Professional Documents
Culture Documents
NGUYỄN KHUYẾN
NGUYỄN KHUYẾN
NGUYỄN KHUYẾN
● Quê hương
+ Làng Vị Hà, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam - vùng chiêm
trũng tiêu biểu của đồng bằng Bắc bộ
→ Nguyễn Khuyến còn được ca ngợi là nhà thơ của vùng đồng bằng
Bắc bộ Việt Nam
● Dòng dõi
+ Nhà Nho nghèo có truyền thống khoa bảng (Tổ phụ là Nguyễn Mại - tiến
sĩ triều Lê; cha là Nguyễn Tông Khải - 3 lần đỗ tú tài)
→ Vì vậy, từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh và học giỏi
- Vấn đề đặt ra với thế hệ của Nguyễn Khuyến trong buổi giao thoa giữa
hai thời kỳ, đất nước loạn lạc và nền văn hóa dân tộc đã có sự pha trộn
kệch cỡm giữa Tây - Ta là:
+ Dùng văn học để đấu tranh nhằm bảo vệ nền văn hoá truyền thống
+ Chống lại chính sách phản động của kẻ thù
+ Ý thức việc phản ánh văn hoá Việt Nam trong thơ của họ được chú trọng
hơn bao giờ hết
1.2. Cuộc đời
Giai đoạn 1 (1852 - 1883): Đỗ đạt làm Giai đoạn 2 (1884 - 1910): Từ quan,
quan - cuộc đời của một nhà Nho điển trở về sống ẩn dật và gìn giữ khí tiết,
hình lấy chữ “tiết” làm lẽ sống
+ 17 tuổi, đi thi Hương nhưng + Lý do lui về sống ẩn dật: Thần
không đỗ đạt → Sau khi cha mất, tượng quân chủ bị sụp đổ khi vua
gia cảnh nghèo nàn, phải bỏ học Tự Đức có thái độ nghiêng về phe
đi dạy thêm để kiếm sống và chủ hòa. Một mặt, Nguyễn Khuyến
chăm lo cho gia đình nhớ đến ân điển mà vua đã dành
(Lúc bấy giờ có ông Nghè là Vũ Văn cho mình ngày trước nên chọn
Lý, người tỉnh Hà Nam biết Nguyễn cách im lặng, không ủng hộ cũng
Khuyến có tài nhưng không có điều kiện không lên tiếng đả kích. Mặt khác,
theo đuổi con đường học vấn nên đã hỗ việc im lặng cũng là cách để ông
trợ cho Nguyễn Khuyến tiếp tục ăn học) ngầm tỏ thái độ bất mãn với hành
động bán nước, hại dân của triều
+ 1864, tiếp tục thi Hương và đỗ đình lúc bấy giờ → Nguyễn
giải Nguyên (giải cao nhất của kì Khuyến không muốn hợp tác với
thi). Năm 1871, đỗ đầu kỳ thi triều đình
Hội. Năm 1872, đỗ đầu kỳ thi
Đình → Vì đỗ đầu cả 3 kỳ thi, + Năm 1883, Nguyễn Khuyến được
nên được vua Tự Đức ban cho cờ đề cử chức tổng đốc Sơn - Hưng -
biền có ghi hai chữ “Tam Tuyên nhưng một mực từ chối. Vì
nguyên”, người đời còn xưng ra làm quan lúc này không khác
tụng Nguyễn Khuyến là “Tam nào gì làm tay sai cho giặc - điều
nguyên Yên Đổ”- người xã Yên mà bất cứ con người có nhân cách
Đổ đã đỗ đầu 3 kỳ thi và lòng yêu nước sâu sắc nào cũng
không thể chấp nhận được, huống
+ Được bổ nhiệm nhiều chức quan chi Nguyễn Khuyến lại là một bậc
trong triều đình đại Nho
→ Đạt đến đỉnh cao học vấn, thể hiện → Mùa thu năm 1884, ông lấy cớ đau
tài năng xuất chúng ở cả hai phương mắt nặng, xin cáo quan về làng nhưng
diện: tài học hành và tài thơ văn thực chất là muốn làm tay sai cho giặc
Giai đoạn 1: Trước khi về Yên Đổ Giai đoạn 2: Sau khi về Yên Đổ
- Sáng tác không nhiều - Số lượng tác phẩm tăng lên
- Lối viết chưa thoát ly khỏi nhiều lần
những vị quan đương chức - Thể loại sáng tác phong phú
cùng thời. Chủ yếu vẫn là hơn hẳn
giọng điệu tán tụng, ca ngợi,... - Nội dung thơ ca và giọng điệu
thông qua các bài vịnh sử thơ đều thể hiện: sự trưởng
- Thơ chữ Hán và Nôm mang lý thành của một ngòi bút đã trải
tưởng “nhập thế” tích cực, qua nhiều va đập với cuộc đời
mong muốn lập công danh, thi được gói gọn trong “nỗi buồn”:
thố với đời→ Đã có những nét + Nỗi ưu tư về sự cô độc lẩn
trào phúng hài hước nhưng đó khuất, ẩn mình trong những
là tiếng cười đầy tự tin, khích áng thơ, thể hiện nhân cách của
lệ bản thân tiến về phía trước một tác gia đầy trách nhiệm:
dù trong hoàn cảnh nào nào đi trước cảnh tình của đất nước,
nữa trước những cung bậc thăng
+ Có khi ví mình như cánh chim trầm cuộc đời
Bằng cưỡi gió, đạp sóng, vượt + Buồn nhưng không nản, buồn
ba ngàn sông, chín vạn hồ, lướt nhưng để cảnh tỉnh tha nhân và
mây, thỏa sức tung hoành cảnh tỉnh chính mình rằng: phải
ngang dọc như chim ưng, như có trách nhiệm hơn với non
rồng chứ không tầm thường sông, phải cảm được nỗi nhục
như chim Én, chim Sẻ (trong của kẻ sống trong đất nước
bài “Vân ngoại bằng đoàn”) nhưng lại mất nước
+ Có khi tự hào ví mình với hình
ảnh cá chép hoá rồng, mà → Nỗi buồn mang giá trị xã hội đã
những người thuộc hàng như cá tạo nên chất trữ tình sâu lắng và
Trê, cá Chuối không thể sánh nét riêng trong thi phong của “Tam
ngang (trong bài “Cá chép vượt nguyên Yên Đổ”
đăng”)
2.3.1.2. Mang cảm hứng - Thơ Nguyễn Khuyến không còn bị đóng khung
ái quốc trong mô - típ “trung nghĩa”, không còn đắm
chìm trong mặc cảm ưu sầu như các nhà thơ thế
hệ Cần Vương. Vì sinh ra và lớn lên trong cơn
quốc nạn nên hơn ai hết Nguyễn Khuyến đã
chứng kiến cảnh sụp đổ của chế độ phong kiến
sự "thay máu" " của bộ máy chính quyền,
chuyển biến của tư tưởng-văn hóa cho đến chủ
quyền lãnh thổ. Nên nỗi niềm “nước thẳm với
non cao” chính là sợi dây xuyên suốt cả đời thơ
của Nguyễn Khuyến
- Tình quê:
+ Tình cảm sâu đậm đối với người vợ tần tảo -
người sát cánh cùng ông từ thuở “đầu xanh tuổi
trẻ”,nếm trải cùng nhau biết bao cay đắng ngọt
bùi. Đến khi vợ qua đời, ông đã khắc hoạ nỗi
đau mất vợ lên câu đối. Bày tỏ sự thấu hiểu tất
thảy những vất vả “hay lam hay làm,...tất tả
chân đăm đá chân chiêu,...” của bà → Vừa gợi
tả hình ảnh người vợ, vừa gợi tả những đặc
điểm, đức tính chung của dân quê chân chất, lam
lũ, chịu thương chịu khó
+ Đối với bạn bè - Tình cảm chân thành, chất
phác, đạm bạc, “trọng tình bất trọng của” dành
cho bạn bè của thi nhân mà đặc biệt là đối với
Dương Khuê. Mối thâm tình ấy đã in dấu sâu
đậm trên thi đàn và rồi để lại cho đời một kiệt
tác xuất chúng “Khóc Dương Khuê”:
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua, không phải không tiền không mua”
→ Chỉ là một khi bạn đã mất thì mọi thứ đều trở
nên nhạt nhẽo, vô vị
+ Đối với làng xóm - Ông sống chan hoà, không
kể giàu, nghèo, sang, hèn:
“Anh em làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là”
- Cảnh quê:
+ Nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến không chỉ
hiện lên với những vất vả mà còn rất đẹp thông
qua những bức tranh được họa bằng con chữ
“Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà”
→ Hình ảnh thôn quê trong cảnh lụt lội nhưng lại
vô cùng bình dị, gần gũi, có “sóng” nhưng nhờ
giọng thơ mà vùng nước lũ cũng trở nên êm đềm
+ Bức tranh tứ bình:
“Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt”
→ Đó còn là âm thanh và màu sắc của những ngày
hội, ngày xuân
“Vân gian dung dữ xuất hoàng y”
→ Trên mây hiện ra bóng áo vàng của trời mùa hạ
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
→ Màu trời đặc trưng trong “vũ trụ” thơ mùa thu
của Nguyễn Khuyến nói riêng và mùa thu thiên
