TL - LSĐCSVN Hao

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 48

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT

KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO


KHOA CHÍNH TRỊ & LUẬT
----------

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ


MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH


XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

MÃ LỚP HP: LLCT220514_22_2_02CLC


GVHD: Ths. Lê Quang Chung
THỰC HIỆN: NHÓM 17
HỌC KỲ: 2 – NĂM HỌC: 2022 - 2023

TP. Hồ Chí Minh, tháng 5, năm 2023

1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2022 - 2023
NHÓM: 17 (LỚP: LLCT220514_22_2_02CLC)

NHIỆM
STT HỌ VÀ TÊN - MSSV Kết quả Ký tên
VỤ
1.1, 1.2,
Nguyễn Văn Tiến - Hoàn thành
1 2.1, tổng
21125281 100%
hợp
Huỳnh Minh Thư - 3.3, 3.3, kêtHoàn thành
2
21125275 luận 100%
Võ Thị Anh Thư - Hoàn thành
3 1.3, 2.2
21125279 100%
Nguyễn Minh Hiếu - Hoàn thành
4
21147186 100%
Nguyễn Hoàng Hảo - 3.2, tổng Hoàn thành
5
21147185 hợp 100%
Dương Đình Hóa - 2.3, 2.4, mở Hoàn thành
6
21147188 đầu 100%
Ghi chú:
Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
Trưởng nhóm: Nguyễn Hoàng Hảo SĐT: 0839847556

Điểm số:.......................................................................................................................
Nhận xét của giáo viên: ..............................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................

TP. Thủ Đức, ngày 1 tháng 5 năm 2023


CHỮ KÝ XÁC NHẬN GV

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.....................................................................................................................5
2
II. NỘI DUNG.................................................................................................................8
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN
TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI..................................................................................8
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc.......................................................8
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại......................................................9
1.3. Tính tất yếu của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại......................10
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP
SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI...............................................10
2.1. Đặt cách mạng Việt Nam là bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.......11
2.2. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chinh với chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng...........................................................................................................................14
2.3. Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa,
sự ủng hộ của nhân dân quốc tế, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình....................................................................................................................................16
2.3.1. Dựa vào sức mình là chính..........................................................................16
2.3.2. Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân
17
2.4. Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc và các lực
lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ trên thế giới..............................................................19
2.4.1. Nội dung xây dựng tình hữu nghị hợp tác và đoàn kết giữa các quốc gia
dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................................................19
2.4.2. Các chính sách đối ngoại nâng cao tình hữu nghị đoàn kết hợp tác cùng
phát triển...................................................................................................................20
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH.....................21
DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG BỐI CẢNH CHỐNG DỊCH
COVID-19 Ở VIỆT NAM................................................................................................21
3.1. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với thế giới và
Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.....................................................................................21
3.1.1. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với Thế
giới 21

3
3.1.2. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với Việt
Nam 25
3.2. Sự kết hợp sức mạnh mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác chống
dịch ở Việt Nam.................................................................................................................27
3.2.1. Sức mạnh dân tộc........................................................................................27
3.2.2. Sức mạnh thời đại:.......................................................................................31
3.3. Thành tựu của Việt Nam trong công tác phòng chống đại dịch COVID-19...............34
III. KẾT LUẬN...............................................................................................................36
IV. TÀI LIỆU KHAM KHẢO......................................................................................37

PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH


DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI. LIÊN HỆ VỚI QUÁ TRÌNH
ĐOÀN KẾT CHỐNG DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

4
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những nội
dung cơ bản quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, nó là quy luật, là
bài học, kinh nghiệm lớn lao cho cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cũng đã chứng
minh, chính nhờ sự kết hợp khéo léo sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành thắng lợi
suốt thời gian qua. Trước những diễn biễn phức tạp của tình hình trong nước và
thế giới hiện nay, việc nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có ý nghĩa to lớn với đất nước Việt
Nam. Đặc biệt là trong thời kỳ đại dịch COVID-19, chúng ta đã vận dụng thế
nào để phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong giới hạn
của tiểu luận này, chúng em sẽ tập trung luận giải thế nào là sức mạnh dân tộc,
thế nào là sức mạnh thời đại; Đảng đã chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong đại dịch như thế nào và tại sao lại phải kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thông việc “Phân tích tư tưởng hồ chí
minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Liên hệ với quá trình
đoàn kết chống dịch COVID-19 ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại
- Tìm hiểu các nội dung cốt lõi của tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
- Từ việc phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc liên
hệ phân tích đến quá trình chống dịch COVID-19 tại Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Tiểu luận nghiên cứu về các nội dung cốt lõi của “Tư tưởng của Hồ Chí

Minh về vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” và sự kết hợp
của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong giai đoạn chống dịch của nước ta.

5
- Nghiên cứu các cơ sở lí trong phạm vi của môn tư tưởng Hồ Chí Minh về

vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giai đoạn chống
dịch của nước ta.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích các tài liệu các nguồn có liên quan
để làm rõ các nội dung cốt lõi của tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm cơ sở lý luận cho triển khai nghiên
cứu vận dụng vào phân tích trong giai đoạn chống dịch COVID-19 của nước ta.
- Phương pháp tư duy logic
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp qui nạp, diễn dịch

5. Kết cấu đề tài nghiên cứu

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH KẾT HỢP SỨC MẠNH
DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại
1.3. Tính tất yếu của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

6
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT
HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
2.1. Đặt cách mạng Việt Nam là bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế
giới
2.2. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chinh với chủ nghĩa quốc tế vô
sản trong sáng
2.3. Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa, sự ủng hộ của nhân dân quốc tế, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế
cao cả của mình
2.3.1. Dựa vào sức mình là chính
2.3.2. Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân
2.4. Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc và các
lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ trên thế giới
2.4.1. Nội dung xây dựng tình hữu nghị hợp tác và đoàn kết giữa các quốc gia
dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.4.2. Các chính sách đối ngoại nâng cao tình hữu nghị đoàn kết hợp tác cùng
phát triển

CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH


DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG BỐI CẢNH CHỐNG
DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM
3.1. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với thế giới
và Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
3.1.1. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với Thế
giới

7
3.1.2. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với Việt
Nam
3.2. Sự kết hợp sức mạnh mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác
chống dịch ở Việt Nam
3.2.1. Sức mạnh dân tộc
3.2.2. Sức mạnh thời đại:
3.3. Thành tựu của Việt Nam trong công tác phòng chống đại dịch COVID-19

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước khi đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời căn dặn về Đảng và đạo
đức cách mạng: “Đảng ta là đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức. Cách mạng thì phải cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, các đồng chí phải giữ cho Đảng ta trong sạch, xứng
đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.” Trong suốt cuộc đời của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề coi trọng đạo đức cách
mạng và coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng.
Người ta thường nói: “Việc gì cũng là cái gốc, thành bại đều do người cán
bộ có đạo đức tốt hay xấu, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
mà không có đạo đức cách mạng. đạo đức, tài giỏi đến đâu cũng không
lãnh đạo được nhân dân. Đảng là nền tảng, là gốc của đảng viên. Có đạo
đức cách mạng, có lối sống giản dị, trong sạch, lành mạnh. đảng viên sẽ
được kính trọng và điều kiện để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
8
Trong giai đoạn hiện nay, đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân luôn
quán triệt những lời dạy của Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà yếu tố hàng đầu là nâng cao đạo đức cách
mạng của người cán bộ. Các chi bộ, đảng viên khuyến khích họ tham gia
tích cực, sáng tạo. Đi đầu và giữ gìn phẩm chất đạo đức. Tuy nhiên, báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI đã ghi nhận tình trạng suy thoái về chính trị,
đạo đức, lối sống ở một số mặt, bộ phận cán bộ, phiến quân đông, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, bao cấp, các tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà tiếp tục diễn biến phức tạp. Cùng với sự phân hóa giàu
nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành ở nhiều cấp đang làm suy
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đe dọa đến sự ổn
định và phát triển của đất nước.
Trên tinh thần nâng cao hơn nữa chất lượng lãnh đạo của Đảng và quân
đội chiến đấu, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới tạo nền tảng nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Trên nền tảng kiến thức đã được học tập, nghiên cứu trong học
phần tư tưởng Hồ Chí Minh. Là một trong những chủ nhân tương lai của
đất nước, tôi nhận thức được toàn diện những vấn đề cấp bách nói trên và
mong muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Đảng vững mạnh và phát
triển. Đó là lý do thúc đẩy tôi chọn đề tài này, đó là: “Những thành tựu
và hạn chế trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa của
Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


2.1. Mục đích
Khi nghiên cứu về đề tài này mục đích một mặt có thể nắm bắt
được kiến thức cơ bản và mở rộng nghiên cứu sâu hơn về những
thành tựu và hạn chế của Đảng trong quá trình xây dựng và phát
triển văn hóa của nước ta, mặt khác đánh giá những giá trị, bài học
kinh nghiệm trong quá trình hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
-Trình bày những nội dung, đặc điểm của những thành tựu văn hóa
của Đảng ta.
-Trình bày nội dung phương hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng
trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa.
-Làm rõ ý nghĩa nghiên cứu của đề tài, cũng như nâng cao hiểu
biết, nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng

9
-Đề tài tập trung nghiên cứu những thành tựu và hạn chế trong quá
trình xây dựng và phát triển nền văn hóa của Đảng cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-Nghiên cứu trong phạm vi lịch sử hình thành và phát triển của
Đảng cộng sản VIệt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.2. Cơ sở lý luận
-Dựa trên các đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu là chủ yếu, ngoài ra còn có dung
hợp, phân tích, so sánh và liệt kê.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
5.1. Ý nghĩa khoa học
-Tìm hiểu, nghiên những thành tựu và hạn chế của Đảng cộng sản
trong quá trình phát triển nền văn hóa và phân tích đường lối lãnh
đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, qua đó hiểu rõ hơn về
quá trình đi lên, ý nghĩa của xây dựng và phát triển văn hóa của
Đảng.
5.2. Thực tiễn
-Góp phần xây dựng và nâng cao kiến thức, hiểu biết của mọi
người về những thành tựu và hạn chế của Đảng cộng sản trong quá
trình phát triển nền văn hóa ở nước ta hiện nay. Đồng thời, củng cố
quan điểm đúng đắn và nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi
người.
6. Kết cấu của tiểu luận
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ ĐƯỜNG
LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG, PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
1.1. Khái quát về văn hóa Việt Nam.
1.2. Đường lối của đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng, phát triển văn
hóa trong thời kỳ đổi mới.

CHƯƠNG 2. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG


XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Thành tựu về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới.

2.2. Hạn chế về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới.

10
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG HẠN CHẾ
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN
HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
3.1. Giải pháp chủ quan để khắc phục những hạn chế trong quá trình xây
dựng và phát triển văn hóa của Đảng.
3.2. Giải pháp khách quan để khắc phục những hạn chế trong quá trình
xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng.

II. NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH KẾT HỢP SỨC MẠNH
DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh dân tộc
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh dân tộc chính là sức mạnh tổng hợp
của các cộng đồng dân tộc giữa các quốc gia với nhau và giữa các dân tộc trong
cùng một nước. Sức mạnh đó được thể hiện thông qua sức mạnh của thể chế
chính trị, tiềm lực về kinh tế, an ninh quốc phòng; sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc; sức mạnh của những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. Trong đó,
yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc đó là phải giữ vững tinh thần
độc lập tự chủ, tự lực tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Và trong hoạt động đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động
sản xuất của ta, dân tộc Việt Nam luôn thể hiện sức mạnh ấy thông qua ý chí
chiến đấu ngoan cường, tinh thần đoàn kết, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường, sự thông minh khéo léo sáng tạo, ... và đặc biệt là tinh thần yêu nước sâu
sắc của cả dân tộc Việt Nam. Từ đó đã giúp cho Hồ Chí Minh có niềm tin vững
chắc vào sức mạnh dân tộc Việt Nam. Điều này đã được thể hiện trong các tác
phẩm văn chương của Người như: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó
là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sục sôi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán và lũ cướp
nước ”1 .

