sông Đà hiện lên như mụ dì ghẻ, một thứ kẻ thù số một của con người. Hướng
chảy độc đáo, ngang ngược, chảy theo hướng Bắc: Chúng thủy giai đông tẩu, Đà
giang độc bắc lưu (Mọi con sông đều chảy theo hướng đông, chỉ có sông Đà chảy
theo hướng bắc – Thơ Nguyễn Quang Bích)

- Đá sông Đà:
+ Vách đá bờ sông dựng vách thành và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy
lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo nhiều cáchMặt sông chỗ ấy chỉ
lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ
tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách, ngồi trong khoang
đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một
cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào
vừa tắt phụt đèn điện.

+ Cách so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Thủ pháp miêu tả bằng
cảm giác gợi cho người đọc hình dung ra cảnh tượng đá bờ sông ghê rợn, hiểm trở
nhưng không kém phần hùng vĩ.

- Đá ở lòng sông:

+ Đá được mai phục hàng ngàn năm, trắng xóa cả chân trời đá, mặt hòn nào trông
cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó, đứng, nằm, ngồi tùy theo sở thích, bày thành
thạch trận (trận địa bằng đá): xếp thành từng tuyến, đám đá tảng đá hòn chia làm ba
hàng trên sông tạo thành ba trùng vi thạch trận ít cửa sinh, nhiều cửa tử, biết dụ, biết
khiêu khích, giở những ngón đòn hiểm hóc, phối hợp với sóng thác để tiêu diệt con
người.

+ Bằng thủ pháp nhân hóa, phóng đại, kết hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực, đá không
còn là những vật vô tri vô giác mà hiện lên hêt sức sống động, có hồn, tô đậm cái
dữ dội, hiểm trở của sông Đà. Cuộc thủy chiến của người lái đò và sông Đà ở thạch
trận này càng làm nổi bật tính hung bạo của con sông và tài nghệ của con người lao
động.

- Nước sông Đà:

+ Những cái hút nước sâu ghê rợn như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn
bị làm móng cầu, mặt hút xoáy tít đáy, quay lừ lừ như cánh quạ đàn

+ Âm thanh: vừa thở vừa kêu như cửa cống cái bị sặc, lúc thì ặc ặc lên như vừa rót
dầu sôi vào, chực chờ nuốt chửng mọi con thuyền. Có những thuyền đi qua bị nó hút
tụt xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược, bị dìm, rồi vụt biến đi đến mười phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.

+ Phép so sánh, nhân hóa, phóng đại được sử dụng triệt để và linh hoạt gợi ra hình
ảnh những cái hút nước hết sức nguy hiểm.
- Ghềnh và thác sông Đà:

+ Quãng ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm … Bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn
đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, giàu hình ảnh, gợi ra con sông Đà
cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

+ Dữ dội nhất là những thác đá. Tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi như van
xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, rồi nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

- Bằng những hiểu biết sâu rộng, kết hợp nhiều kiến thức mượn ở các ngành, các bộ
môn trong và ngoài nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà hung bạo nổi
bật lên như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên
Tây Bắc. Con sông Đà đã hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con
người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò sông Đà. Từ đó, ta
thấy được sự lao động nghiêm túc, cần cù của người nghệ sĩ và niềm tự hào của tác
giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp.

- Tính trữ tình:

+ Dòng sông Đà không chỉ có những dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh
trên sông đá mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người.

- Dáng hình: Từ trên tàu bay nhìn xuống con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo …

- Màu nước: Sắc nước dòng sông thay đổi theo mùa. Sông Đà mỗi mùa mang một
vẻ đẹp riêng, gợi cảm và nên thơ:

+ Mùa xuân xanh màu ngọc bích, khác với sông Gâm, sông Lô màu xanh canh hến.

+ Mùa thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa …

- Cảnh bờ sông:

+ Vắng lặng, hoang sơ: Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch
sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ như từ Lí, đời Trần, đời Lê. Hình ảnh so sánh giàu
tính biểu cảm gợi ra vẻ thơ mộng, tĩnh lặng của sông Đà.
+Trù phú, màu mỡ: Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh
quan hai bên bờ tràn trề sức sống: nương ngô nhú lên những nõn búp, bầy hươu
ngốn búp cỏ gianh đẫm sương, cá dầm xanh quẫy nước,…

- Tình cảm của tác giả: gắn bó, yêu mến, xa thấy nhớ, gặp lại thì vui mừng như nối
lại chiêm bao đứt quãng.

- Dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên thật sinh
động với hai tính cách hung bạo và trữ tình chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính
và gắt gỏng, thác lũ ngay đấy. Ẩn đằng sau những câu chữ là niềm tự hào của nhà
văn về đất nước giàu đẹp.

* Đánh giá:

- Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút Người lái đò sông Đà
chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác
quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực
tài hoa.

- Dòng sông Đà hung bạo và trữ tình chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như
niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.
Đây cũng chính là cách để tôn vinh, ca ngợi con người vì chính nơi đầu sóng ngọn
gió ác liệt ấy, con người lao động đã chinh phục vá chế ngự thiên nhiên để ngày nay
sông Đà trở thành nguồn tài nguyên cho đất nước.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 29
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Người có tính khiêm tốn có biểu hiện:
+ Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm,
trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm nữa.
+ Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân
mình trong hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm
thường, không đáng kể, luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa.
2 - Biện pháp liệt kê: tự cho mình là kém, phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, học hỏi
thêm.
- Tác dụng: Diễn tả được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những biểu hiện của lòng khiêm
tốn.
3 - Tài nghệ của mỗi người quan trọng nhưng hữu hạn, bé nhỏ như những giọt nước
trong thế giới rộng lớn, mà kiến thức của loài người lại mênh mông như đại dương
bao la. Vì thế cần khiêm tốn để học hỏi.
4 - Đồng tình với quan điểm trên:
+ Tài năng là cái vốn có, nó chỉ thực sự phát huy khi ta có kiến thức và vận dụng
kiến thức vào thực tiễn.
+ Kiến thức là đại dương, không chỉ vậy mỗi ngày lượng kiến thức mới lại có thêm.
Bởi vậy chúng ta cần liên tục trau dồi để làm phong phú tri thức của bản thân.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Khiêm tốn là
một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành công trên đường đời.”
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Suy nghĩ về ý kiến: Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành
công trên đường đời.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai
muốn thành công trên đường đời. Có thể theo hướng sau:
- Giải thích vấn đề:
+ Khiêm tốn: là đức tính nhã nhặn, nhún nhường, không để cao cái mình có và luôn
coi trọng người khác.
+ Thành công là là đạt được kết quả như mong muốn, thực hiện được mục tiêu đề
ra.
-> Khiêm tốn và thành công có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ khi bạn có lòng
khiêm tốn mới đạt được thành công thực sự trên đường đời.
- Bàn luận vấn đề:
+ Cá nhân dù có tài năng đến đâu cũng chỉ là giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao
la. Bởi vậy cần học nữa, học mãi để làm đầy, làm phong phú vốn tri thức, sự hiểu
biết của bản thân.
+ Chúng ta đạt được thành công mà không khiêm tốn dẫn đến thói tự cao, tự đại, đề
cao thái quá thành tích của bản thân, không chịu tiếp tục cố gắng, tất yếu sẽ dẫn đến
thất bại.
+ Khi đạt được thành công bước đầu, nếu có lòng khiêm tốn, không ngừng học hỏi
thêm chúng ta sẽ đạt được thành công lớn hơn, vinh quang hơn.
+ Khiêm tốn là biểu hiện của con người biết nhìn xa, trông rộng, hiểu mình, hiểu
người.
+ Phê phán những kẻ thiếu khiêm tốn, luôn tự cao tự đại, cho mình tài giỏi hơn
những người khác.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
* Đặt vấn đề:

- Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc
sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của
ông là tuỳ bút Người lái đò Sông Đà.

- Tác phẩm đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà. Đó chính là thứ
vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.

* Triển khai:

- Người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi
chục năm. Nhưng mười năm người lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông
lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại
như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù.

- Ông lái đò sông Đà là một người từng trải:

+ Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng
trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: Người lái đò còn là một
linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên
sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu
chục lần… Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng Sông Đà với bảy mười
ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những
luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, Sông Đà đối với ông lái
đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm
than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn
nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái
đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với
nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục
của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác
hung dữ ở Sông Đà

- Ông lài đò sông Đà là một người có lòng dũng cảm:

+ Ông lái đò là người có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết
đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở
đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng
sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên
chiến trường Sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận Sông Đà. Đó chính là
cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận
đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một .

+ Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình. Khi Sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là
nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước
vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí
như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương,
người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo
bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.

- Ông lái đò còn là một nghệ sĩ tài hoa:

+ Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò Sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ
tài hoa. Trong Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng
người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Ông lão lái đò vừa
thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh
như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự
phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như
chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh
bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá
anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như
mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.

- Nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhân vật chính diện luôn
được nhà văn chú ý mô tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước cách mạng
tháng Tám 1945, theo Nguyễn Tuân, cái tài hoa chỉ có ở lớp nhà nho trong quá khứ
thì nay, trong Người lái đò Sông Đà và nhiều tác phẩm khác, tác giả đã tìm thấy và
khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động, trong
hiện tại của đất nước.

* Đánh giá:

- Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài
hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ
thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài
hoa của người dân lao động nơi đây.

- Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang
vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu
như thiên nhiên Sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là kẻ thù số một của con
người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị
con người vào lao động.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 30
Ph Nội dung
ần
/C
âu
I ĐỌC HIỂU
1 - Quá trình nhận thức của giáo sĩ người Anh:
+ Khi còn trẻ giáo sĩ mơ ước thay đổi cả thế giới, rồi thu hẹp ước mơ thay đổi đất nước, hẹp
hơn nữa là muốn thay đổi gia đình và người thân.
+ Nhưng đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời thì ông nhận ra điều quan trọng nhất
là phải thay đổi chính bản thân mình.
2 - Câu nói hàm chứa chủ đề của cả đoạn: Những người không hiểu biết nhiều về con người
thường lãng phí cả cuộc đời tìm kiếm hạnh phúc, bằng cách thay dổi mọi thứ mà quên mất
phải thay đổi chính con người mình.
3 - Sở dĩ giáo sĩ người Anh phải điều chỉnh mực đích sống và ước mơ của mình là vì: Những
ước mơ đó đều là hảo huyền, thiếu thực tế. Nó vượt ra ngoài khả năng của bản thân và không
thể thực hiện được chỉ với mong muốn cá nhân.
4 - Theo tác giả, trong các mối quan hệ xã hội, thì cần xuất phát từ bản thân để lí giải các vấn
đề, thay đổi các khuyết điểm của bản thân, thay đổi chính bản thân mình. Vì có thay đổi bản
thân thì mới thay đổi được cả thế giới này.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về quan điểm: “Hãy thay đổi bản
thân mình trước khi nghĩ đến việc thay đổi mọi thứ ở ngoài kia”.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích
hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Hãy thay đổi bản thân mình trước khi nghĩ đến việc thay đổi mọi thứ ở ngoài kia.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều
cách nhưng phải làm rõ, hãy thay đổi bản thân mình trước khi nghĩ đến việc thay đổi mọi thứ
ở ngoài kia. Có thể theo hướng sau:
- Giải thích nội dung quan điểm: “hãy thay đổi bản thân mình trước khi nghĩ đến việc thay
đổi mọi thứ ngoài kia”.
+ Khẳng định mọi người phải luôn đề cao sự tự ý thức cá nhân, phải tự đánh giá quan sát
phán xét bản thân về mọi mặt như về ưu điểm, nhược điểm, năng lực, hạn chế, hành vi đúng,
sai của bản thân.
+ Tự ý thức giúp ta hoàn thiện bản thân, có khẳ năng thích ứng tốt với cuộc sống trước, sau
đó mới tùy theo sức mà nghĩ tới chuyện thay đổi thế giới ngoài kia.
- Phân tích chứng minh:
+ Ngày còn bé, ta thường chỉ muốn mọi người phải làm theo ý mình. Nếu không được đáp
ứng ta giận dỗi khóc lóc. Nhưng khi trưởng thành chúng ta nhận ra rằng chỉ đòi hỏi người
khác hoặc làm theo ý riêng của mình thì dễ khiến bản thân mình rơi vào bế tắc, phiền muộn.
Cho nên muốn người khác thay đổi cho vừa ý ta là một yêu cầu vô lí. Bởi vậy muốn mọi sự
tốt đẹp bản thân chúng ta phải nên thay đổi trước khi đòi hỏi người khác thay đổi.
+ Tuy nhiên, khi chúng ta cố gắng thay đổi để cuộc sống tốt hơn mà người khác vẫn cố tình
không thay đổi thì dễ dẫn đến những bất công ngang trái khổ đau. Hơn nữa, nếu mọi thứ
trong cuộc sống đến với bạn quá dễ dàng và thuận lợi thì bạn cũng chẳng nhìn ra giá trị lao
động, không trân trọng những giá trị mình làm ra. Vì thế mà cuộc sống càng nhiều chông gai,
thử thách thì bạn càng có nhiều cơ hội khám phá để thành công.
+ Bàn luận: Chỉ có sự tự ý thức về bản thân thì ta mới xử lí tốt các mối quan hệ xã hội, mới
đánh giá được người khác và bản thân, để ngày càng hoàn thiện. Mỗi người có một sự tự ý
thức thì cuộc sống xã hội dần dần trở nên tốt đẹp hơn. Đó chính là lúc để ta có cơ hội thay
đổi người thân, bạn bè, thế giới.
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo:
Thể hiện sâu sắc vấn đề cần nghị luận, có những phát hiện mới mẽ.
* Đặt vấn đề

- Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937) là nhà văn chuyên viết bút kí, được đánh giá là một trong
những nhà văn viết kí hay nhất nước ta (Nguyên Ngọc). Ông có vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh
vực, nhất là lịch sử, địa lí, văn hóa Huế. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Hoàng
Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận
sắc bén với suy tư đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng
tên của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương,
sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó, nhà văn
bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho Xứ Huế thân yêu và
cũng là cho đất nước.

