NGUYỄN KHUYẾN

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 34

MỤC LỤC

I. Tác giả Nguyễn Khuyến (1835 - 1910).............................................................................................. 2


1. Tiểu sử........................................................................................................................................... 2
1.1. Khái quát.............................................................................................................................. 2
1.2. Cuộc đời............................................................................................................................... 3
1.3. Con người.............................................................................................................................4
2. Sự nghiệp sáng tác.........................................................................................................................4
2.1. Giai đoạn sáng tác................................................................................................................ 4
2.2. Tác phẩm tiêu biểu...............................................................................................................5
2.3. Phong cách sáng tác............................................................................................................. 5
2.3.1. Nội dung sáng tác....................................................................................................... 5
2.3.1.1.Phê phán, phản kháng với xã hội thực dân nửa phong kiến chủ yếu thông qua
những thi phẩm trào phúng. Từ đó thể hiện cảm hứng hiện thực rõ nét hơn bất cứ giai
đoạn thi ca nào trước đây............................................................................................... 6
2.3.1.2. Mang cảm hứng ái quốc...................................................................................7
2.3.1.3. Thể hiện tâm hồn dạt dào tình cảm với: làng cảnh, nông thôn Việt Nam, gia
đình, làng xóm, nhân dân............................................................................................. 11
2.3.1.4. Mang giá trị nhân đạo..................................................................................... 13
2.3.1.5. Truyền tải đạo lý............................................................................................. 13
2.3.1.6. Cảm hứng “phản tư”....................................................................................... 14
2.3.2. Nghệ thuật sáng tác.................................................................................................. 15
II. Tác phẩm “Thu vịnh”- Mùa thu ngâm thơ.................................................................................. 22
1. Lời dẫn.........................................................................................................................................22
2. Giới thiệu..................................................................................................................................... 22
3. Phân tích...................................................................................................................................... 23
III. CÁC VẤN ĐỀ THU HOẠCH KHÁC......................................................................................... 31
1. So sánh thơ Nguyễn Khuyến với các thi gia trước và cùng thời đại với ông:.............................31
2. Xung đột văn hoá trong thơ Nguyễn Khuyến..............................................................................33
I. Tác giả Nguyễn Khuyến (1835 - 1910)
1. Tiểu sử
1.1. Khái quát
● Tên:
+ Ban đầu: Nguyễn Thắng (Trong quyển “Luận đề về Nguyễn Khuyến”, Gs.
Vũ Khắc Khoan đã ghi là Nguyễn Văn Thắng)
+ Sau khi trượt kỳ thi Hội đã đổi thành Nguyễn Khuyến - “Khuyến” trong
“khuyến khích” nhằm động viên bản thân trong con đường thi cử (
khuyến trong khuyến khích, nhằm tự động viên mình trên con đường học
vấn và sự nghiệp)
+ Tự: Miễn Chi
+ Hiệu: Quế Sơn

● Quê hương
+ Làng Vị Hà, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam - vùng chiêm
trũng tiêu biểu của đồng bằng Bắc bộ
→ Nguyễn Khuyến còn được ca ngợi là nhà thơ của vùng đồng bằng
Bắc bộ Việt Nam

● Dòng dõi
+ Nhà Nho nghèo có truyền thống khoa bảng (Tổ phụ là Nguyễn Mại - tiến
sĩ triều Lê; cha là Nguyễn Tông Khải - 3 lần đỗ tú tài)
→ Vì vậy, từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh và học giỏi

● Bối cảnh thời đại của Nguyễn Khuyến


- Lớn lên trong buổi giao thoa giữa 2 giai đoạn (chứng kiến hai sự kiện lớn
nhất thời đại):
+ Sự kiện 1: Pháp bắt đầu xâm lược nước ta vào năm (1848)
+ Sự kiện 2: Pháp chính thức thiết lập nền bảo hộ tại Việt Nam (1884), hoà
ước Pa - tơ - nốt được ký kết, đặt dấu chấm hết cho tư cách quản lý quốc
gia độc lập của nhà Nguyễn, công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ
lãnh thổ Việt Nam → Việt Nam trở thành thuộc địa nửa phong kiến
→ Ra đời trong cơn “Quốc nạn”, lớn lên trong hoàn cảnh mọi việc đã
rồi: nước mất, nhà tan

- Vấn đề đặt ra với thế hệ của Nguyễn Khuyến trong buổi giao thoa giữa
hai thời kỳ, đất nước loạn lạc và nền văn hóa dân tộc đã có sự pha trộn
kệch cỡm giữa Tây - Ta là:
+ Dùng văn học để đấu tranh nhằm bảo vệ nền văn hoá truyền thống
+ Chống lại chính sách phản động của kẻ thù
+ Ý thức việc phản ánh văn hoá Việt Nam trong thơ của họ được chú trọng
hơn bao giờ hết
1.2. Cuộc đời

Giai đoạn 1 (1852 - 1883): Đỗ đạt làm Giai đoạn 2 (1884 - 1910): Từ quan,
quan - cuộc đời của một nhà Nho điển trở về sống ẩn dật và gìn giữ khí tiết,
hình lấy chữ “tiết” làm lẽ sống
+ 17 tuổi, đi thi Hương nhưng + Lý do lui về sống ẩn dật: Thần
không đỗ đạt → Sau khi cha mất, tượng quân chủ bị sụp đổ khi vua
gia cảnh nghèo nàn, phải bỏ học Tự Đức có thái độ nghiêng về phe
đi dạy thêm để kiếm sống và chủ hòa. Một mặt, Nguyễn Khuyến
chăm lo cho gia đình nhớ đến ân điển mà vua đã dành
(Lúc bấy giờ có ông Nghè là Vũ Văn cho mình ngày trước nên chọn
Lý, người tỉnh Hà Nam biết Nguyễn cách im lặng, không ủng hộ cũng
Khuyến có tài nhưng không có điều kiện không lên tiếng đả kích. Mặt khác,
theo đuổi con đường học vấn nên đã hỗ việc im lặng cũng là cách để ông
trợ cho Nguyễn Khuyến tiếp tục ăn học) ngầm tỏ thái độ bất mãn với hành
động bán nước, hại dân của triều
+ 1864, tiếp tục thi Hương và đỗ đình lúc bấy giờ → Nguyễn
giải Nguyên (giải cao nhất của kì Khuyến không muốn hợp tác với
thi). Năm 1871, đỗ đầu kỳ thi triều đình
Hội. Năm 1872, đỗ đầu kỳ thi
Đình → Vì đỗ đầu cả 3 kỳ thi, + Năm 1883, Nguyễn Khuyến được
nên được vua Tự Đức ban cho cờ đề cử chức tổng đốc Sơn - Hưng -
biền có ghi hai chữ “Tam Tuyên nhưng một mực từ chối. Vì
nguyên”, người đời còn xưng ra làm quan lúc này không khác
tụng Nguyễn Khuyến là “Tam nào gì làm tay sai cho giặc - điều
nguyên Yên Đổ”- người xã Yên mà bất cứ con người có nhân cách
Đổ đã đỗ đầu 3 kỳ thi và lòng yêu nước sâu sắc nào cũng
không thể chấp nhận được, huống
+ Được bổ nhiệm nhiều chức quan chi Nguyễn Khuyến lại là một bậc
trong triều đình đại Nho

→ Đạt đến đỉnh cao học vấn, thể hiện → Mùa thu năm 1884, ông lấy cớ đau
tài năng xuất chúng ở cả hai phương mắt nặng, xin cáo quan về làng nhưng
diện: tài học hành và tài thơ văn thực chất là muốn làm tay sai cho giặc

- Cuộc đời nhiều bi kịch

Bi kịch thời đại Bi kịch cá nhân


+ Một người dân mất nước; chứng + Một nhà trí thức ái quốc, ưu dân,
kiến sự suy vong của một triều đại, muốn cống hiến sở học của mình
sự thất bại của các phong trào yêu để phò vua, giúp nước nhưng bất
nước, sự thống trị vô đạo cả kẻ thù thành. Vốn tri thức “kinh bang tái
trên “Đất Mẹ” thế” cũng bằng vô tri trong thời
→ Bi kịch lớn nhất, ảnh hưởng sâu sắc, cuộc. Một kẻ “về vườn”, thân
chi phối các tâm sự của Nguyễn Khuyến tạm lánh nhưng tâm vẫn bị quấy
rầy
→ Sự trở về càng khiến ông rơi vào
bi kịch sâu sắc hơn

