Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 31

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC VĂN LANG

MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ


MINH

BÀI BÁO CÁO

Đề tài: Sinh viên tìm hiểu về các hoạt động giới thiệu, truyền thông về Hồ Chí
Minh được tổ chức bên ngoài nhà trường: như tại các bảo tàng, trong các khu lưu niệm
cách mạng, các chương trình sự kiện, các hình thức truyền thông, tác phẩm nghệ
thuật... (giới thiệu, trưng bày, kỷ niệm, tác phẩm...)

Cấp độ 2: Bài tập lấy tư liệu dựa vào tài nguyên, dữ liệu là các tác phẩm (âm
nhạc, điện ảnh, phim tài liệu, văn học, hội hoạ, điêu khắc...) để xác định nội dung báo.

Giảng viên. : ThS Huỳnh Bá Lộc

Nhóm : 02

LHP : 232_POLC10052_05
Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 3 năm 2024

THÀNH VIÊN THỰC HIỆN:

HỌ VÀ TÊN SINH
STT MSSV VAI TRÒ
VIÊN
1 Nguyễn Văn Đạt 2272202010070 Thành viên
2 Ngô Võ Thành Đức 2272202010708 Thành viên
Nguyễn Đinh Hoàng
3 2273201080368 Thành viên
Giang
4 Nguyễn Hương Giang 2175801080241 Thành viên
Nguyễn Thị Cẩm Nhóm
5 2173801010119
Giang trưởng
6 Vũ Hoàng Giang 2174802010807 Thành viên
7 Cao Anh Hào 197NA15054 Thành viên
8 Nguyễn Thanh Hiển 2273401150428 Thành viên
9 Nguyễn Bảo Hoàng 2273106080035 Thành viên
10 Vũ Gia Huy 2274802010337 Thành viên
11 Diệp Lê Khang 2273101060018 Thành viên

2
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH LÀM VIỆC NHÓM:

BÀI TẬP NHÓM


N
H T T
THÔNG TIN THÀNH VIÊN ội T
ọp ài hời
dun ổng
nhóm liệu gian
g
S V 2 2 2 2 1
Họ và tên Mssv
STT ai trò 5% 5% 5% 5% 00%
T
2272202 2 2 2 2 1
1 Nguyễn Văn Đạt hành
010070 5% 5% 5% 5% 00%
viên
T
Ngô Võ Thành 2272202 2 2 2 2 1
2 hành
Đức 010708 5% 5% 5% 5% 00%
viên
T
Nguyễn Đinh 2273201 0 0 0 0 0
3 hành
Hoàng Giang 080368 % % % % %
viên
T
Nguyễn Hương 2175801 2 2 2 2 1
4 hành
Giang 080241 5% 5% 5% 5% 00%
viên
N
Nguyễn Thị Cẩm 2173801 hóm 2 2 2 2 1
5
Giang 010119 trưởn 5% 5% 5% 5% 00%
g
T
2174802 2 2 2 2 1
6 Vũ Hoàng Giang hành
010807 5% 5% 5% 5% 00%
viên
7 Cao Anh Hào 197NA15 T 0 0 0 0 0

3
hành
054 % % % % %
viên
T
Nguyễn Thanh 2273401 2 2 2 2 1
8 hành
Hiển 150428 5% 5% 5% 5% 00%
viên
T
Nguyễn Bảo 2273106 2 2 2 2 1
9 hành
Hoàng 080035 5% 5% 5% 5% 00%
viên
T
1 2274802 2 2 2 2 1
Vũ Gia Huy hành
0 010337 5% 5% 5% 5% 00%
viên
T
1 2273101 2 2 2 2 1
Diệp Lê Khang hành
1 060018 5% 5% 5% 5% 00%
viên

4
MỤC LỤC
I.GIỚI THIỆU................................................................................................................7
1.1. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI:...............................................................................................7
1.2. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:.................................................................................8
II.NỘI DUNG..................................................................................................................8
2.1. TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUYỀN THÔNG VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH:.....................8
2.2. TÁC PHẨM THƠ TRUYỀN THÔNG VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH............................11
2.3. TÁC PHẨM HỘI HỌA TRUYỀN THÔNG VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH:....................16
2.4. TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH TRUYỀN THÔNG VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH:..................18
2.5. TÁC PHẨM ÂM NHẠC TRUYỀN THÔNG VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH....................27
III. ĐÁNH GIÁ CỦA NHÓM VỀ CÁC TÁC PHẨM..................................................29
IV. MINH CHỨNG VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................30
4.1. MINH CHỨNG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU:..............................................................30
4.2. TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................35

5
I. GIỚI THIỆU
I.1. Tổng quan đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tên thật là Nguyễn Sinh Cung, còn được biết đến với
nhiều tên gọi khác như Nguyễn Ái Quốc, là một trong những nhân vật lịch sử vĩ đại
nhất của Việt Nam. Người không chỉ là một nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, mà còn
là một biểu tượng của tinh thần độc lập và tự do. Một biểu tượng của lòng yêu nước và
tinh thần độc lập, đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật và hoạt
động văn hóa. Người không chỉ được nhớ đến với tư cách là một nhà lãnh đạo chính
trị, mà còn là một nhân vật có ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa và nghệ thuật Việt
Nam. Các tác phẩm nghệ thuật từ âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, đến sân khấu và điện
ảnh, đều phản ánh tình cảm và lòng kính trọng mà nhân dân dành cho Người. Tầm ảnh
hưởng của Người không chỉ dừng lại ở lĩnh vực chính trị mà còn lan tỏa sâu rộng trong
nền văn hóa và nghệ thuật Việt Nam.
Trong lĩnh vực văn học, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản phong phú
với nhiều tác phẩm thơ, văn xuôi, và các bài viết khác. Những tác phẩm này không chỉ
thể hiện tư duy sâu sắc, tình yêu quê hương đất nước mà còn phản ánh tinh thần lạc
quan, niềm tin vào tương lai. Các tác phẩm của Người thường được sử dụng trong giáo
dục, nhằm truyền cảm hứng và giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần yêu nước và lòng tự hào
dân tộc.
Trong âm nhạc, nhiều nhạc sĩ đã sáng tác ca khúc để tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Các bài hát như “Bác Hồ một tình yêu bao la” hay “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên
Người” đã trở thành những giai điệu quen thuộc, được hát trong nhiều dịp lễ kỷ niệm
và sự kiện quốc gia. Âm nhạc không chỉ giúp tôn vinh Người mà còn góp phần giữ gìn
và phát huy giá trị văn hóa, tinh thần dân tộc.
Trong điện ảnh, nhiều bộ phim tài liệu và phim truyện đã được sản xuất để kể lại
cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những bộ phim này không chỉ giúp
khán giả hiểu rõ hơn về lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ người Việt
Nam. Các bộ phim như “Người con của Làng” hay “Hồ Chí Minh - Chân dung một