nhiên của Bắc bộ nói chung. Cái “xanh ngắt”
đưa Nguyễn Khuyến đến với phong vị “nhà thơ
mùa Thu”
“Mây chạy gió bay sương tỏa đầy
→ Không khí mờ ảo hoà cùng cái lạnh tái tê của
mùa đông
- Tiểu kết
→ Đi vào đời thường, quan sát cuộc sống, thơ Nguyễn
khuyến đã bước đầu thoát khỏi tính công thức của lối
cảm thụ thế giới của nhà Nho để phản ánh cái cụ thể bề
bộn phức tạp trong thực tại ấy
→ Việc miêu tả cuộc sống thường ngày trong thơ
Nguyễn Khuyến là một bước tiến của thơ ca dân tộc
đánh dấu sự chuyển mình trong nguyên tắc nhìn nhận
và phản ánh hiện thực của văn chương nhà Nho, đưa
văn học dân tộc chuyển từ việc phản ánh cái cao cả
mang tính sử thi sang phản ánh cái bình thường của
đời sống thường nhật
→ Trong tất cả những sự xô bồ của con người và xã
hội, bức tranh về cuộc sống nông thôn trong thơ
Nguyễn Khuyến như là một khoảng lặng để lưu giữ cái
hay, cái đẹp của vùng quê Hà Nam với những cảnh
sinh hoạt thôn dã đậm nét văn hóa. Giá trị tinh thần là
gốc rễ cho sự tồn tại cũng như phương thức để nhân
dân ta không bị đồng hóa trước quân xâm lược
2.3.1.4. Mang giá trị nhân - Nguyễn Khuyến cũng sáng tạo nhân vật Mẹ
đạo Mốc để bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ trước cảnh
đời:
“So danh giá ai bằng Mẹ Mốc
Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra.
Tấm hồng nhan đem bôi lấm, xóa nhòa,
Làm thế để cho qua mắt tục”
(Mẹ Mốc)
→ Mẹ Mốc tuy nhan sắc đẹp đẽ thế kia nhưng phải giả
điên giả dại, tự bôi xấu mình để có thể yên thân mà
dành tình cảm cho chồng, cho con. Tấm gương trinh
tiết ấy thật đáng cho người đời noi theo. Ngoài thể hiện
giá trị nhân đạo thông qua: ca ngợi vẻ đẹp của con
người, thấu hiểu những bất hạnh và khát khao hạnh
phúc ở con người. Nguyễn Khuyến còn góp thêm một
tiếng phê phán hiện thực lúc bấy giờ
2.3.1.5. Truyền tải đạo lý - Nguyễn Khuyến là nhà nho am hiểu một cách
tường tận những quy luật sáng tác nghiêm ngặt
của văn học trung đại. Ông cũng lấy quan niệm
“Văn dĩ tải đạo” và “Thi ngôn chí” làm mục tiêu
cho những sáng tác của mình. Thế nhưng, nhiều
lúc ông đã vượt ra khỏi quan niệm phong kiến
để cởi bỏ lớp áo giáo dục vốn rất nặng nề và đưa
vào thơ mình những hiện thực khách quan rất
chân thật. Hiện thực khách quan ấy đôi khi lại
có tác dụng giáo lý gấp nhiều lần và nó cũng dễ
đi vào lòng người đọc hơn
- Dẫn chứng
“ Cùng giống mà tranh giành nhau, thật là tre trói tre
Lòng tham lợi quá đỗi, thành ra cá nuốt cá
Đáng thương thay nỗi khổ ngày nay bởi ai mà nên?
Vì vậy người xưa đã muốn bỏ sách
Gửi lời nhắn người quen thuộc nơi thành thị
Gió bụi đầy đường rồi mà còn chưa về ư?”
(Độc thán)
→ Nói về thói tranh đua ở chốn quan trường, mặt khác
lại nói về nhịp sống xô bồ của xã hội lúc bấy giờ mất
hết luân thường đạo lý. Ông khuyên người nên tránh
xa cái xấu để lui về giữ trọn tâm hồn thanh cao, giữ
trọn bản sắc, đạo đức truyền thống của dân tộc
2.3.1.6. Cảm hứng “phản - Giải thích thuật ngữ “Phản tư”: là một thuật ngữ
tư” triết học có nghĩa là hướng ý thức về phía mình,
ngẫm nghĩ về trạng thái tâm lý của mình” - chữ
“phản” vì thế có nghĩa là “trở về” (Thôi Hiệu:
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” - Hoàng
hạc một đi không trở lại) chứ không có nghĩa
“ngược lại”, chữ “tư” là “tư tưởng”
- Dẫn chứng:
Cầm lấy miếng thịt, che mặt mà khóc.
