Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ

MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


Họ và tên: Nguyễn Thị Huyền Trâm
Mã sinh viên: 22F7510529
CÂU HỎI

Câu 1: Tại sao nói Việt Nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là tất yếu khách
quan?
Câu 2: Phân tích chức năng của gia đình và rút ra ý nghĩa đối với việc xây dựng gia đình
ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay.

BÀI LÀM
Câu 1: Trong bối cảnh, khi mà chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng, phong trào
cách mạng thế giới đứng trước những thử thách đầy cam go, những người hoang mang,
dao động về lý tưởng đã “khuyến cáo” Đảng Cộng Sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa xã hội.
Họ cho rằng một đất nước lớn mạnh như Liên Xô còn bị tan rã huống hồ gì là nước Việt
Nam bé nhỏ. Tuy nhiên, lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực
tiễn phát triển của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ
hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, đồng thời chứng minh rằng, nước ta quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến
bộ của thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Trong xu thế vận động chung
đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu
thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước
phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Điều đó được lý giải bởi
những lẽ sau:

Thứ nhất, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của
các hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH). Song, không phải hình thái này kết thúc hoàn
toàn rồi hình thái tiếp sau mới ra đời. Giữa hình thái kinh tế - xã hội cũ bị thay thế và
hình thái kinh tế - xã hội mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp,
đó là “thời kỳ quá độ”. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là CNXH,
một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng đòi
hỏi phải trải qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va
vấp, đổ vỡ tạm thời
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể
nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian
và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong
chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến
cao theo một trình tự sơ đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH
nào đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của
từng nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan.

Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ
qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
Một là, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho
lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới
của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều
kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.
Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài
người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn
minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật
khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN
mà sự lựa chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta là nước đã giành được độc
lập dân tộc, có chính quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những
thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh
CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong
khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên
CNXH ở nước ta.
Hai là, sự lựa chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước
ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và
thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật,
công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế
TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật
giá trị thì sẽ hình thành CNTB, dẫn đến những hậu quả như: Chính quyền do chính nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới
giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị
bóc lột và khó có thể thực hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người,
hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không
đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc dù
CNTB đang có sự Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên
cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các
thành phần kinh tế, của toàn xã hội...” điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất
công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì
CNTB không thể không bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với
lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên
cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên
minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân
dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không
ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông
dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”

Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta
chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào đấu
tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và
cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả
các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong
kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, tư sản, đều
được lịch sử khảo nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời,
nhanh chóng gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng
Việt Nam không ngừng phát triển đi lên.

Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai lầm
nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản lĩnh khoa học,
Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do nguyên nhân thiếu kinh nghiệm
và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh
nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước
xác định rõ hơn con đường quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư
duy về kinh tế, Đảng đã xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây
dựng Đảng là then chốt và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên
con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII của Đảng đã
nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng
là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”. Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả
từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu
thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở
Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách
quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách
mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta.
( Trích nguồn: https://tuyengiao.vn/qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-mot-tat-yeu-lich-su-
119346)