1
[] Hồ Chí Minh: Toàn Tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nộ, 2011, t.4, tr.38.

11
Mặc dù Người đánh giá rất cao về sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần yêu nước của quần chúng nhân dân Việt Nam nhưng Hồ Chí Minh đã
nhận thức rõ về những hạn chế của nó từ những thất bại của các cuộc vận động
trước, cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Do đó, người đã quyết tâm ra đi tìm
đường cứu nước, đi tìm kiếm sự mách bảo của thời để có thể phát huy tối đa sức
mạnh dân tộc vào trong giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người khỏi ách thống trị thực dân.
1.2. Đường lối của đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng, phát triển văn hóa
trong thời kỳ đổi mới.
1.2.1. Về chủ trương, đường lối.
Trước muôn vàn khó khăn, thử thách và sự biến đổi lớn của tình hình quốc
tế và đất nước, Đảng vẫn kiên định lãnh đạo và thực hiện những đường lối,
chính sách đổi mới đúng đắn trên mọi lĩnh vực trong đó có lĩnh vực văn hoá,
chỉ đạo xây dựng những chính sách văn hoá để hoàn thành thắng lợi mục đích
bảo vệ và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý lĩnh vực văn hoá bằng cách biến
những chủ trương, chính sách của Đảng thành luật, chỉ thị, nâng cao quy định
và những chính sách văn hoá. .. Thông qua những chương trình hoạt động và
phong trào văn hoá yêu nước, thành mạng lưới những cơ sở văn hoá nhằm
động viên đông đảo nhân dân tham gia; đưa chủ trương, chính sách, đường lối
của Đảng trở thành sức mạnh tổng hợp, qua phong trào văn hoá để tạo ra các
hoạt động thiết thực nghị định cao đời sống văn hoá, tinh thần cho nhân dân,
góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội và góp phần tạo dựng đời sống tinh thần
cho xã hội.
Để tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao nền văn hóa tiên tiến Việt Nam,
đậm đà bản sắc dân tộc; trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách cần sự tâm huyết, chủ động của các cơ quan Đảng. Thực hiện xây
dựng các đề án giáo dục văn hóa, thẩm mỹ và nếp sống văn hóa hiện đại; phát
huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác

12
phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao; đồng thời củng cố sức mạnh dân
tộc quản lý văn hóa; xây dựng cơ chế, chính sách, chế tài ổn định. Tăng
cường và mở rộng giao lưu, hợp tác văn hóa quốc tế; ngăn chặn sự xâm nhập
của văn hóa độc hại, văn hóa lai tạp, phản động, đồng thời xây dựng, nâng
cấp hệ thống thiết chế văn hóa.
1.2.2. Định hướng đối với các chính sách văn hóa
Nhằm tiếp tục phát huy sâu rộng và nâng cao nền văn hóa tiên tiến Việt
Nam, đậm đà bản sắc dân tộc; trong xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách cần sự tâm huyết, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể nhân dân, các hội văn học nghệ thuật, giới khoa học, đội ngũ trí
thức, phát huy tác dụng của báo chí; Xây dựng và thực hiện Xây dựng các đề
án giáo dục văn hóa, thẩm mỹ và nếp sống văn hóa hiện đại; phát huy tiềm
năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có
giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao; đồng thời củng cố sức mạnh dân tộc quản
lý văn hóa; xây dựng cơ chế, chính sách, chế tài ổn định; tăng cường và mở
rộng giao lưu, hợp tác văn hóa quốc tế; ngăn chặn sự xâm nhập của văn hóa
độc hại, văn hóa lai tạp, phản động; đồng thời xây dựng, nâng cấp hệ thống
thiết chế văn hóa.
Văn hóa định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua chính sách văn hóa nhân
văn, nhân văn; Phát huy tiềm năng, trí tuệ con người đáp ứng nhu cầu, yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế tri thức trong xu thế hội nhập quốc tế.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng, ý nghĩa, vai trò, vị trí của văn hóa trong
đời sống dân tộc và cách mạng xã hội. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng đấu tranh chống ngoại xâm, thống nhất đất nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn quan tâm đến văn hóa và càng chú trọng đến
văn hóa trong thời kỳ đổi mới cơ cấu. nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
1.2.3. Yêu cầu chính trị tư tưởng đối với chính sách văn hóa

13
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, các chính sách văn hóa của Đảng đã
xác định và làm nổi bật giá trị nhân văn của văn hóa Việt Nam là tinh thần
yêu thương, tôn trọng, bảo vệ con người, coi trọng người tài, giúp đỡ người
khó khăn. Ngoài ra còn phải thống nhất hài hòa ba lợi ích: lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội. Đây cũng là một trong những động lực đổi mới ở thời kì này.
Hiện nay nhiều người vẫn chưa hiểu hết vấn đề xã hội hóa, điều này đã trở
thành hạn chế đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Công tác
giáo dục, tuyên truyền phải làm cho người dân nhận thức được xã hội hóa là
chủ đề hết sức cần thiết, nhất là trong điều kiện kinh tế nước ta còn nhiều khó
khăn, nhà nước không thể “bao” toàn bộ. Xã hội hóa nhằm khơi dậy sự quan
tâm của toàn xã hội, thu hút trí tuệ, nhân lực và vật lực của toàn xã hội. Các
yếu tố hỗ trợ hoạt động văn hóa đang phát triển theo hướng thay đổi về chất,
đổi mới về hình thức và nội dung.
Một đường lối văn hóa phù hợp với đường lối của Đảng, bám sát yêu cầu
tư tưởng chính trị cũng góp phần tạo nên sự ổn định và lành mạnh của xã hội.
Không có sự ổn định thì không thể có sự phát triển. Một gia đình, một tập thể,
một cộng đồng và toàn xã hội có đời sống văn hóa phong phú, bình đẳng, có
chất lượng cao... tức là họ có một chính sách văn hóa nhân văn. Xây dựng đời
sống văn hóa được coi là bước đầu tiên trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa. Đây là nhiệm vụ quan trọng để xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh. Đồng thời, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh còn góp phần
tạo dựng môi trường chính trị - xã hội ổn định, an ninh, bền vững dựa trên
đời sống kinh tế được đảm bảo.
CHƯƠNG 2.NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỖI MỚI
2.1.Thành tựu về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới.
2.1.1. Nhận thức tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa

14
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa thực chất là quá
trình phát triển văn hóa tạo ra sức mạnh và môi trường thuận lợi cho phát triển
kinh tế, đồng thời phát triển kinh tế là tiền đề cho phát triển kinh tế. Thực tiễn
những năm qua cho thấy, ở một số nơi mối quan hệ trên được nhận thức và
giải quyết tốt, đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và đời sống tinh thần của
nhân dân. Việc phát triển công nghiệp văn hóa sẽ giúp Việt Nam đổi mới mô
hình tăng trưởng, tác động tích cực đến nền kinh tế. Sự phong phú của các sản
phẩm, dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế là sức
mạnh mềm văn hóa quan trọng của đất nước, đưa văn hóa thấm sâu vào đời
sống nhân dân.

2.1.2 Xác định sự cần thiết phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Môi trường văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành và trưởng thành
nhân cách, đạo đức, lối sống của con người. Nội dung xây dựng môi trường văn
hóa được Đảng bộ chính trị xác định là: Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở;
Xây dựng gia đình, cộng đồng văn hóa; Xây dựng nếp sống văn minh; Xây dựng
và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa. Chúng ta biết rằng,
mục đích xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là nhằm thỏa mãn nhu cầu
văn hóa đa dạng và không ngừng phát triển của các tầng lớp nhân dân.

2.1.3 Lý luận và nhận thức về vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và văn
hóa trong linh tế bước đầu được làm rõ
Xây dựng văn hóa trong chính trị: Xây dựng văn hóa trong chính trị là nhận thức
và củng cố mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và văn hóa. Đảng ta vừa xác
định việc xây dựng thể chế để phát huy vai trò của chính trị trong phát triển văn
hóa là quan trọng hàng đầu với các nhiệm vụ sau: Phải xây dựng và hoàn thiện
thể chế bảo đảm đúng định hướng chính trị. phát huy quyền tự do, dân chủ rộng
rãi trong xã hội để phát triển văn hóa; Mối quan hệ giữa kỷ luật, kỷ cương và tự
do, dân chủ là mối quan hệ cơ bản phải được xử lý một cách biện chứng, hợp

15
tình, hợp lý trong luật pháp, chính sách phát triển văn hóa. Gắn kết chặt chẽ giữa
phát triển văn hóa với công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng

2.1.4 Xây dựng và phát triển văn hóa, đạo đức con người Việt Nam hiện đại.
Hệ giá trị chuẩn mực nhân văn Việt Nam là một trong những phạm trù trung tâm
của khoa học văn hóa, đồng thời cũng là nội dung trọng tâm trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hóa, con người nước ta hiện nay, có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của nền văn hóa. Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam. Trong bối cảnh biến đổi đa chiều, phức tạp của nội tại hiện
nay, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam đang có những biến đổi
phức tạp, dẫn đến một số hiện tượng suy thoái văn hóa, đạo đức Việt Nam đáng
báo động như tha hóa, biến chất. . với một số kẻ có tiền và có quyền; bạo lực
v.v. Nguyên nhân là do nhận thức về hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam,
con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế chưa đầy đủ, thiếu hệ thống. xây dựng và phát triển văn hóa,
con người trong thực tiễn.

2.1.5 Bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với giao lưu,tiếp xúc và đối
thoại văn hóa trong xu thế toàn cầu hóa.
Trong điều kiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, sự vận hành của kinh tế thị
trường đối với các lĩnh vực của xã hội, trong đó có văn hóa, là một quy luật
khách quan. Xem xét những tác động của quá trình hội nhập quốc tế (cả mặt tích
cực và tiêu cực) đối với sự phát triển của văn hóa Việt Nam, Đảng ta đã nhận
thức rõ những yêu cầu mới về nhận thức lý luận bao gồm: mối quan hệ giữa giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc và tính chọn lọc. bao trùm tinh hoa văn hóa.
trong quá trình giao lưu, tiếp xúc và đối thoại văn hóa của nhân loại trong xu thế
toàn cầu hóa. Ở Việt Nam, trong điều kiện và đặc điểm mới, văn hóa dân tộc
đồng thời phải mở rộng nhận thức về các giá trị văn hóa nhân loại, tích cực

16
trong việc chọn lọc, tiếp thu và học hỏi những nét đặc sắc của văn hóa các nước,
các dân tộc.

Tài liệu tham khảo


1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, hà Nội, 1998.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011.

2.2.Hạn chế về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới.
2.2.1.Thiếu nguồn nhân lực.
Thứ nhất, lĩnh vực văn hóa thường được coi là một lĩnh vực "không có
tiền" và "không có tương lai" ở một số quốc gia. Trong khi đó, sự nghiệp
trong các lĩnh vực khác như kinh doanh, khoa học và công nghệ đang
nhận được sự quan tâm và đầu tư lớn hơn từ phía xã hội và các nhà tài
trợ. Vì vậy, không có nhiều người lựa chọn theo đuổi sự nghiệp trong
ngành văn hóa, dẫn đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực chuyên môn và kỹ
năng trong ngành.