Gặp lúc loạn ly như thế này,
Lại thêm sự đói kém bức bách.
Ý người rất ân cần,
…
Không ăn thì người bị đói,
Ăn vào thì người bị nhục!
Không ăn thì người bị gầy,
Ăn vào thì ra con người tục!...”
(Nhân tặng nhục)
→ Một nụ cười ngấn lệ trong một khúc tự tình mang
sắc thái tự sự, phúng dụ thâm trầm. Bởi chỉ vì một
miếng thịt được mời trong đám tế tự nhưng cũng khiến
Tam Nguyên lấy làm tự vấn, trăn trở. Bài thơ có ý
nghĩa phản tỉnh lưỡng phân phản ánh bi kịch của các
nhà Nho nói cung và bản thân mình nói riêng trong
buổi kinh tế hàng hoá lại thêm hoạ ngoại xâm, đời
sống của kẻ sĩ thất thế vô cùng cơ cực, có được miếng
ăn cũng đắn đo, cân nhắc
- Sử dụng song ngữ trong cùng một tác phẩm - nhà thơ kép Hán Nôm,
Nôm - Hán (viết chữ Hán sau đó dịch ra chữ Nôm và ngược lại). Nổi trội
hơn là các bài thơ chữ Hán dịch sang chữ Nôm như: Khóc Dương Khuê,
Ông phỗng đá,... → Hiện tượng song ngữ thể hiện sự tìm kiếm ngôn ngữ
tích cực của Nguyễn Khuyến thể hiện như sau:
- Có thể nói, dấu ấn mà Nguyễn Khuyến muốn lưu giữ trong những thi
phẩm của mình là dùng hầu hết các đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất để
diễn tả cái bản ngã cá nhân trong thơ. Nguyễn Khuyến tự xưng tôi trong
thơ mình rất nhiều lần:
“Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông”
(Hỏi thăm quan tuần mất cướp)
- Sử dụng từ láy và nghệ thuật láy rất đa dạng, giúp khắc họa không gian,
hình ảnh mà thi nhân tạo dựng. Đồng thời góp phần cụ thể hoá, chính xác,
tỉ mỉ trong khắc hoạ hình ảnh. Đưa ngôn ngữ thi ca lên một trình độ mới
trong biểu cảm và tạo hình, làm giàu tiếng mẹ đẻ, đưa thi ca với cuộc đời
đến gần nhau hơn
- Lấy chất liệu ngôn ngữ sinh hoạt để xây dựng ngôn ngữ nghệ thuật - thơ
trữ tình điệu nói → Thể hiện năng lực sáng tạo ngôn từ vô cùng đa dạng,
sinh động, gần gũi với đời thường, đánh dấu bước chuyển mình từ mĩ lệ
thái quá sang hiện thực đời sống
- Kết hợp và hoà phối tinh tế của các nguyên tắc miêu tả như:
+ Kế thừa bút pháp ước lệ tượng trưng của các bậc tiền bối nhưng cũng
góp phần sáng tạo phá vỡ tính ước lệ tượng trưng. Bởi đây là giai đoạn
chuyển biến tư tưởng trong sáng tác dẫn đến thay đổi thủ pháp nghệ thuật
- thay vì ca ngợi những thứ to lớn kỳ vĩ, ước lệ, phóng đại thì Nguyễn
Khuyến thiên về cái cụ thể, nhỏ bé, gần gũi, chân thật. Ước lệ tượng
trưng thể hiện ở các hình ảnh truyền thống: thu thiên (trời thu) , thu
nguyệt (trăng thu), thu thuỷ (nước mùa thu), thu sương (sương mùa
thu),.... Phá vỡ tính ước lệ tượng trưng: Sáng tạo, miêu tả theo cách rất
riêng, hình ảnh thiên nhiên không gì khác ngoài những sự vật trong thiên
nhiên. Không biến chúng thành cái cớ, cái nền để thể hiện lý tưởng cao cả
nào. Nguyễn Khuyến có chăng chỉ thụ cảnh sinh tình mà thôi
“Một mai, một cuốc, một cần câu “Năm gian nhà cỏ thấp le te
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Người khôn, người đến chốn lao xao Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu, đến gốc cây, ta sẽ uống Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao.” Độ năm ba chén đã say nhè”
(Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm ) (Bổ sung kết luận sau khi hoàn thành
(Bổ sung kết luận sau khi hoàn thành hoạt động tương tác)
hoạt động tương tác)
Giải thích thuật - “Phản vấn”: loại câu hỏi nhằm phủ định/ khẳng
ngữ định một vấn đề chứng minh/ phản bác lại. Dễ
hiểu hơn là lối đặt câu hỏi theo hình thức đối
thoại phản đề/ tự đối thoại/ phản biện thực tại
Giọng phản vấn - - Thơ Nguyễn Khuyến luôn tồn tại những câu hỏi
phản tỉnh thực tại ngược, câu hỏi tu từ xa gần:
+ Phản vấn sâu đậm nhất hướng về giang sơn với
khát vọng thái bình ẩn sâu trong nỗi bất lực trước
thời cuộc
“Trần gian huyễn cảnh đương hà tự?