* Triển khai:

- Sông Hương ở thượng nguồn: Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một bản trường
ca của rừng già.

+ Có lúc rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy qua đại ngàn, qua ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc
vào những đáy vực sâu.

+ Cũng có lúc dịu dàng, say đắm qua những khúc sông dài dịu dàng và say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
+ Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái
Di-gan phóng khoáng và man dại, rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm
hồn tự do và trong sáng.

+ Nghệ thuật liên tưởng độc đáo, phép nhân hóa, so sánh, nhiều động từ, tính từ gợi cảm làm
nổi bật vẻ đẹp hoang dã, manh mẽ, đầy cá tính, sức sống mãnh liệt nhưng cũng dịu dàng và
say đắm của sông Hương ở thượng nguồn.

+ Ra khỏi rừng già, sông Hương trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
Rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng nên sông Hương mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ
Hình ảnh ẩn dụ người mẹ phù sa gợi ra cảm nhận sông Hương là ngọn nguồn cho cảm hứng
nghệ thuật, văn hóa của người Huế nói riêng, người Việt Nam nói chung.

- Bằng sự quan sát tinh tế, trí tưởng phong phú, cùng với nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài
hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện, khắc hoạ vẻ đẹp trẻ trung, hoang dại đầy
cá tính của sông Hương. Đó là vẻ đẹp kín đáo và sâu thẳm của sông Hương mà nếu chỉ nhìn
khuôn mặt kinh thành của nó thì sẽ không thể hiểu hết được.

- Ở ngoại vi thành phố Huế (đồng bằng):

+ Sông Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc
trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung
thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách.
Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một
cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện
tình yêu nhuốm màu cổ tích.

+ Xuôi về đồng bằng, sông Hương như người gái đẹp nằm ngủ mơ màng đợi người tình đánh
thức.

+ Thủy trình của sông Hương quanh co, gập ghềnh, chuyển dòng liên tục, đột ngột. Từ cánh
đồng Châu Hóa, qua ngã ba Tuần, dòng sông theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén, vấp
Ngọc Trản, rẽ hướng tây bắc vòng qua Nguyệt Biều, Lương Quán, rồi rẽ một vòng cung phía
đông bắc ôm chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về thành phố Huế. Có thể thấy, sông Hương đã
tìm mọi cách để đến với thành phố thân yêu - người tình của nó.

- Trong hành trình tìm kiếm người tình mong đợi của mình, sông Hương đã bộc lộ nhiều vẻ
đẹp:
+ Vẻ mềm mại, gợi cảm khi nó uốn những đường cong thật mềm, mềm như tấm lụa. Đó là
vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, tình tứ như nét duyên thầm của những người thiếu nữ Huế e
thẹn nghiêng nghiêng vành nón lá che mặt.

+ Vẻ đẹp nhiều màu sắc của màu nước biến ảo: Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Sự biến ảo
độc đáo này không đơn giản là do mây trời và ánh sáng tạo nên mà còn là ý thức làm mới
mình trong tình yêu để hoàn thiện bản thân của người thiếu nữ sông Hương.

+ Vẻ trầm mặc, cổ kính khi chảy dưới những rừng thông u tịch với những lăng mộ kiêu hãnh,
âm u. Đến Huế, sông Hương đã mất đi vẻ phóng khoáng, man dại để hài hòa với cảnh vật,
con người và bề dày văn hóa, lịch sử của vùng đất cố đô Huế.

- Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật
một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.

- Sông Hương khi đi qua thành phố Huế:

+ Khi về tới thành phố Huế, như tìm thấy sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi
xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm, uốn một cánh cung
rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng
vâng không nói ra của tình yêu.

+ Sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ
yên tĩnh. Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.

+ Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Xen của
Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông
Hương được cảm nhận với nhiều góc độ. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và
những chi lưu của nó với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa bóng xuống những xóm thuyền
chài xúm xít tạo những đường nét thật tinh tế làm nên về đẹp cổ kính của cố đô; những ánh
lửa lập lòe trong đêm sương tạo nên sự huyền ảo, thơ mộng của Huế. Qua cách cảm nhận âm
nhạc, sông Hương đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình trong nền âm nhạc cổ điển
Huế. Và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và
chung thuỷ với điệu chảy lặng tờ, lững lờ như đắm say, quấn quít trong tình yêu, như nỗi vấn
vương của một nỗi lòng.

- Sông Hương khi rời khỏi thành phố Huế:


+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh
năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh
biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.

+ Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng
đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ để nói lời từ biệt. Đó
nỗi vương vấn, cả chút lẳng lơ kín đáo trong tình yêu giống như nàng Kiều trong đêm tình tự
đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng để thề nguyền chung thủy. Nét đẹp dịu dàng mà táo bạo ấy
phải chăng xuất phát từ tình yêu chân thành, mãnh liệt của người phụ nữ trong tình yêu? Tấm
lòng thủy chung son sắt ấy cũng chính là tấm chung tình của người dân Châu Hóa xưa nói
riêng, người dân xứ Huế nói chung, dành trọn cho quê hương xứ sở.

- Như vậy, vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương là hành trình của dòng sông từ thượng nguồn ra
biển, đi qua thành phố Huế. Hành trình vượt ghềnh thác hiện lên vẻ đẹp mãnh liệt, phóng
khoáng và man dại; hành trình đi tìm tình yêu toát lên vẻ đẹp gợi cảm, tình tứ, đắm say; hành
trình về biển cả, rời xa người tình trong nỗi lưu luyến, vấn vương, chung tình. Qua đó, cho
thấy tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho dòng sông quê hương, cho
xứ Huế thân yêu.

- Nét đặc sắc về nghệ thuật qua việc miêu tả hình tượng sông Hương là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng
hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí,... Tất cả được phô diễn
trong lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa.

* Đánh giá:

- Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp kể và tả, phép so sánh, nhân hóa độc đáo, liên
tưởng bất ngờ, thú vị, ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm, câu văn giàu nhạc điệu, uyển
chuyển, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo
về sông Hương.

- Nhà văn ca ngợi một dòng sông thơ mộng, trữ tình gắn liền với mảnh đất và tâm hồn con
người Huế đồng thời bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn
đối với dòng sông quê hương, với cố đô.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 31
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Lý do là, hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của bạn đối với những gì bạn làm, những
gì bạn có và những gì xung quanh bạn.
2 - Điều ngược lại là: Người đặc biệt nổi tiếng hoặc giàu có nhiều khi không có hạnh
phúc.
3 - Hạnh phúc rất gần gũi với chúng ta. Hạnh phúc là mục tiêu, là cái đích cuối cùng
mà tất cả mọi người đều hướng đến, và ai cũng có thể có được.
- Hạnh phúc hay không là do quan niệm của mỗi người; hạnh phúc có từ những điều
rất bình dị, gần gũi. Bởi vậy mỗi người hãy biết dành thời gian để cảm nhận và vui
với nó
- Muốn có hạnh phúc thì mỗi người phải biết tự mình cố gắng, phấn đấu để đạt được.
4 - Học sinh có thể đồng ý hoặc không:
+ Đồng ý: Chinh phục đích cùng của cuộc đời là một hành trình dài lâu, gian khổ.
Cuộc đời thì lại hữu hạn mà hạnh phúc đích thực nằm ngay trong chính những điều
hiện hữu thường ngày quanh ta. Nếu biết trân trọng những điều hiện hữu hiện tại đó
chính là hạnh phúc của ta vậy.
+ Không đồng ý: Con người thường có tâm lí không hài lòng với hiện tại nên hay đi
kiếm tìm hạnh phúc ở những chân trời mới lạ. Chinh phục được đích đến đó cũng
mang lại hạnh phúc cho con người.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý kiến được nêu trong
đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của bạn đối với
những gì bạn làm, những gì bạn có và những gì xung quanh bạn”.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Suy nghĩ về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Hạnh phúc là cảm
nhận chủ quan của bạn đối với những gì bạn làm, những gì bạn có và những gì xung
quanh bạn.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của bạn đối với
những gì bạn làm, những gì bạn có và những gì xung quanh bạn. Có thể theo hướng
sau:
- Hạnh phúc là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau, cơ bản nó là trạng thái tâm lí
được mãn nguyện, hài lòng
- Hạnh phúc xét cho cùng là giá trị nhân sinh ý nghĩa, vĩnh hằng của nhân loại
- Hạnh phúc không phải ở sự giàu có, danh vị xã hội cao, đó không phải là thước đo
hạnh phúc
- Để có hạnh phúc, mỗi chúng ta đều phải tự nỗ lực phấn đấu từ những điều rất nhỏ
- Nếu không tìm thấy niềm vui trong công việc mình đảm trách, không biết trân quý
những gì mình đang có, chạy theo danh lợi, vô cảm với xung quanh thì chẳng bao
giờ tìm thấy hạnh phúc cho cuộc đời mình.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 * Đặt vấn đề:

- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút kí tiêu biểu của văn học Việt
Nam hiện đại. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kí
của ông.

- Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, thiên nhiên và con người xứ Huế với
những trang văn vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn
hóa lịch sử rất phong phú.

* Triển khai:

- Sông Hương nhìn từ góc độ lịch sử dân tộc:

+ Trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản
hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thuỳ xa
xôi của đất nước các vua Hùng, thủa nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng)
trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh
liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại, nó
vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ
mười tám; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc
khởi nghĩa, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế
quốc Mĩ xâm lược cửa dân tộc ta. Sông Hương là nhân chứng lịch sử chứng kiến
mùa xuân Mậu Thân (1968), thời điểm quân dân ta mở cuộc tổng tiến công vào sào
huyệt Mĩ - ngụy và sông Hương cũng chứng kiến tội ác hủy diệt của chúng đối với
các di sản văn hóa, lịch sử trên đất Huế.
+ Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn bó với từng con người xứ Huế, là
dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông
Hương không chỉ là bản hùng ca tấu lên bao chiến công trong lịch sử, mà còn là một
nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên,
điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: Khi nghe lời
gọi, nó biết cách tự hiến đời mình cho một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc đời
bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.

- Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng
sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch
sử.

- Sông Hương nhìn ở góc độ văn hóa thi ca: Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn,
sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất.

+ Sông Hương, dòng sông âm nhạc: Từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn
thuyền đã hình thành những làn điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và
rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế vút lên, mênh mang, xao
xuyến…

+ Sông Hương, dòng sông thi ca: Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân
chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều
làm nên về đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó
biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình
thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm
cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Sông
Hương gắn với cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn
màu muôn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả: Mỗi nhà thơ đều có một
khám phá riêng về nó : từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ,
dòng sông trắng, lá cây xanh trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ
màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên như kiếm dựng trời xanh trong khí phách của
Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà
Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ
Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái
nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.
- Bằng vốn kiến văn phong phú, tác giả đã lay động linh hồn của con sông mà tên
gọi của nó đã đi vào văn chương nghệ thuật mà theo tác giả Dòng sông ấy không
bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

- Từ một dòng sông hoang dại, phóng khoáng, sông Hương đã trở nên dịu dàng, tài
hoa và đầy ý chí kiên cường. Có lẽ đối với Hoàng Phủ Ngọc tường nói chung, với
nhân dân Huế nói chung thì sông Hương chính là một biểu tượng đẹp đẽ nhất tạo
nên vẻ đẹp Huế suốt mấy nghìn năm lịch sử.

* Đánh giá:

- Qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện ra với
những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn
thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ
thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc.

- Câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên trong
miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng sông ngỡ là quá quen, hoá
ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới hiểu sâu
sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 32
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Yếu tố gắn với tuổi trẻ được nêu trong đoạn trích:
+ Ý chí mạnh mẽ;
+ Trí tưởng tượng phong phú;
+ Sự mãnh liệt của tình cảm và cảm nhận phấn khởi với cuộc sống.
2 - Biện pháp liệt kê: ý chí….cuộc sống/ ở lòng can đảm….an nhàn/ lo lắng…bản thân.
- Tác dụng: Kể ra cụ thể những yếu tổ, những biểu hiện tích cực của tâm hồn đầy tuổi
trẻ; cũng như những trạng thái tiêu cực có thể hủy hoại tinh thần chúng ta. Từ đó giúp
chúng ta nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn về tuổi trẻ và có ý thức bồi dưỡng đời sống
tâm hồn.
3 - Ý kiến Thời gian hình thành tuổi tác, thái độ tạo nên tâm hồn có thể hiểu:
+ Theo quy luật cuộc sống, cùng với sự chảy trôi của thời gian,con người lớn lên về
tuổi tác, già đi về mặt hình thức;
+ Tuổi tác, thời gian không kiến tạo nên thé giới tinh thần chúng ta. Cái tạo nên nó
chính là thái độ, tức là những ý nghĩ, tình cảm, là cách nhìn, cách ứng xử, cách lựa
chọn lối sống của mỗi cá nhân trong cuộc đời.
4 - Nêu rõ quan điểm đồng tình hoặc không đồng tình.
- Lí giải hợp lí, thuyết phục.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về những điều bản thân
cần làm để “chăm sóc” tâm hồn.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Điều bản thân cần làm để “chăm sóc” tâm hồn.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Trên cơ sở những hiểu biết về đoạn trích ở phần Đọc hiểu, học sinh có thể trình bày
suy nghĩ theo nhiều cách nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Có thể theo hướng
sau:
- Chăm sóc tâm hồn chỉ sự quan tâm, chăm chút đến đời sống tâm hồn để nó luôn ở
trang thái lành mạnh, khỏe khoắn…với nhiều biểu hiện như: suy nghĩ tích cực, lạc
quan, hướng thiện. Khi có một đời sống tâm hồn đẹp đẽ, một tinh thần tốt, chúng ta
sẽ làm được nhiều điều có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
- Vậy nên cần phải làm gì để chăm sóc tâm hồn? Có thể bằng cách trau dồi hiểu biết
để có cơ hội đạt được lí tưởng cuộc đời; làm nhiều việc tốt, biết chia sẻ và cảm thông
với người khác; biết chăm sóc bản thân và luôn tự tin, lạc quan, yêu đời; cảm nhận
hạnh phúc và ý nghĩa của cuộc sống từ những điều bình dị; chăm sóc đời sống tinh
thần kết hợp với việc chăm sóc thể chất.
- Từ đó phê phán những người sống chỉ biết chăm lo thể xác, để tâm hồn tàn lụi ngay
khi còn sống và rút ra bài học.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
2 * Đặt vấn đề:

- Được sống làm người là vô cùng quý giá. Nhưng được sống là mình, sống trọn vẹn
những giá trị mình có, sống trong sự hài hoà tự nhiên còn quý giá hơn. Bằng trái tim
nhạy cảm của một thi sĩ, bằng trí tuệ sắc sảo của một triết gia, Lưu Quang Vũ qua
đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt đã làm nổi bật được một triết lí nhân
sinh rất giàu ý nghĩa nhân bản không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo
được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.

- Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết
nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong
lối sống lúc bấy giờ.

* Triển khai:

- Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân
gian và gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một
số tiêu cực trong lối sống hiện thời.

- Trong vở kịch này, Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc (đối thoại
giữa hồn và xác và đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ trợ khác
(hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của hồn
Trương Ba lên đến tận cùng.

- Qua đối thoại, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ.
Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau
khổ bởi mình không còn là mình nữa.

- Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí
bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận. Đó là
cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với tay chân run rẩy, hơi thớ nóng rực,
cổ nghẹn lại và suýt nữa thì.... Đó là cảm giác xao xuyến trước những món ăn mà
trước đây hồn cho là phàm. Đó là cái lần ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu
mùi, ... tất cả đều là sự thật.

- Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ,
cảm thấy minh ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để
ngụy biện: Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Trong
cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất
giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn
chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng
kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời nói công khai của xác mà
trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, không muốn thừa nhận.

- Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với
những người thân.

+ Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ
đi. Với bà đi đâu cũng được... còn hơn là thế này. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông
cũng đã cám nhận được: Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn
ngày xưa.

+ Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình cảm
của ông: tôi không phải là cháu ông.. Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó
bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có bàn tay giết lợn, bàn
chân to bè như cái xẻng đã làm gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý
mới ươm trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ
Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với
nó ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành
sự xua đuổi quyết liệt: Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!.

+ Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương
bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm.
Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình như sắp tan hoang ra cả khiến chị
không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó:Thầy bảo con: Cái
bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con
cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ
như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy
nữa...
- Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ
trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ
đau, họ khổ nhưng cũng không khổ bằng bây giờ.

- Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ,
tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng
cũng đầy quyết liệt: Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ..
Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? Chẳng còn
cách nào khác! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có
thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không
cần!. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi
Đế Thích một cách dứt khoát.

- Cuộc trò chuyện giừa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm
những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong
cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Sống nhờ vào đồ đạc, của cải
người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ
anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông
chẳng cần biết!.

- Ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại:

+ Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có
một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi
phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không
thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.

+ Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống
nhờ, sống gứi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.

- Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được
chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết
quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Cái chết cua cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn
biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của
nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của
tác phẩm.

* Đánh giá:
- Trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần
phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ:

+ Con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất,
chi thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển.

+ Lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích
đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là
biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng.

+ Tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản
thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI – ĐỀ 33
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Điều cần làm trước mắt là:
+ Tích lũy tri thức khi còn ngồi trên ghế nhà trường để mai ngày khởi nghiệp;
+ Tự mình xây dựng các chuẩn mực cho bản thân;
+ Nhận diện cái đúng, cái sai, cái đáng làm và cái không nên làm.
2 - Câu hỏi tu từ: Bạn đã giành ….dấu tích gì không?
- Tác dụng: Hỏi thể hiện sự trăn trở về việc sử dụng quỹ thời gian, cảnh báo việc để
thời gian trôi qua một cách vô nghĩa. Từ đó nhắc nhở mỗi người trân quý thời gian
và có ý thức sử dụng thời gian hiệu quả, ý nghĩa.
3 - Ý kiến Trường đời…mọi mặt có thể hiểu:
+ Đời sống thực tiến là một môi trường lí tưởng, tuyệt vời để chúng ta trau dồi kiến
thức, rèn luyện kinh nghiệm, bồi dưỡng nhân cách;
+ Song muốn thành công trước hết ta cần chuẩn bị hành trang, xây dựng nền móng
vững chắc từ nhiều môi trường giáo dục khác như gia đình, nhà trường.
4 - Nêu rõ quan điểm đồng tình hoặc không đồng tình.
- Lí giải hợp lí, thuyết phục.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về điều bản thân cần làm
để tuổi trẻ có ý nghĩa.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Điều bản thân cần làm để tuổi trẻ có ý nghĩa
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Trên cơ sở những hiểu biết về đoạn trích ở phần Đọc hiểu, học sinh có thể trình bày
suy nghĩ theo nhiều cách nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Có thể theo hướng
sau:
- Tuổi trẻ là giai đoạn thanh xuân, là quãng đời đẹp đẽ, có ý nghĩa nhất của đời
người…Song thời gian là một dòng chảy thẳng, tuổi trẻ sẽ dần qua đi. Mặt khác, ở
độ tuổi này, chúng ta dễ đối mặt với phải nhiều cám dỗ cuộc đời.
- Vây phải làm gì để tuổi trẻ có ý nghĩa?
+ Trau dồi kiến thức, hiểu biết
+ Bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách; sống có ước mơ, lí tưởng.
+ Tích cực tham gia hoạt động xã hội, hoạt động thiện nguyện.
+ Dành thời gian quan tâm đến gia đình, đến những người thân yêu.
+ Biết hưởng thụ cuộc sống, quan tâm đến bản thân.
+ Từ đó phê phán những người sống uổng phí tuổi trẻ và rút ra bài học cho bản thân.
2 1.Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Lưu Quang Vũ là một trong những kịch gia tài năng nhất của nền văn học nghệ
thuật VN hiện đại. Kịch của ông thường đề cập đến những vấn đề có tính thời sự
xã hội và chứa đựng những triết lí nhân sinh sâu sắc, thấm đượm tính nhân văn.
- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những vở kịch gâytiếng vang nhất
của LQV. Từ một cốt truyện dân gian, LQV đã dựng thành một vở kịch nói hiện
đại, tập trung thể hiện tình cảnh trớ trêu và nỗi đau khổ, dằn vặt của Trương Ba từ
khi “bên trong một đàng, bên ngoài một nẻo”. Từ đó, tác giả đặt ra nhiều vấn đề
mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng triết lí sâu sắc.
2. Cuộc đối thoại giữa Hồn và xác:
a, Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại:
- Sau khi được sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn TB gặp rất nhiều phiền toái và
bản thân TB cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không
phải của bản thân ông. Những điều đó làm TB vô cùng đau khổ.
- Trong tâm trạng đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình, trước
cái chỗ ở không phải của mình, HTB khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ:
“Ta chỉ muốn dời xa mi tức khắc!”.
b, Diễn biến cuộc đối thoại:
b1. HTB và XHT tranh luận về sức mạnh của thể xác (Tư tưởng hồn – xác độc
lập):
+Hồn TB:
- Tức tối, phẫn nộ và khinh bỉ thể xác.
- Phủ nhận sức mạnh của thể xác “không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u, đui
mù”, “không có tư tưởng, không có cảm xúc”, cho rằng những nhu cầu của xác thịt
là thấp hèn.
-Khẳng định một cách đầy tin tưởng và tự hào về sự “trong sạch” trong tâm hồn
mình.
+Xác hàng thịt:
- Mỉa mai, giễu cợt, gọi HTB là cái “linh hồn mờ nhạt...khốn khổ”.
- Tự tin trước sức mạnh ghê gớm của mình, át cả linh hồn cao khiết của TB.
- Đưa ra dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục để kđịnh sức mạnh của mình,
khiến TB bối rồi.
b2, HTB và xác hàng thịt tranh luận về vai trò của thể xác (tư tưởng hồn – xác là
một, xác chi phối hồn):
+ Xác hàng thịt:
- Khẳng định mình là “cái bình để chứa đựng linh hồn”.
- Tự hào về vai trò của thể xác trong việc thoả mãn những nhu cầu của linh hồn.
- Phê phán, chế giễu sự coi thường của linh hồn trước những nhu cầu của thể xác
và đấu tranh co những nhu cầu chính đáng của mình.
- Ve vuốt, đề nghị HTB trở về sống hoà hợp với mình.
=> Chủ động đặt nhiều câu hỏi phản biện, lí lẽ giảo hoạt -> trở thành kẻ thắng thế,
buộc Trương Ba phải quy phục mình.
+Hồn TB:
- Một mặt tức tối trước những lí lẽ ti tiện của xác hàng thịt, mặt khác bối rối, lúng
túng, không thể phản bác những ý kiến đó.
- Chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng.
=> HTB bị động, kháng cự yếu ớt, đuối lí, tuyệt vọng -> trở thành người thua cuộc.
3.Đánh giá:
- Cuộc đối thoại thể hiện nhân vật HTB:
+ Cảnh ngộ bi kịch: bị tha hoá, bị thể xác sai khiến.
+ Tâm trạng đau khổ, giằng xé trước cuộc sống trái tự nhiên.
+ Phẩm chất cao đẹp: luôn tự hào về đời sống tâm hồn của mình; dũng cảm nhìn
thẳng vào sự tha hoá của bản thân; nỗ lực đấu tranh với nghịch cảnh, với dục vọng
tầm thường để vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
- Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:
+ Tạo ra một tình huốn nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng. Đó là xung đột giã
cái phàm tục với cái thanh cao, giữa nội dung và hình thức, giữa linh hồn và thể
xác. Đây cũng là xung đột dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người.
+ Xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời
thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
hành động bên ngoài và hành động bên trong.
+ Lời thoại 13 lời hồn, 13 lời xác, ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa mai, dí dỏm,
vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật.
4.Triết lí nhân sinh từ cuộc đối thoại:
- Linh hồn và thể xác là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai
đều đáng trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa
linh hồn và thể xác.
- Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con
người, mặt khác ông vạch ra qniệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị
vật chất và những nhu cầu của thể xác.
- Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số
phận, chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện
nhân cách.
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI – ĐỀ 34
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Con người có thể tìm thấy chính mình trên hành trình vạn dặm, khi ngồi dưới mái
nhà của họ, trên chiếc giường quen thuộc của họ.
2 - Theo tác giả, cách sống phù hợp nhất là làm tốt việc của bản thân, và ngừng xen
vaò chuyện người khác.
3 - Đồng tình, vì chính sự khác biệt làm nên sự phong phú cho cuộc sống của con
người.
(Có thể trả lời theo cách khác và lập luận phù hợp).
4 - Gợi ý:
+ Một nơi nào đó dành cho những suy nghĩ tự do, độc đáo và những khác biệt có thể
tìm thấy tiếng nói chung.
+ Một nơi nào đó mà bản thân đã từng sống trong sự hòa thuận, an nhiên.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ về vấn đề đặt ra trong câu nói:
“để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn”.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc
xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Suy nghĩ về vấn đề đặt ra trong câu nói: để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất
khó khăn.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn.
Có thể theo hướng sau:
- Giải thích: Con người thường khó chấp nhận sự khác biệt.
- Bàn luận:
+ Tại sao yêu thương một ai đó khác mình thực sự rất khó khăn?
+ Chỉ yêu người giống mình mà khó yêu người khác mình sẽ để lại hậu quả gì?
+ Phải biết chấp nhận, thừa nhận sự khác biệt.
+ Rèn tính kiên trì, nhẫn lại, biết lắng nghe để thấu hiểu và đồng cảm.
+ Phải có lòng nhân hậu, bao dung với tất cả mọi người.
2 Mở bài:
“ Được sống làm người là vô cùng quý giá. Nhưng được sống là mình, sống trọn
vẹn những giá trị mình có, sống trong sự hài hoà tự nhiên còn quý giá hơn”. Bằng
trái tim nhạy cảm của một thi sĩ, bằng trí tuệ sắc sảo của một triết gia, Lưu Quang
Vũ qua đoạn trích trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã làm nổi bật
được một triết lý nhân sinh rất giàu ý nghĩa nhân bản “Không thể bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” (Ngữ văn 12 - tập 2
– trang 153)
Thân bài:
I. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm.
1- Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) quê gốc Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia
đình trí thức (bố là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận) nên thiên hướng và năng
khiếu nghệ thuật của Lưu Quang Vũ đã bộc lộ ngay từ nhỏ. Ông đã từng làm thơ
và viết truyện ngắn. Từ năm 1978 đến 1988, ông là biên tập viên Tạp chí “Sân
khấu” và bắt đầu sáng tác kịch nói - Vở kịch đầu tay là “Sáng mãi tuổi 17”. Và sau
đó, một nguồn lực sáng tạo đột khởi, mạnh mẽ, phong phú đã bùng cháy dưới ngòi
bút Lưu Quang Vũ. Với những vở kịch chấn động dư luận như: “Nàng Si - ta”,
“Lời nói dối cuối cùng”, “Lời thề thứ 9”, “Tôi và chúng ta”…, Lưu Quang Vũ
không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch những năm 80 của
thế kỷ 20, mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền
nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông qua đời trong một tai nạn ô tô thảm khốc
(1988), giữa khi tài năng đang nổ rộ.
2. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Viết năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới ra
mắt công chúng), là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ đã
công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian,
Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề
mới mẻ, có ý nghĩa triết lý và nhân văn sâu sắc.
1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác anh hàng thịt:
- Trương Ba bị đẩy vào một nghịch lý đầy trớ trêu, éo le: linh hồn mình phải trú
ngụ nhờ trong thể xác anh hàng thịt, “một thể xác kềnh càng thô lỗ”. Từ đây tâm
hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu tự nhiên của xác anh hàng
thịt.
- Linh hồn vốn nhân hậu, trong sạch và bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa
kia, nay vì sống mượn, gá lắp và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến
được xác anh hàng thịt thô phàm, mà trái lại, còn bị cái xác thịt ấy điều khiển, dần
dần bị nhiễm độc, bị tha hóa bởi những cái tầm thường đầy ham muốn vật chất
thấp kém của xác thịt anh đồ tể như “thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…”
- Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại
bằng cách tách ra khỏi xác anh hàng thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể
xác. Xác anh hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích, nên đã cười mỉa mai,
nhạo báng hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình,
hơn nữa còn ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp, vì “cả hai đã hòa vào nhau làm một
rồi!”
- Trước những lý lẽ “ti tiện ” và đớn hèn không thể chấp nhận được của xác hàng
thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, đã mắng mỏ xác hàng thịt là hèn hạ,
nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi chua chát, thấm thía cái nghịch cảnh đầy bi kịch
mà mình đã lâm vào và đành nhập trở lại xác hàng thịt trong nỗi tuyệt vọng. Từ đó
đi đến giải pháp “chung sống hòa bình” mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
bằng “trò chơi tâm hồn”. Luật chơi là hồn cứ việc nghĩ mình cao khiết, thánh thiện,
thẳng thắn, làm điều gì xấu, thì cứ việc đổ tội cho xác để được thanh thản. Bù lại
hồn sẽ làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát tầm thường của thể xác.
+ Ý nghĩa của màn đối thoại.
- Tuy Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là cuộc sống đáng hổ thẹn, vì phải
sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục tầm thường đồng hóa, ngự trị, lấn át
và dần dần sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ cao quý trong con người.
- Đời sống con người đâu chỉ gói gọn trong những nhu cầu bản năng thuần túy? Và
cũng đừng bỏ bê thể xác “mãi khổ sở, nhếch nhác” để chỉ biết đến một thứ linh hồn
chung chung trừu tượng, không thuộc về một ai cả trên cõi đời này. Cuộc đấu tranh
giữa linh hồn và xác thịt là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng,
hoài bão cao cả với dục vọng, ham muốn tầm thường, giữa phần “người” và phần
“con” luôn diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong mỗi con người. “Hai hình tượng hồn
Trương Ba và xác thịt ở đây, do đó mang ý nghĩa ẩn dụ: một bên đại diện cho sự
trong sạch, nhân hậu, thẳng thắn và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh
nghĩa con người và một bên là sự tầm thường, dung tục” (Sách giáo viên)
- Từ đó khẳng định: giữa linh hồn và thể xác, giữa tính cách và ngoại hình là sự
thống nhất, toàn vẹn.
Màn đối thoại giữa Trương Ba và người thân.
- Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và người thân (vợ, con dâu, cháu gái) càng làm
cho ông đau khổ hơn.
- Trước sự thực phũ phàng, đau lòng: Trương Ba không còn giữ được đời sống
riêng nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn mà đang bị cái thể xác ấy lấn lướt, làm
tha hóa, dần dần trở nên xa lạ với mọi người, từ người vợ giàu yêu thương, đến
người con dâu hiếu thảo đầy cảm thông thương xót Trương Ba, đến đứa cháu gái
hồn nhiên, ngay thẳng, trong trắng đều không thừa nhận Trương Ba và đã trả lời
Trương Ba bằng những câu nói thấm đẫm nước mắt xót đau, bế tắc.
- Biết mình như vậy trong con mắt người thân, Trương Ba đã đi đến một phản
kháng quyết liệt: “Không cần cái đời sống do mày mang lại!”
Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích
- Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết từ chối, không chấp
nhận cái cảnh trớ trêu đầy tính bi hài của mình : “ Bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được”. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích bằng những lời
trách cứ, phê phán gay gắt: “Sống nhờ… đã là chuyện không nên, đằng này đến cái
thân tôi cũng phải nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng
sống như thế nào, thì ông chẳng cần biết. Không thể sống với bất cứ giá nào…”
Đây quả là một sự “bừng ngộ” một cuộc cách mạng lớn lao trong nhận thức của
Trương Ba về sự sống và hạnh phúc .
- Đế Thích định tiếp tục “sửa sai” của mình bằng một giải pháp khác là cho hồn
Trương Ba nhập vào xác cu Tỵ. Nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không
chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, chắp vá mà theo ông là “còn khổ hơn cái chết”.
Cuối cùng, Trương Ba kêu gọi Đế Thích trả lại hồn cho cu Tỵ.
Màn kết
- Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được
trong sạch, thanh cao.
- Là con người, Trương Ba “vẫn rất ham sống” nhưng kiên quyết “Không nhập vào
hình thù ai nữa… Hãy để cho tôi được chết hẳn”
- Hồn Trương Ba hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh
những người thương yêu mình như màu xanh bất tử của cây cối.
Qua các màn đối thoại nói trên, toát lên vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc
đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống trọn vẹn hợp
với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách con người “Không thể bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
Kết luận:
Ý nghĩa nhân bản, chất thơ của triết lý tràn đầy tinh thần lạc quan của Lưu Quang
Vũ là ở chỗ đó. Vở kịch vang lên bài ca chiến thắng về cái Thiện, cái Đẹp của sự
sống đích thực. “Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là
mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn gì quý giá hơn. Sự
sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa
thể xác và tâm hồn ”
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI – ĐỀ 35
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Theo tác giả bài viết, người nghèo nhất không phải là người không có một xu dính
túi, mà là người không có lấy một ước mơ.
2 - Nội dung đoạn trích:
+ Niềm khâm phục của tác giả về niềm tin vào bản thân và ý chí, lòng quyết tâm
thực hiện ước mơ của cậu bé phụ hồ nghèo.
+ Lời khuyên của tác giả đối với mọi người, đặc biệt là người trẻ tuổi: cần phải có
ước mơ và luôn theo đuổi ước mơ để không bao giờ phải hối tiếc.
+ Từ đó tác giả giục giã: Hãy tìm ra và đánh thức ước mơ cháy bỏng nhất trong nơi
sâu thẳm của trái tim mình để cuộc sống thực sự có ý nghĩa với chính mình
3 - Vì để vẽ lên bức tranh: người họa sĩ phải là người chủ động, sáng tạo suy ngẫm từ
điều muốn vẽ, màu sắc, chất liệu... Sống một cuộc đời cũng giống như vẽ một bức
tranh. Nếu… giống như người họa sĩ, chúng ta là người hoàn toàn chủ động tạo dựng,
vẽ lên cuộc sống của chính mình. Chính chúng ta chủ động sống cuộc đời mà mình
muốn.
+ Vì Nếu chúng ta không chủ động: nó sẽ là những màu sắc mà người khác thích,
là bức tranh mà người khác ưng ý, chứ không phải bạn.
+ Vì cuộc đời chúng ta chính là một bức tranh đa sắc màu mà ta vẽ lên trong suốt cả
một hành trình, vì vậy để bức tranh ấy trở lên đẹp đẽ, để cuộc sống của ta của ta thực
sự có ý nghĩa, một trong những điều ta cần làm ngay là biết đánh thức những ước
mơ trong trái tim.
4 - Thông điệp có ý nghĩa nhất:
+ Thí sinh trình bày rõ suy nghĩ của cá nhân về thông điệp từ đoạn văn (Có thể là
thông điệp về niềm tin vào bản thân khi thực hiện ước mơ, Thông điệp về việc luôn
biết nuôi dưỡng và không ngừng theo đuổi ước mơ dù có người cho rằng nó không
thực tế...)
+ Thí sinh nêu rõ vì sao thông điệp đó có ý nghĩa nhất với bản thân một cách thuyết
phục.
1 Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý kiến được nêu trong đoạn
trích ở phần đọc hiểu: “Người nghèo nhất không phải là người không có một xu
dính túi, mà là người không có lấy một ước mơ.”
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Người nghèo nhất không phải là người không có một xu dính túi, mà là người không
có lấy một ước mơ.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, người nghèo nhất không phải là người không có một
xu dính túi, mà là người không có lấy một ước mơ. Có thể theo hướng sau:
- Giải thích: nghèo là sự thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu, ước mơ là những điều
tốt đẹp ở phía trước mà con người tha thiết, khao khát hướng tới mong đạt được.
Người không có lấy một ước mơ là người nghèo hơn cả người không có một đồng xu
dính túi – câu nói đề cao ước mơ, đề cao vai trò, giá trị, ý nghĩa của ước mơ trong
đời sống con người.
- Bàn luận: Khẳng định và bày tỏ thái độ, suy nghĩ về ý kiến bằng những lí lẽ, dẫn
chứng phù hợp, có sức thuyết phục.
+ Không có lấy một ước mơ, cuộc đời sẽ trở lên tẻ nhạt và vô nghĩa; tâm hồn sẽ trở
nên nghèo nàn, cằn cỗi.
+ Nếu có ước mơ, con người sẽ có sức mạnh, có động lực để vượt qua những gian
lao thử thách của cuộc sống và có thêm niềm tin vào tương lai, theo đuổi những khát
vọng cao đẹp của đời mình vì Chỉ có ước mơ mới giúp ta tạo dựng được tương lai
(Vic-to Huy-gô). Chính việc theo đuổi và nuôi dưỡng giấc mơ sẽ khiến chúng ta trở
lên giàu có về tâm hồn, trí tuệ, tình cảm.
+ Phê phán những người sống không có ước mơ, những người vì sợ thất bại hoặc
không đủ ý chí, nghị lực để nuôi dưỡng ước mơ.
2 I. Mở bài:
- Khái quát: Lưu Quang Vũ là được mệnh danh là “cây bút vàng” của sân khấu Việt
Nam những năm 80 của thế kỷ 20. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết
năm 1981, và là vở kịch nói đầu tiên mang ra nước ngoài công diễn. Bằng ngòi bút
giàu chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Kịch bản
của ông không đơn thuần là chuyện vay mượn xác – tái sinh. Đặt vấn đề về lẽ sống
con người qua nỗi khổ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua mâu thuẫn
giữa tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở kịch mang chứa những triết lý
nhân sinh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, bởi sống nhờ, sống giả, sống không phải là
mình, đó là bi kịch đau đớn nhất của con người.

