Professional Documents
Culture Documents
Câu 2 (B Sung)
Câu 2 (B Sung)
Trong quyết định này, Tòa án có căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 71
BLDS 2015, nên theo nhóm, việc xác định ngày chết của chị K phải dựa vào
thời hạn được quy định tại Điều 68 BLDS 2015 vì trường hợp này vẫn xác định
được năm có tin tức cuối cùng của chị K là năm 1992. Vậy nên việc xác định
ngày chết của chị K là ngày 19/11/2018 - ngày bản án có hiệu lực, là thiếu cơ sở
và chưa hợp lí.
Thứ hai, quyết định chưa khai thác lời khai của anh Đ về nguyên do chị K
bỏ nhà đi, về những mâu thuẫn hay khó khăn trong gia đình. Việc làm rõ nội
dung này có thể đưa ra được những nhận định về nguyên nhân chị K bỏ đi, mức
độ nghiêm trọng của sự việc, yếu tố nào trực tiếp tác động khiến chị K bỏ nhà đi
mà không liên lạc được,... Chị K thời điểm được cho rằng bỏ nhà ra đi thì mới
19 tuổi, mâu thuẫn gia đình, tình yêu cũng không được đề cập đến nên quyết
định này vẫn chưa thực sự rõ ràng.
Thứ ba, quyết định chưa làm rõ việc gia đình anh Đ đã thực hiện việc tìm
kiếm chị K như thế nào mà chỉ nêu rằng “gia đình anh Đ đã tìm kiếm và thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhiều lần, nhưng cũng không có kết
quả”. Nhóm cho rằng việc quyết định của Tòa án không đưa ra thông tin cụ thể
chứng cứ, tài liệu về phương tiện đại chúng mà gia đình đã sử dụng, các biện
pháp tìm kiếm đã áp dụng, thời điểm đăng tin,... khiến khó có thể xác định rằng
việc thông báo tìm kiếm thông tin về người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết có
được đăng tải trên những phương tiện thông tin đại chúng theo thủ tục, quy định
nêu ở khoản 1 Điều 385 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:
“1. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày Tòa án ra quyết định thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, thông báo này phải được đăng trên một
trong các báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp, Cổng thông tin
điện tử của Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (nếu có) và phát sóng trên Đài
phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp”