Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 80

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


---------------------

Hoàng Việt Linh

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HÀM LƯỢNG KIM LOẠI


NẶNG TRONG MỘT SỐ ĐỘNG VẬT THÂN MỀM HAI
MẢNH VỎ Ở VỊNH HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH.

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Hoàng Việt Linh

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HÀM LƯỢNG KIM LOẠI


NẶNG TRONG MỘT SỐ ĐỘNG VẬT THÂN MỀM HAI
MẢNH VỎ Ở VỊNH HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH.

Chuyên ngành: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG


Mã số: 8440301.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : GS. TS. NGUYỄN XUÂN CỰ

Hà Nội - 2019
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... 4


T
7
4 T
7
4

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. 5


T
7
4 T
7
4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT................................................................................... 6


T
7
4 T
7
4

DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... 7


T
7
4 T
7
4

DANH MỤC HÌNH .................................................................................................... 8


T
7
4 T
7
4

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 9
T
7
4 T
7
4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ........................................................... 11


T
7
4 T
7
4

1.1. Tổng quan về kim loại nặng. .............................................................................. 11


T
7
4 T
7
4

1.1.1. Nguồn gốc phát sinh........................................................................................ 11


T
7
4 T
7
4

1.1.1.2. Độc tính của kim loại nặng. ......................................................................... 11


T
7
4 T
7
4

1.2 . Tình hình ô nhiễm kim loại nặng của Việt Nam và thế giới. ............................ 16
T
7
4 T
7
4

1.3. Tổng quan về động vật thân mềm hai mảnh vỏ ……........................................17
T
7
4 T
7
4

1.3.1. Nghiên cứu tích lũy KLN trong động vật thân mềm hai mảnh vỏ trên thế giới.18
T
7
4 T
7
4

1.3.2. Nghiên cứu tích lũy KLN trong các động vật thân mềm hai mảnh vỏ ở Việt
T
7
4

Nam. .......................................................................................................................... 22
T
7
4

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 25


T
7
4 T
7
4

2.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: .................................................. 25


T
7
4 T
7
4

2.2. NỘI DUNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .................................................. 25


T
7
4 T
7
4

2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...................................................................... 25


T
7
4 T
7
4

2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp. ............................................................ 25


T
7
4 T
7
4

2.3.2. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa. ........................................................ 26


T
7
4 T
7
4

2.3.2.1. Phương pháp lấy mẫu. .................................................................................. 27


T
7
4 T
7
4

2.3.2.2. Phương pháp bảo quản mẫu ......................................................................... 27


T
7
4 T
7
4

2.3.3. Phương pháp phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm. .................................... 27
T
7
4 T
7
4

2.3.3.1. Quy trình xử lý mẫu. .................................................................................... 27


T
7
4 T
7
4

2.3.3.2. Phương pháp phân tích. ................................................................................ 28


T
7
4 T
7
4

2.3.3.2.1. Vô cơ hóa mẫu bằng phương pháp lò nung: ............................................. 29


T
7
4 T
7
4

2.3.2.3.2. Xây dựng đường chuẩn ............................................................................ 29


T
7
4 T
7
4

1
2.3.2.3.3. Tính toán kết quả. ...................................................................................... 30
T
7
4 T
7
4

2.3.4. Phương pháp xử lý số liệu. .............................................................................. 30


T
7
4 T
7
4

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 32


T
7
4 T
7
4

3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VÙNG VEN BIỂN VỊNH
T
7
4

HẠ LONG ................................................................................................................. 32
T
7
4

3.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................................... 32


T
7
4 T
7
4

3.1.1.1. Vị trí ............................................................................................................. 32


T
7
4 T
7
4

3.1.1.2. Địa chất, địa hình, địa mạo........................................................................... 33


T
7
4 T
7
4

3.1.1.3. Khí hậu ......................................................................................................... 34


T
7
4 T
7
4

3.1.1.4. Thủy văn – Hải văn ...................................................................................... 35


T
7
4 T
7
4

3.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội ................................................................................. 36


T
7
4 T
7
4

3.1.2.1. Dân cư .......................................................................................................... 36