II. Thân bài:


- Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác Hàng Thịt

a. Hồn Trương Ba:


- Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại: Lời thoại của Hồn Trương Ba ở
đầu đoạn trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông
đang vay mượn: “Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái
thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức khắc!
Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một
lát!”.
=> Ước muốn của Hồn Trương Ba đã được thỏa nguyện. Sự phân tách và đối đầu
giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt trước hết có thể hiểu là sự tranh cãi quyết liệt
giữa một bên là Hồn Trương Ba (tượng trưng cho sự cao khiết, cho đạo đức, cho
“phần Người” chân chính của mỗi con người) và một bên là Xác hàng thịt (tượng
trưng cho bản năng, cho những ham muốn trần tục, là “phần Con” tầm thường ẩn
nấp trong mỗi con người).

- Nội dung lời nói của Hồn Trương Ba:

+ Hồn có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với Xác thô lỗ,
tầm thường, dung tục. Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với Xác,
“kẻ âm u đui mù, không cảm xúc, không tư tưởng, không có tiếng nói”...; kẻ có nhu
cầu vật chất thấp kém gần với con thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể
chất gắn với sự tàn bạo…

+ Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có
đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”…

=> Tưởng rằng, Hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi
có cơ hội cất lên tiếng nói của mình.

b. Xác hàng thịt:


- Tâm thế của xác hàng thịt trong cuộc đối thoại: Xác không bị động, nhún nhường.
Ngược lại, Xác có thái độ khi thì ngạo nghễ, thách thức, khi thì ranh mãnh với những
câu hỏi mang tính phản biện đầy bỡn cợt, châm chọc.

- Nội dung lời nói của Xác hàng thịt:

+ Xác âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn cao
khiết. Hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo
những đòi hỏi của xác thịt dung tục (Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến, khao
khat khi đứng bên vợ hàng thịt, đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn
lại, đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà ông cho là dung tục như tiết canh,
cổ hũ, khấu đuôi, đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu
mồm, máu mũi… Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác
hàng thịt).

=> Như vậy, Hồn Trương Ba đau đớn, dằn vặt, khao khát khẳng định mình vẫn là
mình, nhưng cuối cùng phải thừa nhận rằng, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và
bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hoá không có cách gì chuyển biến được. Bi
kịch của Hồn Trương Ba, vì thế, không những không được giải tỏa, mà còn trở nên
đau đớn, xót xa hơn.

+ Trước đó, Hồn Trương Ba cho mình là cao khiết và coi thường, khinh bỉ Xác hàng
thịt, thậm chí uất ức vì phải chung sống với Xác HT. Nhưng Xác hàng thịt đã chỉ ra
thói hư tật xấu trong Hồn Trương Ba “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ
vin vào cớ linh hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê thân
xác mãi khổ sở nhếch nhác” và “làm xong điều xấu gì, ông cứ việc đổ tội cho tôi, để
ông được thanh thản. Tôi biết: cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm
hồn là thứ lắm sĩ diện” . Đồng thời, Xác hàng thịt đã bày tỏ những bất công mà mình
phải gánh chịu khi sống với linh hồn Trương Ba: bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác,
khổ sở…vì những lý do không chính đáng.

=> Những lý lẽ và dẫn chứng mà Xác hàng thịt đưa ra khiến Hồn Trương Ba không
thể phủ nhận được.

c. Ý nghĩa:
Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý nghĩa sâu sắc.

+ Trước hết, ở góc độ Hồn Trương Ba, ta nhận ra khát vọng sống cao thượng, thánh
thiện của con người, khi bị những cám dỗ vật chất phàm tục làm cho tha hoá, biến
chất.

+ Ở góc độ Xác hàng thịt, ta nhận ra những nếp nghĩ sai lầm của con người: đó là
thói quen đề cao tinh thần mà coi thường vật chất, tự ru ngủ mình trong những giấc
mơ cao thượng mà quên đi rằng, cần phải thiết lập mối quan hệ hoà hợp, gắn bó giữa
chúng.

=> Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn, và cuộc đối thoại giữa Hồn
và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên
trong một nẻo”, sự thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương diện: linh hồn
và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao
cả và tầm thường...ở mỗi con người.

- Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng
trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào
xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung
đột kịch: mâu thuẫn không những không được giải quyết mà còn được đẩy lên đến
một mức cao hơn.

III. Kết bài:


- Đặc sắc nghệ thuật: Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở bi kịch đặc sắc trên nhiều
phương diện: Sự kết hợp giữa nội dung hiện thực với yếu tố kì ảo, nghệ thuật tạo
tình huống và dẫn dắt xung đột kịch, sắc thái đa dạng của lời thoại khiến cho tâm lí
nhân vật được phơi trải, sát với đặc trưng thể loại, ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí,
giọng điệu tranh biện độc đáo.

- Ý nghĩa triết lý về đạo đức và nhân sinh.


HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI – ĐỀ 36
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Yếu tố tiên quyết dẫn tới thành công là thái độ làm việc chứ không phải thông
minh.
2 - Những nét khác biệt giữa những người có nhận thức phát triển so với những người
có nhận thức cố định là:
+ Họ có thể cải thiện bằng sự nỗ lực.
+ Họ làm việc hiệu quả hơn ngay cả khi có chỉ số IQ thấp hơn.
+ Họ chủ động nắm bắt thử thách, xem nó như một cơ hội để học được những thứ
mới.
3 - Học sinh có thể trả lời đồng tình hoặc không đồng tình và có lý giải hợp lý.
4 - Để thành công trong học tập, bản thân tự nhận thấy cần xác định một thái độ:
Nghiêm túc, cầu tiến, sẵn sàng đối mặt và giải quyết những khó khăn trong học tập,
chịu khó học hỏi, không ngừng khám phá.
II LÀM VĂN
1 Viết một đoạn văn khoảng 200 chữ, trình bày suy nghĩ về sự thất bại trong cuộc
sống.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Suy nghĩ về sự thất bại trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, suy nghĩ sự thất bại trong cuộc sống. Có thể theo
hướng sau:
- Sự thất bại sẽ giúp ta rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, giúp ta tìm
được cách khắc phục để đi tới thành công.
+ Thất bại không phải là sự kết thúc mà là cơ hội tốt để ta bắt đầu làm lại khi đã có
kinh nghiệm, sẽ không lặp lại sai lầm trước đó, một sự khởi đầu mới mang những
thành công hơn.
+ Thất bại có khả năng làm bạn trở nên mạnh mẽ hơn, kiên cường hơn, vững vàng
và trưởng thành hơn trong cuộc sống.
- Tuy nhiên chúng ta cần phê phán một số người có những biểu hiện tiêu cực sau
thất bại, thất vọng, bi quan, chán nản dễ đầu hàng.
- Không có thành công nào không trải qua thất bại. Hãy dũng cảm đối diện với thất
bại, biến nó thành một cơ hội tốt để đạt được thành công.
2 Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một trong số những
nhà thơ của tình yêu. Chị viết nhiều, viết hay về tình yêu với những tác phẩm tiêu
biểu như: “Sóng”, “Thuyền và Biển”, “Hoa dọc chiến hào”… trong đó “Sóng” là
một bài thơ đặc sắc rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Bài
thơ Sóng để lại giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là bốn khổ thơ
sau đây:
Dữ dội và dịu êm

Khi nào ta yêu nhau
1. Khái quát trước khi phân tích: Bài thơ Sóng được Xuân Quỳnh sáng tác tại biển
Diêm Điền năm 1967, sau được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang
âm hưởng của những con sóng biển và những con sóng lòng đang khao khát tình
yêu. Bài thơ có hai hình tượng cùng song hành và hòa điệu, đó là “Sóng” và “Em”.
Hai hình tượng này đã tạo nên nét đáng yêu cho bài thơ.
2. Bốn câu đầu là những cung bậc của sóng và cũng là những cung bậc trong tình
yêu của người phụ nữ:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
- Hai câu thơ đầu với nghệ thuật đối: “Dữ dội - dịu êm”; “Ồn ào - lặng lẽ” đã làm
hiện lên vẻ đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực. Những lúc biển động,
bão tố phong ba thì biển “dữ dội - ồn ào” còn những giây phút sóng gió đi qua biển
lại hiền hòa trở về “dịu êm - lặng lẽ”.
- Nghệ thuật ẩn dụ ở hai câu đầu là ẩn dụ cho tâm trạng người con gái khi yêu.
Xuân Quỳnh đã mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình . Tình yêu
của người phụ nữ cũng không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Đúng
như vậy, tình yêu của người con gái nào bao giờ yên định bởi có lúc họ yêu rất dữ
dội, yêu mãnh liệt hết mình với những nhớ nhung, đôi khi ghen tuông giận hờn vô
cớ. Nhưng cũng có lúc họ lại thu mình trở về với chất nữ tính đáng yêu, họ “lặng
lẽ”, “dịu êm” ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm.
- Hai câu tiếp theo tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để nói đến hành trình đi tìm
tình yêu của sóng:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
- Ba hình ảnh “sông”, “sóng”, “bể” như là những chi tiết bổ sung cho nhau : sông
và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi
mênh mông vô tận. Sóng không cam chịu một cuộc sống đời sông chật hẹp, tù túng
nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi bao la để thỏa sức vẫy vùng. Mạch sóng
mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao.
Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị
tuyệt đích của chính mình. Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu của người
phụ nữ cũng không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên trên
tất cả mọi sự nhỏ hẹp tầm thường để được sống với những tình yêu cao cả, rộng
lớn, bao dung. Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ
nữ thời đại. Có thấy ngày xưa quan niệm tình yêu cổ hủ “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đó” thì mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh:
Người phụ nữ chủ động tìm đến với tình yêu để được sống với chính mình.
3. Khổ thơ thứ hai, nhà thơ khẳng định: Tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ,
nó làm bồi hồi, xao xuyến rung động trái tim của lứa đôi, của con trai con gái, của
em và anh.
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
- Hai câu thơ đầu, từ “Ôi!” cảm thán là nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ thuật
đối lập “ngày xưa” – “ngày sau” càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng là
thế muôn đời vẫn thế vẫn “dữ dội ồn ào” vẫn “dịu êm lặng lẽ” như tình yêu tuổi trẻ
có bao giờ đứng yên:
Có những khi vô cớ
Sóng ào ạt xô thuyền
Bởi tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên
(Xuân Quỳnh)
- Hai câu thơ sau, nhà thơ khẳng định tình yêu luôn song hành với tuổi trẻ. Bởi tuổi
trẻ sinh ra là để yêu : “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không
thương một kẻ nào” (Xuân Diệu). Tình yêu là khát vọng là ước mơ của bao người.
Sẽ như thế nào nếu thế giới này không có tình yêu lứa đôi ? Tôi tin cuộc sống
chẳng còn gì ý nghĩa. Tình yêu luôn làm cho tuổi trẻ phải bồi hồi, điên đảo . Xuân
Quỳnh đã từng viết “Những ngày không gặp nhau/Lòng thuyền đau rạn vỡ”. Có
yêu nhau mới thấy được cồn cào của vị nhớ, mới thấy được thế nào là bồi hồi trong
ngực trẻ.
4. Khổ thơ thứ ba, Xuân Quỳnh băn khoăn nghĩ suy về anh và em, về nơi tình yêu
bắt đầu :
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
- Câu thơ đầu, Xuân Quỳnh nhìn về biển khơi “Trước muôn trùng sóng bể”. Nhìn
những con sóng vô hồi vô hạn đang hướng vào bờ chị chợt bâng khuâng nghĩ suy
về anh và em “Em nghĩ về anh, em” rồi lại hướng nghĩ suy về biển lớn “Em nghĩ
về biển lớn” . Những nghĩ suy ấy tất cả là để đặt một câu hỏi lớn: Từ nơi nào sóng
lên?
5. Khổ thơ thứ tư, nhà thơ lý giải về nguồn gốc của sóng của gió, và qua đó tự bâng
khuâng về khởi đầu của tình yêu:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
- Câu thơ đầu nhà thơ tự lý giải nguồn gốc của sóng là từ gió “Sóng bắt đầu từ gió”
nghĩa là sóng biển là khởi đầu từ gió, nhờ gió mà có sóng lên. Nhưng ở câu thơ thứ
hai nhà thơ lại không lý giải được nguồn gốc của gió “Gió bắt đầu từ đâu”. Đến lúc
này thì đúng là nhà thơ phân vân thật sự và đành lắc đầu bất lực “Em cũng không
biết nữa”.
- Lí giải được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi “Sóng bắt đầu từ gió” nhưng để hiểu
“Gió bắt đầu từ đâu” thì thi nhân lại ấp úng “Em cũng không biết nữa”. Cũng như
tình yêu của anh và em nó đến rất bất ngờ và tự nhiên bởi “tình yêu đến trong đời
không báo động”. Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” như một cái lắc đầu nhè nhẹ, rất
ư là nữ tính. Kì lạ quá, diệu kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ nhỉ ? Câu hỏi này
muôn đời không ai lí giải nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men
tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa. Xuân Diệu – ông hoàng của thi
ca tình yêu cũng đã từng băn khoăn khi định nghĩa về tình yêu “Đố ai định nghĩa
được tình yêu/ Có khó gì đâu một buổi chiều/Nó chiếm hồn ta bằng nắng
nhạt/Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”. Chính vì không thể lí giải rõ ngọn ngành nên
tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho muôn người đi tìm và khám
phá. Càng khám phá càng thú vị, càng khám phá càng đẹp.
6. Nghệ thuật: Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đó là nhờ
vào một số thủ pháp nghệ thuật: Thể thơ năm chữ tạo âm điệu của những con sóng
biển. Nghệ thuật đối lập, nhân hóa, ẩn dụ… Tất cả đã tạo nên những vần thơ tình
yêu hay nhất mọi thời đại.
Tóm lại, bốn khổ thơ mở đầu bài thơ Sóng là ba khổ thơ hay nhất của bài
thơ. Qua đó người đọc cảm nhận được trái tim yêu của Sóng và người phụ nữ rất
nồng nàn say đắm, mãnh liệt cuộn trào nhưng cũng rất nữ tính đáng yêu. Đoạn thơ
giúp ta hiểu được tình cảm và hồn thơ Xuân Quỳnh, dù trong mọi hoàn cảnh như
thế nào thì tiếng thơ của chị vẫn là tiếng thơ hồn hậu với những khát vọng hạnh
phúc đời thường đúng như lời chị viết:
Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm vui sướng với em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim chẳng đập vì anh!
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI – ĐỀ 37
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Những từ ngữ, hình ảnh thể hiện sự ác liệt của chiến tranh: bom rơi đạn nổ; tràng
pháo bất ngờ đã giết chết năm người và làm bị thương hai người; nằm trong làn đạn
lửa của những trái pháo; chết chóc hy sinh còn dễ dàng hơn ăn một bữa cơm.
2 - Đoạn trích hướng tới ba má và các em yêu thương.
- Tình cảm đó cho thấy người viết nhật ký là người: sống tình cảm luôn hướng về
người thân, ưa bày tỏ tâm tư, chia sẻ.
3 - Biện pháp tu từ so sánh (so sánh không ngang bằng): chết chóc hy sinh còn dễ dàng
hơn ăn một bữa cơm.
- Tác dụng:
+ Nhấn mạnh sự khốc liệt, dữ dội của chiến tranh và sự hy sinh, chết chóc nơi chiến
trường diễn ra với tần suất lớn, quá dễ dàng.
+ Làm câu văn trở nên sinh động, giàu hình ảnh.
4 - Con người sống gắn với thực tế và hiểu hoàn cảnh chung của đất nước.
- Con người hòa chung với quyết tâm đấu tranh, sẵn sàng hy sinh thân mình vì nền
độc lập, sự nghiệp của dân tộc.
II LÀM VĂN
1 Trình bày suy nghĩ của bản thân về thế hệ thanh niên trong những tháng năm
“bom rơi đạn nổ”.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Suy nghĩ của bản thân về thế hệ thanh niên trong những tháng năm “bom rơi đạn nổ”.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh trình bày suy nghĩ về vấn đề nghị luận dựa trên những gợi ý sau đây:
- Thế hệ thanh niên trong tháng năm “bom rơi đạn nổ” là một thế hệ trẻ sẵn sàng rời
bỏ nhà trường, gia đình, quê hương tham gia vào chiến trường.
- Thế hệ trẻ gan góc, kiên cường, anh dũng, sẵn sàng hy sinh bản thân mình để hoàn
thành các nhiệm vụ của dân tộc.
- Dù trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, nhưng thế hệ trẻ vẫn luôn thể hiện sự hồn
nhiên, trong sáng và yêu đời.
- Mở rộng và liên hệ: Thế hệ trẻ hiện nay cũng trải qua tháng năm “bom rơi đạn nổ”
trên các mặt trận kinh tế - văn hóa, xã hội: học tập, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản
thân, vượt qua mọi khó khăn thử thách, bắt kịp đà phát triển của thế giới trong thời
đại ngày nay.
2 * Đặt vấn đề:
- Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của các nhà thơ chống Mĩ. Thơ
Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi
tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời
thường bình dị.