Thứ hai, một số chính sách và cơ hội việc làm trong lĩnh vực văn hóa
vẫn chưa được phát triển đầy đủ. Trong nhiều trường hợp, việc làm trong
lĩnh vực văn hóa thường được coi là không ổn định và không có định

17
hướng rõ ràng. Do đó, nhiều người không muốn tìm kiếm công việc
trong lĩnh vực này.

Thứ ba, một số ngành trong lĩnh vực văn hóa như điện ảnh, âm nhạc và
nghệ thuật sân khấu yêu cầu đầu tư lớn và có tính cạnh tranh cao. Điều
này dẫn đến việc nhiều người muốn theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực
này, nhưng không thể làm được vì thiếu tiền để đầu tư.
Hơn thế nữa thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao là một vấn đề nan giải
http://daidoanket.vn/tim-nguon-nhan-luc-cho-phat-trien-van-hoa-
5662434.html
2.2.2.Hạn chế về cơ chế, chính sách ,chế tài trong lĩnh vực văn hóa.

Thứ nhất, cơ chế, chính sách, pháp luật về xây dựng, bảo vệ môi trường
văn hóa vẫn còn những hạn chế, bất cập: Một số cơ chế, chính sách chưa
có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi vi phạm. Hệ thống các văn
bản quản lý nhà nước về xây dựng môi trường văn hóa tuy đã ban hành
kịp thời, song vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, quy chuẩn, tính ổn
định chưa cao; vẫn còn tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu
đã phải sửa đổi, bổ sung, từ đó hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của
các cá nhân, tổ chức trong hoạt động văn hóa.
Thứ hai, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tuy
đã đạt được những kết quả tích cực song chất lượng phong trào chưa bền
vững. Việc tổ chức thực hiện các cuộc vận động trong phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” có nơi còn chạy theo thành tích
và số lượng, chưa chú ý nâng cao chất lượng. Chất lượng phong trào xây
dựng gia đình văn hóa, làng, thôn, ấp, bản, buôn văn hóa chưa vững chắc
và đồng đều giữa các vùng. Chất lượng các danh hiệu văn hóa, như gia
đình văn hóa, làng văn hóa, thôn, ấp, bản văn hóa ở nhiều nơi còn hạn
chế; chưa phát huy hiệu quả và hấp dẫn được đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia.

18
Thứ ba, xây dựng và thực hiện nếp sống văn hóa vẫn còn một số bất cập.
Công tác quản lý và tổ chức một số lễ hội còn bộc lộ những yếu kém. Có
biểu hiện thương mại hóa trong lễ hội, lợi dụng lễ hội để trục lợi, xuất
hiện hiện tượng phản cảm, tranh cướp, chen lấn, xô đẩy, tranh giành, đeo
bám khách làm mất trật tự, an ninh; lợi dụng tổ chức các trò chơi biến
tướng sang đánh bạc còn diễn ra ở một số lễ hội, vẫn còn hiện tượng đốt
nhiều vàng mã gây tốn kém, tiềm ẩn nguy cơ cháy, nổ; tình trạng xả rác
bừa bãi vẫn còn diễn ra trong một số lễ hội làm ảnh hưởng không gian tổ
chức lễ hội. Trong việc hiếu, hỉ, vẫn còn hiện tượng tổ chức đám cưới
linh đình, tốn kém; tổ chức đám tang trong nhiều ngày gây ô nhiễm môi
trường; lối sống, nếp sống văn hóa truyền thống tốt đẹp đang có biểu hiện
suy giảm.
2.2.3.Suy thoái đạo đức, lối sống những tư duy lệch lạc.

Còn biểu hiện xuống cấp, suy thoái về đạo đức, lối sống. Đạo đức nghề
nghiệp của một số ngành, nghề, nhất là những ngành, nghề vốn nhân văn,
cao quý, như ngành giáo dục - đào tạo, có biểu hiện xuống cấp, gây nên
những bức xúc, tạo hệ lụy xấu trong đời sống xã hội. Văn hóa ứng xử
giữa con người với tự nhiên còn nhiều hạn chế, khiến môi trường sinh
thái bị xâm hại. Đó là hiện tượng khai thác cạn kiệt nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên quý giá, như chặt phá rừng, sử dụng nguồn nước
ngầm thái quá... đã phá vỡ các quy luật vốn có của tự nhiên dẫn đến hệ
quả xấu. Môi trường thiên nhiên bị hủy hoại ngày càng tác động tiêu cực
trở lại đến đời sống của con người, như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn,
triều cường, nước biển dâng, sạt lở núi, đồi, sạt lở ven sông, ảnh hưởng
đến đời sống người dân.

Việc xây dựng mối quan hệ giữa con người với con người cũng chưa
được chú ý đúng mức. Lối sống vì mình, quên người; vì lợi, bỏ nghĩa có
nguy cơ lan rộng và bào mòn nhân tính của con người. Quan hệ giữa
người và người dễ bị lấn át, che khuất trong các mối quan hệ trao đổi
hàng - tiền, tiền - tiền, tiền và vật chất,... đã vô tình tạo ra cách nhìn nhận
19
và đánh giá con người thông qua giá trị của cải vật chất, mà không phải
là giá trị tình cảm trong sáng, nhân văn vốn là vốn quý trong đạo đức, lối
sống truyền thống mà cha ông ta đã để lại.

Tệ nạn xã hội gia tăng, gây hậu quả nghiêm trọng. Tính chất và số lượng
các vụ án ma túy, mại dâm, cướp bóc, trấn lột, giết người... vẫn đang diễn
ra ngày càng tinh vi, phức tạp. Tỷ lệ thanh thiếu niên gây ra các vụ án
ngày một tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Tình trạng bạo
hành gia đình, bạo lực học đường, xâm phạm trẻ em... vẫn là những vấn
đề nóng trong xã hội. Đặc biệt, ở một số vùng nông thôn, phụ nữ và trẻ
em vẫn là những đối tượng chính trong các vụ án mua bán người. Các tệ
nạn xã hội, như cờ bạc, buôn lậu, mua bán trái phép chất ma túy, cá độ,
tín dụng đen, cho vay nặng lãi... hoạt động ngày một tinh vi và thách thức
cán bộ quản lý, gây nên những bức xúc trong xã hội. Vẫn còn hiện tượng
du nhập, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, hoạt động thiếu lành mạnh
thông qua các cơ sở dịch vụ văn hóa,
2.2.4.Tính ổn định, bền vững của những giá trị truyền thống tích cực
trong đời sống văn hóa chưa cao.
Tốc độ đô thị hóa, xu thế nông thôn hóa thành thị đang phá vỡ nền tảng
văn hóa truyền thống, nhiều giá trị văn hóa truyền thống bị xói mòn hoặc
bị phá vỡ như giá trị văn hóa làng, xã. Sự bền vững của nền tảng gia đình
truyền thống bị lay chuyển, bản sắc văn hóa có nguy cơ suy giảm; các giá
trị văn hóa trong gia đình, dòng họ, làng, xã có biểu hiện ngày càng đi
xuống; từ đó, ảnh hưởng tới việc nuôi dưỡng và rèn nhân cách con người.
Sự phân cực giàu nghèo, biến đổi khí hậu, tình trạng ô nhiễm môi trường
sống vẫn tồn tại đã và đang làm biến đổi đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân, khiến cho cuộc sống thường ngày của người dân bị ảnh hưởng.
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa gặp nhiều khó
khăn, bấp cập; nhiều di sản văn hóa bị xuống cấp, xâm phạm, ảnh hưởng
tới sự tôn nghiêm của di sản. Nhiều phong tục, tập quán truyền thống tốt
đẹp của các dân tộc bị ảnh hưởng do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đô thị hóa làm mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc, vùng, miền. Một

20
số phong tục, tập quán cũ không còn phù hợp, trong khi đó các giá trị văn
hóa mới chậm hình thành, chưa được khẳng định trong đời sống xã hội
hiện nay; một số hình thức văn hóa, lối sống không lành mạnh thâm nhập
về nông thôn, làm mất đi nét đẹp mang tính văn hóa truyền thống làng,
xã ở nông thôn.
(1) Ban Chỉ đạo Trung ương Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa: Báo cáo tổng kết 18 năm thực hiện Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”(2010 - 2018), Hà Nội, 2018

(2) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở): “Thực hiện
chính sách xã hội hóa trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, thực trạng
và giải pháp”, Bài tham luận trong Tài liệu Hội nghị tham vấn chuyên gia
về tình hình thực hiện nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Quốc
hội khóa XIV, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, thanh niên, thiếu niên và Nhi
đồng của Quốc hội, Hà Nội, tháng 7-2017, tr. 5
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/
2018/824222/xay-dung-moi-truong-van-hoa-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/
van_hoa_xa_hoi/-/2018/816918/quan-diem-cua-dang-ve-xay-
dung-nen-van-hoa-tu-sau-doi-moi-den-nay---thanh-tuu-va-
nhung-van-de-dat-ra.aspx

1.3. Đặt cách mạng Việt Nam là bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản
thế giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người là một yêu cầu cấp thiết không chỉ của riêng cách
mạng Việt Nam mà của tất cả các dân tộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế

21
giới. Người xem chủ nghĩa đế quốc như “con đỉa hai vòi”. Một vòi hút máu
nhân dân thuộc địa và một vòi hút máu nhân dân chính quốc. Từ đó, Người
muốn khẳng định, muốn tiêu diệt con đỉa ấy, cần đồng thời cắt đứt cả hai vòi,
không thể chỉ cắt đứt một vòi mà để vòi kia tồn tại. Vì nếu như thế thì vòi kia
vẫn tiếp tục hút máu giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị
cắt đứt sẽ lại mọc ra và tiếp tục hút máu giai cấp vô sản, nhân dân vẫn sẽ bị
áp bức; do đó ta cần cắt đứt cả hai vòi cùng lúc. Tức là phải kết hợp cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. Xem
hai cuộc cách mạng đó như là “hai cánh của một con chim”, cần có sự khăng
khít cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản thế giới . Người chỉ rõ: “Cách
mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh
trong thế giới đều làm đồng chí của dân An Nam cả”2.
Trong quá trình hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Người cũng ý thức được yếu
tố thời đại đóng một vai trong quan trọng trong đến việc lựa chọn con đường
cách mạng. Nhắc nhở những người cộng sản cần bám sát yếu tố thời đại để định
ra đường lối cách mạng sao cho phù hợp. Chủ Tịch Hồ Chí Minh của chúng ta
sống trong giai đoạn thời đại đã những biến đổi to lớn, tác động đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội mở đầu bằng cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đặc điểm của
thời đại mới này là đã có chấm dứt sự tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra
mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa các dân tộc, làm cho vận mệnh của
mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người. Đây chính là
cơ sở để kết hợp phong trào cách mạng thuộc địa với phong trào cách mạng thế
giới. Từ thực tiễn đó đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc tin tưởng sự nghiệp giải
phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp cách mạng
vô sản thế giới. Do đó yếu tố thời đại đóng một vai trò quan trọng đến thắng lợi
của giai cấp vô sản

2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.301.