6
con người” đã tái hiện cuộc đời và sự nghiệp của Người, giúp khán giả hiểu rõ hơn về
lịch sử và tầm vóc của một nhà lãnh đạo vĩ đại.
Trong hội họa và điêu khắc, nhiều họa sĩ và điêu khắc gia đã tạo ra các tác phẩm
nghệ thuật để tưởng nhớ và tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các bức tranh và tượng
điêu khắc của Người thường được trưng bày tại các viện bảo tàng, trung tâm văn hóa,
và nhiều địa điểm công cộng khác. Những tác phẩm này không chỉ là biểu tượng của
lòng kính trọng mà còn là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật và văn hóa Việt Nam. Bức
tranh “Bác Hồ với các cháu” của Trần Tử Thanh là một ví dụ điển hình, thể hiện tình
cảm gần gũi và sự quan tâm mà Bác dành cho thế hệ trẻ. Ngoài ra, các bức phù điêu và
tượng điêu khắc cũng được dựng lên khắp nơi trong cả nước, như tượng Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Học viện Chính trị quốc gia, là biểu tượng của sự giáo dục và đào tạo
theo tư tưởng của Người.
Các hoạt động giới thiệu và truyền thông về Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ giới
hạn trong phạm vi nhà trường mà còn được tổ chức rộng rãi ở nhiều nơi khác nhau, từ
các triển lãm, hội thảo, đến các buổi biểu diễn nghệ thuật. Những sự kiện này không
chỉ giúp người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, hiểu rõ hơn về tầm vóc và tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh mà còn góp phần vào việc giáo dục văn hóa và lịch sử cho cộng
đồng.
Những tác phẩm và hoạt động nghệ thuật này đã trở thành một phần không thể
thiếu trong kho tàng văn hóa Việt Nam, góp phần giáo dục thế hệ trẻ và lan tỏa tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với mọi người. Chúng là những minh chứng sống
động cho tình yêu và sự kính trọng mà nhân dân Việt Nam dành cho Người, và là
nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ trong việc sáng tạo ra những tác phẩm nghệ
thuật có giá trị.
I.2. Tính cấp thiết của đề tài:
Lý do chọn chủ đề này là bởi vì Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh
đạo vĩ đại mà còn là nguồn cảm hứng sáng tạo không ngừng cho nghệ sĩ và nhân dân
Việt Nam. Qua việc nghiên cứu và giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật liên quan đến
Người, chúng ta không chỉ tưởng nhớ và tri ân mà còn góp phần giáo dục thế hệ trẻ,
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hiện đại hóa.
Đây cũng là cách để khẳng định vị thế và tầm quan trọng của văn hóa Việt Nam trên
trường quốc tế.

7
II. NỘI DUNG
II.1. Tác phẩm Văn học truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Búp sen xanh" là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về thời thơ ấu và trai trẻ của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đọc tác phẩm, tác giả đưa ta về với làng quê xứ Nghệ những năm
đầu thế kỷ XX, nơi ấy là làng Sen-quê nội, làng Hoàng Trù (làng Chùa)-quê ngoại của
Bác với những câu dân ca, bài vè, câu ví dặm, với tên suối tên sông đậm chất Nghệ
mặn mà, ân tình. Theo bước chân của Bác, người đọc biết đến kinh thành Huế cổ kính,
dòng sông Hương lững lờ câu hò trên sông, về với đình Dương Nổ, trường Pháp-Việt
Đông Ba, trường Quốc Học từng ghi dấu chân Người đến trường học chữ, học nhân
cách làm người. Hay Bến Nhà Rồng, nơi Bác ra đi tìm đường cứu nước. Theo đó,
những phong tục tập quán, lời ăn tiếng nói... mỗi vùng đất Bác đi qua cũng được tác
giả thể hiện một cách tự nhiên và chân thật.
Với "Búp sen xanh", càng đọc và nghiền ngẫm, người đọc nhận ra chân giá trị sâu
sắc của tác phẩm. Đó là trong cuộc đời mỗi con người, giai đoạn từ tuổi niên thiếu đến
khi trưởng thành là rất quan trọng bởi đây là giai đoạn hình thành nhân cách, tâm hồn
của mỗi con người. Trong tác phẩm "Búp sen xanh", nhà văn Sơn Tùng chỉ đề cập từ
thời niên thiếu đến ngày Bác ra đi tìm đường nước, tưởng sẽ chỉ thuyết phục bạn đọc
nhỏ tuổi song tác phẩm vẫn có sức hút kỳ lạ với độc giả mọi lứa tuổi ngay từ khi tác
phẩm ra đời đến nay. Người đọc nhận ra qua từng cử chỉ, lời nói đầy tình thương, kính
yêu của cậu bé Côn với ông bà, cha mẹ, anh chị em trong nhà, với bạn bè cùng trang
lứa, cô bác hàng xóm láng giềng. Người đọc "sống" lại từng hoàn cảnh đáng thương
của Bác như cảnh mới mười tuổi đầu, Côn đã phải nấu cháo, sắc thuốc, bế em đi xin
sữa...
Hình ảnh lay động lòng người đọc nhất là cảnh đám tang bà Hoàng Thị Loan giữa
đất trời "Kinh thành Huế nghiêng nghiêng dưới gầm trời u ám cuối năm", khi đó cậu bé