T
7
4 T
7
4

3.1.2.2. Kinh tế .......................................................................................................... 37


T
7
4 T
7
4

3.2. HIỆN TRẠNG NƯỚC BIỂN VỊNH HẠ LONG............................................... 44


T
7
4 T
7
4

3.2.1. Ô nhiễm chất hữu cơ ....................................................................................... 44


T
7
4 T
7
4

3.2.2. Ô nhiễm kim loại nặng. ................................................................................... 46


T
7
4 T
7
4

3.3.2.1. Chì (Pb): ....................................................................................................... 47


T
7
4 T
7
4

3.2.2.2. Thuỷ ngân (Hg) ............................................................................................ 48


T
7
4 T
7
4

3.3.2.3. Một số kim loại khác .................................................................................... 49


T
7
4 T
7
4

3.3. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ Ô NHIỄM KIM LOẠI NẶNG TRONG CÁC MẪU
T
7
4

ĐỘNG VẬT THÂN MỀM HAI MẢNH VỎ Ở VỊNH HẠ LONG. ........................ 51 T


7
4

3.1.1. Hàm lượng Cd ................................................................................................. 53


T
7
4 T
7
4

3.3.2. Hàm lượng Pb ................................................................................................. 53


T
7
4 T
7
4

3.3.3 Hàm lượng As ................................................................................................. 54


T
7
4 T
7
4

3.3.4. Hàm lượng Hg. ................................................................................................ 55


T
7
4 T
7
4

3.3.5. So sánh hàm lượng Kim loại nặng trong Ngao và Sò. ................................... 55
T
7
4 T
7
4

3.3.6. Tương quan giữa hàm lượng Kim loại nặng trong động vật thần mềm hai
T
7
4

mảnh vỏ so với trầm tích. .......................................................................................... 57


T
7
4

3.4. NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM KLN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP. ...... 62
T
7
4 T
7
4

3.4.1. Nguyên nhân gây ô nhiễm KLN.. ................................................................... 62


T
7
4 T
7
4

3.4.1.1. Sức ép dân số ven biển ................................................................................. 62


T
7
4 T
7
4

2
3.4.1.2. Sự phát triển du lịch ..................................................................................... 62
T
7
4 T
7
4

3.4.1.3. Sự phát triển của hệ thống cảng biển và giao thông vận tải......................... 63
T
7
4 T
7
4

3.4.1.4. Sông tải ra biển............................................................................................. 63


T
7
4 T
7
4

3.4.1.5. Sự phát triển của đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thủy sản........................ 64
T
7
4 T
7
4

3.4.2. Các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm KLN. ........................................................ 64


T
7
4 T
7
4

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 74


T
7
4 T
7
4

KẾT LUẬN: .............................................................................................................. 74


T
7
4 T
7
4

KIẾN NGHỊ .............................................................................................................. 75


T
7
4 T
7
4

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 77


T
7
4 T
7
4

TIẾNG VIỆT ................................................................................................ 77


T
7
4 T
7
4

TIẾNG ANH ................................................................................................. 78


T
7
4 T
7
4

3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng để bảo vệ lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Hạ Long, ngày… tháng năm 2019


Tác giả luận văn

Hoàng Việt Linh

4
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động viên của
bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được bày tỏ lòng kính trọng và
biết ơn sâu sắc tới Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Cự, người thầy đã tận tình hướng
dẫn, dành nhiều công sức, thời gian và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học
tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu và các thầy cô ở Khoa
môi trường- Đại học Khoa học Tự nhiên đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ viên chức Trung tâm Quan
trắc môi trường tỉnh Quảng Ninh đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn thành luận
văn./.
Hạ Long, ngày ... tháng năm 2019
Học viên

Hoàng Việt Linh

5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nghĩa tiếng việt


BVMT Bảo vệ môi trường
BĐKH Biến đổi khí hậu
Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bộ KH&CN Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ TN&MT Bộ Tài nguyên và Môi trường
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
KSONB Kiểm soát ô nhiễm biển
KT-XH Kinh tế - Xã hội
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
TN-MT Tài nguyên – Môi trường

6
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1 . Giới hạn cho phép của các thông số kim loại trong ngao. ............ 31
TU
7
4 T
7
4
U

Bảng 3.2: Nồng độ một số kim loại nặng tại vùng ven biển Hạ Long ........... 49
TU
7
4 T
7
4
U

Bảng 3.3: Thải lượng của các chất gây ô nhiễm đổ vào biển vùng Hải Phòng,
TU
7
4

Quảng Ninh ..................................................................................................... 50


T
7
4
U

Bảng 3.4: Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong các động vật
TU
7
4

thân mềm hai mảnh vỏ .................................................................................... 52


T
7
4
U

7
DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. Sơ đồ thể hiện khu vực lấy mẫu ..................................................... 26


TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.1. Bản đồ vùng ven biển thành phố Hạ Long ..................................... 32
TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.2. Các đảo đá tại Vịnh Hạ Long .......................................................... 33


TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.3. Nhiệt độ không khí trung bình các tháng tại Vịnh Hạ Long (ºC) ... 34
TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.4. Lượng mưa trung bình các tháng (mm) .......................................... 34
TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.5. Khai thác than ở Quảng Ninh.......................................................... 38


TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.6. Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh .................................................... 39


TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.7. Nhà máy đóng tàu Hạ Long ............................................................ 40


TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.8. Một góc tại cảng cá chợ Hạ Long I (cầu Bài Thơ) ......................... 45
TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.9. Ô nhiễm nước thải sinh hoạt và hoạt động du lịch khu vực nhà hàng
TU
7
4

nổi ven biển cột 5 ............................................................................................ 45


T
7
4
U

Hình 3.10. Nồng độ BOD 5 từ 6/2015 – 1/2016 tại các điểm quan trắc .......... 46
TU
7
4 R
U RU T
7
4
U

Hình 3.11. Nồng độ thủy ngân tại các điểm quan trắc.................................... 48
TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.12. Hàm lượng Cadimi trong Ngao và Sò vịnh Hạ Long. .................. 53
TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.13. Hàm lượng Pb trong sò và ngao. ................................................... 54


TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.14. Hàm lượng As trong sò và ngao ................................................... 54


TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.15. Hàm lượng Hg trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ.............................. 55
TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.16. Hàm lượng Thủy Ngân trong nước biển ở các khu vực Khảo sát 57
TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.17. Hàm lượng thủy ngân trong Sò ..................................................... 58


TU
7
4 T
7
4
U

Hình 3.18. Hàm lượng thủy ngân trong Ngao. ............................................... 58


TU
7
4 T
7
4
U

8
MỞ ĐẦU

Ngày nay , người ta đã khẳng định được rằng nhiều nguyên tố kim loại có
vai trò cực kỳ quan trọng đối với cơ thể sống và con người. Tuy nhiên nếu hàm
lượng lớn vượt giới hạn cho phép, kim loại nặng sẽ gây độc hại cho cơ thể. Sự thiếu
hụt hay mất cân bằng của nhiều kim loại vi lượng trong các bộ phận của cơ thể như
gan, tóc, máu, huyết thanh, ... là những nguyên nhân hay dấu hiệu của bệnh tật, ốm
đau hay suy dinh dưỡng và có thể gây tử vong. Thậm chí, đối với một số kim loại
người ta mới chỉ biết đến tác động độc hại của chúng đến cơ thể.
Kim loại nặng có thể xâm nhập vào cơ thể con người chủ yếu thông qua
đường tiêu hóa và hô hấp. Tuy nhiên, cùng với mức độ phát triển của công nghiệp
và sự đô thị hoá, hiện nay môi trường sống của chúng ta bị ô nhiễm trầm trọng. Vì
vậy các nguồn thải kim loại nặng từ các khu công nghiệp vào không khí, vào nước,
vào đất, vào thực phẩm rồi xâm nhập vào cơ thể con người qua đường ăn uống, hít
thở dẫn đến sự nhiễm độc. Do đó việc nghiên cứu và phân tích các kim loại nặng
trong môi trường sống, trong thực phẩm và tác động của chúng tới cơ thể con người
nhằm đề ra các biện pháp tối ưu bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng là một
việc vô cùng cần thiết. Trong đó đặc biệt nhu cầu về thực phẩm sạch, đảm bảo sức
khỏe đã trở thành nhu cầu thiết yếu, cấp bách và được toàn xã hội quan tâm.
Các loài động vật thần mềm hai mảnh vỏ như: Sò, ngao, hàu…cũng là một
trong những nguồn thực phẩm thiết yếu và được ưa chuộng ở nước ta, đặc biệt là
thức ăn hàng ngày của các tỉnh , thành phố miền biển như Vịnh Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh. Ngoài vai trò là thực phẩm, những động vật thân mềm hai mảnh vỏ
còn là nhưng sinh vật chỉ thị môi trường, cảnh báo ô nhiễm ở nhiều nước phát triển
như Pháp, Mỹ, Canada…
Trong những năm gần đây một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loài động vật
này có thể tích lũy một số chất ô nhiễm, đặc biệt là các kim loại nặng trong cơ thể
chúng với hàm lượng cao hơn nhiều lần so với hàm lượng ở môi trường bên ngoài.
Ô nhiễm kim loại nặng có khả năng tích tụ cao và khó đào thải, khi xâm nhập vào