1.3. Con người


- Trung hậu: Với quân chủ và “cố Quốc” (đất nước trước khi bị Pháp
nhúng chân vào)
- Tự trọng: Luôn dằn vặt vì hành động từ quan muộn màng, thiếu quyết
đoán. Hổ thẹn vì sự bất lực trước thời cuộc, đã không noi theo gương
sáng của các nghĩa sĩ Cần Vương
- Chất phác giản dị, hồn nhiên, không phân giàu, nghèo, sang, hèn
- Thanh liêm, trong sạch, chính trực
- Tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống, gắn bó với đời sống
nhân dân và tha thiết yêu thiên nhiên
→ Bậc đại quân tử mang truyền thống Nho giáo, có đủ “Nhân - lễ - nghĩa -
trí - tín”. Tuy nhiên, ông không phải nhà Nho thiển cận mà là nhà nho sáng
suốt với tư tưởng mới mẻ. Ông phân biệt rất rõ 2 khái niệm: trung quân và
ái quốc, ái quốc không đồng nghĩa với việc bắt buộc phải trung quân. Nếu
quân chủ đã làm việc bán nước hại dân thì ông cũng không ngại bày tỏ thái
độ

2. Sự nghiệp sáng tác


2.1. Giai đoạn sáng tác

Giai đoạn 1: Trước khi về Yên Đổ Giai đoạn 2: Sau khi về Yên Đổ
- Sáng tác không nhiều - Số lượng tác phẩm tăng lên
- Lối viết chưa thoát ly khỏi nhiều lần
những vị quan đương chức - Thể loại sáng tác phong phú
cùng thời. Chủ yếu vẫn là hơn hẳn
giọng điệu tán tụng, ca ngợi,... - Nội dung thơ ca và giọng điệu
thông qua các bài vịnh sử thơ đều thể hiện: sự trưởng
- Thơ chữ Hán và Nôm mang lý thành của một ngòi bút đã trải
tưởng “nhập thế” tích cực, qua nhiều va đập với cuộc đời
mong muốn lập công danh, thi được gói gọn trong “nỗi buồn”:
thố với đời→ Đã có những nét + Nỗi ưu tư về sự cô độc lẩn
trào phúng hài hước nhưng đó khuất, ẩn mình trong những
là tiếng cười đầy tự tin, khích áng thơ, thể hiện nhân cách của
lệ bản thân tiến về phía trước một tác gia đầy trách nhiệm:
dù trong hoàn cảnh nào nào đi trước cảnh tình của đất nước,
nữa trước những cung bậc thăng
+ Có khi ví mình như cánh chim trầm cuộc đời
Bằng cưỡi gió, đạp sóng, vượt + Buồn nhưng không nản, buồn
ba ngàn sông, chín vạn hồ, lướt nhưng để cảnh tỉnh tha nhân và
mây, thỏa sức tung hoành cảnh tỉnh chính mình rằng: phải
ngang dọc như chim ưng, như có trách nhiệm hơn với non
rồng chứ không tầm thường sông, phải cảm được nỗi nhục
như chim Én, chim Sẻ (trong của kẻ sống trong đất nước
bài “Vân ngoại bằng đoàn”) nhưng lại mất nước
+ Có khi tự hào ví mình với hình
ảnh cá chép hoá rồng, mà → Nỗi buồn mang giá trị xã hội đã
những người thuộc hàng như cá tạo nên chất trữ tình sâu lắng và
Trê, cá Chuối không thể sánh nét riêng trong thi phong của “Tam
ngang (trong bài “Cá chép vượt nguyên Yên Đổ”
đăng”)

2.2. Tác phẩm tiêu biểu


- Hơn 800 bài, trong đó có cả chữ Hán và chữ Nôm → Đã chứa đựng
những tâm huyết và tri thức sâu sắc về văn hóa Việt Nam
- Phong phú về thể loại nhưng chủ yếu là thơ
- Tác phẩm "Quế sơn thi tập" với 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ
bằng chữ Nôm → Không chỉ là một tuyển tập thơ vĩ đại, mà còn là biểu
hiện của tinh hoa văn học dân tộc Việt Nam
- Những tác phẩm khác như: "Yên Đổ thi tập," "Cẩm Ngữ," "Bách Liêu thi
văn tập," "Bạn đến chơi nhà" và những bài thơ như "Thu điếu", "Thu
ẩm", "Thu vịnh" → Đã làm nổi bật phong cách sáng tạo của Nguyễn
Khuyến trong việc kết hợp giữa trào phúng và trữ tình
2.3. Phong cách sáng tác

2.3.1. Nội dung sáng tác

Nội dung Diễn giải nội dung


2.3.1.1.Phê phán, - Số lượng thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến
phản kháng với xã không nhiều và đa phần đều là thơ Nôm
hội thực dân nửa - Đối tượng trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến
phong kiến chủ yếu chủ yếu là:
thông qua những thi + Bọn thực dân Pháp đầu quăn, mũi lõ, nguỵ bảo
phẩm trào phúng. hộ, bắt nhân dân ta
Từ đó thể hiện cảm + Bọn mua quan bán chức, bất tài, vô dụng.
hứng hiện thực rõ Không những vậy, ông còn thẳng tay liệt chung
nét hơn bất cứ giai vào hàng “Vợ bợm chồng quan” - tức là những
đoạn thi ca nào kẻ không ra gì
trước đây + Bọn gái điếm, me Tây, những hậu quả kệch cỡm
được sinh ra giữa sự lai tạp Pháp - Việt (nói về
văn hoá, phong tục), khiến thuần phong suy đồi
đến nổi giúp cho những ả “đĩ gặp thời”, đĩ mà
danh giá “có tàn, có tán, có hương án, có bàn
độc, tiếng danh lẫy lừng…” (mượn lời trong câu
đối mừng cô Tư Hồng - người lấy Tây nổi tiếng
một thời)
+ Phê phán người đời nhưng thông qua đó cũng
phê phán chính bản thân mình, hay còn gọi là tự
trào - dùng lời của mình để cười nhạo, phê phán
chính mình cũng là một bậc học thức Kinh bang
tế thế nhưng trước cảnh nước mất nhà tang vẫn
bất lực
+ Dẫn chứng :
“Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên dậu Hạ Di rồi.”
→ Tố cáo tội ác trời không dung - đất không tha của
bọn thực dân khi chúng bắt dân ta lên núi cao xuống,
xuống nơi nước độc để tìm kiếm những sản vật phục
vụ cho kinh tế của chúng. Một mặt Tam Nguyên dùng
thủ pháp trào phúng, phê phán nhưng mặt khác lại thể
hiện sâu sắc tính trữ tình trong ngòi bút của mình
“Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
Non nước đầy vơi có biết không”
→ Mượn hình ảnh ông phỗng đá để nói những tên
quan lại vô dụng, chỉ biết khoác áo quan, cân đại hào
nhoáng bên ngoài chứ không quan tâm non nước như
thế nào

“ Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,...


Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!”
→ Mượn hình ảnh hình nộm Tiến sĩ giấy trong lễ
Trung thu để phê phán những tên Tiến sĩ hữu danh vô
thực, thông qua đó cũng là phê phán chính mình, thể
hiện sự tự cảm thấy chua xót cho “chí lớn không
thành” của bản thân mình

2.3.1.2. Mang cảm hứng - Thơ Nguyễn Khuyến không còn bị đóng khung
ái quốc trong mô - típ “trung nghĩa”, không còn đắm
chìm trong mặc cảm ưu sầu như các nhà thơ thế
hệ Cần Vương. Vì sinh ra và lớn lên trong cơn
quốc nạn nên hơn ai hết Nguyễn Khuyến đã
chứng kiến cảnh sụp đổ của chế độ phong kiến
sự "thay máu" " của bộ máy chính quyền,
chuyển biến của tư tưởng-văn hóa cho đến chủ
quyền lãnh thổ. Nên nỗi niềm “nước thẳm với
non cao” chính là sợi dây xuyên suốt cả đời thơ
của Nguyễn Khuyến

- Tinh thần yêu nước thể hiện ở những phương


diện sau:
+ Lòng căm thù giặc
Chim cộc trở về quên mất đường cũ,
Con cò tối đến trú lại trong đám khói lạnh",
→ Một nhà Nho chuẩn mực đứng trước việc đất nước
không toàn vẹn, mồ mả tổ tiên bị bọn ngoại lai giày
xéo, long mạch non sông bị chà đạp. Tất cả như một
mũi dao đâm sâu vào tim của Nguyễn Khuyến và hình
ảnh cố quốc luôn đêm ngày ẩn hiện trong tâm trí.
Những nơi phồn hoa mang hồn thiêng lắng đọng như
Thăng Long nay cũng bị tiếng súng giặc làm cho tan
tác khiến cho khung cảnh vô cùng loạn lạc
+ Khát khao muốn cống hiến trí lực để phò vua,
giúp nước nhưng cũng đành hổ thẹn vì bất lực
trước thời cuộc
“Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng”.
→ Mang danh là bậc có tài “Kinh bang tế thế” nhưng
đứng trước thời cuộc vẫn không khỏi bất lực trong
cuộc trị quốc bình thiên hạ, đành ôm chí lớn lui về
sống ẩn dật. Dù vậy, lòng ưu thời mẫn thế vẫn không
hề phai đi mà ngược lại khiến ông đêm ngày trăn trở.
ông góp lại thâu vào một cuộc say bên song cửa sổ

“ Ban đêm ròng rã kêu ai đó?


Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ”
→ Hơn nữa, tư tưởng gia nhập hàng ngũ Cần Vương
vẫn luôn lẩn quẩn trong tâm trí của Nguyễn Khuyến.
Đối với đất nước, ông tuy ẩn thân nhưng không ẩn
tâm, khát khao cống hiến giúp nước giúp dân vẫn luôn
cháy bỏng, nhưng vì tuổi tác, phần nữa là bệnh tật nên
đắc chí đến mấy cũng đành thất chí, cũng chỉ đành
“ngẩn ngơ"
+ Thể hiện ở niềm tin vào vận mệnh của đất nước
dù trong buổi Tây - Ta kệch cỡm, Nguyễn
Khuyến vẫn cảm nhận được “hồn Nước” bởi
phong tục tập quán, truyền thống dân tộc vẫn
nguyên vẹn trong nếp sinh hoạt của người dân
nơi thôn dã, chất phác,.... “Hơi thở” của đất
nước là làn gió đưa trong trời thu Việt Nam xanh
ngắt, là lễ hội của ngày xuân, hay:
“Tháng chạp hai mươi bốn chợ đồng
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đền được mấy ông”
(Chợ Đồng)
→ Truyền thống chợ phiên ở nơi quê nhà của Nguyễn
Khuyến, được gọi là chợ Đồng. Ở đây, mỗi phiên chợ
sẽ có tục các cụ bô lão của làng cùng nhau nếm thử các
sản vật chợ phiên, thức nào ngon nhất sẽ được dùng
làm vật cúng đình
→ Một câu phản vấn đặt ra: truyền thống văn hóa của
nước ta vẫn còn đó, nhưng trong buổi loạn lạc liệu có
còn diễn ra hay không? Liệu còn bao nhiêu người có
thể giữ được nét văn hóa truyền thống tốt đẹp này
Hay "hồn nước" vẫn còn trong tiếng kêu: “Năm canh
máu chảy đêm hè vắng…” của chim cuốc - loài chim
biểu tượng cho tiếng gọi hồn nước, thể hiện Niềm tin
lớn lao về tương lai vực dậy vận nước
+ Yêu nước - thể hiện ở phản ứng phê phán bọn
quan lại bán nước (như đã phân tích ở nội dung
thứ nhất trong sáng tác của Nguyễn Khuyến)

+ Yêu nước - thể hiện ở tình yêu cảnh vật quê


hương, thiên nhiên quê hương và con người
thuần hậu nguyên thủy (sẽ được phân tích rõ ở
nội dung thứ ba trong sáng tác của Nguyễn
Khuyến)

+ Nguyễn Khuyến kế thừa tư tưởng yêu nước của


các giai đoạn văn học trước. Nhưng khác ở chỗ:
Khái niệm “ái quốc" không nhất thiết đi liền với
“trung quân", mặc dù đến tận cuối đời ông vẫn
có bài viết cho vua Tự Đức
“ Ơn vua chưa chút báo đền,
Cúi xuống hồ đất, ngửa trông thẹn trời"
→ Nhưng chỉ là để tưởng nhớ những ân điển, tình
nghĩa mà vua Tự Đức đã ban cho mình. Hành động im
lặng bày tỏ sự bất bình với việc vua nghiêng về phe
chủ hòa của Nguyễn Khuyến cũng đồng nghĩa là bất
trung quân - không ủng hộ việc làm hại dân, hại nước
→ Hiếm thấy thi phẩm mang tư tưởng yêu nước nào
của Nguyễn Khuyến ca ngợi công lao của quân chủ

+ Thể hiện ở lòng thương dân


“Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất đằng mùa
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ
Bao giờ cho biết khỏi đường lo ?”
(Chốn quê)
→ Nguyễn Khuyến bày tỏ sự xót xa cho nhân dân khi
gặp cảnh mất mùa liên miên, làm lụng cả vụ mùa vất
vả trăm bề. Ấy vậy mà phần thuế, phần nợ, phần công
thợ, đến khi nhận lại chẳng còn là bao nhiêu, bữa cơm
không trọn, miếng trầu không dám mua
2.3.1.3. Thể hiện tâm - Xuân Diệu đã mệnh danh cho Nguyễn Khuyến
hồn dạt dào tình là “nhà thơ của quê hương làng cảnh” quả thật là
cảm với: làng cảnh, không sai, bởi có thể nói Nguyễn Khuyến là nhà
nông thôn Việt thơ số một về nông thôn Việt Nam, đặc biệt là
Nam, gia đình, làng nông thôn vùng Bắc bộ . Hình ảnh nông thôn
xóm, nhân dân trong sáng tác của Nguyễn Khuyến được biểu
hiện thông phương diện: tình quê và cảnh quê

- Tình quê:
+ Tình cảm sâu đậm đối với người vợ tần tảo -
người sát cánh cùng ông từ thuở “đầu xanh tuổi
trẻ”,nếm trải cùng nhau biết bao cay đắng ngọt
bùi. Đến khi vợ qua đời, ông đã khắc hoạ nỗi
đau mất vợ lên câu đối. Bày tỏ sự thấu hiểu tất
thảy những vất vả “hay lam hay làm,...tất tả
chân đăm đá chân chiêu,...” của bà → Vừa gợi
tả hình ảnh người vợ, vừa gợi tả những đặc
điểm, đức tính chung của dân quê chân chất, lam
lũ, chịu thương chịu khó
+ Đối với bạn bè - Tình cảm chân thành, chất
phác, đạm bạc, “trọng tình bất trọng của” dành
cho bạn bè của thi nhân mà đặc biệt là đối với
Dương Khuê. Mối thâm tình ấy đã in dấu sâu
đậm trên thi đàn và rồi để lại cho đời một kiệt
tác xuất chúng “Khóc Dương Khuê”:
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua, không phải không tiền không mua”
→ Chỉ là một khi bạn đã mất thì mọi thứ đều trở
nên nhạt nhẽo, vô vị
+ Đối với làng xóm - Ông sống chan hoà, không
kể giàu, nghèo, sang, hèn:
“Anh em làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là”
- Cảnh quê:
+ Nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến không chỉ
hiện lên với những vất vả mà còn rất đẹp thông
qua những bức tranh được họa bằng con chữ
“Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà”
→ Hình ảnh thôn quê trong cảnh lụt lội nhưng lại
vô cùng bình dị, gần gũi, có “sóng” nhưng nhờ
giọng thơ mà vùng nước lũ cũng trở nên êm đềm
+ Bức tranh tứ bình:
“Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt”
→ Đó còn là âm thanh và màu sắc của những ngày
hội, ngày xuân
“Vân gian dung dữ xuất hoàng y”
→ Trên mây hiện ra bóng áo vàng của trời mùa hạ
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
→ Màu trời đặc trưng trong “vũ trụ” thơ mùa thu
của Nguyễn Khuyến nói riêng và mùa thu thiên
nhiên của Bắc bộ nói chung. Cái “xanh ngắt”
đưa Nguyễn Khuyến đến với phong vị “nhà thơ
mùa Thu”
“Mây chạy gió bay sương tỏa đầy
→ Không khí mờ ảo hoà cùng cái lạnh tái tê của
mùa đông
- Tiểu kết
→ Đi vào đời thường, quan sát cuộc sống, thơ Nguyễn
khuyến đã bước đầu thoát khỏi tính công thức của lối
cảm thụ thế giới của nhà Nho để phản ánh cái cụ thể bề
bộn phức tạp trong thực tại ấy
→ Việc miêu tả cuộc sống thường ngày trong thơ
Nguyễn Khuyến là một bước tiến của thơ ca dân tộc
đánh dấu sự chuyển mình trong nguyên tắc nhìn nhận
và phản ánh hiện thực của văn chương nhà Nho, đưa
văn học dân tộc chuyển từ việc phản ánh cái cao cả
mang tính sử thi sang phản ánh cái bình thường của
đời sống thường nhật
→ Trong tất cả những sự xô bồ của con người và xã
hội, bức tranh về cuộc sống nông thôn trong thơ
Nguyễn Khuyến như là một khoảng lặng để lưu giữ cái
hay, cái đẹp của vùng quê Hà Nam với những cảnh
sinh hoạt thôn dã đậm nét văn hóa. Giá trị tinh thần là
gốc rễ cho sự tồn tại cũng như phương thức để nhân
dân ta không bị đồng hóa trước quân xâm lược

2.3.1.4. Mang giá trị nhân - Nguyễn Khuyến cũng sáng tạo nhân vật Mẹ
đạo Mốc để bày tỏ nỗi lòng của nhà thơ trước cảnh
đời:
“So danh giá ai bằng Mẹ Mốc
Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra.
Tấm hồng nhan đem bôi lấm, xóa nhòa,
Làm thế để cho qua mắt tục”
(Mẹ Mốc)
→ Mẹ Mốc tuy nhan sắc đẹp đẽ thế kia nhưng phải giả
điên giả dại, tự bôi xấu mình để có thể yên thân mà
dành tình cảm cho chồng, cho con. Tấm gương trinh
tiết ấy thật đáng cho người đời noi theo. Ngoài thể hiện
giá trị nhân đạo thông qua: ca ngợi vẻ đẹp của con
người, thấu hiểu những bất hạnh và khát khao hạnh
phúc ở con người. Nguyễn Khuyến còn góp thêm một
tiếng phê phán hiện thực lúc bấy giờ

2.3.1.5. Truyền tải đạo lý - Nguyễn Khuyến là nhà nho am hiểu một cách
tường tận những quy luật sáng tác nghiêm ngặt
của văn học trung đại. Ông cũng lấy quan niệm
“Văn dĩ tải đạo” và “Thi ngôn chí” làm mục tiêu
cho những sáng tác của mình. Thế nhưng, nhiều
lúc ông đã vượt ra khỏi quan niệm phong kiến
để cởi bỏ lớp áo giáo dục vốn rất nặng nề và đưa
vào thơ mình những hiện thực khách quan rất
chân thật. Hiện thực khách quan ấy đôi khi lại
có tác dụng giáo lý gấp nhiều lần và nó cũng dễ
đi vào lòng người đọc hơn
- Dẫn chứng
“ Cùng giống mà tranh giành nhau, thật là tre trói tre
Lòng tham lợi quá đỗi, thành ra cá nuốt cá
Đáng thương thay nỗi khổ ngày nay bởi ai mà nên?
Vì vậy người xưa đã muốn bỏ sách
Gửi lời nhắn người quen thuộc nơi thành thị
Gió bụi đầy đường rồi mà còn chưa về ư?”
(Độc thán)
→ Nói về thói tranh đua ở chốn quan trường, mặt khác
lại nói về nhịp sống xô bồ của xã hội lúc bấy giờ mất
hết luân thường đạo lý. Ông khuyên người nên tránh
xa cái xấu để lui về giữ trọn tâm hồn thanh cao, giữ
trọn bản sắc, đạo đức truyền thống của dân tộc

2.3.1.6. Cảm hứng “phản - Giải thích thuật ngữ “Phản tư”: là một thuật ngữ
tư” triết học có nghĩa là hướng ý thức về phía mình,
ngẫm nghĩ về trạng thái tâm lý của mình” - chữ
“phản” vì thế có nghĩa là “trở về” (Thôi Hiệu:
“Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” - Hoàng
hạc một đi không trở lại) chứ không có nghĩa
“ngược lại”, chữ “tư” là “tư tưởng”

- Dẫn chứng:
Cầm lấy miếng thịt, che mặt mà khóc.
Gặp lúc loạn ly như thế này,
Lại thêm sự đói kém bức bách.
Ý người rất ân cần,

Không ăn thì người bị đói,
Ăn vào thì người bị nhục!
Không ăn thì người bị gầy,
Ăn vào thì ra con người tục!...”
(Nhân tặng nhục)
→ Một nụ cười ngấn lệ trong một khúc tự tình mang
sắc thái tự sự, phúng dụ thâm trầm. Bởi chỉ vì một
miếng thịt được mời trong đám tế tự nhưng cũng khiến
Tam Nguyên lấy làm tự vấn, trăn trở. Bài thơ có ý
nghĩa phản tỉnh lưỡng phân phản ánh bi kịch của các
nhà Nho nói cung và bản thân mình nói riêng trong
buổi kinh tế hàng hoá lại thêm hoạ ngoại xâm, đời
sống của kẻ sĩ thất thế vô cùng cơ cực, có được miếng
ăn cũng đắn đo, cân nhắc

2.3.2. Nghệ thuật sáng tác


- Ngôn ngữ thơ của ông rất phong phú không những trong cách nói mà còn
rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả - một bậc thầy trong việc sử dụng
ngôn từ nghệ thuật

- Sử dụng song ngữ trong cùng một tác phẩm - nhà thơ kép Hán Nôm,
Nôm - Hán (viết chữ Hán sau đó dịch ra chữ Nôm và ngược lại). Nổi trội
hơn là các bài thơ chữ Hán dịch sang chữ Nôm như: Khóc Dương Khuê,
Ông phỗng đá,... → Hiện tượng song ngữ thể hiện sự tìm kiếm ngôn ngữ
tích cực của Nguyễn Khuyến thể hiện như sau:

Chiều Hán - Việt Chiều Việt - Hán


● Từ Hán - Việt ● Từ Hán - Việt
+ Xuất hiện rất ít trong thơ Nôm + Có một số từ ngữ dùng trong
so với các nhà thơ đi trước như thơ chữ Hán được chính
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,... Nguyễn Khuyến xây dựng từ
Không phải lí do là vì vốn Hán sự ảnh hưởng của từ ngữ Việt
- Việt của ông thiếu uyên bác. Nam như:
“ Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp
Mà là do Nguyễn Khuyến là
Tiêu sắt thần phong oán lạc dà”
một trong những thi nhân ở
(Sơn trà)
chặng cuối của văn học Trung → Khi dịch ra tiếng Nôm: “Mưa nhỏ
đại nên sẽ có thuận lợi hơn những kinh phường xỏ lá/ Gió to
nhiều cho việc việc “Việt hóa” luống sợ nó rơi già”
ngôn ngữ Nôm/ chữ quốc ngữ ●

→ Ảnh hưởng từ thi ca chữ Nôm


+ Nếu có xuất hiện thì thường là sang chữ hán ngày càng tăng dần
những từ vô cùng quen thuộc:
Ví dụ:
“Tri âm xin tỏ tri âm” → “Tri âm”:
chỉ mối quan hệ giữa con người với
con người ở mức thấu hiểu nhau vô
cùng sâu sắc
“Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ”
→ “Giang hồ”: chỉ những người lâng
bạc sống rày đây mai đó, trong các
tiểu thuyết của Trung Quốc thì nó có
ý chỉ những người hành tẩu khắp nơi
“Vinh quy ắt hẳn rước tùng xoè” →
“Vinh”: vinh quang, vinh dự; “quy”:
trở về → chỉ những người thời xưa
theo nghiệp khoa bảng và đỗ đạt, có
võng lọng trở về quê nhà
+ Hoặc là các trường hợp bất đắc
dĩ phải dùng từ Hán - Việt
trong các bài thơ chúc tụng,
phúng viếng, di chúc,... Hay
các trường hợp không thể
không dùng để đảm bảo mục
đích nghệ thuật thiết yếu của
bài thơ, đặc biệt là trong thơ
trào phúng
Ví dụ
“Cái gái đời này gái mới ngoan
Quyết lòng ẩu chiến với Tây
quan
Một bức tung hoành váy xắn
ngang.
Trời đất khéo thương chàng
bạch quỷ
Giang san riêng sướng ả hồng
nhan
→ Ở trường hợp trên, có lẽ nếu
thay thế chúng bằng những từ thuần
Việt thì khó lòng đạt được ý nghĩa
nghệ thuật thâm thuý và thỏa đáng
→ Việc dùng từ Hán Việt trong
thơ trào phúng cũng là điểm khác
giữa ông và các thi nhân làm thơ chữ
Nôm như Bà huyện Thanh Quan - Bà
dùng từ Hán Việt nhằm mục đích
khiến câu thơ trang trọng chứ không
nhằm giễu nhại đối tượng cảm nhận
● Điển cố trong thi liệu Hán
học trong thơ Nôm rất ít
nhưng chúng đều là các điển
rất thông dụng, phổ biến
+ Ông không dùng các “điển cố
từ chương” mà dùng “điển cố
phân hoá” (sử dụng một câu
văn/ sự kiện chép trong sách cũ
rồi chế biến thành của mình)
Ví dụ
“Lâu nay không gặp ngỡ xa đàng
Ai biết rằng ra giữ mõ làng”
(Gửi ông đốc học Ngũ Sơn)
→ Mượn điển Hán học “giữ mõ làng”
do câu “Thiên tương dĩ phu tử vi mộc
đạc” (cái mỏ). Tức là: ông trời đã
mang Khổng Tử ra làm cái mõ để
cảnh tỉnh người đời. Để biến tấu
thành câu chuyện gần gũi với bối
cảnh thời đại là: “mỏ làng” chỉ những
kẻ có nhiệm vụ đi rao truyền các
mệnh lệnh của bề trên, phải phục dịch
cho làng khi có hội hè, đình đám,... .
Ở đây, Nguyễn Khuyến đã ỉa mai
thâm thuý vai trò “mỏ làng” của viên
đốc học Ngũ Sơn
→ Ảnh hưởng từ thi ca chữ Hán
sang chữ Nôm có phần giảm đi rõ
rệt so với các thi nhân khác

- Có thể nói, dấu ấn mà Nguyễn Khuyến muốn lưu giữ trong những thi
phẩm của mình là dùng hầu hết các đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất để
diễn tả cái bản ngã cá nhân trong thơ. Nguyễn Khuyến tự xưng tôi trong
thơ mình rất nhiều lần:
“Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông”
(Hỏi thăm quan tuần mất cướp)

“Nửa phần về bác nửa phần tôi”


(Mừng anh vợ)

“Gần đó mà tôi vẫn chửa hay!”


(Gửi Đốc học Hà Nam)
→ Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khuyến sử dụng hầu hết đại từ nhân
xưng ở ngôi thứ nhất trong thơ mình. Ông muốn khẳng định bản ngã là điều có
thể nhận thấy được. Nhưng bên cạnh đó, còn thể hiện sự hòa hợp giữa tác giả và
mọi người
sống xung quanh mình. Cái tôi cá nhân trong thơ Nguyễn Khuyến không phải
dùng thiên nhiên để vẽ nên mà từ những hiện thực xã hội và cuộc đời của chính
nhà thơ tạo nên
→ Thể hiện tính cá thể hoá

- Sử dụng từ láy và nghệ thuật láy rất đa dạng, giúp khắc họa không gian,
hình ảnh mà thi nhân tạo dựng. Đồng thời góp phần cụ thể hoá, chính xác,
tỉ mỉ trong khắc hoạ hình ảnh. Đưa ngôn ngữ thi ca lên một trình độ mới
trong biểu cảm và tạo hình, làm giàu tiếng mẹ đẻ, đưa thi ca với cuộc đời
đến gần nhau hơn

- Lấy chất liệu ngôn ngữ sinh hoạt để xây dựng ngôn ngữ nghệ thuật - thơ
trữ tình điệu nói → Thể hiện năng lực sáng tạo ngôn từ vô cùng đa dạng,
sinh động, gần gũi với đời thường, đánh dấu bước chuyển mình từ mĩ lệ
thái quá sang hiện thực đời sống

- Sử dụng chất liệu dân gian


Trong hình ảnh - Như phần trình bày ở mục nội dung thứ 3 trong
làng quê đậm chất thơ ca Nguyễn khuyến
dân gian
Quan hệ ứng xử - Như phần trình bày ở mục nội dung thứ 3 trong
giữa con người với thơ ca Nguyễn khuyến
con người
Phong tục, tập quán “Ình ịch đêm qua trống các làng
truyền thống Ai ai mà chẳng rước xuân sang
Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén
Bút mới xô tay thử một hàng”
(?)
→ Phong tục “Khai bút” ngày xuân
Nghệ thuật sử dụng - Nguyễn Khuyến đã vận dụng một cách sáng tạo
chất liệu dân gian ca dao, tục ngữ, thành ngữ của văn học dân
gian:
“Đen thì gần mực, đỏ thì gần son
Học lấy cho hay, con hỡi con.”
(Thơ khuyên học)
→ Vận dụng câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn
thì sáng”
“Thầy bảo rằng thầy yêu cháu đấy
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay
Bắc cầu câu cũ không hờ hững
Cầm kính tình xưa vẫn đắng cay”
(Thầy đồ ve gái)
→ Vận dụng câu ca dao: “Muốn sang thì bắc cầu
Kiều/ Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”

“Tình trong yểu điệu đà nên gái


Đấng bậc coi chừng muốn lấy ông”
(Gửi người con gái xóm Đông)
→ Vận dụng câu thành ngữ: “Già kén kẹn hom”

Chơi chữ “Bác Dương thôi đã thôi rồi


Biết thôi thôi thế thì thôi mới là”
(Khóc Dương Khuê)
→ Sử dụng lối chơi từ đồng âm khác nghĩa vô cùng
đặc sắc và quen thuộc trong nghệ thuật dân gian
- Nghệ thuật phản ánh trong thơ ca Nguyễn Khuyến là khả năng kết hợp ở
mức nhuần nhuyễn hai phương thức chiếm lĩnh đời sống của văn học:
Trào phúng, trữ tình:
+ Trữ tình cần nét sang trọng, hướng nội - trào phúng lại cần hướng ngoại,
quan sát kĩ càng thì mới có thể phanh phui, mổ xẻ những vấn đề xung
quanh nhưng lại có phần suồng sã, trần tục → Kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chất trữ tình sang trọng, tao nhã với chất trào phúng suồng sã-tầm
thường nhưng Nguyễn Khuyến độc đáo, mới mẻ, khác người chính là ở
sự kết hợp đến mức tuyệt đỉnh, tinh xảo giữa hai phẩm chất nghệ thuật

- Kết hợp và hoà phối tinh tế của các nguyên tắc miêu tả như:
+ Kế thừa bút pháp ước lệ tượng trưng của các bậc tiền bối nhưng cũng
góp phần sáng tạo phá vỡ tính ước lệ tượng trưng. Bởi đây là giai đoạn
chuyển biến tư tưởng trong sáng tác dẫn đến thay đổi thủ pháp nghệ thuật
- thay vì ca ngợi những thứ to lớn kỳ vĩ, ước lệ, phóng đại thì Nguyễn
Khuyến thiên về cái cụ thể, nhỏ bé, gần gũi, chân thật. Ước lệ tượng
trưng thể hiện ở các hình ảnh truyền thống: thu thiên (trời thu) , thu
nguyệt (trăng thu), thu thuỷ (nước mùa thu), thu sương (sương mùa
thu),.... Phá vỡ tính ước lệ tượng trưng: Sáng tạo, miêu tả theo cách rất
riêng, hình ảnh thiên nhiên không gì khác ngoài những sự vật trong thiên
nhiên. Không biến chúng thành cái cớ, cái nền để thể hiện lý tưởng cao cả
nào. Nguyễn Khuyến có chăng chỉ thụ cảnh sinh tình mà thôi

“Một mai, một cuốc, một cần câu “Năm gian nhà cỏ thấp le te
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Người khôn, người đến chốn lao xao Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu, đến gốc cây, ta sẽ uống Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao.” Độ năm ba chén đã say nhè”
(Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm ) (Bổ sung kết luận sau khi hoàn thành
(Bổ sung kết luận sau khi hoàn thành hoạt động tương tác)
hoạt động tương tác)

- Giọng phản vấn

Giải thích thuật - “Phản vấn”: loại câu hỏi nhằm phủ định/ khẳng
ngữ định một vấn đề chứng minh/ phản bác lại. Dễ
hiểu hơn là lối đặt câu hỏi theo hình thức đối
thoại phản đề/ tự đối thoại/ phản biện thực tại

Giọng phản vấn - - Thơ Nguyễn Khuyến luôn tồn tại những câu hỏi
phản tỉnh thực tại ngược, câu hỏi tu từ xa gần:
+ Phản vấn sâu đậm nhất hướng về giang sơn với
khát vọng thái bình ẩn sâu trong nỗi bất lực trước
thời cuộc
“Trần gian huyễn cảnh đương hà tự?
Thế thượng phù danh vị dị phao
Tiên ngã sinh lai thập thất tuế
Thử hồi năng đắc thái bình tao?
(Carnh rối cõi trần giống cái gì đây?
Danh hờ trên đời đâu dễ vứt bỏ
Bác sinh trước tôi mười bảy tuổi
Lúc đó có gặp cảnh thái bình chăng?)
(Tặng song khế Chi Long Sĩ Nhân Lê đài)
→ Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên giữa buổi giao
thoa đầy biến động của xã hội đương thời - bị xâm lược
đến mất nước. Bản thân chưa từng biết phong vị của
một quốc gia thái bình là như thế nào. Nên ông đặt ra
câu hỏi hết sức đau lòng, đồng thời thể hiện niềm khát
khao quốc thái dân an, thái bình thịnh trị

+ Phản vấn về nhân cách, lương tâm đồng thời cũng


phản vấn về đường đời - quan lộ
“Gửi lời nhắn người quen thuộc nơi thành thị
Gió bụi đầy đường rồi mà còn chưa về ư?”
(Độc thán)
→ Thành thị: là nơi phồn hoa đô hội, giữa buổi Tây Ta
kệch cỡm, chốn thành thị gần như là bị ảnh hưởng ngoại
lai mạnh mẽ nhất. “Gió bụi” có ý ẩn dụ muốn chỉ những
điều tiêu cực của xã hội. Cảnh tỉnh mọi người nên lui về
với “thuần hậu nguyên thuỷ” để giữ lấy bản sắc dân tộc

+ Ngoài ra, còn phản vấn về các vấn đề: thi cử, đạo
học,...

+ Phản ánh trong thơ ca phương Đông như sự kết hợp “thi trung hữu
hoạ”,...
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
(Thu điếu)
→ Nguyễn Khuyến chỉ sử dụng hai gam màu đặc trưng là: xanh và trong nhưng
cũng đủ để khắc hoạ hết nét đặc trưng của làn thu thuỷ và vầng thu thiên đặc
trưng trưng của miền Bắc bộ. Những đường nét của bài thơ cũng được thể hiện
vô cùng tinh tế: sóng gợn tí, lá đưa vèo, ngõ trúc quanh co, tựa gối ôm cần,
động chân bèo,.... Tất cả tạo thành một bức tranh ngư ông cụ thể, sống động

II. Tác phẩm “Thu vịnh”- Mùa thu ngâm thơ


1. Lời dẫn
Nếu nói đến mùa thu, người Pháp nghĩ đến đến tiếng than khóc của
Verlaine, người Trung Quốc nghĩ cảm được không khí mùa thu được khơi lên
trong ngòi bút của thi tiên Đỗ Phủ thì người Việt Nam chắc chắn sẽ nghĩ ngay
đến cái dung dị, thuần Việt nhất trong áng thơ của Nguyễn Khuyến, đặc biệt là
mùa thu ở vùng chiêm trũng Bắc bộ.
2. Giới thiệu
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Khoảng năm 1884, thời gian sau khi Nguyễn Khuyến cáo quan hồi hương
- Là một trong ba thi phẩm thuộc chùm thơ mùa thu được sáng tác bằng
chữ Nôm của Tam Nguyên Yên Đổ: “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”
- Viết theo thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật
- Cảm hứng sáng tác: Nếu cảm hứng của “Thu điếu” đến từ âm thanh tế
nhị của mùa thu,“Thu ẩm” là những nét họa không chỉ đơn sắc đen trên
nền giấy trắng mà là ngập tràn sắc màu, đường nét sinh động, lay chuyển
mềm mại. Thì“Thu vịnh” khởi lên mùa thu qua sự kết hợp của cả hai yếu
tố trên: âm thanh tinh tế và sắc màu của mùa thu
3. Phân tích

Trích thơ Phân tích, diễn giải


Hai câu đề Màu sắc
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, - “xanh ngắt”:
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.” + Màu sắc đặc trưng của mùa thu
Việt Nam, đặc biệt là mùa thu
miền Bắc. Màu xanh được sử
dụng không phải là xanh nhạt,
xanh thẳm mà là màu xanh ngắt,
mức độ đậm màu đến tuyệt đối.
+ Nếu “Thu ẩm” là sắc xanh tâm
trạng; “Thu điếu”là sắc xanh nổi
bật trên nền thanh thuỷ gợn
sóng,của bèo, của tre. Thì cái
“xanh ngắt” của bầu trời “Thu
vịnh” mới thực là trời thu của
làng quê Việt Nam
+ Thể hiện tấm lòng giao cảm với
thiên nhiên, niềm yêu cảnh sắc và
phong vị quê hương. Bởi phải là
người thật sự có những phẩm chất
nêu trên cùng sự gắn bó khăng
khít với quê nhà thì mới có thể
quan sát và thấu hiểu một cách
tinh tế như vậy
+ Cũng là miêu tả làn thu thuỷ như
trong thi ca thiên nhiên thời kì
trước, Nhưng ở đây ông lại miêu
tả vô cùng cụ thể (sắc xanh cụ thể
hơn là xanh ngắt)
Không gian
- “mấy tầng cao”:
+ Nguyễn Khuyến không chỉ mượn
màu sắc để tả cảnh thực tại mà
còn gợi lên không gian, bầu trời
như xanh đến thẳm sâu, vô hạn
định, không gian cứ thể được nới
rộng, trời đất thoáng đãng, sáng
tươi và thanh thoát
+ Sử dụng biện pháp đảo ngữ “mấy
tầng cao” thay vì là “cao mấy
tầng”, không chỉ tạo sự hấp dẫn
trong lời thơ mà còn tô đậm hơn
độ cao của nền trời. Mây trời đùn
lên nhau xếp thành tầng tầng, lớp
lớp, cao vời vợi, rộng bao la
Hình ảnh
- “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”:
+ “trúc”: cây trúc - hình ảnh xuất
hiện với tần suất dày đặc trong số
các sản vật quê nhà hiện hữu
trong thơ thiên nhiên của Nguyễn
Khuyến. Nếu các loài hoa khác
như cúc: 5 lần, mai: 7 lần, thuỷ
tiên: 3 lần, hoa trà: 1 lần, hoa sen:
4 lần,... thì cây trúc xuất hiện đến
8 lần
+ “Cần”: có hình dáng cong như cần
câu, ở đây Nguyễn Khuyến liên
tưởng cành trúc cong cong như
một chiếc cần câu.
→ “Cần trúc” trong thơ của Nguyễn
Khuyến không mang ý nghĩa biểu tượng
cho phẩm chất của của bậc quân tử
thường thấy trong cổ thi (chèn thơ dẫn
chứng), lại càng không phải hình ảnh
trúc của Đông Pha trong sách vở (chèn
dẫn chứng). Mà đơn giản, trúc chỉ là một
nét vẽ phong cảnh thôn quê, mặt khác
cũng là sản vật gắn bó gần gũi với con
người. Bởi vậy mới nói, chỉ khi xuất
hiện trong thơ của Nguyễn Khuyến thì
thiên nhiên mới thực sự được đóng vai
trò là chủ thể
→ “Cần trúc” lả ngọn vẽ một nét thật
mảnh mai, uyển chuyển với độ cong
mềm, vươn lên trong làn gió thu một
cách khí thế, thanh cao . Không như
rặng liễu đìu hiu, rũ xuống nặng nề và
uỷ mị
+ “lơ phơ”: từ láy chỉ sự thưa thớt
+ “hắt hiu”: từ láy chỉ sự lay động
nhẹ nhàng của sự vật, có chút gợi
nên nỗi buồn. Bên cạnh đó, cũng
khiến ta có cảm giác như cơ gió
heo may đầu mùa của buổi chớm
thu. Cái lạnh se hanh hao, bình
yên nơi làng quê Bắc bộ, rất đỗi
bình dị
→ Sự vật hiện lên trong thơ của vị Tam
Nguyên Yên Đổ không hề tĩnh mà có sự
động nhất định. Cái động của cành trúc
thưa thớt từ nơi thôn vắng lả ngọn lơi
cành theo làn thu phong lay nhè nhẹ, êm
đềm, tĩnh tại
Góc nhìn
- Thi nhãn thâu tóm bao quát không
gian ở phạm vi rất rộng: hướng
mắt lên tầng trời cao vời vợi,
hướng mắt xuống cảnh vật để cảm
thụ vị thu thông qua thị giác và
xúc giác
→ Từ góc nhìn này ta cảm nhận được
một điều: Không rõ là cành trúc đang bị
gió thu làm lay động hay thực sự cảnh
thu đang khiến tâm hồn của thi nhân bị
lay động. Bởi trong cảnh cáo quan ở ẩn,
cho dù thân tâm có tự tại đến mức nào
cũng không thể tránh khỏi sự chạnh
lòng. Bầu trời mùa thu khi ấy tựa như cơ
nghiệp thiên thu Đại Nam đang bị bọn
ngoại bang chà đạp. Bản thân Tam
Nguyên chỉ nhỏ bé như cần trúc kia đối
nghịch với thiên nhiên kỳ vĩ. Con người
thì nhỏ bé, khát vọng thì lại quá lớn lao
nhưng lực bất tòng tâm nên đành buông
xuôi đại cuộc (Ở đây không có ý mâu
thuẫn với luận điểm “ thiên nhiên trong
thơ của Nguyễn Khuyến không mang ý
nghĩa biểu tượng cho phẩm chất của của
bậc quân tử thường thấy trong cổ thi”.
Vì cảm nhận chỉ thiên về mặt xúc cảm,
tâm trạng sâu được bộc lộ một cách gián
tiếp của thi nhân mà thôi, không trực
tiếp bộc lộ như; “Dẻ có Ngu cầm đàn
một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi
phương”)
Hai câu thực: Màu sắc
“Nước biếc trông như tầng khói - “nước biếc trông như tầng khói
phủ, phủ”: màu nước trong xanh được
Song thưa để mặc bóng trăng bao phủ phía trên một lớp sương
vào.” (vào mùa thu, khi trời quá đêm về
sáng sẽ xuất hiện một làn sương
mờ,mỏng như vậy). Nhưng ở đây
thay vì dùng “làn khói” thì thi
nhân dùng “tầng khói”, từ “tầng”
làm cho chiều dày của sương
được tăng lên nhiều lần. Bởi chỉ
có như vậy thì nó mới có thể đủ
để hoà màu vào sắc nước - làn
nước làm tôn lên tầng sương, tầng
sương tô điểm cho làn nước vốn
đã xanh nay lại thêm mơ huyền,
óng ánh
→ Sau 2 mỹ cảnh thu thuỷ: “Làn ao
lóng lánh bóng trăng loe” và “ Ao thu
lạnh lẽo nước trong veo”. Nguyễn
Khuyến đã góp thêm cho thi đàn một sắc
vóc mới của làn nước mùa thu đặc trưng
của miền Bắc Việt Nam
→ Sử dụng biện pháp so sánh độc đáo;
cách dùng ngôn từ để phối màu, miêu tả
sắc màu vô cùng điêu luyện; dụng ngôn
một cách chọn lọc, chính xác, đặc tả cụ
thể được sắc thái của cảnh vật

- “Song thưa để mặc bóng trăng


vào”: Sử dụng biện pháp nhân
hoá khiến cho khung cửa sổ vô tri
vô giác nay cũng đã bị thu nguyệt
làm cho động lòng, nó phóng
khoáng để cho từng luồng sáng
của ánh trăng thu chiếu rọi vào
→ Nếu những câu thơ trên đặc tả độ cao
của bầu trời, độ sâu của làn nước biếc.
Thì ở đây, câu thơ lại nghiêng về đặc tả
về độ rộng, dù ánh trăng đã bị giới hạn
bởi song cửa sổ nhưng nó vẫn cứ lan tỏa
mênh mông
→ Hình ảnh ánh trăng: trước giờ trong
thi ca hình ảnh ánh trăng biểu tượng cho
những điều đẹp đẽ, thanh cao, là bằng
hữu, tri kỷ của thi nhân. Đã từng có
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên” của
thời Trương Kế, đến Nguyễn Du “Nâu
sồng từ trở màu thiền/ Sân thu trăng đã
vài phen đứng đầu”. Đến Nguyễn
Khuyến thì hơn cả một “bóng trăng
loe”, bóng trăng ở đây chủ động đến và
hoà kết với con người - con người cũng
mở rộng tâm hồn đón nhận ánh trăng
Hai câu luận Hình ảnh
“Mấy chùm trước giậu hoa năm - “Mấy chùm trước giậu hoa năm
ngoái, ngoái”
+ “giậu”: tấm ngăn cách vườn này
Một tiếng trên không ngỗng nước
với vườn kia, thường được làm
nào…” bằng tre, nứa
+ “mấy chùm trước giậu” : sử dụng
biện pháp đảo ngữ nhằm nhấn
mạnh sự phát hiện bất giác của thi
nhân khi thấy những bông trước
giậu không chỉ đã nở rộ mà còn
rất dày đặc, căng tràn sức sống
+ “hoa năm ngoái”: theo quy luật
của tự nhiên, sẽ có những loài hoa
có thể nở quanh năm. Nhưng
những bông hoa đó không thể
sống từ năm này sang năm khác
mà sẽ nở rồi tàn để nhường chỗ
cho những bông hoa khác khai nụ.
Nhưng ở đây thi bá Nguyễn
Khuyến lại cho rằng những chùm
hoa trước mắt là hoa đã nở vào
năm ngoái. Việc lùi một nhịp về
quá khứ (tính theo phỏng đoán
thời điểm sáng tác thì thời gian thi
nhân đang thưởng hoa là sau khi
cáo quan, tức năm trước đó người
vẫn đang làm quan) cho thấy tâm
trạng: vẫn màu hoa xưa nhưng
bông hoa đã đổi - Đại Nam vẫn
còn đó nhưng không còn là Đại
Nam của những năm trước khi
nhà Nguyễn công nhận nền bảo
hộ của Pháp - Nguyễn Khuyến
vẫn là Nguyễn Khuyến nhưng lúc
này là một ẩn sĩ buông xuôi thời
cuộc, không còn là Tam Nguyên
Yên Đổ trước kia
→ Cách dùng từ giàu sức gợi, nếu ở
những câu trên Nguyễn Khuyến cảm
cảnh thu bằng cái nhìn khách quan. Thì
ở câu thơ này cảnh thu tác động vào tình
thu dẫn đến một thoáng chốc thi nhân đã
bộc lộ sự cảm thụ chủ quan của mình, dù
không trực tiếp thể hiện. Bởi vậy mới
thấy cái tài dụng ngôn hoạ tình của
Nguyễn Khuyến không thể nào xem
thường được
→ Lời thơ làm ta nhớ đến hình ảnh
“Hoa đào năm trước còn cười gió đông”
của Thôi Hộ
→ Nhịp thơ 4/1/2 (Mấy chùm trước
giậu/ hoa/ năm ngoái) đứt quãng, tạo
cảm giác chần chừ, tiếc nuối một điều gì
đó khó gợi tả

Âm thanh
- “Một tiếng trên không ngỗng nước
nào…”
+ “ngỗng”: Theo các tài liệu nghiên
cứu về Kinh thi học đã cho rằng:
Trong 300 trong bài Kinh thi, đã
chỉ đích danh ngỗng chính là
Hồng Nhạn. Trong đó đa phần đều
gợi tả rất buồn, ai oán. Trong “Từ
điển Biểu tượng văn hoá thế giới”
họ viết về từ ngỗng như sau: “
Trong văn học Trung Hoa nói tới
những con ngỗng trời than khóc
tức là muốn ám chỉ những người
đi lánh nạn…”
→ Với ý thơ của Nguyễn Khuyến ta có
thể áp dụng cách hiểu của các ý kiến
trên - Nghe tiếng ngỗng kêu trên trời
cao mà đau xót cho cảnh nhân dân đang
lầm than, rơi vào cảnh ly tán
→ Nguyễn Khuyến dụng ngữ ít nhưng ý
nhiều. Nếu trong mảng thơ trào phúng
ông thể hiện rõ nét cái xót xa, đau đớn.
Thì ở mảng thơ tả cảnh, những tâm tư
thầm kín đó được ẩn đi dưới lớp ngữ
uyên bác, nhiều điển có, miêu tả cảnh
một cách ước lệ
→ Sử dụng biện pháp đảo ngữ “một
tiếng trên không” nhằm nhấn mạnh âm
thanh, giữa khoảng trời tĩnh tại bỗng
trên cao vọng đến tiếng ngỗng kêu
không biết là vọng đến từ nơi nào
→ Nghệ thuật lấy động tả tĩnh
→ Sử dụng câu hỏi tu từ, giọng thơ
phản tư đặc trưng trong thơ Nguyễn
Khuyến
Hai câu kết - “Nhân hứng cũng vừa toan cất
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, bút”: Đứng trước cảnh thu và tình
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.” thu dạt dào, thi nhân cũng khởi
hứng cất bút làm thơ

- “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”


+ Ông Đào: Đào Tiềm (Đào Uyên
Minh) - một danh sĩ đồng thời
cũng là một nhà thơ Trung Quốc
rất nổi tiếng từ đời Tấn. Ông đã
thi đỗ tiến sĩ,cũng làm quan,cũng
chứng kiến cảnh đau lòng của đất
nước, cũng “dũng thoái” treo ấn
từ quan, lui về sống với ruộng
vườn , với hoa cỏ để gìn giữ tiết
tháo của mình. Xét về những
phương diện này thì cả cụ Nguyễn
và Đào Tiềm có nét tương đồng
+ Thẹn vì: Nguyễn Khuyến cảm
thấy thua kém cái “khí tiết”, dũng
khí, sự dứt khoát của Đào Tiềm
trong việc từ quan. Còn bản thân
Nguyễn Khuyến vẫn luôn tự trách
mình vì sự chần chừ, chậm trễ
trong việc treo ấn từ quan
→ Sử dụng điển tích, điển cố, từ đó thể
hiện chất trữ tình, tâm sự thầm kín của
mình. Đồng thời cũng cho ta thấy được
phẩm chất thanh cao, có ý thức về bản
thân mình, là một nhà Nho sáng suốt
chứ không hề thiển cận
Nội dung - Bộc bạch kín đáo những tâm tư,
nỗi u uất trong tâm hồn của nhà
thơ trước cảnh thu, tình thu và đau
nỗi đau của đất nước, của nhân
dân
- Thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất
nước sâu sắc - đặc biệt là đối với
mùa thu; sự gắn bó khăng khít với
làng cảnh Việt Nam; ca ngợi, tự
hào về cảnh sắc nơi nông thôn
thuần hậu nguyên thuỷ của Việt
Nam
- Thể hiện phẩm chất, tâm hồn
thanh cao của thi nhân
Nghệ thật - Tả cảnh
+ Không gian đa chiều, từ trên cao
là bầu trời, xuống thấp là độ sâu
của nước mùa thu, mở rộng theo
ánh trăng lan toả
+ Chỉ dùng 2 gam màu chủ đạo là :
xanh, trong (hai gam màu ký thác
tâm sự và tâm trạng thờ khí tiết,
tiết hạnh, thuỷ chung cũng như là
sắc màu đại diện cho một ẩn sĩ
muốn tìm về chốn thanh cao, yên
tĩnh) và một tiếng kêu bất giác của
ngỗng nhưng cũng đủ để hoạ trọn
vẹn bức tranh thu không chỉ hoàn
mỹ về phần nhìn mà còn độc đáo
trong phần nghe - có cả hình ảnh
và âm thanh
+ Đường nét tinh tế, không hề thô
cứng
+ Lấy sản vật thiên nhiên là chủ thể
- Sử dụng hệ thống từ láy đa
dạng, gần gũi với ngôn ngữ sinh
hoạt
- Các biện pháp đảo ngữ đặc sắc,
câu hỏi tu từ, câu phản vấn;
điển cố

III. CÁC VẤN ĐỀ THU HOẠCH KHÁC


1. So sánh thơ Nguyễn Khuyến với các thi gia trước và cùng thời đại với
ông:

Nội dung so sánh Nguyễn Khuyến Thi gia được so sánh


Chất trào phúng trong - Phê phán, châm - Nhà thơ Tú
thơ biếm nhẹ nhàng, Xương (so sánh
hóm hỉnh, chủ cùng thời)
yếu là nhằm - Phê phán thẳng
khuyên răn, tạo thừng, mạnh mẽ,
cơ hội để đối bốp chát, nhằm
tượng thay đổi đánh thẳng vào
bản chất bản chất của
những kẻ xấu xa

- Dẫn chứng - Dẫn chứng


“Ghế tréo lọng xanh “Nghe văn mà gớm cho
ngồi bảnh chọe ông mãi
Nghĩ rằng đồ thật hoá Cờ biển vua ban cũng lạ
đồ chơi” đời”
→ Một người có trải (Ông Tiến sĩ mới)
nghiệm thi cử, đỡ đạt → Lời thơ của một
bằng thực lực liên tục ba người “Thi không ăn ớt
kì thi lớn đã mượn hình thế mà cay” - thi hỏng
ảnh Tiến sĩ giấy trong nhiều lần và cuối cùng
ngày hội Trung thu để chỉ dừng lại ở Tú tài ,
phê phán những tên tiến không phải do bất tài mà
sĩ đỗ đạt do sự có sự tác vì cá tính của ông quá
động của đồng tiền. Đó cương trực nên số phận
là những tên tiến sĩ bù lao đao.
nhìn, rỗng tuếch. Ông → Bài thơ có ý chế giễu
phê phán giảm tránh, những tên bất tài, văn
hóm hỉnh về thực trạng không đến nơi, tài
thi cử bát nháo trong không đến chốn nhưng
buổi giao thời lại được vua ban cờ,
biển. Một mặt thể hiện
hiện thực thi cử không
công bằng lúc bấy giờ.
Mặt khác lại thẳng
thừng phê phán chế độ
thối nát
→ Phê phán, châm biếm
trực tiếp, thẳng thừng

“Nghĩ mình cũng gớm


cho mình nhỉ “Vị Xuyên có Tú Xương
Thế cũng bia xanh, cũng Dở dở lại ương ương
bảng vàng” Cao lâu thường ăn quỵt
(Tự trào) Thổ đĩ lại chơi lường”
→ Nguyễn Khuyến tự ý (Tự vịnh)
thức được rằng bản thân → Tú Xương không
muốn lấy tài để phục vụ ngần ngại phơi bày tật
cho đan chứ không phục xấu của mình với hình
vụ cho chế độ. Nhưng thức tự bôi xấu - hình
những đạo lý thánh hiền thức làm tan vỡ hình
mà Nguyễn Khuyến tượng , cốt cách vốn có
từng tiếp nhận không của một nhà Nho đạo
thể dung hoà được với mạo, uy nghiêm
chế độ bạc nhược của → Ngôn từ bốp chát,
triều đình nhà Nguyễn. thẳng thắn
Nên ông lên tiền cười
cợt, khinh bỉ chính địa
vị mà bản thân đã từng
ngồi
→ Ngôn từ nhẹ nhàng,
tự trào hóm hỉnh
Đời sống ẩn sĩ thể hiện - Tận hưởng đời - Thi nhân Nguyễn
trong thơ sống ẩn dật nhưng Trãi
thể hiện nhiều - Tận hưởng đời
tâm tư riêng. Một sống ẩn dật,
mặt có vẻ nhẹ không vướng bận
nhàng, thoải mái, quan trường
với cái vui nhàn nhưng cuối cùng
nhã của cuộc sống Nguyễn Trãi đã
nơi vườn ruộng chọn tiếp tục dấn
ao chuôm, không thân vào “lưới
còn mối nguy trần”, bởi nhân
“phong lãng sinh quan của
hiểm”, “thương ông, lý tưởng của
cung điểu” đáng ông là xả thân phò
sợ trên chính vua giúp nước. Vì
trường như lời thế, dù thấy được
than thở của sự hiểm nguy ở
Nguyễn Trãi, triều thị và từng
nhưng mặt khác khiến ông phải
lại thể hiện sự chạy về náu mình
nặng nề, trăn trở trong thế giới điền
băn khoăn: những viên, nhưng
“khắc khoải”, Nguyễn Trãi vẫn
“ngẩn ngơ” trăn luôn suy tư về
trở không dứt. trách nhiệm của
Tuy nhiên, ông một nho sĩ đối với
chọn một đi “nợ quân thân”:
không trở lại chốn “Ao quan thả gửi hai bè
quan trường, lui muống,
về một cách dứt Đất Bụt ương nhờ một
khoát rãnh mùng. Còn có một
lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẵn nẻo
sơ chung.”
(Thuật hứng 23)

2. Xung đột văn hoá trong thơ Nguyễn Khuyến


- Thể hiện ở: phong tục, thuần phong mỹ tục, chế độ khoa cử

Phong tục “Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,


Thằng bé lom khom ghé hát chèo”
→ Diễn giải: Bà quan trong tư thế xem hát chèo “tênh
nghếch” : tư thế ngồi không ngay ngắn, kệch cỡm ><
thằng bé “lom khom”: dáng vẻ khúm núm, cúi thấp
người, e sợ
→ Hát chèo là hình thức diễn xướng phát triển mạnh
ở vùng Bắc bộ là nét văn hoá truyền thống rất lâu đời.
Nhưng trước sự áp đảo của văn hoá ngoại lai, ảnh
hưởng của bọn xâm lược, bọn bán nước đã bóp méo đi
giá trị văn hoá vốn có của nó. Bọn chúng biến một
loại hình nghệ thuật có giá trị tinh thần trở thành trò
mua vui rẻ tiền

Thuần phong mỹ “Con gái đời này, gái mới ngoan,


tục Quyết lòng ẩu chiến với quan Tây’
(Lấy Tây)
→ Phê phán mạnh mẽ, quyết liệt về bọn me Tây, gái
điếm, buông tiếng cười mỉa mai lên bọn phụ nữ hám
tiền hám lợi mà đi làm vợ các quan Tây
→ Phụ nữ ngày xưa lấy đức hạnh làm điều thiêng
liêng nhất. Nhưng trong thời này, cái thiêng liêng đó
đã vì đồng tiền mà bán rẻ đi. Cái công, dung, ngôn,
hạnh theo quan niệm Nho giáo đã vô dụng. Thay vào
đó “gái ngoan” là những người quyết “ẩu chiến” theo
nghĩa nhạy cảm, mỉa mai.

You might also like