8
"Nguyễn Sinh Côn, đầu đội khấu rơm, mặc áo đại tang, chống gậy, chân đất, đi sau
quan tài mẹ... Côn gục đầu vào nắp áo quan mẹ... Côn vừa khóc nấc dồn dồn, toàn thân
run lên...". Rồi đến cảnh "Chôn cất mẹ xong, Côn lại bế em về với ngôi nhà hoang
vắng trong thành nội... Côn bế em vào lòng, tựa lưng bên bàn thờ mẹ nhìn đau đáu
trong đêm đen quạnh quẽ mịt mù". Vậy đấy, tuổi thơ của Bác trải qua những khổ ải,
thiếu thốn trăm bề, và Bác đã vươn lên, vượt qua những giông tố ấy, mãi là bài học về
tình thương, nhân cách, nghị lực sống ngay từ thuở ấu thơ của Người...
Với tác phẩm "Búp sen xanh", nhà văn Sơn Tùng khắc họa chân dung Bác qua
nhận thức sâu sắc ngay từ nhỏ về hai chữ "độc lập, tự do". Đó là những năm tháng theo
cha vào Kinh đô Huế, là cậu học trò thông minh, hiếu học, sáng dạ nơi mái trường
Pháp- Việt Đông Ba, trường Quốc học. Rồi trên bước đường "hành phương Nam" làm
người thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở trường Dục Thanh (Phan Thiết)... Trên cuộc hành
trình đó người thanh niên Nguyễn Tất Thành chứng kiến biết bao cảnh cơ hàn của
người dân vô tội trong hoàn cảnh đất nước lầm than, từ đó nuôi dưỡng ý chí việc ra đi
tìm đường cứu nước.
Tóm tắt tác phẩm Búp sen xanh có 3 phần chính, nói về từng giai đoạn cuộc đời
của Bác. Tuy nhiên, với định hướng là tác phẩm dành cho thiếu nhi nên cuốn sách sẽ
tập trung kể nhiều về thời thơ ấu và thiếu niên của Bác hơn cả.
a) Thời thơ ấu
Tập trung nói về cuộc sống tại làng Sen, nơi ở của gia đình anh Nho sắc cùng 3
người con là bé Thanh, bé Khiêm, bé Côn. Anh Nho sắc vốn là người làng Sài, gia đình
khó khăn cha mẹ mất sớm phải ở với anh trai nhưng bị chị dâu đay nghiến, khó mà ở
được. Nhưng phải cái tính chăm chỉ, chịu khó nên anh rất được lòng ông tú Hoàng
Xuân Đường, được ông mang về làng Sen nuôi, dạy chữ rồi sau này gả con gái cho.
Biết hoàn cảnh gia đình khó khăn nên 3 chị em ai cũng ngoan ngoãn, chăm chỉ
biết phụ giúp cha mẹ. Đặc biệt, câu bé Côn từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, lanh lợi lại ham
học hỏi. Có lần bé Côn nằm võng tâm sự cùng bà ngoại, ước được nhìn thấy mặt vua.
Trong khi bà ngoại hoảng hốt thốt lên “Ấy chết! Cháu chớ nói rứa! Phải tội đó! Ai mà
nhìn thấy mặt vua, vua không ưng bụng sẽ bị mù mắt đó” thì Côn lại tỏ ra bình thản mà
vặn vẹo lại bà “ Kệ, cho mù mắt cháu cứ nhìn vua cho bằng được. Mù mắt chứ có mù
tim mô mà sợ”. Quả là một cậu bé quyết đoán và can đảm.
Sau này cha đỗ cử nhân, Côn và bé Khiêm được theo cha vào Kinh đô Huế học
tập, điều này đã tạo cơ hội tốt cho Côn được tiếp xúc với nhiều bậc anh hùng, nhà văn,
nhà giáo là bạn bè của cha, để từ đó ngộ ra những cái sai, cái chưa đúng của triều đình
khiến đất nước rơi vào hoàn cảnh “sắp mất” đến nơi.

9
Tóm tắt Búp sen xanh về thời thơ ấu của cậu bé Côn cho thấy chính lối tư duy
khác biệt của Bác ngay từ nhỏ đã trở thành tiền đề để Bán sẵn sàng làm những điều lớn
lao hơn sau này, vì nước, vì dân.
b) Thời niên thiếu
Là những ngày cậu bé Côn nay gọi là Tất Thành theo học tại trường Quốc học
Huế – ngôi trường danh giá nhất Đông Dương thời bấy giờ. Nhưng do những biến
động của gia đình, mẹ mất, em mất, cùng với việc tham gia biểu tình chống đối kẻ thù
mà anh chàng Tất Thành đã bỏ học để rong ruổi khắp các tỉnh Nam Trung Bộ. Cuối
cùng anh về dạy tại trường Đông Ba, ở đây anh đã dạy rất nhiều bài học làm người cho
các em học sinh.
Tóm tắt Búp sen xanh phần này mà không kể đến đoạn văn cảm động khi Thành
âm thầm để lại thư chia tay lớp học nhỏ phía sau để tiếp tục bôn ba thì thật là thiếu sót.
Trong thư có đoạn trích thế này “ Các trò thương mến, thầy đi xa, lòng vẫn nhớ, vẫn
gần các trò. Thầy đã không kịp mua sách, thầy để lại hai đồng bạc góp vào quỹ thư
viện trường Dục Thanh của chúng ta.” Thư đọc xong mà đám học trò đứa nào cũng
mắt ướt ngẩn ngơ.
c) Tuổi hai mươi
Tất Thành vào Sài Gòn thì đổi tên thành anh Ba, tại đây anh đã ngộ ra được nhiều
chân lý và bài học mới mẻ về một thành phố xa hoa. Không còn là người thầy giáo
đáng kính, anh Ba hóa thân thành người lao động chân tay, việc gì cũng làm miễn là
không phạm pháp thì anh làm. Quen được Tư Lê cũng là một may mắn với anh, dẫn
anh đến với cảng nhà Rồng để từ đây làm bước đệm cuối cùng cho hành trình sang
Tây, thực hiện mong muốn cứu nước, giúp dân.
Cuộc sống xô bồ ở Sài Gòn đã cho thấy một hình ảnh cậu bé Côn, anh Thành
không hề yếu ớt như vẻ ngoài gầy gò, cũng không phải là cậu ấm của quan như người
đời vẫn gọi mà là một anh Ba rắn rỏi, nhanh nhẹn, sẵn sàng làm mọi việc, không ngại
khó, ngại khổ đi vào đường khó.
Đọc "Búp sen xanh" sẽ thấy một tấm gương sáng ngời về nhân cách, tâm hồn của
Bác từ trong mái ấm gia đình và hoàn cảnh đất nước lầm than lúc bấy giờ. Với "Búp
sen xanh", thông qua những câu chuyện trong cuộc đời thời thơ ấu của Bác để nhà văn
"khái quát" sự hình thành nhân cách Bác Hồ, các yếu tố hun đúc nên một con người cả
đời đau đáu vì dân, vì nước... Mãi mãi, những trang sách của "Búp sen xanh" là bài học
lớn về một nhân cách lớn của một bậc "đại nhân, đại trí, đại dũng" ngay từ thuở thiếu
thời đến lứa tuổi hai mươi của Người, đấy là những viên gạch làm nền móng cho "Cả
đời người là cả nước non" (Tố Hữu)...