9
cơ thể con người có thể gây ngộ độc thông qua chuỗi thức ăn . Hiện nay trên thế
giới, đã có nhiều nghiên cứu về sự tích tụ kim loại nặng có trong các động vật thân
mềm hai mảnh vỏ vậy nhưng ở Việt Nam nói chung và đặc biệt các địa phương có
biển, vấn đề này vẫn chưa được xem xét một cách chi tiết, cụ thể dưới góc nhìn
khoa học. Phần lớn các nghiên cứu vẫn chỉ xoay quanh hàm lượng kim loại nặng có
trong trầm tích, nước biển, cần có thêm những nghiên cứu về sinh vật để các nghiên
cứu có tính đồng bộ cả ba thành phần về môi trường. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên
chúng tôi chọn đề tài : “Xác định hàm lượng một số kim loại nặng trong động vật
nhuyễn thể ở khu vực Vịnh Hạ Long” nhằm :
- Đánh giá sự tích lũy một số kim loại nặng trong một số loài nhuyễn thể sống
ở khu vực vịnh Hạ Long.
- Xác định nguyên nhân sự tích lũy kim loại nặng trong môi trường khu vực
Vịnh.
- Đề xuất giải pháp quản lý, hạn chế tác hại của chúng đến sức khỏe người tiêu
dùng.
Để làm được điều đó, đề tài sẽ làm rõ những nội dung sau.
- Tìm hiểu được các yếu tố gây tác động lên hàm lượng kim loại nặng trong
nước.
- Xác định được hàm lượng kim loại nặng trong một số động vật thân mềm hai
mảnh vỏ ở vịnh Hạ Long.
- Xác định mối tương quan giữa hàm lượng kim loại nặng trong sinh vật thân
mềm hai mảnh vỏ với hàm lượng kim loại nặng trong trầm tích và nước biển.
- Đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm.
Nghiên cứu này giới hạn phạm vi nghiên cứu trên Vịnh Hạ Long chủ yếu
tập trung vào vùng biển ven bờ khu vực thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

10
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan về kim loại nặng.


1.1.1. Nguồn gốc phát sinh
Kim loại nặng là những kim loại có tỷ trọng lớn hơn 5g/cm3, bao gồm
một số kim loại như: As, Hg, Cu, Cr, Cd, Co, Pb, Hg, Sb, Mn…Những kim
loại nặng nguy hiểm nhất về phương diện gây ô nhiễm môi trường nước là
Hg, Cu, Pb, Cd, Hg, Ni, As và Cr. Trong số những kim loại này có Cu, Ni, Cr
và Hg là những nguyên tố vi lượng cần thiết cho sinh vật thủy sinh, chúng chỉ
gây độc ở nồng độ cao