Thế thượng phù danh vị dị phao
Tiên ngã sinh lai thập thất tuế
Thử hồi năng đắc thái bình tao?
(Carnh rối cõi trần giống cái gì đây?
Danh hờ trên đời đâu dễ vứt bỏ
Bác sinh trước tôi mười bảy tuổi
Lúc đó có gặp cảnh thái bình chăng?)
(Tặng song khế Chi Long Sĩ Nhân Lê đài)
→ Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên giữa buổi giao
thoa đầy biến động của xã hội đương thời - bị xâm lược
đến mất nước. Bản thân chưa từng biết phong vị của
một quốc gia thái bình là như thế nào. Nên ông đặt ra
câu hỏi hết sức đau lòng, đồng thời thể hiện niềm khát
khao quốc thái dân an, thái bình thịnh trị
+ Ngoài ra, còn phản vấn về các vấn đề: thi cử, đạo
học,...
+ Phản ánh trong thơ ca phương Đông như sự kết hợp “thi trung hữu
hoạ”,...
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
(Thu điếu)
→ Nguyễn Khuyến chỉ sử dụng hai gam màu đặc trưng là: xanh và trong nhưng
cũng đủ để khắc hoạ hết nét đặc trưng của làn thu thuỷ và vầng thu thiên đặc
trưng trưng của miền Bắc bộ. Những đường nét của bài thơ cũng được thể hiện
vô cùng tinh tế: sóng gợn tí, lá đưa vèo, ngõ trúc quanh co, tựa gối ôm cần,
động chân bèo,.... Tất cả tạo thành một bức tranh ngư ông cụ thể, sống động
Âm thanh
- “Một tiếng trên không ngỗng nước
nào…”
+ “ngỗng”: Theo các tài liệu nghiên
cứu về Kinh thi học đã cho rằng:
Trong 300 trong bài Kinh thi, đã
chỉ đích danh ngỗng chính là
Hồng Nhạn. Trong đó đa phần đều
gợi tả rất buồn, ai oán. Trong “Từ
điển Biểu tượng văn hoá thế giới”
họ viết về từ ngỗng như sau: “
Trong văn học Trung Hoa nói tới
những con ngỗng trời than khóc
tức là muốn ám chỉ những người
đi lánh nạn…”
→ Với ý thơ của Nguyễn Khuyến ta có
thể áp dụng cách hiểu của các ý kiến
trên - Nghe tiếng ngỗng kêu trên trời
cao mà đau xót cho cảnh nhân dân đang
lầm than, rơi vào cảnh ly tán
→ Nguyễn Khuyến dụng ngữ ít nhưng ý
nhiều. Nếu trong mảng thơ trào phúng
ông thể hiện rõ nét cái xót xa, đau đớn.
Thì ở mảng thơ tả cảnh, những tâm tư
thầm kín đó được ẩn đi dưới lớp ngữ
uyên bác, nhiều điển có, miêu tả cảnh
một cách ước lệ
→ Sử dụng biện pháp đảo ngữ “một
tiếng trên không” nhằm nhấn mạnh âm
thanh, giữa khoảng trời tĩnh tại bỗng
trên cao vọng đến tiếng ngỗng kêu
không biết là vọng đến từ nơi nào
→ Nghệ thuật lấy động tả tĩnh
→ Sử dụng câu hỏi tu từ, giọng thơ
phản tư đặc trưng trong thơ Nguyễn
Khuyến
Hai câu kết - “Nhân hứng cũng vừa toan cất
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, bút”: Đứng trước cảnh thu và tình
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.” thu dạt dào, thi nhân cũng khởi
hứng cất bút làm thơ