22
Trước Hồ Chí Minh đã có nhiều nhà yêu nước chân chính dám đứng lên
kêu gọi tập hợp nhân dân phất cao ngọn cờ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm
lược. Nhưng các phong trào đó đều thất bại, nguyên nhân của sự thất bại là do
các cuộc khởi nghĩa còn mang nặng tính tự phát, cô lập, không gắn cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới, đặc biệt không nắm bắt được xu thế của thời
đại, kết cục đều đi đến thất bại. Nguyễn Ái Quốc quyết định không đi theo,
không lặp lại những sai lầm của cha anh mình mặc dù rất khâm phục tinh thần
yêu nước của họ. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước, đi tìm sự mách
bảo của thời đại để cứu nước cứu dân. Và Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Từ đây có thể khẳng định lại, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cần phải
hoà nhập chung vào cách mạng vô sản thế giới, là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản thế giới.
Trên mặt trận lý luận, Nguyễn Ái Quốc cũng kiên quyết chống lại chủ
nghĩa cơ hội và bảo vệ quan điểm của mình về mối quan hệ khăng khít giữa
cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản của thế giới của Lênin. Người nói:
"Cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với
phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các
nước bị nô dịch”3. Vai trò của cách mạng thuộc địa là rất lớn, nếu không có họ
thì cách mạng vô sản đã không thể giành được thắng lợi. Theo Hồ Chí Minh,
thuộc địa là nơi “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ
thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó,
nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ công nhân rẻ mạt cho đạo quân lao động của
nó, và nhất là tuyển những binh lính người bản xứ cho các đạo quân phản cách
mạng của nó”4. Hồ Chí Minh cũng khái quát: Lịch sử của bất kể cuộc xâm lấm
thuộc địa nào từ đầu đến cuối đều được viết bằng máu của người thuộc địa.
Chính sự bóc lột tàn bạo nói trên đã đẩy các nước thuộc địa đến bước cuối
cùng là đoàn kết lại chống chủ nghĩa tư bản và lựa chọn con đường cách mạng
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.227.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr 243.

23
vô sản. Những phân tích trên đây của Hồ Chí Minh về vai trò của cách mạng
thuộc địa đối với cách mạng vô sản thế giới là một thực tế đúng đắn về mối
quan hệ không thể tách rời của cả 2 cuộc cách mạng. Chính quan điểm này của
Bác đã đập tan khẩu hiệu sai trái của chủ ngĩa cơ hội cho rằng: sự xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc đóng vai là nhà “khai hoá, truyền bá văn minh” đối với
các thuộc địa lạc hậu, kém phát triển.
Trong quá trình hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới. Người khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận
trong cách mệnh thế giới" 5. Cách mạng phương Đông chậm phát triển và suy
yếu nguyên nhân là do “sự biệt lập”. Họ không biết đến những việc xảy ra ở
các nước láng giềng gần của họ, thiếu sự tin tưởng lẫn nhau, sự phối hợp
hành động và sự cổ vũ lẫn nhau. Biết rõ được nguyên nhân suy yếu của cách
mạng ở các nước phương Đông thì phải tìm cách khắc phục, Hồ Chí Minh
nhận thấy cần phải tuyên truyền giáo dục để: làm sao cho các dân tộc thuộc
địa từ trước đến nay chưa biết đến nhau, hiểu nhau và đoàn kết lại để cùng
nhau chống kẻ thù chung, chủ nghĩa đế quốc. Người đã đưa ra một luận điểm
nổi tiếng về bản chất của chủ nghĩa tư bản và sự cần thiết phải đoàn kết các
dân tộc lại để chống lại kẻ thù của mình. "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có
một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám
vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa... Nếu người ta muốn giết con vật
ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi,
thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống
và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra" 6.
Như vậy, chủ nghĩa đế quốc không chỉ là kẻ thù của các dân tộc bị áp
bức, mà còn là kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính
quốc. Do đó, cách mạng Việt Nam muốn lớn mạnh thì phải liên hệ với cách
mạng thế giới. Và phải đặt mình là bộ phận khăng khít giữa các dân tộc,
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.301.
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr 120.

24
xem người làm cách mạng trong thế giới là đồng chí của cách mạng An Nam
để cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung cuối cùng chủ nghĩa đế quốc.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô
sản thế giới, quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ chiều hướng đi lên tất
yếu của dân tộc Việt Nam, chủ động đưa nước ta hoà nhập xu thế chung của thời
đại để đạt đến mục đích. Đây là công lao đầu tiên của Hồ Chí Minh đối với dân
tộc Việt Nam cũng như các dân tộc bị áp bức khác. Tư tưởng đó làm cơ sở cho
Đảng ta xác định đường lối lãnh đạo gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng
thế giới để phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
1.4. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chinh với chủ nghĩa quốc tế
vô sản trong sáng
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Tinh thần yêu nước chân chính...
là một bộ phận của tinh thần quốc tế” 7. Sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
chỉ được phát huy khi và chỉ khi kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ
Chí Minh đã quán triệt, triệt để để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc; đồng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, Hồ Chí Minh đã
đấu tranh suốt đời không mệt mỏi để củng cố tình đoàn kết và hữu nghị giữa Việt
Nam và các dân tộc khác đang đấu tranh cho mục tiêu hoà bình chung độc lập dân
tộc, dân chủ. Đảng ta quyết lấy toàn bộ hoạt động thực tiễn của mình để chứng
minh chủ nghĩa yêu nước chân chính không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô
sản.
Trước việc kẻ thù tuyên truyền chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, thói kỳ thị tiếng nói, màu da, phong tục, tập quán... để chia rẽ các dân tộc,
Hồ Chí Minh chỉ ra cách mạng vô sản phải thực hiện triệt để tư tưởng kết hợp chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Từ đó, muốn
giải phóng mình thì dân tộc “bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và
chống bọn áp bức” 8. Người phấn khởi khi thấy trường đại học phương Đông đã
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6, tr 172.
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 1, tr 452.

25
thể hiện rõ tư tưởng của Lênin về kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vô sản trong sáng thông qua việc đoàn kết các dân tộc thuộc địa:
“Làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai,
khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” 9. Rằng
đây, bốn biển một nhà, vàng đen trắng đỏ đều là anh em.
Để có thể phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực
hiện giành độc lập cho dân tộc, trong suốt khoảng thời gian kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mọi người
phân biệt rõ sự khác nhau giữa nhân dân lao động yêu chuộng hoà bình, tự do
với bọn thực dân đế quốc hút máu thuộc địa; nhân dân lao động pháp với bọn
thực dân xâm lược Pháp. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã gây ra bao
tội ác đối với nhân dân Việt Nam, nhưng Người vẫn luôn đề cao văn hoá Pháp,
ca ngợi truyền thống đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân Mỹ. Hàng loạt
những biểu hiện nêu trên đã làm cho thế giới càng hiểu rõ hơn về cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam; làn sóng phản đối chiến tranh của Việt
Nam không ngừng được lan rộng cả trong nước và thế giới. Khắp các châu lục
đòi đế quốc thực dân phải chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam;
tinh thần yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế vô sản được phát huy cao
độ, tạo ra sức mạnh tổng hợp để chống lại thực dân xâm lược
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước chân chính muốn kết hợp được với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, dựa trên nền tảng lý luận Mác - Lênin vận dụng vào điều kiện
thực tiễn cách mạng Việt Nam cần phải áp dụng sao cho phù hợp, kiên quyết
đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ,
bảo vệ lợi ích của dân tộc mình và lợi ích chung của các dân tộc khác vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

9
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, tr 124.

26
1.5. Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân dân quốc tế, đồng thời không quên
nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình
1.5.1. Dựa vào sức mình là chính
Đó là quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã chỉ ra
rằng: “Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ ở nơi lực lượng của Việt Nam”;
“Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã”. Trong khi
định ra đường lối quốc tế và sách lược tập hợp lực lượng bên ngoài, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh nhân tố bên trong, coi nhân tố bên
trong là nhân tố quyết định. Người nhắc nhở: “Ta có mạnh thì họ mới “đếm xỉa
đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn
đồng minh của ta vậy”.
Vào thời điểm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người đã
nêu ra chủ trương đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ đồng tình của quốc tế: Cần phải
“dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực
của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân dân yêu chuộng hòa bình và
công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ”. Rõ ràng, đối tượng đoàn
kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chống Mỹ rất rộng rãi, nhưng Người vẫn
luôn nhấn mạnh dựa vào sức mình là chính. Sức hậu thuẫn thế giới thường được
tăng cường và phát triển tỷ lệ thuận với những thắng lợi của nhân dân ta là một
minh chứng quan điểm mở rộng đoàn kết quốc tế trên cơ sở tự lập, tự cường của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa các yếu tố bên
trong và bên ngoài, khách quan và chủ quan vào thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong quá trình tiến hành cách mạng phải tranh thủ
sự giúp đỡ về mọi mặt từ bên ngoài, nhưng luôn đề cao ý thức tự lực tự cường,
dựa vào sức mình là chính”.
Theo Hồ Chí Minh "sức mình" ở đây chính là sức mạnh của dân tộc, sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, là nguồn nội lực, là cái gốc, điểm mấu

27
chốt để đảm bảo nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài đạt kết quả. Sức mạnh của dân
tộc là một động lực lớn đã kiểm nghiệm qua thực tiễn được Người khẳng định:
“Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước". Một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”. Sức mạnh đó không phải ở đâu xa lạ, mà nằm ngay trong sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam yêu nước
được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử.
1.5.2. Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của
nhân
dân quốc tế và không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình”.
Trong mối quan hệ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, Hồ
Chí Minh coi sức mạnh của thời đại là nhân tố quan trọng, sức mạnh của dân tộc
là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 ở Việt Nam là một ví dụ điển hình cho sự kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh của thời đại ở đây được coi là những điều
kiện khách quan thuận lợi - Thời cơ cách mạng chín muồi.
Để tranh thủ sức mạnh từ bên ngoài, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ
đảng viên, nhân dân ta làm sao tuyên truyền cho sâu, cho rộng cuộc chiến tranh
chính nghĩa của Việt Nam trước nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà bình, tự do
công lý trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, thực hiện tư tưởng
ngoại giao nhân dân. Đường lối đó chẳng những đã góp phần tăng cường sự
đoàn kết giữa các đảng, mà còn huy động được sức mạnh bên ngoài, tranh thủ
được phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới, ủng hộ Việt Nam giành độc
lập, tạo ra được một mặt trận rộng lớn, mạnh mẽ chưa từng có đoàn kết với Việt
Nam chống Mỹ xâm lược.
Sau khi giành chính quyền, Người vẫn luôn quan tâm đến việc tranh thủ
các nhân vật quyền lực của các cường quốc, kể cả các quốc gia phía bên kia
chiến tuyến. Vô số ví dụ về những yêu cầu đầy tính thuyết phục của Người.
Những năm 1945-1946, Người đã nhiều lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ, với lời

28
lẽ ngoại giao, hoan nghênh tuyên bố của Tổng thống Mỹ, nhất là những điểm
liên quan trực tiếp tới quyền độc lập của các dân tộc “nhược tiểu”, đồng thời yêu
cầu nước Mỹ thực hiện tuyên bố đó.
Tháng 10-1945, chính quyền của Tổng thống Truman ra tuyên bố chính
sách đối ngoại 12 điểm của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó nêu rõ
Mỹ sẽ “không phản đối và cũng không giúp Pháp tái lập sự kiểm soát ở Đông
Dương”. Nhận thức rõ vai trò to lớn của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương lúc bấy giờ, Người coi đây là cơ hội để tiếp cận với Mỹ nhằm khai thác
những điểm tích cực trong tuyên bố đó. Ngày 12/10/1945, với tư cách người
đứng đầu Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Người đã gửi
cho Tổng thống Mỹ Truman bức thư bày tỏ sự hoan nghênh đối với chính sách
đối ngoại của Mỹ nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ và các nước cho nền độc lập
của dân tộc Việt Nam. Bức thư đến Văn phòng Tổng thống Mỹ ngày
02/11/1945. Cùng ngày, tại Hà Nội, trong cuộc gặp gỡ các nhà báo nước ngoài,
trả lời những câu hỏi về quan điểm của Chính phủ Việt Nam đối với chính sách
đối ngoại của Mỹ, Người nêu rõ, nhân dân Việt Nam hoan nghênh, ủng hộ tuyên
bố 12 điểm của Tổng thống Truman và tin tưởng rằng nước Mỹ sẽ sớm thực
hiện chúng.
Cũng trong thời gian này, Người đã có công hàm gửi Chính phủ các nước:
Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô và Vương quốc Anh, đề nghị ngăn chặn việc quân
đội Pháp xâm lược miền Nam Việt Nam, đưa vấn đề Đông Dương ra Liên hợp
quốc, trao trả độc lập cho các nước Đông Dương.
Tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế với Việt Nam, Hồ Chí Minh đồng thời
nhấn mạnh trách nhiệm của Việt Nam với phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Khi có sự mất đoàn kết giữa các dân tộc phải cùng nhau khôi phục,
củng cố, phát triển tình đoàn kết có lý, có tình trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin
về tinh thần quốc tế vô sản. Nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đấu vì độc lập
tự do cho dân tộc mình mà còn vì độc lập tự do của các nước khác.