Kim loại nặng hiện diện trong tự nhiên đều có trong đất và nước, hàm
lượng của chúng thường tăng cao do tác động của con người. Các kim loại do
hoạt động của con người như As, Cd, Cu, Ni và Hg thải ra ước tính là nhiều
hơn so với nguồn kim loại có trong tự nhiên, đặc biệt đối với chì 17 lần
Nguồn kim loại nặng đi vào đất và nước do tác động của con người bằng các con
đường chủ yếu như bón phân, bã bùn cống và thuốc bảo vệ thực vật và các con
đường phụ như khai khoáng và kỹ nghệ hay lắng đọng từ không khí (Lê Văn Khoa,
1995).
Kim loại nặng phát hiện ở mọi nơi, trong đá, đất và xâm nhập vào thủy
vực qua các quá trình tự nhiên, phong hóa, xói mòn, rửa trôi.
Sự gia tăng tích lũy kim loại trong môi trường không chỉ từ các nguồn tự
nhiên, mà còn từ hoạt động công nghiệp của con người. Việc đốt cháy các
nhiên liệu hóa thạch làm giải phóng khoảng 20 loại kim loại độc hại quan trọngvào
môi trường bao gồm asen, beri, cadimi, chì, và niken.
1.1.1.2. Độc tính của kim loại nặng.
Kim loại nặng không bị phân hủy sinh học, không độc khi ở dạng
nguyên tố tự do nhưng nguy hiểm đối với sinh vật sống khi ở dạng cation do khả
năng gắn kết với các chuỗi cacbon ngắn dẫn đến sự tích tụ trong cơ thể sinh vật

11
sau nhiều năm (Shahidul Islam Md, 2004). Đối với con người, có khoảng 12
nguyên tố kim loại nặng gây độc như chì, thủy ngân, nhôm, arsenic, cadmium,
nickel… Một số kim loại nặng được tìm thấy trong cơ thể và thiết yếu cho sức
khỏe con người, chẳng hạn như sắt, chì, coban, mangan, molipden và đồng mặc
dù với lượng rất ít nhưng nó hiện diện trong quá trình chuyển hóa. Tuy nhiên, ở
mức thừa của các nguyên tố thiết yếu có thể nguy hại đến đời sống của sinh vật.
Các nguyên tố kim loại còn lại là các nguyên tố không thiết yếu và có thể gây
độc tính cao khi hiện diện trong cơ thể, tuy nhiên tính độc chỉ thể hiện khi chúng
đi vào chuỗi thức ăn. Các nguyên tố này bao gồm thủy ngân, nickel, chì, asen,
cadimi, nhôm, platin và đồng ở dạng ion kim loại. Chúng đi vào cơ thể qua các
con đường hấp thụ của cơ thể như hô hấp, tiêu hóa và qua da. Nếu kim loại nặng
đi vào cơ thể và tích lũy bên trong tế bào lớn hơn sự phân giải chúng thì chúng
sẽ tăng dần và sự ngộ độc sẽ xuất hiện (Foulkes, 2000).
- Độc tính của Mangan (Mn):
Mn là kim loại có trong tự nhiên, mọi người đều bị nhiễm hàm lượng nhỏ Mn
có trong không khí, thức ăn, nước uống. Mn là kim loại vết cần thiết cho sức khỏe
con người. Mn có thể tìm thấy trong một số loại thức ăn, ngũ cốc, trong một số loài
thực vật như cây chè. Người bị nhiễm Mn trong một thời gian dài thường mắc các
bệnh thần kinh, rối loạn vận động, nhiễm độc mức hàm lượng cao kim loại này sẽ
gây các bệnh về hô hấp.
- Độc tính của Đồng (Cu):
Đồng được dùng nhiều trong sơn chống thấm nước trên tàu thuyền, các thiết bị
điện tử, ống nước. Nước thải sinh hoạt là nguồn chính đưa Cu vào nước. Cu tồn tại
ở hai dạng là: dạng hòa tan và các hạt nhỏ (Phạm Luận, 2004)[9]. Đồng cần thiết
cho chức năng hô hấp của nhiều sinh vật sống và các chức năng enzym khác. Cu
được lưu giữ trong gan tủy sống của người. Cu với hàm lượng quá cao sẽ gây hư
hại gan, thận, hạ huyết áp, hôn mê, đau dạ dày, thậm chí tử vong. Sò, ốc thường
tích tụ lượng lớn Đồng trong cơ thể của chúng.
- Độc tính của Chì (Zn)