10
II.2. Tác phẩm Thơ truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh
Bài thơ“Người đi tìm hình của nước”

Người đi tìm hình của nước” là bài thơ hay nhất của Chế Lan Viên viết về Bác
Hồ. Xuyên suốt bài thơ là hành trình từ lúc con tàu Latouche Tréville đưa người thanh
niên yêu nước vượt chặng dài lênh đênh trên sóng bể; những năm tháng bôn ba “Người
đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi/Những đất tự do, những trời nô lệ”, cho đến
khi Người tìm thấy “Hình của Đảng lồng trong hình của Nước”...
Có thể thấy, Chế Lan Viên đã viết bài thơ bằng sự đúc kết hành trình 30 năm đi
tìm đường cứu nước nơi đất khách quê người đầy gian nan, thử thách cho đến khi bắt
gặp “... mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông” và khi: “Luận cương đến Bác Hồ. Và
Người đã khóc”... Để rồi Người mang ánh sáng Lênin về đất Việt, trực tiếp lãnh đạo
Nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), lấy lại “hình của Nước” - tên
gọi Việt Nam thiêng liêng trên bản đồ thế giới:
Việt Nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
Mặt khác, bài thơ còn được khởi nguồn từ Hồi ký của Bác Hồ viết vào dịp kỷ
niệm 90 năm Ngày sinh Lênin (4/1960) “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”.
Điều đặc biệt cũng là giá trị của bài thơ “Người đi tìm hình của nước” đó là Chế Lan
Viên viết bài thơ bằng sự chiêm nghiệm và “lồng” cảm xúc, suy tư của tác giả vào bài
thơ; ở đó, giữa lúc nước mất, nhà tan, Nhân dân lầm than, nô lệ; lại có những con
người bàng quan trước vận nước:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.

11
Bác ra đi giữa lúc đất nước chìm trong đau thương, khi triều đình nhà Nguyễn
đang ở thời kỳ suy vong bạc nhược nhất; khi các phong trào kháng chiến do các sĩ phu
yêu nước hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương của vua Hàm Nghi nổ ra như: Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, phong trào Đông Du, Duy Tân của Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh... cuối cùng đều bị thực dân pháp đàn áp, rơi vào bế tắc, thất bại. Khi mà:

Bao nẻo người đi, bước trước sau


Một câu hỏi lớn: Hướng về đâu?
Nǎm châu thǎm thẳm, trời im tiếng
Sách thánh hiền lâu đã nhạt màu.
(Tố Hữu)

Thất bại của các phong trào yêu nước ở nước ta cuối thế kỷ XIX xuất phát từ
nhiều nguyên nhân; nguyên nhân chính là chưa có một chính đảng và đường lối lãnh
đạo nhất quán. Bác ra đi là để tìm một đường lối đúng đắn, phương cách để lãnh đạo
Nhân dân đánh đuổi ngoại xâm, giành lấy độc lập tự do cho đất nước.

Và, trong cuộc hành trình ấy, “Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất/Bốn phía nhìn
không một bóng hàng tre”, tình yêu nước, thương dân của thầy giáo Nguyễn Tất Thành
cộm lên bao điều chất chứa, Người cảm nhận:

Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương


Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương…

Trước cảnh xa lạ xứ người, Bác càng hiểu hơn nỗi niềm của người dân mất nước,
thương Nhân dân mình phải chịu nô lệ cần lao và Người quặn thắt lòng khi đất nước
chìm đắm trong đau thương. Chế Lan Viên đã “lồng” cảm xúc vào những câu thơ xúc
động để nói hộ tấm lòng người dân yêu nước đối với Bác Hồ:

Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ


Tìm đường đi cho dân tộc theo đi.

Hành trình của người thanh niên yêu nước với mục tiêu chính trị cụ thể, cháy
bỏng; không ảo tưởng, hão huyền. Điều mà Người đi tìm “Không phải hình một bài thơ

12
đá tạc nên người/... Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi” mà “Người đi tìm hình
của Nước”; tìm dáng đi, thế đứng của đất nước, của dân tộc Việt Nam:

Thế đi đứng của toàn dân tộc


Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người.

Trong cuộc hành trình ấy, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã trải
qua những gian lao, thiếu thốn, giá rét…; tự lao động để sống, để đi và để hoạt động
cách mạng. Chế Lan Viên khái quát hóa chặng đường hoạt động cách mạng của Bác
Hồ trong những tháng năm nơi xứ người bằng những câu thơ đầy xúc động:

Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê


Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?...

Vượt qua bao nhiêu gian nan, khắc nghiệt với lòng yêu nước và bầu nhiệt huyết
cách mạng bừng bừng, cuối cùng người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã tìm
thấy “Mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông”; và, hạnh phúc nhất khi Người tiếp cận
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin:

Luận cương đến với Bác Hồ. Và người đã khóc


Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin…

“Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin” - Hình tượng thơ vô cùng đẹp! Trong suốt hành
trình đi tìm đường cứu nước, đây là lần đầu tiên Bác khóc, nước mắt của một nhà yêu
nước thật quá đỗi thiêng liêng, khiến bất cứ ai cũng phải nghẹn ngào! Cái độc đáo, cái
tài của Chế Lan Viên là từ một sự kiện chính trị trọng đại, tác giả đã “thổi” vào đó cảm
xúc, nhân cách hóa giá trị lịch sử để trong phút giây thiêng liêng ấy vỡ òa niềm hạnh
phúc làm xúc động lòng người!

Sau “Lệ Bác Hồ rơi...” , khổ thơ kế tiếp là tiếng reo cười:

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười...

13
“Bác reo lên...”, câu thơ như sóng sánh tiếng cười làm ta liên tưởng đến niềm vui
trong trẻo của một con người vì đã chịu quá nhiều khổ đau chợt vỡ òa hạnh phúc!
Niềm hạnh phúc quá lớn; bởi nó không chỉ của một người mà là hạnh phúc của cả một
dân tộc! Bác khóc và Bác cười - hình tượng thơ rất lãng mạn và đẹp vô cùng!...

Người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc mừng vui, xúc động vì đã tìm ra
chân lý lịch sử, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có
thể giúp các dân tộc bị áp bức trên thế giới và dân tộc Việt Nam thực hiện thành công
cuộc đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc.

Bằng những câu thơ lãng mạn cách mạng, tin tưởng một ngày mai khi “Giặc nước
đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát”... Chế Lan Viên đã “vẽ” ra một viễn cảnh
tương lai tươi sáng của đất nước, của dân tộc Việt Nam:

Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân


Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng...