Câu 2:
Có nhiều quan điểm khác nhau về gia đình và vai trò của gia đình, như nhà nghiên
cứu Nguyễn Quốc Tuấn dưới góc độ luật học thì cho rằng: "Gia đình là một tập hợp dựa
trên các quan hệ về hôn nhân và huyết thống và về nuôi dưỡng đã gắn bó những người có
quan hệ với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ về tài sản và nhân thân, bởi sự cộng đồng về
đạo đức và vật chất, để tương trợ nhau, cùng làm kinh tế chung và nuôi dạy con cái". Còn
theo tác giả Lê Thi thì quan niệm: Gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình
thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và
cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội, ngoại). Đồng thời gia đình cũng
có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết
thống. Các thành viên trong gia đình gắn bó về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn
hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được Nhà nước thừa
nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật Hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời,
trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong
quan hệ tình dục giữa các thành viên.
Từ nhiều góc độ khác nhau, có thể hiểu: Gia đình là tế bào của xã hội, một thiết chế
xã hội tồn tại bền vững, gắn bó với nhau trên cơ sở kết hợp những thành viên khác giới
của bố mẹ, thông qua hôn nhân không cùng huyết thống để tái sản xuất nòi giống; hoặc
thông qua quan hệ nuôi dưỡng (con nuôi...) cùng làm kinh tế, nuôi dạy con cái trưởng
thành, hiếu thảo, biết thương yêu mọi người, có trách nhiệm; trở thành người công dân có
đạo đức, học vấn, nghề nghiệp, văn hóa và tạo dựng cuộc sống gia đình no ấm, hòa thuận,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Vai trò của gia đình là một trong những nội dung then chốt của việc nghiên cứu về
gia đình. Gia đình là cách thức cơ bản thỏa mãn các nhu cầu sống, sinh hoạt và phát triển
của gia đình trong quan hệ với xã hội. Các nghiên cứu về gia đình dù xét trên cấp độ vĩ
mô, hay xét ở cấp độ vi mô thì gia đình có những vai trò cụ thể. Gia đình được tạo lập,
tồn tại và phát triển chính là do nó có sứ mệnh đảm đương những vai trò đặc biệt mà xã
hội và tự nhiên đã trao cho, không một thiết chế xã hội nào thay thế được. Quan hệ giữa
gia đình và xã hội cũng như quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình
thông qua việc thực hiện các chức năng gia đình.
Mặt khác, gia đình là một phạm trù lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ
xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình tương ứng, xây dựng một kiểu gia đình lý tưởng
phù hợp với những vai trò lịch sử của xã hội của đó. ở thời tiền sử Mác và Ăngghen đã
khẳng định: Gia đình "là quan hệ xã hội duy nhất". Khi đó, gia đình có vai trò vừa là
cộng đồng lao động, vừa là cộng đồng sinh hoạt, là khuôn khổ tồn tại của xã hội, vai trò
và chức năng của gia đình cũng đồng thời là vai trò và chức năng của xã hội (gia đình -
xã hội sơ khai), thực hiện chức năng gia đình cũng là thực hiện chức năng xã hội và
ngược lại. Khi xã hội ngày càng phát triển gắn liền với quá trình phân công lao động xã
hội dẫn đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với xã hội, thậm chí có sự đối lập
giữa gia đình và xã hội tuy trong các xã hội thị tộc, bộ lạc, sự đối lập giữa gia đình và xã
hội còn rất mờ nhạt nhưng đến khi có sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa thì sự đối lập đó chỉ có thể trở thành phổ biến. Với sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự biến đổi thì vai trò, chức năng của gia đình như là kết quả
của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khi bàn về vai trò và chức năng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay có thể thấy qua 5 chức năng chủ yếu như sau:
Một là: Chức năng sinh đẻ (tái sản xuất ra con người).
Gia đình bắt đầu hình thành khi thực hiện nhu cầu hôn nhân (trong đó có tình dục
giữa cha và mẹ - hai nhân vật chính đầu tiên kiến tạo nên gia đình), từ đó thực hiện chức
năng sinh con đẻ cái, duy trì nòi giống, tái sản xuất ra con người. Tái sản xuất ra con
người theo nghĩa hẹp là sinh con đẻ cái, theo nghĩa rộng bao hàm cả nuôi dưỡng và giáo
dục của gia đình. Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên hai cơ sở quan trọng là tái sản xuất
ra của cải vật chất và tái sản xuất ra chính bản thân con người. Sự tồn tại của loài người
phụ thuộc vào quá trình tái sản xuất này của gia đình. Việc tái sản xuất ra thế hệ tương
lai, một mặt đáp ứng yêu cầu cung cấp lực lượng lao động mới cho xã hội, mặt khác đáp
ứng và thỏa mãn nhu cầu của chính gia đình. Con cái trở thành chỗ dựa, nguồn tình cảm
của ông bà, cha mẹ và của cả dòng tộc.
Hai là: Chức năng kinh tế (sản xuất các giá trị vật chất)
Cùng với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, gia đình trở thành một đơn vị kinh
tế. Gia đình là một đơn vị có chung tài sản, trước hết về mặt vật chất và sáng tạo ra các
tài sản đó thông qua hành vi sản xuất, làm kinh tế. Đây là một nền tảng vật chất không
thể thiếu của gia đình. Tất nhiên, mức độ biểu hiện của chức năng này rất khác nhau
trong tiến trình lịch sử.
Ba là: Chức năng tiêu dùng
Trong hoạt động sống, gia đình luôn thực hiện việc tiêu dùng của gia đình để đáp
ứng các nhu cầu hàng ngày về ăn, uống, mặc, ở, đi lại, học hành, giải trí... của các thành
viên gia đình. Gia đình không chỉ là một đơn vị sản xuất, mà còn là một đơn vị tiêu dùng.
Gia đình trở thành nơi nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, tổ chức việc tiêu dùng vật chất và
hưởng thụ các sản phẩm văn hóa sau giờ lao động.
Bốn là: Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Gia đình là nơi nuôi dưỡng và trường học đầu tiên tác động đến con người về nhiều
mặt (thể chất, văn hóa, trí tuệ, xã hội, lao động…).
Giáo dục xã hội và giáo dục nhà trường là những yếu tố quyết định để định hướng
sự phát triển nhân cách. Tuy nhiên, giáo dục gia đình lại có vai trò quan trọng đầu tiên
trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Nội dung giáo dục gia đình bao
gồm các yếu tố của văn hóa gia đình, văn hóa cộng đồng, nhằm tạo lập và phát triển nhân
cách của con người như: đạo đức, lối sống, ứng xử, tri thức, lao động và khoa học. Giáo
dục gia đình được thực hiện trong suốt quá trình sống của con người với những hình thức
và nội dung giáo dục cụ thể, phong phú.
Năm là: Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm - sinh lý
Trong quá trình sống của con người, nhiều vấn đề tâm - sinh lý thuộc giới tính, thế
hệ... luôn diễn ra trong phạm vi gia đình mà trước hết là trong quan hệ giữa vợ và chồng,
giữa cha mẹ và con cái. Bởi vậy, sự hiểu biết tâm - sinh lý cá nhân, sở thích của nhau để
ứng xử phù hợp, tế nhị, chân thành, tạo nên không khí tinh thần lành mạnh, ổn định, hài
hòa là vấn đề quan trọng mà gia đình phải và có thể đảm nhận.
Như vậy, gia đình là thiết chế đa chức năng. Thông qua việc thực hiện các vai trò,
chức năng trên đây mà gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến tiến độ chung
của cộng đồng (làng, xã, khu phố...) và xã hội. Các chức năng thực hiện trong sự thúc
đẩy, hỗ trợ lẫn nhau. Dĩ nhiên, việc phân chia các chức năng của gia đình chỉ là tương
đối. ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, những nội dung của mỗi chức năng được biến đổi
phù hợp với những điều kiện cụ thể, với quá trình phát triển xã hội. Do đó, trong quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm sớm đưa nước ta trở thành một nước phát triển thì việc
xây dựng gia đình có vai trò hết sức quan trọng và cần được các cấp, các ngành và các địa
phương quan tâm, cũng như có chính sách phù hợp cho sự phát triển tiến bộ, công bằng
và thịnh vượng của gia đình.
Qua đó, ta có thể thấy rằng, việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và
hạnh phúc ở Việt Nam hiện nay là vô cùng quan trọng bởi nó mang nhiều ý nghĩa nhân
sinh đẹp đẽ. Đầu tiên, gia đình là cơ sở của xã hội, là nơi mọi người bắt đầu hình thành
tính cách và giá trị. Một gia đình ấm nó có thể tạo ra những cá nhân tích cực, có tinh thần
hòa hợp và trách nhiệm, từ đó góp phần vào sự phát triển của xã hội. Thứ hai, gia đình
như một nguồn động lực mang tinh thần đoàn kết và hỗ trợ: Gia đình là nơi tạo ra một
môi trường đoàn kết và hỗ trợ, giúp các thành viên vượt qua khó khăn và thách thức
trong cuộc sống. Từ đó, tạo ra những thế hệ tiếp theo mạnh mẽ bởi gia đình ấm nó giúp
nuôi dưỡng và phát triển những thế hệ tiếp theo với đầy đủ tài năng và kỹ năng cần thiết
để đối mặt với thế giới hiện đại. Đóng góp vào sự ổn định và phát triển của đất nước:
Những gia đình hạnh phúc và bình đẳng là cơ sở cho sự ổn định và phát triển của đất
nước. Họ tạo ra một môi trường xã hội tích cực, khuyến khích sự hòa bình và sự phát
triển bền vững. Gia đình còn là trái tim của xã hội, không chỉ là nơi nuôi dưỡng tình yêu
và sự quan tâm, mà còn là nơi truyền đạt các giá trị văn hóa và truyền thống từ thế hệ này
sang thế hệ khác.Tóm lại, việc xây dựng gia đình ấm nó, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc
không chỉ là lợi ích cho các cá nhân và gia đình mà còn đóng góp quan trọng vào sự phát
triển bền vững của xã hội và đất nước.
( Nguồn tham khảo: http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/gia-dinh-va-vai-tro-
chuc-nang-cua-gia-dinh-trong-qua-trinh-phat-trien-cua-xa-hoi-296.html )

You might also like