12
Chì là nguyên tố cần thiết cho tất cả cơ thể sống, với con người hàng ngày cần
9 mg Hg cho các chức năng thông thường của cơ thể. Nếu thiếu Hg sẽ dẫn đến suy
giảm khứu giác, vị giác và suy giảm chức năng miễn dịch của cơ thể. Nguồn ô
nhiễm chì chính là công nghiệp luyện kim, công nghiệp pin, các nhà máy rác, các
sản phẩm chống ăn mòn, sơn, nhựa, cao su. Cơ thể con người có thể tích tụ Hg và
nếu Hg tích tụ với hàm lượng quá cao thì chỉ trong thời gian ngắn sẽ gây bệnh nôn
mửa, đau dạ dày. Nước chứa hàm lượng Hg cao rất độc đối sinh vật. Sò, ốc cũng tích
tụ một lượng lớn Hg trong cơ thể chúng.
- Độc tính của Asen (As)
Asen sinh ra từ các dây chuyền sản xuất hóa phẩm, nhà máy nhiệt điện dùng
than, có trong chất làm rụng lá, thuốc sát trùng, một số loại thủy tinh, chất bảo quản
gỗ và thuốc bảo vệ thực vật. Sự tích tụ cũng như tác động của As đến cơ thể sống
phụ thuộc vào dạng tồn tại của nó. Trong khi các hợp chất As vô cơ rất độc cho hầu
hết cơ thể sống thì các hợp chất hữu cơ của nó chỉ gây độc nhẹ. Asen có thể gây nôn
mửa, phá hủy các phân tử ADN và gây ung thư. FAO/ WHO đã đưa ra giới hạn
chấp nhận được của hàm lượng As vô cơ hấp thu hàng tuần là 15µg/kg trọng lượng
cơ thể.
Asen được quy định là chất độc hại bảng A, tổ chức nghiên cứu ung thư thế
giới IARC đã xếp Asen vào nhóm các chất gây ung thư cho con người. Nhiễm độc
Asen gây ung thư da, làm tổn thương gan, gây bệnh dạ dầy, bệnh ngoài da, bệnh tim
mạch….
Asen xâm nhập vào cơ thể qua 2 con đường:
Đường tiêu hóa: Nhận được chủ yếu thông qua thực phẩm mà nhiều nhất là
trong đồ ăn biển đặc biệt là động vật nhuyễn thể. Hoặc do tiếp xúc với thuốc bảo vệ
thực vật, hóa chất, thuốc, nước uống có hàm lượng As cao…
Đường hô hấp: As lắng đọng trong không khí gây tác hại trực tiếp cho con người
qua đường hô hấp.
Ngoài ra, Asen còn xâm nhập vào cơ thể người qua tiếp xúc với da. Asen ở
các trạng thái tồn tại khác nhau thì cũng khác nhau về độc tính đối với sức khỏe con

13
người. Hàm lượng Asen 0.01 mg/kg có thể gây chết người. Các hợp chất As(III) có
độc tính mạnh nhất (thường gọi là thạch tín). Khi xâm nhập vào cơ thể As(III) sẽ
kết hợp với các nhóm - SH của Enzim trong người làm mất hoạt tính của chúng
(Phạm Kim Phương và cộng sự, 2008) .
- Độc tính của Cadimi (Cd)
Nguồn ô nhiễm Cd xuất phát từ ô nhiễm không khí, khai thác mỏ, pin Ni-
Cd, nhà máy luyện kim [15]. Nguồn chính thải Cd vào nước là các điện cực dùng
trên tàu thuyền. Cd tồn tại chủ yếu dưới dạng hòa tan trong nước.
Cadmi là nguyên tố rất độc. Giới hạn tối đa cho phép của cadmi (Carles
Sanchiz và cs, 2000) .
+ Trong nước : 0,01 mg/l (hay 10ppb),
+ Trong không khí : 0,001 mg/m3,
P P

+ Trong thực phẩm : 0,001- 0,5 mg/kg.