Hình ảnh lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mang “Luận cương của Lênin” về đất Việt; và
“... bóng Bác đang hôn lên hòn đất” - sự khởi đầu “ngày trở về” sau 30 năm xa Tổ
quốc; từ đây, Người lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc ta:

Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt


Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai…

Chế Lan Viên đã khái quát toàn bộ hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước của
Bác Hồ kính yêu bằng hình tượng thơ rất xúc động. Bài thơ là lòng biết ơn sâu sắc của
toàn dân tộc Việt Nam đối với Người đã tìm lại hình đất nước. B ài thơ "Người đi tìm
hình của Nước" nằm trong hệ thống các tác phẩm viết về đề tài lãnh tụ, vốn rất nổi bật
trong di sản văn chương-nghệ thuật Việt Nam. Bài thơ nằm trong tập "Ánh sáng và phù
sa" (năm 1960) là bước ngoặt quan trọng trên hành trình mỹ học của Chế Lan Viên.
Đã có nhiều bài viết, thẩm bình về bài thơ "Người đi tìm hình của Nước". Những khía
cạnh thuộc về chủ đề, cảm hứng, hình tượng, chất suy tưởng, vẻ đẹp trí tuệ trong bài
thơ cũng đã được nhắc đến. Tuy vậy, trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến

14
một phương diện khác, có lẽ còn chưa nhiều người chú ý. Đó là đặc trưng thẩm mỹ của
thơ Chế Lan Viên thể hiện trong một thi phẩm viết về Bác Hồ. Tại sao đây lại là vấn đề
cần được bàn luận? Trả lời cho câu hỏi đó giúp chúng ta có được xác quyết rõ ràng hơn
về sức sống của bài thơ "Người đi tìm hình của Nước".
Bài thơ viết trên nền của cảm xúc rưng rưng tự hào và lòng biết ơn chân thành
cùng những suy tưởng sâu sắc về hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác Hồ. Đó
là một hành trình dài với biết bao gian khổ, thử thách mà Người đã trải qua với mục
đích thiêng liêng, cao cả: “Tìm hình của Nước”. Hình của nước là “Thế đi đứng của
toàn dân tộc”; là độc lập, tự do, là áo cơm, hạnh phúc của nhân dân. Lý tưởng ấy vượt
lên tất cả những liên tưởng thông thường về không gian địa lý ("Một góc quê hương
nửa đời quen thuộc"). Lý tưởng ấy cũng không phải là những mơ tưởng siêu hình trong
sương khói xa xôi mà hiện hữu cụ thể, làm nên giá trị đời sống con người. Con đường
của Hồ Chí Minh là con đường của chủ nghĩa nhân văn cao cả, phổ quát, hướng đến
những quyền lợi căn bản mà tạo hóa đã ban cho tất cả mọi người trên toàn thế giới
(như trong "Tuyên ngôn Độc lập" mà Người đã nhấn mạnh). Nhưng đó là một con
đường chông gai.
Cuộc đời của Bác là cao cả, lý tưởng của Người là vĩ đại, di sản của Người là vô
cùng lớn lao. Tìm hình của nước, lắng nghe sự phôi thai của nước, hình dung ra con
đường giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, áo cơm, hạnh phúc cho nhân dân... đó
là những mục tiêu cao cả nhưng không siêu hình, viển vông. Những tượng hình thiêng
liêng, nhân bản ấy chính là lẽ sống mà con người cần phải có. Hồ Chí Minh nhận ra
chân lý ấy khi bắt gặp Luận cương của Lênin, bắt gặp con đường giải phóng dân tộc,
giải phóng loài người.

II.3. Tác phẩm Hội họa truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh
Tác phẩm: Bác Hồ với thiếu nhi

15
Bức tranh cổ động thể hiện hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đang tươi cười bế
một em bé trên nền chim hòa bình ngậm cành ôliu. Nét vẽ chim bồ câu được họa sỹ
Trần Từ Thành cách điệu theo hình chữ S của bản đồ Việt Nam. Tranh có màu sắc đơn
giản, bố cục chặt chẽ mang thông điệp về niềm khát khao hòa bình và đoàn kết dân tộc.
Bên dưới bức tranh đề dòng chữ “Độc lập - Thống nhất - Hòa bình - Hạnh phúc." Sau
này, nhiều người vẫn thường gọi tên bức tranh này là “Bác Hồ với thiếu nhi.”
Nói về ý tưởng vẽ bức tranh này, họa sỹ Trần Từ Thành kể năm 1975, khi đất
nước thống nhất, hòa cùng niềm vui chung của dân tộc, ông nghĩ đến việc phải vẽ một
tác phẩm có ý nghĩa để ghi lại thời khắc lịch sử trọng đại của toàn dân tộc. Trong quá
trình tìm kiếm đề tài, ông nhớ đến Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, Người
luôn dành tình cảm sâu nặng, chân thành nhất cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
với các cháu thiếu niên và nhi đồng. Và thế là, ông đã lựa chọn hình ảnh Bác Hồ với
trẻ thơ làm đề tài cho mạch cảm xúc của mình:
Trải qua 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, gia đình tôi chịu đựng
nhiều mất mát, bố mẹ và anh chị em đều mất do bom Mỹ, nhiều người thân hy sinh ở
chiến trường hay ở chính quê hương trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Bao thế hệ trên
quê hương tôi một lòng đi theo Đảng, Bác Hồ bảo vệ và xây dựng đất nước. Tấm
gương của Bác, tấm lòng vì dân vì nước của Người là ánh sáng cho bước đường mỗi
người dân. Mỗi người đều cảm nhận được tình cảm của Bác qua thời gian và không
gian. Sinh thời, Bác luôn dành tình thương yêu đặc biệt đối với các cháu thiếu niên, nhi
đồng - thế hệ tương lai của đất nước. Những lời dạy và bài viết của Người dành cho lứa
tuổi thiếu nhi được xem như một trong những di sản vô giá của dân tộc và thế hệ trẻ