- Sóng là bài thơ thể hiện đậm nét phong cách thơ Xuân Quỳnh. Nổi bật trong đó là
những vần thơ:

Con sóng dưới lòng sâu.

Dù muôn vời cách trở

* Triển khai:

- Xuân Diệu từng viết:

Uống xong lại khát là tình

Gặp rồi lại nhớ là mình với ta

Hay Nguyễn Đình Thi:

Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước

Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn

- Còn Xuân Quỳnh thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu qua nhiều cung bậc:

+ Trong tình yêu, ta vẫn thường thấy hai mặt yêu và nhớ, yêu say đắm thì nhớ thiết
tha:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

là những cung bậc khác nhau của nỗi nhớ anh. Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu
thì con sóng vẫn đều có bờ. Bờ là nơi đến của sóng, là đối tượng để sóng vuốt ve, vỗ
về, là cái đích để đi đâu về đâu sóng lúc nào cũng nhớ đến, cũng không quên, ngay
cả đó là ngày hay đêm:

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được.

+ Nỗi nhớ có cái biểu hiện ra bên ngoài có cái ẩn chứa tự sâu trong đáy lòng. Vắng
anh, em nhớ, khi thức, em nhớ đến anh. Đó là biểu hiện bình thường. Nhưng ở đây,
trong mơ em vẫn nhớ. Đó là nỗi nhớ mới da diết, khắc khoải, thổn thức cứ trằn trọc
không yên:

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức.

- Lòng thủy chung vừa như một thuộc tính vừa là bản chất của tình yêu chân chính:

+ Xưa nay, nỗi nhớ luôn gắn liền với khái niệm thời gian vô tận và không gian vô
cùng. Với thời gian, nó không có ngày đêm; với không gian, nó không có phương
hướng. Không gian có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc nhưng tình yêu thì chỉ có
một phương và đó chính là anh. Trong đời, em quen biết nhiều người, họ có thể hơn
hẳn anh thế nhưng em lại chọn anh, yêu anh và chỉ biết có anh. Chỉ riêng anh là khiến
em luôn nghĩ tới và hướng về:

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương.

+ Những người đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau, họ là mặt trời suốt đời soi
sáng và sưởi ấm cho nhau.

+ Dùng hình thức điệp từ, điệp cấu trúc kết hợp với nghệ thuật đối lập qua cách nói
ngược xuôi bắc, ngược nam, tác gải muốn nhấn mạnh rằng: bất chấp sự cách trở của
không gian và thời gian, người phụ nữ vẫn giữ vững lời thề vàng đá, vẫn thủy chung
son sắt.

+ Tình yêu đẹp là vậy, trong sáng là vậy, mãnh liệt bay bổng là vậy nhưng nó không
tránh khỏi những dâu bể của đời thường. Chính vì thế những người đang yêu ngoài
sự say mê còn phải có đủ nghị lực và lí trí để vượt qua mọi thử thách, giông bão của
cuộc đời với niềm tin sẽ tới đích.

Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở.


+ Những con sóng ở đại dương dù gió xô bão táp tới phương nào đi chăng nữa thì
cuối cùng sóng vẫn trở về với bờ. Em cũng như sóng, cho dù gặp bao khó khăn em
cũng sẽ vượt qua hết để đến với anh, bởi tình yêu anh đã cho em sức mạnh.

* Đánh giá:

- Bài thơ Sóng với hình ảnh ẩn dụ sóng đã khiến cho người đọc có một liên tưởng đầy
chân thực và sâu sắc về tình yêu với những biến cố lớn nhưng nếu biết cách vượt qua
thì khi nào sóng yên biển lặng họ lại trở về bên nhau.

- Xuân Quỳnh đã gieo vào lòng người đọc những trạng thái cảm xúc thật bình dị và
cũng thật mãnh liệt cho tình yêu. Bài thơ Sóng thực sự là một bài thơ tình tuyệt bút.
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI – ĐỀ 38
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Vẻ đẹp trù phú, xanh tươi của đồng bằng sông Cửu Long được tác giả gợi tả qua
những từ ngữ, hình ảnh: thúng thóc đầy; bờ vàm nắng gió; òng hương hoa trái; miệt
cù lao phì nhiêu; phù sa, hoa lá, lúa ngân reo.
2 - Hình ảnh khói đốt đồng trong câu thơ Giữa khói đốt đồng mướt ánh trăng khuya? là
hình ảnh tả thực.
- Vì hình ảnh đó gợi tả về cảnh người nông dân thu dọn, làm vệ sinh đồng ruộng, đốt
các đống rơm rạ của mùa trước để tiếp tục gieo cấy mùa màng với ước mong có được
vụ mùa bội thu.
3 - Biện pháp nhân hóa: Đồng bằng sông Cửu Long, Chàng lực điền, thôn nữ dậy thì.
+ Nhà thơ đã nhân hóa đồng bằng sông Cửu Long thành những chàng trai, cô gái đảm
đang, tháo vát, hăng say lao động làm nên những thành quả tốt đẹp cho cuộc sống.
Qua đó, nhà thơ muốn nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng những công lao của con
người đi khẩn hoang, mở cõi.
- Biện pháp so sánh: Như những bờ vàm, như những miệt cù lao.
+ Những hình ảnh so sánh khẳng định sức sống, vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của quê
hương đồng bằng sông Cửu Long. Tất cả cảnh vật của quê hương được nhìn bằng con
mắt yêu quý, ngợi ca của tác giả. Hình ảnh thơ trở nên hấp dẫn hơn, gợi hình, gợi cảm
hơn.
4 Học sinh bày tỏ được tình cảm chân thành, sâu sắc về quê hương đồng bằng sông Cửu
Long (chẳng hạn: lòng yêu quý, gắn bó thiết tha với quê hương, phát hiện ra vẻ đẹp
qua những cảnh vật bình dị, thân quen, nơi vựa lúa, cung cấp lương thực, thực phẩm
dồi dào nhất cho cả nước).
II LÀM VĂN
1 Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về tình trạng xâm nhập mặn ở
Đồng bằng sông Cửu Long.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc
xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận
Tình trạng xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long.
c. Học sinh vận dụng hợp lý các thao tác lập luận để triển khai vấn đề:
- Sự biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, sự nóng lên của
trái đất, các hiện tượng thời tiết bất thường, bão lũ, hạn hán, giá rét kéo dài… dẫn đến
thiếu lương thực, thực phẩm và xuất hiện hàng loạt dịch bệnh trên người, gia súc, gia
cầm.
- Đồng bằng sông Cửu Long đã hứng chịu nạn hạn hán, xâm nhập mặn lớn nhất trong
gần một thế kỉ qua, mực nước tại mạng lưới kênh rạch ở mức thấp, ruộng lúa khô
cằn, những đầm tôm mất trắng… đặt lên vai người nông dân chồng chất những gánh
nợ.
- Sinh hoạt của người dân cũng bị ảnh hưởng trầm trọng, có hơn nửa triệu người thiếu
nước.
- Nâng cao ý thức, tuyên truyền các biện pháp để cải thiện và bảo vệ môi trường.
- Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, có quy hoạch các khu vực nuôi trồng ven biển.
- Kêu gọi sự chung tay góp sức của cộng đồng quốc tế.
2 * Đặt vấn đề:

- Xuân Quỳnh là gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Thơ Xuân
Quỳnh là một tiếng thơ trẻ trung, tươi mới, đầy nữ tính. Đặc điểm đặc sắc trong thơ
tình Xuân Quỳnh là bày tỏ trực tiếp tình yêu của người phụ nữ một cách tự nhiện mà
mãnh liệt, đằm thắm.

- Sóng bộc lộ khát vọng một tình yêu vĩnh hằng, cao thượng của trái tim người phụ
nữ đang yêu. Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của Xuân Quỳnh
ở Thái Bình và in trong tập Hoa dọc chiến hào. Hai khổ thơ cuối là khát vọng về tình
yêu hạnh phúc, vĩnh hằng:

Cuộc đời tuy dài thế

Để ngàn năm còn vỗ.

* Triển khai:

- Từ nỗi nhớ lúc dữ dội - ồn ào, lúc êm đềm - lặng lẽ, ý thơ dồn thành khát vọng sống
mãnh liệt của sóng. Sóng tìm đến cái đích của tình yêu trong một niềm tin mạnh mẽ:

+ Xuân Quỳnh mượn quy luật của sóng biển, mây trời để diễn tả qui luật của lòng
người. Là một phụ nữ nhạy cảm và đa đoan, Xuân Quỳnh ý thức rất đời: cuộc sống
là dài, rộng, là muôn vời cách trở.