29
Thực tiễn cách mạng nước ta hơn 75 năm qua, đã khẳng định: chính sự nỗ
lực, cố gắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã tạo nên nguồn sức mạnh
nội lực to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
1.6. Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc và
các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ trên thế giới
1.6.1. Nội dung xây dựng tình hữu nghị hợp tác và đoàn kết giữa các quốc
gia dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xây dựng tình hữu nghị hợp tác, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc và các
lực lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới, là điều kiện quan trọng để
tranh thủ, khai thác sức mạnh từ bên ngoài vào củng cố giữ vững nền độc lập
cho dân tộc, xây dựng đất nước vững mạnh.
Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề đó Hồ Chí Minh đã nghĩ
ngay tới việc mở rộng xây dựng tình hữu nghị, quan hệ hợp tác với các lực
lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ trên thế giới. Tư tưởng này được thể hiện rõ
trong chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước ta: “Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt
Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn
sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng,
chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam để cùng nhau bảo
vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”. Chính sách ngoại giao của Chính phủ
thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để
giữ gìn hoà bình. Nước Việt Nam độc lập có quyền bình đẳng với mọi quốc gia,
dân tộc khác trên thế giới. Các nước khác trên thế giới cũng phải tôn trọng quyền
độc lập của Việt Nam, xây dựng tình hữu nghị đoàn kết với Việt Nam.
1.6.2. Các chính sách đối ngoại nâng cao tình hữu nghị đoàn kết hợp tác
cùng phát triển.
Hội nhập và hợp tác với thế giới, “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và
không gây thù oán với một ai”. không chỉ là khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí

30
Minh và mong muốn của dân tộc Việt Nam, mà đó còn là chính sách đối ngoại
của Việt Nam với những nguyên tắc cơ bản:
1. Nước Việt Nam giành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài, trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
2. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
3. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự
lãnh đạo của Liên hợp quốc.
4. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân
trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những
hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân.
Mục tiêu đường lối đối ngoại của Việt Nam là giữ được môi trường hòa
bình, ổn định cho phát triển đất nước, tranh thủ được tốt nhất điều kiện thuận lợi
cho quá trình đổi mới cũng như quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là
mục tiêu nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH


DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG BỐI CẢNH CHỐNG
DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM
2.1. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với thế
giới và Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
2.1.1. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với
Thế giới
a. Bối cảnh tình hình:
Đại dịch COVID-19 là một đại dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân là
virus SARS-CoV-2 và các biến thể của nó đang diễn biến phức tạp trên toàn
cầu. Khởi nguồn là vào cuối tháng 12 năm 2019 với ca mắc đầu tiên tại Vũ Hán
Trung Quốc và có ca tử vong đầu tiên vào ngày 9 tháng 1 năm 2020. Dịch bệnh
bắt đầu lây lan sang các nước trên thế giới từ giữa tháng 1 năm 2020. Đến ngày

31
11 tháng 3 năm 2020, COVID-19 được Tổ chức y tế thế giới (WHO) gọi là “Đại
dịch toàn cầu” khi số ca nhiễm trên thế giới vượt mốc 126.000 và đã lan ra 123
quốc gia và vùng lãnh thổ. Chính phủ các quốc gia trên thế giới đã tiến hành bảo
vệ sức khỏe người dân bằng cách: hạn chế đi lại, phong tỏa, kiểm dịch, ban bố
tình trạng khẩn cấp, tạm dừng các hoạt động và sự kiện đông người đồng thời
chuyển đổi mô hình hoạt động từ trực tiếp sang trực tuyến.
Sau khi dịch bệnh lây lan sang các quốc gia, WHO đã đưa ra những biện
pháp phòng ngừa kịp thời, khuyến cáo: “Rửa tay thường xuyên, che miệng và
mũi khi ho và hắt hơi và giữ khoảng cách ít nhất là 2 mét với bất kỳ ai có triệu
chứng bệnh hô hấp như ho và hắt hơi, tránh đưa tay chạm mắt, mũi, miệng khi
tay chưa rửa sạch. Nếu bản thân có biểu hiện sốt, ho hay khó thở, nên ở nhà và
tìm kiếm trợ giúp y tế ngay lập tức bằng cách gọi trước cho bác sĩ hay trung tâm
y tế, tuân thủ chỉ dẫn của chính quyền địa phương. Luôn cập nhật thông tin về
dịch bệnh và tuân theo các hướng dẫn của nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe".
Mặc dù không có phương pháp điều trị cụ thể đối với COVID-19 những CDC
Hoa Kỳ khuyên rằng người nhiễm bệnh có thể làm giảm các triệu chứng bằng
việc uống thuốc giảm đau, hạ sốt, uống nước, nghỉ ngơi. Dịch tễ là một phương
pháp quan trọng để cơ quan y tế có thể xác định nguồn lây và ngăn ngừa truyền
nhiễm. Cách ly tại nhà đối với người nhiễm bệnh và người nghi ngờ nhiễm bệnh
cũng được áp dụng nhằm hạn chế khả năng tiếp xúc và lây lan dịch bệnh. Ngày
15 tháng 1 năm 2020, WHO đã công bố phương thức xét nghiệm người mắc
virus do nhóm nghiên cứu virus bệnh viên Charité ở Đức phát triển. Đầu tháng 3
năm 2020, vắc-xin COVID-19 được biết đến và sử dụng rộng rãi trên các quốc
gia và vùng lãnh thổ với hiệu quả lên đến 95% trong việc ngăn ngừa nhiễm
COVID-19. Tính đến ngày 14 tháng 7 năm 2021, đã có hơn 3 tỷ liều được tiêm
cho toàn công dân trên thế giới dựa trên báo cáo từ các trung tâm y tế quốc gia.
Đến đầu năm 2022, mặc dù đại dịch vẫn còn đó nhưng các nước trên thế giới đã
lần lượt vượt qua và sống chung với dịch, từng bước khôi phục cuộc sống bình
thường hóa như trước đây.

32
b. Hậu quả:
- Đối với kinh tế: Các chuyên gia nhận định dịch Covid-19 đang tạo ra 02
thách thức lớn:
Một là sự bất trắc gây ra bởi Covid-19, nhất là trong bối cảnh thế giới vẫn
chưa thể đánh giá chính xác được mức độ nguy hiểm, thời điểm kiểm soát được
dịch.
Hai là tác động tiêu cực từ các biện pháp ngăn chặn đại dịch. Hai yếu tố
này tác động rất lớn đến kinh tế toàn cầu, từ tình trạng gián đoạn chuỗi cung
ứng, quan hệ cung - cầu, đến việc giảm nhu cầu, thay đổi thói quen chi tiêu, đi
lại của người tiêu dùng, dẫn đến sản xuất đình trệ, thất nghiệp gia tăng, kéo theo
nguy cơ vỡ nợ, phá sản của doanh nghiệp và tâm lý lo ngại rủi ro, thậm chí
hoảng sợ của các nhà đầu tư tài chính.
Việc các nước lần lượt phong tỏa, hạn chế đi lại cũng làm giảm khả năng
hợp tác, phối hợp quốc tế trong ứng phó với đại dịch. Trong bối cảnh kinh tế
toàn cầu tăng trưởng chậm lại, dịch bệnh xuất hiện đầu năm 2020 tạo nên một sự
cộng hưởng các yếu tố dẫn đến những biến động sâu rộng trên thị trường hàng
hóa và tài chính toàn cầu. Chỉ số chứng khoán của các nền kinh tế lớn Mỹ, EU,
châu Á liên tục sụt giảm; giá dầu thế giới giảm 26% xuống mức thấp nhất trong
18 năm qua; nhiều ngành kinh tế chủ chốt, trong đó có hàng không chịu thiệt hại
nặng ; hoạt động sản xuất và dịch vụ tại nhiều nước bị “tê liệt”, có thể làm 25
triệu người mất việc làm. Kinh tế thế giới được dự báo sớm rơi vào suy thoái.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn
cầu năm 2020 chỉ ở mức 2,4%, giảm 0,5% so với dự báo trước đó. Theo
Bloomberg, trong kịch bản xấu nhất, GDP toàn cầu có thể giảm về 0% năm
2020. Ước tính, cần tới 26.000 tỷ USD, tương đương 30% GDP toàn cầu, để
khôi phục kinh tế thế giới. Mỹ, EU, Nhật Bản và các định chế tài chính quốc tế
đã công bố các gói hỗ trợ tài chính giúp các nước ứng phó dịch bệnh và khôi
phục kinh tế. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định kinh tế toàn cầu đang trong
tình trạng suy thoái do tác động nghiêm trọng của dịch bệnh. Thị trường tài

33
chính thế giới biến động mạnh, bất chấp những biện pháp kích cầu khẩn cấp quy
mô lớn của các ngân hàng châu Âu, châu Mỹ, châu Á và Australia; triển vọng
tăng trưởng kinh tế thế giới liên tục được điều chỉnh giảm trong 2 tháng qua, từ
3,1% xuống 1,6%; hầu hết các nền kinh tế lớn bước vào giai đoạn suy thoái. Tuy
nhiên đây cũng là cơ hội để các nước trong khu vực chuyển đổi đầu tư, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh để thích ứng với tình hình mới. Xu hướng dịch
chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc sẽ tiếp diễn khi các nước và tập đoàn quốc tế
thấy rõ các tác động, rủi ro của việc phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
- Đối với xã hội: Dịch COVID-19 đã, đang và sẽ tiếp tục gây ra hàng loạt
vụ phá sản ở mỗi quốc gia, cũng như trên toàn cầu; kéo theo đó là việc giảm
tổng cầu xã hội và gia tăng nạn thất nghiệp, gây áp lực mạnh đến công tác bảo
đảm an sinh, thu nhập, việc làm theo cả quy mô quốc gia và quốc tế. Cuộc
khủng hoảng kinh tế và lao động do dịch COVID-19 gây ra có thể làm tăng
thêm 25 triệu người thất nghiệp trên toàn cầu, so với số lượng người thất nghiệp
sẵn có là 188 triệu trong năm 2019. Hàng triệu người lao động sẽ phải rơi vào
tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, giảm giờ làm và tiền lương, và rớt xuống
dưới chuẩn nghèo. Nhóm lao động tự làm ở các nước đang phát triển, vốn
thường là tấm đệm giúp làm nhẹ bớt độ xung của những tác động do những thay
đổi đột ngột mang lại, thì lần này sẽ không còn tác dụng vì những hạn chế di
chuyển đối với con người và hàng hóa. Giảm số lượng việc làm đồng nghĩa với
việc mất đi nguồn thu nhập lớn cho người lao động, ước tính con số này tương
đương từ 860 tỷ USD đến 3,4 nghìn tỷ USD trong năm 2020. ILO ước tính, sẽ
có thêm từ 8,8 đến 35 triệu người lao động rơi vào đói nghèo trên khắp thế giới,
so mức ước tính trước đây cho năm 2020 (là giảm 14 triệu người. Theo Công ty
nghiên cứu Gavekal Dragonomics tỷ lệ thất nghiệp do dịch Covid-19 tại Trung
Quốc đã tăng từ 5,2% lên 6,2%, tương đương 5 triệu người bị mất việc làm.
Tình hình ở Mỹ xấu đi nhanh đến mức các nhà kinh tế của Morgan Stanley đã
thay đổi dự báo tăng trưởng kinh tế trong quý II/2020 từ - 4% xuống còn -
30,1%; tỷ lệ thất nghiệp sẽ lên đến 12,8%, mức tiêu thụ giảm 31%. Số người