16
nước ta. Thời niên thiếu, rồi trưởng thành, những câu chuyện về Bác luôn mang đến
tình cảm, niềm xúc động lớn đối với tôi và mọi người. Trải qua thời gian, những câu
chuyện về Bác và các cháu thiếu nhi mà tôi được thầy cô, người thân kể lại, vẫn còn
nguyên giá trị. Bác luôn có một sự gắn bó mật thiết, một tình cảm trìu mến, hiền hòa và
chu đáo với thiếu nhi. Đó là sự ấm áp vô cùng của một vị lãnh tụ vĩ đại. Qua mỗi câu
chuyện, chúng ta lại có cơ hội cảm nhận tình yêu thương vô bờ bến mà Bác đã dành
cho thiếu nhi.
Sau những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, năm 1941, Bác trở về Tổ quốc
để trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nhân dịp Tết Trung thu năm
đó, Người viết bài thơ "Kêu gọi thiếu nhi" vào ngày 21/9/1941, thể hiện sự quan tâm
của mình đối với các cháu thiếu nhi: "Trẻ em như búp trên cành/Biết ăn ngủ, biết học
hành là ngoan".
Ngay mùa thu độc lập đầu tiên, Bác Hồ đã gửi thư động viên, thể hiện tình
thương yêu, sự quan tâm và niềm tin vào các cháu thiếu nhi: "Non sông Việt Nam có
trở nên vẻ vang hay không. Dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn vào công
học tập của các cháu". Bác Hồ luôn canh cánh một ước mong, đó là các cháu thiếu nhi
được ăn no, mặc ấm và được học hành. Chính vì vậy, trong mọi hoàn cảnh, tình thương
yêu của Người dành cho các cháu thiếu nhi vẫn đằm sâu, tha thiết. Những năm tháng
cả dân tộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đều gửi thư cho các cháu mỗi dịp
Trung thu. Lời Bác luôn nhẹ nhàng, trìu mến động viên các cháu tham gia, thực hiện
những công việc cụ thể, phù hợp với tình hình đất nước, với tâm lý lứa tuổi của thiếu
nhi: "Ai yêu các nhi đồng/Bằng Bác Hồ Chí Minh/Tính các cháu ngoan ngoãn/Mặt các
cháu xinh xinh/Mong các cháu cố gắng/Thi đua học và hành/Tuổi nhỏ làm việc
nhỏ/Tùy theo sức của mình/Các cháu hãy xứng đáng/Cháu Bác Hồ Chí Minh.
Trước lúc Người đi xa, cũng nhân dịp Quốc tế Thiếu nhi 1/6/1969, Bác đã có lời
căn dặn toàn Đảng, toàn dân cần nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên
nhi đồng. Trong Di chúc của mình, Người khẳng định: "…Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".
Có thể nói, tình yêu thương của Bác Hồ đối với thế hệ trẻ, đối với thiếu niên, nhi
đồng đã, đang và sẽ là hành trang cho bao thế hệ trẻ bước vào đời, góp phần xây dựng
đất nước Việt Nam ta đàng hoàng hơn, giàu đẹp hơn. Các thế hệ thiếu nhi Việt Nam
vẫn luôn nhớ về Bác kính yêu và âm vang cất cao lời ca tiếng hát: "Ai yêu nhi đồng
bằng Bác Hồ Chí Minh/Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng".Đó là cảm
xúc để ra đời bức tranh của Trần Từ Thành và thông điệp ấy mãi mãi được lưu giữ,
trao truyền.

17
II.4. Tác phẩm Điện ảnh truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh:
Phim tài liệu: Hành trình tìm đường cứu nước của chủ tịch Hồ Chí Minh

Cách đây 111 năm (ngày 5-6-1911), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành đã lên con tàu Amiral Latouche Tréville, từ Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài
Gòn đi Marseille (Pháp) với ý chí mãnh liệt và hoài bão sẽ tìm được con đường cứu
nước, giải phóng nhân dân khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc.

Ngày 5-6-1911, từ Bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
đã lên con tàu Amiral Latouche Tréville, bắt đầu cuộc hành trình tìm con đường giải
phóng dân tộc, giải phóng đất nước.

18
Với tên mới Văn Ba, làm phụ bếp trên tàu, Nguyễn Tất Thành ra đi trong tư cách
một người lao động, khởi nghiệp với đôi bàn tay trắng. Trong suốt hành trình 30 năm
bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc ấy, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái
Quốc đã đi qua 3 đại dương, 4 châu lục, qua gần 30 quốc gia, hàng trăm thành phố,
vượt qua muôn vàn gian khổ, chông gai và làm rất nhiều nghề để kiếm sống, với quyết
tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm ròng, từ năm 1911
đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên

Bàn chân của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã in dấu trên nhiều
nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ.
thế giới. Bàn chân của người thanh niên yêu nước này đã in dấu trên nhiều nước thuộc
các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ.

Đặc biệt ở 3 nước là Mỹ, Anh và Pháp, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân khảo sát
khá lâu. Anh hòa mình vào cuộc sống của những người lao động, làm bất cứ việc gì để
sống và hoạt động, như: Phụ bếp, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh, làm vườn, vẽ thuê...

19

Chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại
Bản yêu sách Tám điểm của nhân dân Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc và
nhóm người Việt Nam yêu nước gửi Nghị viện Pháp và các đoàn đại biểu
dự Hội nghị Vécxây (6-1919)
Trên cơ sở đó Nguyễn Tất Thành rút ra một kết luận có tính chất nền tảng đầu
tiên: Ở đâu đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng
bị bóc lột, áp bức và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người:
Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Cũng từ đó đã giúp người thanh niên
Nguyễn Tất Thành có một nhận thức quan trọng: Nhân dân lao động trên toàn thế giới
cần đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị; cùng nhau thực
hiện nguyện vọng chung là độc lập, tự do. Từ những nhận biết căn bản đó càng thôi
thúc người thanh niên yêu nước quyết tâm tìm con đường giải phóng mà anh đã từng
nung nấu, ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc.Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công đã có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm và nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Đầu
năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngày 18-6-1919, với tên
Nguyễn Ái Quốc, chàng thanh niên thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp
gửi bản yêu sách tới Hội nghị Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân
tộc cho nhân dân An Nam. Tuy bản yêu sách không được chấp nhận nhưng đã được lan
truyền rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu
tranh của các nước thuộc địa; đồng thời cũng đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một nhận
thức là các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức của chính mình.

Tháng 7-1920, sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa” của Lênin đăng trên Báo L’Humanite (Báo Nhân đạo) của Đảng Xã
hội Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin. Luận cương đã giải
đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân

20
tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách
mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.

“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng
biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ. Đây
là cái cần thiết với chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Sau này, Người
đã viết như thế về thời điểm lịch sử đầy ý nghĩa này.

Cuối tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III,
đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, đồng thời
cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá
trình kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã quyết định đi theo con đường
của Lênin vĩ đại. Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

21
Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt
đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam như: Truyền bá Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân

Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng tại Quảng
Châu (Trung Quốc) - Ảnh chụp lại tranh.
dân, của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, phát triển lực lượng
cách mạng, xây dựng các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất
bản tờ Báo Thanh Niên ra ngày 21-6-1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để
tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3-2-1930, dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức
cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây

22
chính là kết quả khẳng định tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ và sự cống hiến của Nguyễn Ái
Quốc trong việc vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc thành lập một đảng cách
mạng chân chính để lãnh đạo cách mạng Việt Nam…
Ngày 28-1-1941 (tức mồng 2 Tết Tân Tỵ), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua
cột mốc 108 trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc, tại làng Pác Bó, xã Trường Hà,
huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, trở về Tổ quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu
nước, cứu dân để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là một sự kiện lịch sử
quan trọng, một trang sử mới mở ra trong cuộc đời cách mạng của Người và cũng là
bước ngoặt mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam, từng bước đưa dân
tộc Việt Nam đi tới những mùa Xuân thắng lợi.