+ Càng thấp thỏm, lo âu, Xuân Quỳnh càng cháy bỏng một niềm tin tha thiết, cảm
động: tình yêu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới đích, như những con sóng con nào
chẳng tới bờ và mây vẫn bay về xa.

- Lời thơ cứ thế triền miên cùng sóng. Cuối cùng sóng hiện ra trong khát khao hạnh
phúc mãnh liệt nhất: khát khao tình yêu vĩnh hằng, bất tử:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ


Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

+ Đứng trước biển, đối diện với cái mênh mông rộng lớn của thời gian và không gian
Xuân Quỳnh ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc.

+ Nhà thơ muốn được có mặt mãi trên cõi đời để được sống và bất tử trong tình yêu.
Khát vọng hóa thân và phân thân trong sóng thật mạnh mẽ. Hai chữ tan ra vừa cháy
bỏng nồng nhiệt, vừa thăm thẳm nỗi niềm phụ nữ - cái thăm thẳm của hai khát vọng
hòa làm một: yêu hết mình và dâng hiến hết mình. Đó cũng chính là vẻ đẹp thánh
thiện của người phụ nữ trong tình yêu.

- Đoạn thơ xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt, sôi nổi; vừa hồn nhiên, trong sáng;
vừa ý nhị, sâu xa. Sóng vì nó không chỉ đơn thuần là thơ mà còn là những gì tinh tế
nhất, huyền diệu nhất của một tâm hồn phụ nữ, một trái tim nhạy cảm luôn khao khát
yêu thương.

* Đánh giá:

- Xuân Quỳnh đã bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn thơ nữ khao khát sống và yêu thương.
Tác giả muốn nói đến một tình yêu đẹp và thiêng liêng, đắm say, chung thuỷ, độ
lượng của người phụ nữ.

- Xuân Quỳnh trong bài thơ Sóng đã thể hiện được một tình yêu có tính chất truyền
thống như tình yêu muôn đời nhưng vẫn mang tính chất hiện đại của tình yêu hôm
nay.
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI – ĐỀ 39
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Trình bày theo cách diễn dịch.
2 - Vai trò, tầm quan trọng của thời gian đối với cuộc sống con người hiện đại.
3 - Đồng ý:
+ Thời gian trôi qua sẽ không bao giờ quay lại và vì thế con người sẽ mất đi nhiều
thứ:
+ Mất đi mọi cơ hội để học tập, lao động, sáng tạo, làm những điều có ý nghĩa mà
mình yêu thích.
+ Sẽ tụt hậu so với sự phát triển không ngừng của thời đại.
+ Không thể tự khẳng định giá trị của bản thân qua những đóng góp cho cuộc đời.
4 - Giải trí giúp chúng ta cân bằng lại cuộc sống, cân bằng lại tâm trạng sau những giờ
lao động mệt nhọc để ta có thể thực hiện tiếp những công việc đã dự tính.
- Chơi bời lại là sự vui chơi quá mức, không lo đến tương lai, công việc, để thời gian
trôi đi một cách vô nghĩa.
- Giải trí trong một thời gian nhất định sẽ giúp ta làm việc tốt hơn, còn chơi bời là
tiêu tốn thời gian một cách vô ích nên sẽ làm hại tương lai bản thân và không thể có
sự cống hiến cho đất nước.
II LÀM VĂN
1 Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về câu nói “Tương lai được
mua bằng hiện tại”.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Suy nghĩ về câu nói Tương lai được mua bằng hiện tại.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ câu nói, Tương lai được mua bằng hiện tại. Có thể
theo hướng sau:
- Giải thích vấn đề:
+ Tương lai là những diễn biến, sự kiện diễn ra ở phía trước, cái mà ta không thể
đoán trước, biết trước được
+ Hiện tại là bây giờ, thời điểm này, lúc này, không gian và thời gian mà chúng ta
đang hít thở, đang sống.
- Bàn luận:
+ Sự chuẩn bị cho tương lai chính là những việc làm của hiện tại. Nếu chúng ta
không hành động – không học tập, không lao động thì ở tương lai chúng ta sẽ
không có gì cả.
+ Cần có nhiều biện pháp để chuẩn bị tốt cho tương lai.
+ Phê phán lối sống hưởng thụ, thiếu mục đích sống.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận.
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI – ĐỀ 40
Phần/Câu Nội dung
I ĐỌC HIỂU
1 - Hành trình khởi nghiệp và câu chuyện làm giàu của ông chủ tập đoàn Mc Call.
2 - Người con dùng đồng làm khóa cửa, chế tạo dây cót đồng hồ Thụy Sỹ và làm huy
chương cho thế vận hội Olympic… Anh đã bán một cân đồng với giá 3.500 đô la.
3 - Khi người khác trả lời 1+1=2, con hãy tư duy rằng 1+1>2.
+ Không nên có suy nghĩ và hành đông theo số đông.
+ Phải có tư duy sáng tạo, khác người, hơn người chúng ta mới thành công và tạo
được dấu ấn trong cuộc đời.
4 - Câu nói 1+1> 2 là có thể: Cuộc sống là một không gian mở, không có bất cứ giới
hạn nào, không có điều gì là không thể.
- Mỗi con người là một tiềm năng. Tư duy sáng tạo giúp con người vượt qua giới
hạn của bản thân và cuộc sống để vươn tới những tầm cao mới.
- sự sáng tạo làm thay đổi những cái vốn có, cái bình thường và tạo ra những kỳ tích.
II LÀM VĂN
1 Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về vai trò của sáng tạo trong cuộc sống.
a. Đảm bảo yêu cầu hình thức đoạn văn
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp,
móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Bàn về vai trò của sáng tạo trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo
nhiều cách nhưng phải làm rõ, vai trò của sáng tạo trong cuộc sống. Có thể theo
hướng sau:
- Sáng tạo là những suy nghĩ, hành động mới mẻ, khác biệt so với bản thân mình và
người khác.
- Là sự say mê tìm tòi, khám phá để tìm ra những giá trị mới về vật chất, tinh thần.
- Biểu hiện của sáng tạo:
+ Không chấp nhận cái hiện có, mà luôn có nhu cầu khám phá, tạo ra cái mới, cái
khác biệt.
+ Say mê hoạt động, nghiên cứu, linh hoạt xử lý các tình huống, có thể tạo ra cái
mới, đọc đáo, hiệu quả, hấp dẫn.
- Bàn luận, mở rộng:
+ Sự sáng tạo rất cần thiết trong xã hội hiện đại vì nó giúp con người vượt qua giới
hạn của hoàn cảnh, giúp con người sớm đạt tới mục tiêu mình đề ra.
+ Sáng tạo làm thay đổi lề thói cũ, thay đổi cuộc sống của mỗi cá nhân và cả xã hội.
+ Sự sáng tạo được khơi nguồn từ tình yêu đối với công việc và cuộc sống, và chính
nó làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa.
+ Sự sáng tạo luôn đồng hành với sự chăm chỉ, cần cù, kiên nhẫn trong học tập và
làm việc
“Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu
bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm
cuộc sống tự do” (SGK Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục 2009, tr.15).
Anh/chị hãy phân tích hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng A Phủ trốn khỏi Hồng
Ngài trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài để làm sáng tỏ nhận định trên.

Câu 2 Phân tích hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ, rồi cùng A Phủ trốn khỏi Hồng 5,00
Ngài trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài để làm sáng tỏ nhận định trên.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu 0,25
được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề gồm nhiều ý/đoạn văn, kết bài kết luận
được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: “Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người 0,25
dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đầy
đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự
do”.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận;
kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
Sau đây là một số gợi ý:
* Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận 0,5
* Giải thích ý kiến: câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không 0,5
cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối
đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do chính là câu chuyện của Mị đã vượt lên
nỗi sợ thần quyền, cường quyền, cắt dây trói cứu A Phủ và chạy theo A Phủ trốn khỏi
Hồng Ngài.
* Phân tích hành động cắt dây trói và chạy theo A Phủ của Mị để thấy rõ hành động
phản kháng, không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong
cuộc sống tăm tối và khát vọng cuộc sống tự do của nhân vật Mị.
- Trước khi Mị cắt dây trói cứu A Phủ:
+ Mị là cô gái HMông có nhan sắc, yêu đời, tâm hồn trong sáng, khát vọng hạnh
phúc, tình yêu, chăm chỉ lao động, hiếu thảo và tự trọng. 0,5
+ Vì món nợ hôn nhân của cha mẹ, Mị phải trở thành con dâu gạt nợ cho thống lí
Pá Tra.
+ Mị nhiều lần phản kháng nhưng bị vùi dập một cách tàn bạo.
+ Mị trở nên chai sạn, câm lặng đến vô cảm.
- Hành động cắt dây trói cứu A Phủ 1,5
Có thể coi đây là hành động phản kháng, không cam chịu, làm thay đổi số phận của cả
A Phủ và Mị:
+ Lúc đầu, Mị “thản nhiên” đến đáng sợ, tâm hồn vốn nhạy cảm của Mị đã gần
như “chai sạn”, “vô cảm”.
+ Dòng nước mắt của A Phủ khiến “Mị nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị”. Từ
thương thân, Mị đồng cảm, rồi thương người “Trời ơi, nó bắt trói người ta đến chết”,
Mị nhận thức được bản chất độc ác của cha con thống lí Pá Tra “Chúng nó thật độc ác.
Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
+ Tình thương vừa được đánh thức, nỗi sợ hãi thần quyền, cường quyền ập đến.
Nhưng Mị đã vượt lên mọi nỗi sợ hãi và có hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ.
- Hành động chạy theo A Phủ 0,5
+ Khát vọng sống mãnh liệt của A Phủ bừng lên khát vọng sống, tự do trong Mị.
+ Mị đã chạy theo A Phủ, tự giải thoát cho cuộc đời mình.
* Đánh giá chung 0,5
- Mị tiêu biểu cho những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn
thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa vùng lên phản kháng.
- Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và chạy theo A Phủ của Mị thật quyết liệt, bất ngờ
nhưng phản ánh đúng bản chất của hiện thực; làm thay đổi số phận của Mị.
- Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. 0,25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
“Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là tôi
toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở
bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa,
chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất,
trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông
đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
`Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên,
đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ vào anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi
sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
Đế Thích: ( không hiểu) Nhưng mà ông muốn gì?
Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông có thể làm cho
hồn người đó trở về. Thì đây, (chỉ vào người mình) thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên
xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này.
Đế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường
của anh hàng thịt?
Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận được với thân
anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn…còn chị vợ anh ta nữa…chị ta thật
đáng thương!”
(Trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – Lưu Quang Vũ,
Sách giáo khoa Ngữ văn 12 tập 2, trang 149, nhà xuất bản Giáo dục)
So sánh quan điểm sống của Trương Ba và Đế Thích trong đoạn trích trên. Từ đó,
anh/chị hãy bình luận ngắn gọn về tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.

Câu 2:
Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: có đủ các phần mở bài – thân bài – 0,5 điểm
kết bài
Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề đủ các ý, và kết
luận được vấn đề
Mở bài: giới thiệu tác giả Lưu Quang Vũ 0,5 điểm
– Tác giả Lưu Quang Vũ: là nghệ sĩ đa tài, nổi tiếng với những vở kịch
nói gây tiếng vang trên sân khấu những năm 80 của thế kỉXX.
– Vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt: Viết năm 1981 nhưng đến năm
1984 mới được công chiếu. Đó là thời điểm đất nước có nhiều chuyển
biến, sự đổi mới của thực tiễn đòi hỏi văn học nghệ thuật phải lột xác,
thay đổi cách tiếp cận đời sống, con người và cách thể hiện trong tác
phẩm. từ một câu chuyện cổ dân gian, nhà văn Lưu Quang Vũ đã sáng
tạo thành vở kịch nói hiện đại và qua đó gửi gắm nhiều tư tưởng, triết lí
nhân sinh sâu sắc.
– Nhân vật Trương Ba: người làm vườn giỏi, sống nhân hậu, trong sáng.
Đế Thích,vị tiên trên trời giỏi đánh cờ, sửa sai cho quan thiên đình bằng
cách cho hồn Trương Ba sống lại trong thân xác hàng thịt.
1. Thân bài:

*So sánh quan điểm của hai nhân vật qua đoạn trích.
– Giải thích quan điểm: cách nhìn về cuộc sống (mục đích, ý nghĩa, lí
do…sự sống của con người). Quan điểm đúng thể hiện lập trường, đạo
đức, vốn sống, văn hóa và sự tiến bộ, tích cực trong cuộc sống. Quan
điểm sai lệch biểu hiện lối sống tiêu cực, hành động sai trái, tạo cơ hội
cho kẻ xấu làm điều ác, hãm hại người tốt…
– Hoàn cảnh của Trương Ba: Bất đắc dĩ phải sống trong thân xác hàng
thịt, dần dần Trương Ba bị nhiễm nhiều thói xấu của xác hàng thịt: thèm
ăn ngon, thèm rượu thịt, không làm chủ được cảm xúc…nhất là sự thay
đổi của Trương Ba làm người thân đau khổ, bản thân ông bế tắc tuyệt
vọng. Trương Ba đã thắp hương gọi Đế Thích và hai người đã đối thoại
với nhau thể hiện rõ quan điểm của nhau. Trương Ba:người dưới đất, Đế
Thích tiên trên trời. Đoạn đối thoại thuộc Cảnh 7 của vở kịch, thời điểm
mâu thuẫn đẩy lên gay gắt nhất và phải được giải quyết triệt để bằng
hành động và lời nói dứt khoát của nhân vật chính.
– Quan điểm của Trương Ba:
+ Không chấp nhận lối sống : bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
Đó là lối sống giả dối, gây đau khổ cho người thân, gây phiền toái cho
chính mình. Điều đó chứng tỏ Trương Ba đã dũng cảm đối diện với
hoàn cảnh nghiệt ngã, dám từ bỏ cuộc sống không phải là mình, chiến
thắng sự hèn nhát tầm thường, yếu đuối của bản thân, không chịu lùi
bước trước xác hàng thịt.
+ Khát vọng được sống là mình: trọn vẹn cả linh hồn và thể xác. Đó mới
thực sự là sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho
mọi người.
+ Phê phán Đế Thích nghĩ đơn giản, sống quan liêu hời hợt: Chỉ cần
cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết.Đối với
Trương Ba, sống không được là mình mà phải nhờ vả, mượn thân xác
người khác chẳng qua là sự tồn tại, vô hồn, không ý nghĩa.
+ Dám từ bỏ những thứ không phải của mình để trả lại sự sống cho anh
hàng thịt. Trương Ba không chỉ cao thượng mà rất nhân hậu vị tha.
=>Quan điểm của Trương Ba không chấp nhận cuộc sống giả tạo, gượng
ép,chắp vá, vô nghĩa. Trương Ba có lòng tự trọng, sống cao thượng,
khao khát sống là chính mình trọn vẹn thể xác và linh hồn. Đó là lối
sống đẹp đẽ, đáng trân trọng của những người hiểu rõ mục đích ý nghĩa
của cuộc sống.
– Quan điểm của Đế Thích:
+ Không ai được sống là mình, trên trời dưới đất đều sống kiểu bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo: Tôi, ông và cả Ngọc hoàng thượng
đế tối cao cũng vậy. Đó là sự thật phải chấp nhận không nên thay đổi,
phủ nhận.
+ Chỉ cần thể xác được sống lại cho linh hồn trú ngụ còn thể xác và linh
hồn không thống nhất không quan trọng…Vậy quan điểm của Đế Thích
không coi trọng sự sống thực sự mà chỉ coi trọng sự tồn tại. Đó là quan
điểm của vị tiên trên trời quan liêu hời hợt, vô cảm.
+ Không nên đổi tâm hồn đáng quý của bác cho tâm hồn tầm thường của
anh hàng thịt, Đế Thích cho rằng sống chắp vá, sống gượng ép: bên
trong một đằng bên ngoài một nẻo không nguy hại gì cho ai. Vì vậy hãy
cố gắng chập nhận và sống chung với hoàn cảnh đó.

 Nhận xét hai quan điểm sống:

+ Trương Ba đúng đắn, tích cực, coi trọng sự sống thực sự là mình còn
Đế Thích sai lầm, quan liêu chỉ coi trọng sự tồn tại còn sống được là
mình không cần quan tâm.
+ Quan điểm của Trương Ba thể hiện tư tưởng chủ đề của vở kịch và
cũng là thông điệp của nhà văn đến mọi người: Hãy sống là mình, trọn
vẹn thống nhất thể xác và linh hồn. Nếu không chỉ là sự tồn tại vô nghĩa,
tạo cơ hội cho kẻ xấu lợi dụng, cái ác hoành hành.
+ Nhà văn phê phán lối sống giả tạo, lối sống hời hợt, chắp vá, gượng ép
hoặc quá đề cao nhu cầu vật chất hơn tinh thần, tinh thần hơn vật chất
đang diễn ra phổ biến, trở thành trào lưu đáng báo động trong xã hội.
* Bình luận tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo:
– Đối với bản thân người có lối sống đó: dần dần sẽ bị tha hóa, ích kỉ,
thực dụng, giả dối, suy thoái nhân cách, đánh mất danh dự, lòng tự
trọng.: tham nhũng, hối lộ, gây ra những tệ nạn xã hội. Bị mọi người coi
thường xa lánh.
– Đối với cộng đồng: mất đoàn kết, hiểu lầm, mâu thuẫn, tranh giành,
hãm hại nhau, kìm hãm sự phát triển.
Cách phòng tránh: Sống yêu thương nhân hậu vị tha, mạnh dạn dũng
cảm đấu tranh với biểu hiện tiêu cực, giả dối, bảo vệ người tốt lẽ phải.

– Nghệ thuật: ngôn ngữ kịch giản dị, có sức khái quát cao, thể hiện rõ
xung đột kịch và tích cách nhân vật.
3. Kết bài : – Tính chất triết lí từ hai nhân vật có quan điểm sống trái
ngược nhau làm nên thành công của vở kịch.
– Mâu thuẫn được giải quyết: Trương Ba không chấp nhận sống chung
với sự tầm thường giả dối của người khác, ông muốn được sống thuận
theo lẽ tự nhiên: trọn vẹn là mình hòa hợp linh hồn thể xác.
– Tài năng soạn kịch của Lưu Quang Vũ: từ một tình huống trong
truyện cổ dân gian, nhà văn đã sử dụng sáng tạo thành xung đột kịch
gay gắt căng thẳng.
Sáng tạo: có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề 0,25 điểm
nghị luận
Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25 điểm
Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.

Câu 5,0
2 Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài.
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, 0,25
kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề và chia thành
nhiều đoạn, kết bài chốt được vấn đề.
b. Xác định đúng yêu cầu đề: Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn Vợ chồng 0,5
A Phủ của nhà văn Tô Hoài.
c.Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện cách phân tích
và suy nghĩ sâu sắc; liên hệ phong phú; vận dụng tốt các thao tác lập luận;
kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng
0,5
- Giới thiệu: tác giả Tô Hoài; tác phẩm Vợ chồng A Phủ; dẫn đề.
- Phân tích vấn đề một cách sâu sắc; thể hiện suy nghĩ riêng/liên hệ phong phú, 2,5
hợp lí:
+ Giá trị nhân đạo: là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học. Đó là lòng cảm
thông, thương xót sâu sắc của nhà văn với những nỗi đau khổ, bất hạnh của con
người (người tài hoa bạc mệnh, người nghèo, em nhỏ,…). Đồng thời lên án những
thế lực tàn bạo, đen tối; chà đạp lên quyền sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá
con người. Đó còn là sự trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp tâm hồn con người và
lòng tin vào khả năng vươn lên của họ.
+ Biểu hiện cụ thể:
 Nhà văn thể hiện lòng thương xót, cảm thông với số phận của những
người lao động nghèo miền núi (Mị, A Phủ,…).
 Nhà văn cũng phơi bày tội ác của bọn thống lý, chúa đất phong kiến miền
núi đã đày đọa cả thể xác và tinh thần những người lao động nghèo
(Thống lý Pá Tra, A Sử,…).
 Nhà văn trân trọng và ca ngợi khát vọng tự do, phẩm chất tốt đẹp và sức
sống mãnh liệt của những người nghèo miền núi (Mị, A Phủ).
+ Đánh giá chung:
 Giá trị nhân đạo cùng giá trị hiện thực đã thể hiện sâu sắc giá trị tác phẩm;
tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn khi viết về đề tài người nông dân, 0,5
cuộc sống của họ ở vùng cao Tây Bắc.
 Nghệ thuật: Miêu tả tâm lý, xây dựng nhân vật, ngôn ngữ độc đáo,…
c. Sáng tạo: Học sinh có 0,5
- Mở bài, kết bài lạ, hấp dẫn, sáng tạo,…
- Sử dụng đa dạng các kiểu câu, kết hợp các phương thức biểu đạt và các
thao tác lập luận; cảm nhận sâu sắc, mới mẻ,…
- Có liên hệ so sánh để làm rõ yêu cầu đề.
- Có vận dụng kiến thức lý luận văn học.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25

Tổng điểm phần II 7,0


Anh/ Chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài để
thấy được sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì dập tắt được của một thân phận nô lệ được thức tỉnh.
(Trích Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài- Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam)

2 5.0
Viết bài văn NLVH phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
ở Hồng Ngài để thấy được sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ của một thân phận nô lệ được
thức tỉnh.
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai
được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0.25

Trên cơ sở hiểu biết về tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ ” của nhà văn Tô Hoài, thí sinh
biết phân tích những diễn biến tinh tế trong tâm trạng của Mị để thấy được sức sống
tiềm tàng của nhân vật.

c. Triển khai vấn đề nghị luận 4.0

Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận
dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng

* Giới thiệu sơ lược về hoàn cảnh của nhân vật Mị:
- Trước khi về làm dâu nhà thống lí: là cô gái Mèo tài giỏi, xinh đẹp, hiếu thảo,
siêng năng....
- Sau khi về làm dâu nhà thống lí: trở thành đầy tớ không công, là thân trâu ngựa...
-> bị ràng buộc bởi cường quyền và thần quyền.
=> Chai sạn, vô cảm, sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
* Phân tích tâm trạng Mị trong đêm mùa xuân.
- Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị
+ Cảnh mùa xuân đến sớm ở Hồng Ngài
+ Rượu và âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu núi
* Diễn biến tâm trạng:
- Tiếng sáo vọng lại từ “ ngoài đầu núi khiến Mị bồi hồi”, tâm trạng Mị bắt đầu
thay đổi.
- Mị uống rượu
+ Mị say, tai Mị văng vẳng tiếng sáo, tiếng sáo làm Mị sống lại ngày trước. “Ngày
trước, Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có
biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
+ Lòng Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như đêm Tết
ngày trước. Tuy nhiên, Mị không bỏ đi ra ngoài chơi mà lại từ từ bước vào buồng,
ngồi xuống giường và trông ra cửa sổ mờ mờ trăng trắng.
-> Mị chưa thoát khỏi thực tại.
- Mị ham sống trở lại:
+ Trong âm vang của tiếng sáo, tình yêu đời, lòng ham sống trở lại “Mị thấy phơi
phới trở lại”. Sau bao nhiêu năm, cô Mị mất hết ý niệm về thời gian, không gian, về
bản thân thì đây là lần đầu tiên Mị ý thức về bản thân mình: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn
trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết” -> Tâm trạng
Mị bắt đầu thay đổi, Mị thấy yêu đời, yêu cuộc sống, ý thức về cuộc sống.
+ Trở về thực tại, Mị cay đắng nhận ra mong muốn ấy không thể thực hiện vì
chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết, bởi vì “ Mị và A Sử không có lòng với
nhau nhưng vẫn phải ở với nhau”. Từ những suy nghĩ ấy, Mị cảm thấy bẽ bàng,
chua xót cho số phận và lại muốn chết: “ Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho
chết ngay ..” -> Mị ý thức được tình cảnh đau xót của mình, cũng chính là sự phản
kháng của Mị. Khi đó, những giọt nước mắt tưởng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại lăn
dài.
- Sức sống trỗi dậy mạnh mẽ, Mị muốn đi chơi và quyết định đi chơi “Mị quấn lại
tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách”
- Tình yêu cuộc sống vừa trỗi dậy trong Mị đã bị A Sử dập tắt một cách tàn nhẫn:
A Sử trói đứng Mị vào cột nhà suốt đêm.
+ Dù bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo. A Sử chỉ có thể trói được thể xác Mị
chứ không thể trói được tâm hồn Mị.
+ Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên mình đang bị trói, “ Mị vẫn nghe tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi…”. Mị nhận thức về thân
phận,“ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”...
=> Quá trình thức tỉnh của Mị đi từ quá khứ tươi đẹp đến những suy nghĩ về hiện
tại cay đắng. Mị tuy đã có những ý thức phản kháng nhưng chưa quyết liệt. Dù vậy,
ta vẫn thấy trong Mị đang tiềm tàng một sức sống mãnh liệt.
* Sơ kết: Nghệ thuật phân tích tâm lí phù hợp với logic của cuộc sống, đạt đến sự
chân thực, tinh tế. Lối trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự
nhiên. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, sáng tạo; câu văn giàu tính tạo hình và đậm chất
thơ. Qua đó, ta thấy được sức sống mãnh liệt, dữ dội trong tâm hồn Mị. Sức sống đó
dẫu có bị vùi dập vẫn âm ỉ cháy, chỉ chờ có cơ hội là bùng lên mạnh mẽ.-> Góp phần
tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25
Đảm bảo chuẩ n chı́nh tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiế ng Viêṭ .

e. Sáng tạo 0.25


Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.

You might also like