34
nộp đơn xin hỗ trợ thất nghiệp ở Mỹ đang tăng lên mức kỷ lục, khoảng 3 triệu
người. Bank of America cho biết tình trạng công nhân nghỉ việc đang lan trọng
khi các nhà máy đóng cửa hoặc dừng sản xuất. Trong khi đó, các bệnh viện cũng
đang phải đối mặt với tình trạng thiếu thiết bị và nhân viên trong bối cảnh khủng
hoảng. Hàng triệu người Mỹ đang được yêu cầu tự cô lập khi các trường hợp
nhiễm COVID-19 ở nước 11 này vượt qua 19.000 người, với hơn 260 người
thiệt mạng.45 tiểu bang đã đóng cửa các trường học, quán bar và nhà hàng.
- Thiệt hại về người: Tính đến tháng 9 năm 2021, Hoa Kỳ là nước có số ca
mắc COVID-19 và tử vong cao nhất thế giới với gần 40 triệu ca mắc và 647.579
ca tử vong do COVID-19. Bên cạnh Hoa Kỳ còn có Ấn Độ, Brasil cũng là các
quốc gia chịu thiệt hại về người lớn với số ca tử vong lần lượt là 440.225 và
582.670. Đối với Yemen- một nước dễ bị tổn thương bởi nội chiến và dịch tả
đang hoành hành cùng với tình trạng y tế yếu kém của nước này đã dẫn đến tỉ lệ
tử vong cao kỷ lục lên đến 18,9%. Ngược lại tại Singapore, nhờ có biện pháp
ứng phó kịp thời nên đất nước này đã vượt qua đại dịch một cách nhanh chóng
trong 6 tháng kể từ khi ghi nhận ca mắc đầu tiên với tỉ lệ tử vong chỉ 0,1% (cùng
với đó là Lào, Bhutan và Dominica cũng có tỉ lệ tử vong rất thấp).
2.1.2. Bối cảnh tình hình, diễn biến, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với
Việt Nam
a. Bối cảnh tình hình:
- Việt Nam ghi nhận ca mắc đầu tiên vào ngày 23 tháng 1 năm 2020 là 2
cha con người Trung Quốc đã nhập viên và điều trị tại bệnh viên Chợ Rẫy
Thành phố Hồ Chí Minh. Đến đầu tháng 2, xuất hiện ca truyền nhiễm trong
nước đầu tiên và thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã công bố dịch tại Việt Nam
cùng với đó là quyết định thắt chặt biên giới, thu hồi giấy phép hàng không và
miễn thị thực. Tháng 3 năm 2020, Việt Nam thực hiện giãn cách xã hội trong 15
ngày đồng thới Thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng công bố dịch
COVID-19 trên cả nước. Bước sang năm 2021, vào tháng 1, Hải Dương là địa
điểm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất với số ca nhiễm cao kỷ lục lúc bấy giờ. Để

35
ứng phó với dịch bệnh, Bộ Y tế đã đồng ý nhập khẩu hơn 200 ngàn liều vắc-xin
đầu tiên và bắt đầu tiêm từ ngày 8 tháng 3 năm 2021. Tuy nhiên, đến cuối tháng
tư đầu tháng 5 năm 2021, điều không may đã xảy ra khi Việt Nam xuất hiện
nhiều ổ dịch lớn tại miền Bắc và lan đến miền Trung, miền Nam. Mặc dù đã có
những phản ứng kịp thời với việc ứng phó đại dịch bằng việc áp dụng chỉ thị 16
trong 3 tháng nhưng đến tháng 10 Thành phố Hồ Chí Minh đã “thất thủ” với hơn
hàng trăm ngàn ca mắc và hơn 20 ngàn ca tử vong. Dù vậy đến đầu tháng 10,
thành phố chọn cách sống chung với dịch bằng việc mở cửa trở lại các hoạt
động giáo dục, tôn giáo, quán bar, … Cùng với đó là Nghị quyết 128/NQ-CP
của Chính phủ nhằm “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch
COVID-19”. Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch bệnh đến năm 2022 thì xuất hiện
biến thể Omicron làm số ca nhiễm tăng nhanh. Tính đến ngày 4 tháng 8, Việt
Nam đã ghi nhận hơn 11 triệu ca mắc COVID-19.
b. Hậu quả:
- Đối với kinh tế: Ngành chế tạo của Việt Nam đang chịu áp lực nặng nề
nhất bởi gặp khó khăn trong nguyên liệu đầu vào gây gián đoạn chuỗi cung ứng.
Nguyên nhân là do Trung Quốc, nguồn cung quan trọng trong khâu đầu vào và
thị trường tiêu thụ chính của Việt Nam, tạm thời đóng cửa biên giới, hạn chế
xuất nhập cảnh và giao thương với các nước khác. Kéo theo đó chính là các
doanh nghiệp do Trung Quốc làm chủ thầu và đầu tư gặp khó khăn và buộc phải
phá sản. Trong đó, ngành ô tô với ô tô nguyên chiếc được nhập về với số lượng
rất ít, giảm hơn 60% so với cùng kì năm 2019. Xăng dầu nhập khẩu cũng giảm
20% so với cùng kì 2019 và máy móc, thiết bị, phụ tùng cũng giảm theo. Du lịch
được xem là thế mạnh của nước ta cũng chính là ngành chịu tác động nặng nề
nhất từ COVID-19. Do do lo ngại sự lây lan của dịch COVID-19, theo ước tính
của các cơ quan chức năng, số lượng khách từ các quốc gia khác nhập cảnh vào
Việt Nam cũng sẽ giảm mạnh, khoảng 50% - 60% trong giai đoạn có dịch, ước
tính thiệt hại lên đến hơn 7 tỉ USD. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
du lịch cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ, trong đó phải kể đến ngành Hàng

36
không. Từ khi dịch bệnh bắt đầu bùng phát, các hãng hàng không Việt Nam đã
cát giảm gần như tất cả các chuyến bay quốc tế. Cục hàng không cho biết, các
hãng hàng không Việt Nam đã lỗ hơn 30 ngàn tỉ đồng chỉ trong năm 2020. Dịch
bênh làm con đường thông thương giữa Việt Nam và Trung quốc phải đóng cửa,
thương mại giữa 2 nước bị đình trệ dẫn đến hàng nông sản không thể xuất khẩu
sang Trung quốc khiễn nông sản tồn đọng hàng chục nghìn tấn.
-Đối với xã hội: Khi nền kinh tế bị đình trệ, các doanh nghiệp đặc biệt là
doanh nghiệp tư nhân phải tạm dừng hoạt động hoặc tuyên bố phá sản tăng từ
22% đến 37,8%. Kéo theo đó là tình trạng thất nghiệp gia tăng nhanh chóng khi
bị cắt giảm giờ làm, giảm biên chế hoặc nghỉ không lương từ 2 đến 3 tháng.
Trước những khó khăn đó Ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư 01/2020
về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi cho những doanh nghiệp đang
chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch COVID-19.
- Giáo dục và đào tạo: Đứng trước đại dịch COVID-19, hệ thống giáo dục
trên khắp thế giới buộc phải ngừng hoạt động kể cả Việt Nam. Để tránh tập
trung đông người tạo điều kiện cho vius lây lan, lãnh đạo bộ đã lùi thời gian kết
thúc năm học, kì thi THPT quốc gia cũng tạm hoãn, chuyển hình thức học tập từ
trực tiếp sang trực tiếp nhằm đối phó với đại dịch đang tràn lan. Bên cạnh đó, để
chia sẻ bớt gánh nặng cho phụ huynh cũng như tâm lý học sinh, một số cơ sở
đào tạo có chính sách giảm học phí góp phần giải quyết các vẫn đề xã hội.
2.2. Sự kết hợp sức mạnh mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công
tác chống dịch ở Việt Nam
Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã từng bước tiến vào nhiều
cuộc chiến với quy mô, tính chất khác nhau. Cuối năm 2019, một cuộc chiến nổ
ra, không có súng đạn nhưng lại rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng con
người trên phạm vi toàn cầu. Đó là cuộc chiến chống Covid-19. Vận dụng Tư
tưởng Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
Đảng ta đã bước đầu thành công trong công cuộc phòng, chống dịch với phương
châm “Chống dịch như chống giặc” (Nguyễn Xuân Phúc, 27/01/2020).

37
2.2.1. Sức mạnh dân tộc
a. Chủ trương của Đảng và nhà nước:
Khi tình hình diễn biến phức tạp và lan rộng tại nhiều quốc gia khác trên
thế giới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ra Lời kêu gọi đồng
bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng,
thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương
của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ để bảo đảm chiến thắng đại dịch Covid-19. Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt và đúng đắn ngay từ rất sớm, mang lại hiệu
quả trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống
dịch COVID-19 được thành lập đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, huy động sự
vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, sự tham gia của toàn dân.
Trong đợt dịch thứ 2 vào năm 2021, cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của
Đảng, nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, sự hưởng ứng, đồng
tình, trách nhiệm của toàn thể nhân dân với phương châm “Mình vì mọi người,
mọi người vì mình”. Chính phủ ta không lựa chọn giải pháp dễ làm mà có thể
ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân và phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta
chỉ thực hiện phong tỏa những vùng bị dịch, giãn cách ở những vùng có nguy cơ
cao và vẫn đảm bảo duy trì cuộc sống bình thường bằng phương pháp khoanh
vùng, cách ly, truy vết, dập dịch. Trong đợt dịch mới này, Việt Nam đã được ghi
nhận là điểm sáng trên thế giới về thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống
dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội.
Để sớm đưa cuộc sống trở lại bình thường, Đảng và Nhà nước thực hiện
mục tiêu sớm tiêm vaccine miễn phí cho toàn dân nhằm đạt được sự miễn nhiễm
cộng đồng và việc này cần duy trì hàng năm. Tiêm vaccine là giải pháp căn cơ,
lâu dài, mang tính quyết định và có tính chiến lược để thoát khỏi đại dịch
COVID-19. Cũng trong năm 2021, đến nay, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng
Chính phủ cấp bổ sung cho Bộ Y tế 17.213,683 tỷ đồng để thực hiện công tác
phòng, chống dịch. Trong đó, kinh phí mua và sử dụng vaccine là 11.540,3 tỷ

38
đồng (trong đó từ nguồn Quỹ Vaccine là 5.202,8 tỷ đồng). Quỹ Vaccine phòng
COVID-19 đã huy động đến ngày 27/9/2021 được 8,69 nghìn tỷ đồng từ các tổ
chức và cá nhân.10
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành bốn Quyết định xuất cấp tổng cộng hơn
136.000 tấn gạo hỗ trợ cho hơn 2,4 triệu hộ dân với hơn 9 triệu người ở 30 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương bị thiếu hụt lương thực do ảnh hưởng của đại
dịch. Đa số mọi địa phương đã nhận đủ số lượng gạo hỗ trợ cho người dân. Một
trong những chỉ đạo quan trọng nhất của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong
công tác phòng chống dịch thời gian qua là “không để ai thiếu ăn, thiếu mặc”,
giúp người dân yên tâm, tin tưởng “ai ở đâu ở yên đấy”, thực hiện nghiêm ngặt
các biện pháp giãn cách xã hội.11
b. Sự đoàn kết của nhân dân
Các nước, tổ chức quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp, nhiều tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, kiều bào đã có đóng góp lớn bằng tiền và hiện vật (máy
thở, trang thiết bị, sinh phẩm, thuốc, gói an sinh xã hội…) với tổng giá trị ước
tính hàng chục nghìn tỷ đồng cho công tác phòng chống dịch. Trong đó, có
1.772 máy thở chức năng cao, 3.700 máy thở sản xuất trong nước, hơn 30 triệu
sinh phẩm kháng nguyên nhanh, gần 200 triệu bơm kim tiêm, 15 triệu viên
thuốc, 146 ô tô xét nghiệm, tiêm chủng lưu động… 12 Đã xuất hiện nhiều mô
hình các tổ, nhóm, tổ chức thiện nguyện, tổ chức, cá nhân tham gia hỗ trợ lương
thực, thực phẩm cho người dân tại các địa phương thực hiện giãn cách và tăng
cường giãn cách xã hội, xuất hiện nhiều tấm gương tương thân, tương ái thể hiện
truyền thống nhân văn tốt đẹp của dân tộc ta.
Trong bối cảnh nhiều địa phương đang căng mình chống dịch, tối ngày
05/6/2021, tại thủ đô Hà Nội, một sự kiện quan trọng đã diễn ra. Đó là lễ ra mắt
Quỹ vaccine phòng COVID-19 với sự tham dự của Thủ tướng Phạm Minh
Chính. Tại buổi lễ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã xúc động phát biểu: “Đây là

10
Bộ y tế cổng thông tinh điện tử (08/10/2021): Đại đoàn kết để chiến thắng đại dịch.
11
Bộ y tế cổng thông tinh điện tử (08/10/2021): Đại đoàn kết để chiến thắng đại dịch.
12
Bộ y tế cổng thông tinh điện tử (2021): Đại đoàn kết để chiến thắng đại dịch.

39
quỹ của sự nhân ái, của tinh thần đoàn kết, của niềm tin, của trái tim kết nối trái
tim để chúng ta cùng nhau vượt qua khó khăn, góp phần tạo nên một Việt Nam
chiến thắng, để một lần nữa chúng ta lại ghi danh, viết nên lịch sử chiến thắng
vẻ vang của dân tộc - chiến thắng đại dịch COVID-19”. Sau lời kêu gọi của
người đứng đầu Chính phủ, chúng ta đã chứng kiến đông đảo nhân dân từ thành
thị tới nông thôn, đồng bằng đến miền núi, từ doanh nhân đến những người buôn
bán nhỏ, cựu chiến binh, người già về hưu, các em nhỏ, học sinh, sinh viên đến
cộng đồng người Việt ở nước ngoài đều nhiệt tình hưởng ứng và ủng hộ, đóng
góp vào Quỹ. Tính đến nay, Quỹ phòng chống covid đã huy động được hơn 110
nghìn tỷ đồng trong toàn dân.
Trong những ngày qua, chúng ta đã thấy sự đồng lòng, quyết tâm của cả
nước trong cuộc chiến đấu chống đại dịch. Với tinh thần “Chống dịch như chống
giặc”, mọi tầng lớp nhân dân đã cùng các lực lượng vũ trang, y tế, thanh niên
xung kích. Ra quân đồng loạt, bất kể ngày đêm để truy vết, ngăn chặn sự lây lan;
các lực lượng chính trị nòng cốt ở mọi ngành, mọi giới đã góp sức, góp tiền để
tiếp tế nhu yếu phẩm cho đồng bào ở khu vực phong tỏa, hỗ trợ trang thiết bị
bảo vệ sự lây nhiễm cho lực lượng đang túc trực ở tâm dịch; những bếp lửa ấm
tình đồng bào được duy trì để tiếp cơm nước cho chiến sĩ, dân, quân ở mặt trận
phòng, chống dịch; cỗ máy ATM gạo lại khởi động để chia sẻ với những hoàn
cảnh khó khăn. Tất cả những nghĩa cử cao đẹp ấy được kết tinh từ truyền thống
“máu chảy ruột mềm”, “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta thể
hiện trong những giai đoạn khó khăn. Càng trong khó khăn, truyền thống đoàn
kết, tương thân, tương ái càng được thắp sáng và lan tỏa.
Tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái là truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam được gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác và được phát huy cao độ
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Truyền thống ấy càng tỏa sáng khi đất
nước gặp khó khăn, thiên tai, bão lũ, dịch bệnh... Và một lần nữa, trong cuộc
chiến chống dịch COVID-19 này, sự đồng lòng của nhân dân chắc chắn sẽ là

40
chìa khóa mở cánh cửa lớn để chúng ta thoát ra khỏi đại dịch và trở về cuộc
sống bình yên.

2.2.2. Sức mạnh thời đại:


Với phương châm “chống dịch như chống giặc”, cùng vào cuộc với cả hệ
thống chính trị, ngành ngoại giao Việt Nam đã thể hiện vai trò quan trọng, phát
huy tính chủ động trong việc nắm bắt, xử lý, kết nối, chia sẻ thông tin, cũng như
tích cực tiến hành các hoạt động ngoại giao và thúc đẩy hợp tác quốc tế trong
phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Bên cạnh những hoạt động ngoại giao
trong các lĩnh vực truyền thống, ngoại giao y tế là một trong những nội dung
mới của ngành ngoại giao Việt Nam. Việc phối hợp diễn ra ở nhiều cấp độ, từ
chính sách đến lĩnh vực chuyên ngành, như hợp tác trong sản xuất và tiếp cận
vaccine phòng ngừa dịch bệnh COVID-19. Ngoại giao y tế của Việt Nam trong
thời gian qua đã giúp đất nước tăng cường “sức mạnh mềm” và thể hiện truyền
thống “ngoại giao công tâm” của Việt Nam trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc
đang trỗi dậy mạnh mẽ. Mặt khác, trong bối cảnh cuộc chiến phòng, chống đại
dịch COVID-19 hiện nay, cùng với quá trình chính trị hóa và ngoại giao hóa về
vấn đề hợp tác y tế gia tăng, việc cung cấp, hỗ trợ vật tư y tế thiết yếu và phân
phối vaccine có thể trở thành “con bài chiến lược” của một số nước. Yêu cầu đặt
ra đối với các hoạt động ngoại giao là cần có cách tiếp cận khéo léo, linh hoạt,
phù hợp với vị thế đất nước trên nền tảng của nguyên tắc cơ bản về lợi ích quốc
gia - dân tộc.
Một là, chủ động nắm bắt các thông tin về tình hình dịch bệnh COVID-19
trên toàn thế giới; đẩy mạnh hoạt động ngoại giao khoa học trong việc tìm hiểu,
tập hợp thông tin khoa học về vấn đề dịch bệnh; tổng hợp kinh nghiệm của các
quốc gia trên thế giới về phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và cách khắc phục
những hậu quả do dịch bệnh gây ra, cũng như những bài học kinh nghiệm trong
quản lý và phát triển kinh tế - xã hội nhằm giảm thiểu tối đa các tác động tiêu
cực trong giai đoạn dịch bệnh. Phát huy tối đa mạng lưới 94 cơ quan đại diện
ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài để phối hợp và triển khai các nhiệm vụ
41
phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Ngay từ những ngày đầu, Việt Nam đã thể
hiện tinh thần trách nhiệm, cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với dịch bệnh vô
cùng nguy hiểm này thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh
nghiệm và nguồn lực phòng, chống dịch trong khả năng có thể. Điển hình, Việt
Nam đã trao tặng Nhật Bản khẩu trang và các vật tư y tế với tổng trị giá 100.000
USD, cũng như gửi đến Mỹ 200.000 khẩu trang vải kháng khuẩn để phòng,
chống dịch bệnh COVID-19 ; trao tặng 550.000 khẩu trang hỗ trợ phòng, chống
dịch bệnh COVID-19 cho Đức và một số nước châu Âu …13 Việt Nam không
chỉ tận tình cứu chữa cho những bệnh nhân là người nước ngoài đang sinh sống,
học tập và làm việc tại Việt Nam mắc COVID-19, mà còn tiêm vaccine phòng,
ngừa dịch bệnh COVID-19 miễn phí cho họ. Việt Nam cũng chính thức cùng
với 189 quốc gia tham gia cơ chế COVAX được bảo đảm quyền tiếp cận công
bằng trên toàn cầu đối với vaccine phòng ngừa dịch bệnh COVID-19, đồng
thời đóng góp 500.000 USD vào quỹ COVAX.

Hai là, với phương châm bảo vệ mọi người dân Việt Nam trước đại dịch
COVID-19, Bộ Ngoại giao đã chỉ đạo các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt
Nam, nhất là các đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài, nâng cao trách nhiệm
bảo hộ công dân; tích cực trao đổi, kết nối thông tin để nắm bắt tình hình, các
chính sách của nước sở tại; cập nhật số lượng công dân Việt Nam ở nước ngoài
cần trợ giúp; tạo điều kiện sinh hoạt, chăm sóc y tế… tốt nhất cho công dân Việt
Nam đang sinh sống, học tập và làm việc tại nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi
cho mọi công dân Việt Nam có nhu cầu trở về nước.

Ba là, đẩy mạnh xúc tiến chiến lược vaccine. Trong bối cảnh dịch bệnh
COVID-19 diễn biến hết sức phức tạp, giải pháp tiêm vaccine phòng, ngừa virus
SARS-CoV-2 được thế giới coi là “chìa khóa” để thoát khỏi đại dịch. Theo đó,
Chính phủ Việt Nam tích cực đẩy mạnh triển khai chiến lược vaccine với ba nội
dung lớn, bao gồm:
13
Cục y tế dự phòng (2022): Thông điệp của trái tim.

42
 Tiếp cận, mua vaccine phòng ngừa dịch bệnh COVID-19 nhiều nhất,
nhanh nhất có thể.
 Đẩy nhanh tiếp cận, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu và sản xuất
vaccine phòng ngừa virus SARS-CoV-2 tại Việt Nam.
 Thực hiện chiến dịch tiêm chủng nhanh chóng, kịp thời, an toàn, hiệu
quả.
Tính từ tháng 3-2021 đến ngày 23-4-2022, Việt Nam đã tiếp nhận hơn 239
triệu liều vaccine phòng dịch bệnh COVID-19 từ nhiều nguồn khác nhau, trong
đó, có khoảng 50% là từ sự tài trợ qua cơ chế COVAX và trên 30 nước cung cấp
qua kênh song phương… Mặc dù thế giới đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt
vaccine phòng dịch bệnh COVID-19 trên toàn cầu, Việt Nam vẫn nhận được sự
hỗ trợ nhiệt thành từ các đối tác, các nước láng giềng và bạn bè quốc tế với tổng
số lượng cam kết là khoảng 160 triệu liều. Đây là một trong những kết quả nổi
bật của hoạt động “ngoại giao vaccine” thời gian qua, góp phần thiết thực vào
nỗ lực phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trong nước.

Bốn là, tăng cường công tác vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài đóng góp vào công cuộc phòng, chống dịch bệnh COVID-19 ở trong
nước. Ngành ngoại giao nói chung, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở
nước ngoài nói riêng đã nỗ lực vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài tham gia đóng góp, ủng hộ công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 ở
trong nước bằng những hành động cụ thể, thiết thực, phù hợp. Công tác vận
động, kết nối người Việt Nam ở nước ngoài ủng hộ nguồn lực phòng, chống
dịch không chỉ giúp huy động thêm nguồn lực vật chất cho công tác phòng,
chống dịch trong nước mà còn góp phần thắt chặt “tình dân tộc, nghĩa đồng
bào”, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong và ngoài nước.

Những kết quả đạt được trong phòng chống dịch thời gian qua là rất đáng
trân trọng, góp phần tạo động lực, niềm tin, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất
của mọi tầng lớp trong xã hội, tạo điều kiện cho phục hồi và phát triển kinh tế -

43
xã hội trong thời gian tới. Nhưng những đóng góp thiết thực, hiệu quả của đồng
bào, chiến sĩ, kiều bào ta ở nước ngoài, của cộng đồng doanh nghiệp, của các
nhà đầu tư nước ngoài, bạn bè quốc tế... đã làm lên sức mạnh Việt Nam, giúp
chúng ta kiểm soát và chiến thắng đại dịch, càng làm tăng thêm sức mạnh của
khối đại đoàn kết dân tộc đã được nhân lên nhiều trong lúc gian khó. Đó là tinh
thần Việt Nam, sức mạnh Việt Nam.

2.3. Thành tựu của Việt Nam trong công tác phòng chống đại dịch COVID-
19
Đại dịch COVID-19 đi qua để lại nhiều hậu quả cũng như tổn thất nặng nề
mà ta phải gánh chịu. Thế nhưng nhờ có những ứng phó kịp thời của Đảng, Nhà
nước trong công tác phòng chống dịch cũng như Chính phủ kịp thời chỉ đạo
quyết liệt các bộ ngành địa phương thực hiện việc đồng bộ hóa, hiệu quả các
biện pháp vừa phòng chống dịch vừa từng bước khôi phục kinh tế. Cùng vơis đó
là sự đồng lòng, nhất trí của tầng lớp nhân dân, nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.
Mức tăng trưởng kinh tế trong quý I năm 2020 của Hải Phòng dẫn đầu cả
nước với mức tăng trưởng là 14,9%, còn lại các Thành phố trược thuộc Trung
ương như: Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ tăng nhẹ từ 0,42% đến 4,07%. Riêng
Đà Nẵng có mức tăng trưởng âm - thấp kỉ lục so với những năm qua. Theo IMF
dự đoán, năm 2020 Việt Nam có mức tăng trưởng kinh tế tăng 2,7% trong khi
Đông Nam á giảm 0,7% và Thế giới giảm 3%, đây được xem là điểm sáng của
Việt Nam. Nhìn chung năm 2020, GDP Việt Nam tăng 2,91%, thuộc hàng
cao nhất Thế giới nhưng vẫn thấp nhất trong vòng 30 năm. Trong năm 2021,
GDP tăng 2,58% so với năm 2020, đầy là dấu hiệu khởi sắc cho thấy nên kinh tế
đang từ từ “sống lại” với Công nghiệp và xây dựng đóng góp nhiều nhất
(63,8%) cùng vơis đó là Nông nghiệp và dịch vụ lần lượt là 13,97% và 22,23%.
Mặc dù đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, cả nước thực hiện giãn
cách xã hội làm ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng, sản xuất, chế biến, tiêu thụ các
sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp nhưng ngành nông nghiệp vẫn đạt mức tăng
44
trưởng cao. Về nông nghiệp tăng 3,18%. Với sản lượng lúa đạt gần 44 triệu tấn
(tăng 1,1 triệu tấn so với năm 2020). Diện tích trồng cây công nghiệp năm 2021
đạt khoảng 2 triệu ha, sản lượng cà phê, cao su, hạt điều tăng từ 2,7% đến 10%
so với năm 2020. Chăn nuổi cũng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh nhưng cũng đạt
kết quả khả quan hơn so với năm 2020. Năm 2021, diện tích rừng trồng mới tập
trung cả nước đạt 277,8 nghìn ha, tăng 2,8% so với năm 2020. Số cây lâm
nghiệp trồng phân tán đạt 99 triệu cây, tăng 3%. Sản lượng gỗ khai thác đạt 18,1
triệu m3, tăng 5,4%, diện tích rừng bị chặt, phá là 852 ha, giảm 6,2%.
Trải qua 4 đợt dịch với các ca mắc hầu hết ở các khu chế xuất, công
nghiệp, nhờ có chính sách kịp thời của chính phủ, áp dụng “3 tại chỗ” nên tình
hình phát triển công nghiệp năm 2021 là rất khả quan. Ngành chế biến, chế tạo
giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt nền kinh tế có IIP tăng 6% trong đó quí I tăng 8%;
quí II tăng tới 11,8%; quí III giảm 5,1%; quí IV tăng 7,8%. Trong ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo có 2 lĩnh vực sản xuất có IPP tăng trên 10% so với năm
2020 là: sản xuất kim loại tăng: 22,1%; sản xuất xe có động cơ tăng 10,2%.
Năm 2021 ghi nhận những thành tựu to lớn của hoạt động xuất, nhập khẩu
trong bối cảnh nền kinh tế nước ta cũng như thế giới vẫn chịu tác động tiêu cực
của dịch Covid-19 và sự đứt gãy thương mại toàn cầu. Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,9% so với năm trước
(tăng tới 124,6 tỷ USD), trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 336,25 tỷ
USD, tăng 19%; nhập khẩu hàng hóa đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5%. Cán cân
thương mại hàng hóa năm 2021 xuất siêu 4 tỷ USD. Trong kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa 332,25 tỷ USD năm 2021, khu vực kinh tế trong nước đạt 114,07 tỷ
USD, tăng 21,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 218,18 tỷ USD, tăng
29,1%.
Bên cạnh kinh tế thì thị trường lao động việc làm cũng phục hồi 1 cách
mạnh mẽ trong năm 2022. Từ quý IV năm 2021 đến nay thì lao động 15 tuổi trở
lên có việc làm tăng đáng kể. Quý II/2022, số lao động có việc làm đạt gần 45
triệu người (tăng 1,9%) so với quý trước. Thị trường lao động có dấu hiệu tăng

45
trưởng bên vững, tình trạng thiếu việc làm được cai thiện, thu nhập bình quân
đầu người tăng là dấu hiệu tích cực cho thấy sự tăng trưởng và phục hồi ổn định
của nền kinh tế sau đại dịch. Điều này cho thấy phương thức ngăn chặn dịch và
chính sách mở của của Chính phủ là hoàn toàn có hiệu quả.
Để thành công vượt qua đại dịch không thể không kể đến những đóng góp
của y tế trong 2 năm qua. Ngành y tế kết hợp với Bộ ngoại giao đã xây dựng
chiến lược vắc-xin, thành lập Quỹ vắc-xin, phát động chiến dịch tiêm chung
miễn phí trên cả nước. Đến nay tỷ lệ bao phủ vắc-xin trên cả nước là rất cao, là 1
trong 6 nước có tỷ lệ bao phủ vắc-xin cao nhất thế giới.
Bước sang năm 2022, chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2021 được Quốc hội
biểu quyết thông qua tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV đặt mục tiêu qui mô
GDP bình quân đầu người ở mức 3900 USD với tốc độ tăng GDP là 6-6,5%.
Với sự chỉ đạo, điều hành đúng đắn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong
việc khôi phục kinh tế, phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của
toàn bộ hệ thống chính trị, sự nỗ lực, cố gắng của người dân và cộng đồng
doanh nghiệp để thực hiện hiệu quả mục tiêu “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa
phát triển kinh tế - xã hội”, chỉ tiêu của Quốc hội đã thông qua là hoàn toàn khả
thi.

III. KẾT LUẬN


Như vậy từ lâu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại đã là “ngọn đèn” soi sáng cho Đảng ta trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc cả trong thời chiến lẫn thời bình. Chính tư tưởng ấy đã là
nguồn động lực giúp giải phóng không chỉ đất nước Việt Nam mà còn giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp trên toàn thế giới. Qua việc thấm nhuần, quán
triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ứng dụng, cố gắng đưa tư tưởng này
vào công cuộc xậy dựng và bảo vệ Tổ quốc đem lại nhiều thành công trên
trường quốc tế. Có thể thấy rõ điều này trong chính cuộc chiến chống dịch
COVID-19 vừa qua. Đảng và Nhà nước đã vận dụng rất có hiệu quả việc kết

46
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để kịp thời đưa nước ta đã vượt qua
đại dịch, từng bước trở về cuộc sống bình thường mới và trở thành một điểm
sáng trong mắt bạn bè quốc tế về khả năng ứng phó với dịch bệnh.
IV. TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1. Bác Hồ (2021). Bác Hồ tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với cách mạng Việt
Nam. Quân đội nhân dân, 1.
2. Bùi Đình Phong (2021). Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng cho hội nhập
của Việt Nam với thế giới. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 1.
3. Bộ y tế công thông tin điện tử (08/10/2021): Đại đoàn kết để chiến thắng đại dịch
.Online: Đại đoàn kết để chiến thắng đại dịch - Tin liên quan - Cổng thông tin Bộ Y
tế (moh.gov.vn) (download: 13/11/2022).
4. Cổng thông tin điện thử BVH, TT&DL (12/12/2020): Phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc theo tư tưởng HCM trong công cuộc chống đại dịch covid-19. Online:
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc
chiến chống đại dịch COVID-19 (bvhttdl.gov.vn) (download: 13/11/2022).
5. Lê Phú Bảo (2014): Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Online: https://sites.google.com/site/hochiminhk19/tu-tuong-ho-chi-
minh/tutuonghochiminhvekethopsucmanhdantocvoisucmanhthoidhai (download:
13/11/2022).
6. Nguyễn Xuân Tâm (2022). Khoa Hồ Chí Minh học. Học viện Chính trị, 1-10.
7. Nguyễn Thị Thu Nga (02/05/2022): Vai trò của hoạt động ngoại giao và hợp tác
quốc tế trong công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam. Online: Vai
trò của hoạt động ngoại giao và hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống dịch
bệnh COVID-19 ở Việt Nam - Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn)
(download:13/11/2022).
8. Phạm Huyền (2022): Tiểu luận sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Đại học Đại
Nam.
9. Wikipedia (2020): Đại dịch COVID-19. Online:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_d%E1%BB
%8Bch_COVID-19 (download: 13/11/2022).

47
10. Wikipedia (2021): Tỷ lệ tử vong đại dịch COVID-19 theo quốc gia. Online:
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B7_l%E1%BB%87_t%E1%BB
%AD_vong_%C4%91%E1%BA%A1i_d%E1%BB%8Bch_COVID-19_theo_qu
%E1%BB%91c_gia (download: 13/11/2022).
11. Wikipedia (2021): Tỷ lệ tử vong đại dịch COVID-19 theo quốc gia. Online:
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B7_l%E1%BB%87_t%E1%BB
%AD_vong_%C4%91%E1%BA%A1i_d%E1%BB%8Bch_COVID-19_theo_qu
%E1%BB%91c_gia (download: 13/11/2022).

48

You might also like