Tháng 5-1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương VIII (khóa I) của Đảng ở
Khuổi Nậm, Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, quyết định sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng - khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Sự chuyển hướng cách mạng này là nhằm đáp
ứng hoàn cảnh, phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình quốc tế và trong
nước để từ đó tổ chức vận động, tập hợp lực lượng toàn dân tộc; thành lập Mặt trận
Việt Minh; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa, tạo nên các cao trào
cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ trên phạm vi cả nước. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc
này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc
gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được”.

Figure 1. Ngày 28-1-1941 (tức mồng 2 Tết Tân Tỵ), Người trở về Tổ quốc
sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân để trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Tranh: TRỊNH PHÒNG

23
Ảnh phải: Mười chính sách lớn của Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh),
năm 1941. Ảnh tư liệu BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA.

Ảnh giữa: Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ
VIII, tháng 5-1941.

Ảnh trái: Lán Khuổi Nậm ở Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng, nơi diễn
ra Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ VIII (5-1941) quyết định
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và thành lập Mặt trận Việt Minh.

Tháng 8-1945, với tư duy chính trị nhạy cảm và sắc bén, dự báo chính xác, phân
tích kịp thời và thấu đáo tình hình trong nước và quốc tế, nhận rõ thời cơ cách mạng đã
chín muồi, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã
vùng lên phá tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của chế độ thực dân, xóa bỏ chế độ
phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới rực rỡ nhất
trong lịch sử quang vinh của dân tộc - Thời đại Hồ Chí Minh.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã tiếp tục mở đường cho cách
mạng Việt Nam đi từng thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" ngày 7-5-1954 trước thực dân
Pháp. Từ Sài Gòn, Người ra đi tìm đường cứu nước và 64 năm sau, cũng tại mảnh đất
này đã chứng kiến thắng lợi lịch sử của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước. Bằng Đại thắng Mùa xuân năm 1975 với đỉnh cao là
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối, như sinh thời Người hằng mong.

Có thể thấy, hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái
Quốc-Hồ Chí Minh là hành trình sáng tạo, vĩ đại, đã mở đường, dẫn lối cho sự nghiệp

24
giải phóng nhân dân, giải phóng đất nước và giải phóng dân tộc Việt Nam. Hành trình
của Người cũng là bài học về tinh thần trách nhiệm, tinh thần học tập, lao động, sáng
tạo, là bài học về tình yêu quê hương đất nước đối với thanh niên Việt Nam nói riêng
và với mỗi người dân Việt Nam nói chung. Tinh thần của hành trình đó sẽ tiếp tục
được lan tỏa trên chặng đường phát triển của đất nước, để phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

II.5. Tác phẩm Âm nhạc truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh

Lời bài hát Tiếng hát giữa rừng Pác Bó

Đặc biệt là Hang Pác Bó - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua mấy chục năm bôn ba
hải ngoại tìm đường cứu nước trở về làm việc - đã trở thành một chứng tích lịch sử. Về
thăm Hang Pác Bó, dường như vẫn nghe đâu đây vang vọngnhững câu hát mở đầu ca
khúc nổi tiếng “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó” của cố nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ: “Trông
vời lưng núi/ Khuổi Nậm rì rào núi cao tầng mây/ Chiều nay tiếng ai đang lượn về trên
đèo/ Kể rằng Người về đây nhà in lưng đá/ Người về quê ta tấm áo chàm tình thương
quê nhà...”.
Ngay từ những ca từ mở đầu, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ đã đưa người nghe về với
Hang Pắc Bó - một di tích lịch sử gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của vị

25
lãnh tụ muôn vàn kính yêu. Nơi đó, có “rì rào núi cao tầng mây”, có “tiếng ai đang
lượn về trên đèo”, có “nhà in lưng đá”. Và hơn thế, có hình ảnh của “Người về quê ta
tấm áo chàm tình thương quê nhà” mới thân thương làm sao.
Để rồi từ điểm tựa tình cảm tha thiết với Bác Hồ kính yêu, giai điệu của Tiếng hát
giữa rừng Pác Bó tiếp tục cất lên: “Ơ rừng Pác Bó quê ta nhớ rừng xưa ôm bóng
Người/ Bước chân Người đi đất chuyển dời theo Người/ Người về rừng núi, bóng
Người vì sao trong sáng…”. Những câu hát đã làm nổi bật hình ảnh lãnh tụ sống giữa
lòng dân mới xúc động làm sao. Hình ảnh ấy đã làm lay động biết bao tâm hồn mỗi
người dân đất Việt khi nhớ về vị cha già kính yêu dành cả một đời vì đất nước, vì Nhân
dân.
Để rồi, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại được hòa quyện cùng lịch sử và
thời đại, quá khứ và hiện tại qua những câu hát: “Bóng đa Tân Trào đọng lời thiết tha/
Nắng in Ba Đình còn nghẹn lòng ta/ Suối reo dưới chân Người qua/ Đất rung tiếng ca
nở hoa tháng Tám/ Khuổi Nậm còn reo nhịp theo mong nhớ Người”. Chỉ với những ca
từ thật gần gũi và dễ đi vào lòng người như thế đã khiến “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó”
giúp người nghe cảm nhận được đầy đủ tầm vóc lớn lao của Người cùng với tình cảm
thành kính, trìu mến, biết ơn vô hạn của cả dân tộc Việt Nam đối với Người.
Không những thế, “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó” còn gây ấn tượng với giai điệu
ngọt ngào, đằm thắm nhờ khai thác chất liệu dân ca Tày - Nùng rất khéo léo, nhuần
nhuyễn. Điều này được thể hiện rõ qua các ca từ: “Nương đồi bát ngát/ Gió ngàn vờn
mây nắng chiều về đây/ Lắng nghe sáo ai bay dập dìu trên đèo/ Kể rằng Người còn
đây/ Người cao hơn núi tưởng chừng trông/ Theo bóng dáng Người còn in trên đèo”.
Có lẽ chính bởi sự mộc mạc trong từng ca từ, sự tự nhiên của giai điệu đã khiến ca
khúc chạm tới cảm xúc sâu thẳm nhất trong trái tim, từ đó khơi gợi những tình cảm đẹp
đẽ nhất của mỗi người con đất Việt dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Có lẽ sẽ không sai khi khẳng định “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó” là một ca khúc
bất hủ về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đã hơn 60 năm kể từ khi bài hát ra đời, cho tới nay
những hình ảnh qua những câu hát: “Ơ bản Pác Bó quê ta mấy mùa qua nghe tiếng
Người/ Sắn vươn đồi xưa, lúa ngập vàng đôi bờ/ Người về chỉ lối, theo Người ngày
mai tươi sáng/ Bát cơm mong chờ người già ước mơ/ Líu lo i tờ môi đọng trẻ thơ/ Bác
ơi tóc sương bạc phơ/ Núi cao suối sâu thủ đô yêu dấu/ Khuổi Nậm còn vang lời ca
mong nhớ Người”… vẫn cứ xúc động làm sao. Khi tiếng hát vang lên cũng là lúc hình
ảnh của Người lại ùa về mới thân thương làm sao. Có lẽ hiếm có ca khúc nào làm được
điều này như “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó”.
Hang Pác Bó, suối Lê-Nin, Núi Các-Mác, Lán Khuổi Nậm… vẫn còn đây. Khi
“Tiếng hát giữa rừng Pác Bó” ngân vang... hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn

26
kính yêu vẫn luôn hiện hữu sâu đậm trong lòng mỗi người dân Việt Nam, để mỗi người
tiếp tục nỗ lực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí
Minh./.

III. ĐÁNH GIÁ CỦA NHÓM VỀ CÁC TÁC PHẨM


Tác phẩm Văn học truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh:
Sau khi tìm hiểu về tác phẩm Búp sen xanh chúng em cảm thấy tựa như những
thước phim quay chậm, “Búp sen xanh” kể về câu chuyện thời thơ ấu của vị lành tụ
kính yêu Hồ Chí Minh. Từng khoảnh khắc đã qua được tái hiện trong từng câu chữ. Đó
là những giây phút thiêng liêng khi cậu bé Côn được ông ngoại đặt tên, những ngày
tháng lam lũ mà gia đình phải trải qua, những biến cố, những bài học mà cậu bé Côn
được học từ cuộc sống, từ chính những người thân trong gia đình…Và đây cũng chính
là hành trang của chàng trai Nguyễn Tất Thành sau này trên con đường bôn ba tìm
đường cứu nước.
Bác Hồ không phải là một vị tiên ông với đôi mắt sáng ngời ấm áp, với chòm râu
và mái tóc bạc trắng như mây mà bà vẫn thường kể cho tôi nghe. Bác Hồ cũng sinh ra
dưới mái nhà tranh trong niềm hân hoan của cha, của mẹ, cũng lớn lên ở một miền quê
như quê tôi, nghèo khó nhưng sâu nặng nghĩa tình, gian khổ nhưng hiếu học và lễ
nghĩa. Bác cũng phải đi học, cũng phải làm việc nhà, Bác cũng thích câu cá, cũng thích
thả diều… như chúng tôi.

Tác phẩm Thơ truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh:

Thơ “Người đi tìm hình của nước” theo ý tôi, toàn bộ bài thơ là sự xúc động trước
vẻ đẹp lớn lao, kỳ vĩ của vĩ nhân Hồ Chí Minh, là việc khắc họa hình ảnh một con
người siêu phàm - người đã kiếm tìm và khai sinh ra nước Việt Nam mới. Tứ thơ thể
hiện qua đầu đề bài thơ cũng hết sức độc đáo. Người đi tìm hình của nước thực sự là
hình tượng một vĩ nhân "đẻ ra đời", một con người "đẻ đất, đẻ nước". Hành trình của
một con người lớn lao đi tìm hình hài cho một đất nước, một dáng hình Tổ quốc.
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi, đi khắp những đất tự do, những trời nô
lệ, những con đường cách mạng... để mang về quê hương còn đang nhuốm máu

Tác phẩm Hội họa truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh:
Tuy tác phẩm đã được vẽ cách nay đã gần 50 năm nhưng nó có tính hiệu quả và
hấp dẫn rất cao , nó đã đi sâu vào tìm thức của người dân cả nước nói chung và Hà Nội
nói riêng, thành biểu tượng cho ước mơ hòa bình.Nội dung tác giả truyền tải đầy đủ
trong bức tranh khiến ai xem được cũng có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa và công ơn bác đã
cống hiến hết mình vì đất nước .Tác phẩm“Độc lập – Thống nhất – Hòa bình – Hạnh

27
phúc” của họa sĩ Từ Thành đã trở thành bức tranh cổ động đi vào lòng người sâu đậm
nhất. Bức tranh trở thành biểu tượng của khát khao và ước mơ hòa bình. Đó cũng là lời
nhắc nhở về tình yêu thương và gìn giữ hòa bình đến cả những thế hệ mai sau.

Tác phẩm Điện ảnh truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh:

Dù thời gian đã lùi xa hơn một thế kỷ, nhưng sự kiện Người ra đi tìm đường cứu
nước 112 năm trước vẫn mãi là tấm gương sáng ngời tinh thần yêu nước, ý chí cách
mạng, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho đất nước, cho nhân dân. Đó còn là bài
học về nghĩa vụ, trách nhiệm với quê hương đất nước, tinh thần học tập sáng tạo, độc
lập tự chủ, tận trung với nước, tận hiếu với dân đối với các thế hệ thanh niên Việt Nam
và đối với mỗi người dân Việt Nam.

Tác phẩm Âm nhạc truyền thông về chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó” là một bài hát hay dạt dào cảm xúc ca ngợi vị lãnh
tụ của dân tộc. Ca khúc đã khái quát những dấu son của dân tộc từ khi Bác trở về nước
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Qua giai điệu này
giúp chúng em giúp chúng em có thể nhìn thấy và cảm nhận được tình yêu của Bác đối
với quê hương đất nước. Phong cảnh nơi Pác Bó in đậm hình bóng của Người qua
nhiều năm lịch sử nhờ có Bác dẫn đường chỉ lối để đất nước được hoà bình.

Cảm nhận riêng của nhóm về các địa chỉ trên:


Bằng những hình ảnh, lời bài hát và những thước phim chân thật nhất để miêu tả
và ca ngợi Đảng, những bài hát, sách và bộ phim đã được giới thiệu như một bức tranh
chân thật nhất lưu giữ lại những khoảnh khắc quý báu để thế hệ sau này sẽ vẫn luôn
nhớ đến công lao cũng như nhớ ơn về Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh. Những tác phẩm
có ý nghĩa truyền tải rất sâu sắc về chân lý sống của tác giả trong cuộc sống, mở ra cho
người đọc những quan niệm, lý tưởng sống thông qua việc truyền thông về những lý
tưởng cao đẹp của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đó là ánh sáng soi gọi cho tâm hồn
thế hệ thanh niên trẻ yêu nước, niềm vui sướng tự hào khi được đứng vào hàng ngũ của
Đảng cộng sản và làm theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh.

IV. MINH CHỨNG VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


4.1. Minh chứng quá trình nghiên cứu:

28
29
30
4.2. Tài liệu tham khảo

31

You might also like