Chương 4

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

Chương 4: Nội dung, Phương thức lãnh đạo, quản lý nhà nước về báo chí –

truyền thông đại chúng

4.1 Nội dung lãnh đạo, quản lý nhà nước về báo chí – truyền thông đại chúng
4.1.1 Nội dung lãnh đạo báo chí-truyền thông đại chúng
- Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị:
Một là, luôn quán triệt, bám sát các chủ trương, định hướng của Đảng. Trong chỉ
đạo, điều hành cần chủ động, quyết liệt, sát sao; coi trọng vai trò, vị trí của người
đứng đầu. Tranh thủ được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự phối kết hợp
với các cơ quan, bộ, ngành ở cả cấp Trung ương và địa phương. Đồng thời, trong
triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương, chính sách pháp luật của Nhà
nước phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, báo cáo để tạo sự đồng
thuận, thực hiện nghiêm túc.

Hai là, quan tâm công tác xây dựng Đảng, coi trọng việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường, kỷ
luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm túc trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, các đồng chí bí thư cấp ủy và thủ trưởng đơn vị thực sự là tấm
gương để cán bộ, đảng viên noi theo. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm
chất để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Ba là, coi trọng công tác xây dựng Đảng và các tổ chức đảng trong sạch, vững
mạnh; giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất cả tư tưởng và hành động trong
toàn Đảng bộ. Phối hợp chặt chẽ công tác Đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị của cơ quan đơn vị; gắn công tác xây dựng Đảng với xây dựng cơ quan
đơn vị, công tác chính trị tư tưởng với công tác tổ chức cán bộ, công tác xây dựng
Đảng; thực hiện nhất thể hóa chức danh Bí thư cấp ủy với thủ trưởng cơ quan đơn
vị. Duy trì, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng
đầu kết hợp với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng chỉnh
đốn Đảng và Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện „tự diễn biến, tự chuyển hóa“ trong nội bộ.
Bốn là, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy và các cấp ủy trực thuộc luôn
thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; duy trì sinh
hoạt được đều đặn, phát huy được trí tuệ tập thể, sau từng cuộc họp đều có các kết
luận hoặc nghị quyết. Sự duy trì sinh hoạt đều đặn của Ban chấp hành đã giúp cho
việc định ra các phương hướng, biện pháp hoạt động của Đảng bộ trong từng thời
gian được sát đúng. Trong chỉ đạo, điều hành luôn phát huy tính chủ động, sáng
tạo, tập trung, kiên quyết, chặt chẽ, đồng bộ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm.

Năm là, coi trọng việc học tập quán triệt và xây dựng chương trình hành động thực
hiện các đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Trung ương phù hợp với đặc điểm
của cơ quan đơn vị. Tổ chức thực hiện quyết liệt, duy trì thường xuyên công tác
kiểm tra giám sát của cấp ủy, uỷ ban kiểm tra các cấp; bảo đảm chất lượng, hiệu
lực, hiệu quả của các cuộc kiểm tra, giám sát công tác Đảng. Bố trí đủ đội ngũ cán
bộ chuyên trách, bồi dưỡng tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ cho các cấp ủy, đội
ngũ cán bộ làm công tác Đảng về Điều lệ Đảng, về các quy định, quyết định, Nghị
quyết của Trung ương, của Đảng ủy cấp trên.

Sáu là, quá trình triển khai thực hiện, luôn bám sát chủ trương, chính sách của
Trung ương và Đảng ủy Khối, phù hợp tình hình thực tế. Chỉ đạo triển khai thực
hiện nhiệm vụ chính trị gắn với thường xuyên kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý
dứt điểm đúng quy định, không để kéo dài các vụ việc phức tạp mà dư luận và
nhân dân quan tâm.

- Lãnh đạo về công tác tư tưởng:


Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
cùng với sự chủ động, tích cực và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tư
tưởng, việc triển khai trên thực tế về công tác tư tưởng đã đạt được nhiều thành quả
đáng khích lệ. Tuy nhiên, công tác tư tưởng cũng còn nhiều hạn chế
Một là, chưa thống nhất trong nhận thức cũng như giữa nhận thức và tổ chức thực
hiện.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo đến công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, bởi: “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm
vụ mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống
nhất”; “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi
cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư
tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc”.

Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn đặt ra yêu cầu rất cao đối với công
tác tư tưởng; xác định rõ “Công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả
đảng viên, trước hết là cấp uỷ các cấp và đồng chí bí thư cấp uỷ, của cả hệ thống
chính trị với sự tham gia, đóng góp của nhân dân, trong đó, lực lượng nòng cốt là
đội ngũ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lí luận...”.

Tuy nhiên, trên thực tế, “Công tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được cấp
ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính thuyết phục chưa cao”; “một số cấp ủy, chính
quyền chưa thực sự coi trọng công tác lý luận, công tác giáo dục lý luận chính trị”,
dẫn đến tình trạng ở nhiều nơi, công tác tư tưởng “được” cấp ủy “khoán trắng” cho
ban tuyên giáo - coi đó là chức năng, nhiệm vụ mà ban tuyên giáo phải đảm nhận
và thực thi. Thực tế ở không ít nơi, khi tổng kết - đánh giá, nếu công tác tư tưởng
đạt kết quả tốt, tạo được hiệu ứng tích cực trong xã hội thì thành tích đó “mặc
nhiên” thuộc về sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng hướng, kịp thời của cấp ủy; khi công tác
tư tưởng còn hạn chế, không đạt kết quả tốt, thì “lỗi trách nhiệm” lại thuộc về ban
tuyên giáo.

Hai là, phương thức truyền đạt thông tin của công tác tư tưởng chưa thực sự đổi
mới.

Phương thức truyền đạt thông tin hiệu quả là nền tảng cho mọi hoạt động của đời
sống và công việc. Đó không chỉ đơn giản là việc chia sẻ những ý tưởng của chủ
thể với người khác mà quan trọng hơn là chia sẻ những góc nhìn và tạo mối liên hệ
với mọi người xung quanh. Phương thức truyền đạt thông tin hiệu quả vừa tiết
kiệm được thời gian, vừa đạt hiệu quả giao tiếp sẽ mang lại lợi ích lớn hơn trong
cuộc sống cũng như công việc. Đối với công tác tư tưởng, phương thức truyền đạt
thông tin chính là phương tiện quan trọng để đưa quan điểm, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với hiện thực xã hội; tham gia
xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; thường xuyên tương tác với cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh, phương thức thông tin của công tác tư tưởng ở
nước ta còn có những bất cập. “Phạm vi tác động, ảnh hưởng của công tác tư tưởng
có dấu hiệu bị thu hẹp”, “Nội dung, phương pháp công tác tư tưởng chậm đổi mới,
công tác tư tưởng trở nên lạc hậu so với yêu cầu của thực tiễn trong tình hình mới”.
“Công tác thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa đáp
ứng được sự mong đợi của nhân dân”.

Một trong những căn nguyên chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập nêu trên là do
phương thức truyền đạt thông tin trong công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay vẫn
gần giống với những năm trước đổi mới: chủ yếu cung cấp những thông tin mà chủ
thể có, chứ chưa cung cấp những thông tin mà xã hội cần. Cơ chế bao cấp trước
đổi mới không chỉ bao trùm cả trong môi trường sống và làm việc, mà còn thể hiện
rõ cả trong công tác tưởng. Tư tưởng, nhận thức và suy nghĩ của cán bộ, đảng viên
là đã có cấp trên (ngành Công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng) chăm lo và định
hướng. Do đó, trong tâm thế của cán bộ, đảng viên chỉ cần tiếp nhận những tư
tưởng, định hướng, nhận thức từ trên đưa xuống, “có sao dùng vậy”, không đòi hỏi
nhiều hơn. Điều này dẫn đến tình trạng, đội ngũ những người làm công tác tư
tưởng cũng chỉ cần cung cấp những thông tin mà mình có, không cần thiết phải tìm
hiểu, mở rộng thông tin.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi thông tin đa chiều liên
tục được cập nhật, phông kiến thức và thông tin của cán bộ, đảng viên rất đa dạng,
phong phú; đối tượng tiếp nhận luôn có tâm thế và nhu cầu được biết nhiều thông
tin hơn... Điều này đặt ra yêu cầu và đòi hỏi người đi truyền đạt thông tin phải
không ngừng chủ động cập nhật, khai thác, mở rộng, chọn lọc thông tin; tiếp cận,
tham khảo các nguồn thông tin khác nhau... Nói khác đi là trên nền tảng “gốc” và
định hướng cơ bản, chủ thể truyền đạt phải cung cấp những thông tin mà xã hội
cần, chứ không chỉ cung cấp những thông tin mà mình có. Nếu không thì chính chủ
thể truyền đạt lại trở nên lạc hậu hơn so với đối tượng tiếp nhận thông tin.

Ba là, về cơ bản, phương thức tư duy trong công tác tư tưởng vẫn theo cách cũ, lối
mòn.

Đảng ta đã nhấn mạnh: “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư yêu cầu phải đổi
mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho
phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề
thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo”.

Trước đây, “mặt bằng” tư duy cơ bản vận hành theo số lượng, tuần tự, thứ bậc, dẫn
đến phương thức hoạt động chủ yếu là theo hình thức, quán tính. Vì vậy, các hoạt
động, nhất là tư duy trong công tác tư tưởng thường là theo kinh nghiệm, thói
quen, thậm chí là cảm tính, tức là theo tính thường biến của tư duy. Trong bối cảnh
hiện nay, sự bùng nổ của công nghệ số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
đã đưa đến những “bản chất mới” cho quá trình phát triển. Các hoạt động của con
người đều phải tiệm cận, thích ứng với tính phi truyền thống, linh hoạt hoá, trí tuệ
hóa. Theo đó, phương thức tư duy của công tác tư tưởng cũng phải đổi mới theo
phương thức: chất lượng, không tuần tự, không thứ bậc, dám nghĩ khác và làm
khác... Có như vậy chúng ta mới tránh được sự lạc hậu và khắc phục được những
hạn chế, bất cập trong giảng dạy lý luận chính trị. Điều này đúng với tư tưởng của
Ph.Ăngghen về sự cần thiết phải bổ sung, làm mới và phát triển lý luận mác-xít:
“Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo
điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”.

Bốn là, công tác tư tưởng vẫn chưa được quy trình hóa.
Để đảm bảo được sự vận hành thông suốt, đúng định hướng và mang lại hiệu quả
cao thì bất cứ một loại hình hoạt động xã hội nào cũng cần phải xây dựng được
quy trình tác nghiệp cho chính nó. Đây cũng là sự cần thiết phải có quy trình hóa
trong bất cứ hoạt động xã hội nào. Công tác tư tưởng không là ngoại lệ, cũng phải
được quy trình hóa, tức là phải thiết lập được quy trình mang tính chuẩn mực trong
hoạt động
Quy trình hóa trong công tác tư tưởng là quá trình xác định, lựa chọn và tạo dựng
được những yếu tố, thao tác, tiêu chí, trình tự các bước thực hiện tác nghiệp tối
thiểu và bắt buộc mà những cá nhân hay tổ chức thực thi công tác tư tưởng phải
tuân thủ. Điều này giúp công tác tư tưởng được thực hiện thống nhất, hạn chế các
khác biệt có thể gây ra những hệ quả không mong muốn

Từ cách tiếp cận của mình, chúng tôi cho rằng, quy trình hóa công tác tư tưởng ở
nước ta hiện nay phải hiện thực hóa được công thức “6T”: Tiên phong - Trí tuệ -
Trúng - Thiết thực - Thuyết phục - Tiên tiến. Tiên phong là không bao giờ được
không lạc hậu với thời cuộc; phải luôn đi đầu, định hướng, dẫn đường cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân biết phát huy lợi thế và thành quả đã có, vượt qua khó khăn
thách thức, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Trí tuệ là phải
nắm được đặc điểm thời đại và dân tộc, biết phân tích, thâu tóm được bản chất đích
thực vấn đề đặt ra, qua đó đề xuất giải pháp thiết thực, hữu hiệu để giải quyết.
Trúng là phải bao hàm được cả trên bình diện không gian và thời gian. Trên bình
diện không gian là phải phản ánh đúng sự thật về sự việc, sự kiện xảy ra; trên bình
diện thời gian là phải thông tin nhanh chóng, kịp thời, không bị chậm trễ, đi sau,
“chạy theo”. Thiết thực là luôn phải bám sát thực tiễn, sát hợp với thực tiện để nắm
bắt thực tiễn, phục vụ nhu cầu của thực tiễn; không nên và không được viễn vông,
xa rời thực tiễn. Thuyết phục là phải nắm được tâm lý, đi vào lòng người, không áp
đặt, cưỡng cầu một chiều; không ngoa ngôn và cũng không ngụy ngôn. Tiên tiến là
phải ứng dụng và sử dụng thành thạo những thành quả của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là internet, mạng xã hội vào quá trình hoạt động, tác
nghiệp; biến những ưu thế tiên tiến đó thành lợi thế, hành trang nội tại, không thể
thiếu trong “nghề” tuyên giáo
Trên thực tế, trong bối cảnh hiện nay, công tác tư tưởng của chúng ta vẫn chưa đạt
được công thức “6T”. Đây cũng là những bất cập mà Đảng ta đã chỉ ra: “Công tác
tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế, chưa
sát thực tiễn và chưa linh hoạt; chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm mơ hồ,
sai trái…”

Năm là, còn có những bất cập trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tư
tưởng

Đảng ta xác định: “Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách, tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, kĩ thuật cho công tác tư tưởng theo hướng hiện đại,
đáp ứng yêu cầu của hoạt động tư tưởng trước những đòi hỏi mới trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế. Khẩn trương xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ làm
công tác tư tưởng đến năm 2020 từ Trung ương đến cơ sở, cả cán bộ cấp chiến
lược, các chuyên gia đầu ngành, đội ngũ kế cận và cán bộ trẻ. Nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng, có chế độ, chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ này”

- Lãnh đạo về công tác tổ chức cán bộ:


Để tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các
chủ trương, nghị quyết của BCH Trung ương, quy chế, quy định của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ
trọng tâm trong công tác cán bộ như sau:

Một là tiếp tục tổ chức nghiên cứu sâu những chủ trương, quan điểm về công tác
cán bộ; tăng cường công tác nghiên cứu, phổ biến, quán triệt, tuyên truyền, hướng
dẫn, tạo nhận thức thống nhất và quyết tâm cao trong triển khai thực hiện các chủ
trương, nghị quyết, quy định về công tác cán bộ trong toàn hệ thống chính trị

Hai là tập trung sơ kết, tổng kết, đánh giá kỹ lưỡng để tham mưu với Ban Chấp
Hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo ban hành mới, sửa
đổi, bổ sung Quy định số 262-QĐ/TW ngày 08-10-2014 của Bộ Chính trị về việc
lấy phiếu tín nhiệm với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ
quan của Đảng, Nhà nước, mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã
hội và tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Ban Chấp Hành Trung ương
bầu tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 8 (năm 2023); xây dựng, trình Bộ
Chính trị ban hành Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của
Đảng; tham mưu thành lập các tiểu ban chuẩn bị phục vụ Đại hội XIV của Đảng;
tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng; công tác quy hoạch BCH Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư (khóa XIV) và lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm
kỳ 2026-2031; phương hướng công tác nhân sự BCH Trung ương (khóa XIV) và
triển khai công tác nhân sự BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV,
nhiệm kỳ 2026-2031; Quy chế làm việc và Quy chế bầu cử Đại hội XIV của Đảng

Ba là tiếp tục tham mưu triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 03-KH/TW
của Bộ Chính trị thực hiện Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán
bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”; nhất là tham mưu xây dựng các quy định, quy chế về công
tác cán bộ như sửa đổi, bổ sung Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23-9-2019 của Bộ
Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức,
chạy quyền; chính sách đối với cán bộ làm việc trong lĩnh vực, địa bàn đặc thù,
phức tạp, trọng yếu; quy định về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm
đình chỉ công tác đối với cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu
vi phạm pháp luật nghiêm trọng; cơ chế, chính sách phát hiện, lựa chọn, trọng
dụng, bố trí, sắp xếp cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội, cán bộ trẻ vào vị trí lãnh
đạo, quản lý các cấp; quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu
trong công tác tổ chức - cán bộ và quản lý cán bộ, thí điểm chủ trương người đứng
đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ
nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên BTV và chịu
trách nhiệm về việc giới thiệu của mình; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm
cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp

Bốn là tiếp tục tham mưu thực hiện tốt công tác nhân sự thường xuyên, kịp thời
kiện toàn chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, địa phương thuộc diện
Trung ương quản lý bảo đảm nguyên tắc, tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình theo quy
định. Hoàn thành việc phê duyệt quy hoạch các chức danh lãnh đạo thuộc diện
Trung ương quản lý nhiệm kỳ 2025-2030, 2026-2031 của các địa phương, cơ quan,
đơn vị. Triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ,
công chức trong hệ thống chính trị, góp phần thực hiện chuyển đổi số trong quản lý
hồ sơ cán bộ và phục vụ hiệu quả công tác tham mưu
Năm là chú trọng đổi mới phương pháp, lề lối, tác phong làm việc gắn với cải cách
hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. Duy
trì nền nếp, kịp thời tổ chức các hội nghị quán triệt, thông tin kịp thời các văn bản
mới về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức bộ
máy của cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức
xây dựng Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao trình độ nghiệp vụ
chuyên môn, ý thức tự giác rèn luyện đạo đức, gương mẫu nêu gương trong công
tác và cuộc sống

- Lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức Đảng:


Một là đẩy mạnh các phong trào thi đua Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh gắn với xây dựng người cán bộ công chức, viên chức
“Trung thành, trách nhiệm, liêm chính, sáng tạo”; “Cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động thi đua thực hiện văn hóa công sở”; “Thi đua xây dựng cơ quan,
đơn vị văn minh, hiện đại, xanh, sạch đẹp”

Hai là tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng, vận
động đoàn viên công đoàn tích cực tìm hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước, Nghị quyết của các cấp Công đoàn. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủy,
của Chính quyền đối với hoạt động của Công đoàn để thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao; định hướng tổ chức các phong trào hoạt động, phong trào thi
đua phù hợp, sát với yêu cầu nhiệm vụ chính trị

Ba là tạo điều kiện để Công đoàn phát huy tính sáng tạo, chủ động trong tham mưu
đề xuất tổ chức các hoạt động. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong
lãnh đạo công tác công đoàn, đảm bảo vai trò lãnh đạo trực tiếp và toàn diện. Nêu
cao tính tiên phong gương mẫu; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong tổ
chức Công đoàn. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác Công đoàn

Bốn là xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh; đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu
quả nội dung sinh hoạt và phương thức hoạt động. Đa dạng hóa các mô hình sinh
hoạt, phương thức tập hợp, vận động đoàn viên; thường xuyên nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của đoàn viên công đoàn để phối hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng cho đoàn viên

Năm là quan tâm, tạo điều kiện để các đoàn thể phối hợp tổ chức các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể thao; công tác nữ công; công tác từ thiện nhân đạo; đồng
thời chỉ đạo hoạt động nhằm tuyên truyền kỷ niệm ngày lễ lớn trong năm tạo bầu
không khí sôi nổi, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong cơ quan từ đó góp
phần trở thành đoàn viên công đoàn tích cực hăng say lao động hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao

You might also like