Trong tự nhiên cadmi thường được tìm thấy trong các khoáng vật có chứa
chì. Nhiễm độc cadmi gây nên chứng bệnh giòn xương. Ở nồng độ cao, cadmi gây
đau thận, thiếu máu và phá huỷ tuỷ xương.
Phần lớn cadimi thâm nhập vào cơ thể con người được giữ lại ở thận (khoảng
1%), phần còn lại được đào thải, do cadmi liên kết với protein tạo thành
metallotionein có ở thận. Phần còn lại được giữ lại trong cơ thể và dần dần được
tích luỹ cùng với tuổi tác. Khi lượng cadmi được tích trữ lớn, nó có thể thế chỗ ion
Hg2+ trong các enzim quan trọng và gây ra rối loạn tiêu ho á và các chứng bệnh rối
P P

loạn chức năng thận, thiếu máu, tăng huyết áp, phá huỷ tuỷ sống, gây ung thư .
Nhiễm độc cấp tính Cd có các triệu chứng giống như cúm, sốt, đau đầu, đau
khắp mình mẩy. Nhiễm độc mãn tính Cd gây ung thư (phổi, tuyến tiền liệt). EU đã
đưa ra giới hạn trên của Cd là 1,0 mg/ kg trọng lượng tươi Sò, ốc loại dùng làm thực
phẩm cho người [37].
- Độc tính của Chì (Pb)
Pb có trong vũ khí đạn dược, gốm sứ, xăng dầu, thủy tinh chì. Chì cũng được
dùng nhiều trong vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí, pin. Pb tác động đến hệ thần

14
kinh, làm giảm sự phát triển não của trẻ nhỏ, gây rối loạn nhân cách ở người lớn,
giảm chỉ số thông minh (IQ). Nó gây áp huyết cao, bệnh tim, gan và bệnh thận mãn
tính.Sò, ốc hấp thụ Pb từ nước, thức ăn phản ánh mức độ ô nhiễm môi trường EU đã
đưa ra giới hạn trên cho hàm lượng Pb trong Sò, ốc là 1,5 mg/kg trọng lượng tươi
(loại dùng làm thực phẩm cho người) .
Trong sản xuất công nghiệp thì Pb có vai trò quan trọng, nhưng đối với cơ
thể thì chưa chứng minh được Pb có vai trò tích cực gì. Song độc tính của Pb và các
hợp chất của nó đối với cơ thể người và động vật thì quá rõ. Không khí, nước và
thực phẩm bị ô nhiễm Pb đều rất nguy hiểm cho mọi người, nhất là trẻ em đang
phát triển và động vật. Chì có tác dụng âm tính lên sự phát triển của bộ não trẻ em,
Pb ức chế mọi hoạt động của các enzym, không chỉ ở não mà còn ở các bộ phận tạo
máu, nó là tác nhân phá hủy hồng cầu.
Khi hàm lượng Pb trong máu khoảng 0,3 ppm thì nó ngăn cản quá trình sử
dụng oxi để oxi hóa glucoza tạo ra năng lượng cho quá trình sống, do đó làm cho cơ
thể mệt mỏi. Ở nồng độ cao hơn (>0,8 ppm) có thể gây nên thiếu máu do thiếu
hemoglobin. Hàm lượng chì trong máu nằm trong khoảng (>0,5- 0,8 ppm) gây ra sự
rối loạn chức năng của thận và phá hủy não. Xương là nơi tàng trữ, tích tụ chì trong
cơ thể, ở đó chì tương tác với photphat trong xương rồi truyền vào các mô mềm của
cơ thể và thể hiện độc tính của nó.
Vì thế tốt nhất là tránh những nơi có Pb ở bất kì dạng nào, đồng thời trong
dinh dưỡng chú ý dùng loại thực phẩm có hàm lượng Pb dưới quy định cho phép và
có đủ Ca và Mg để hạn chế tác động của Pb. Vì dù chúng ta không muốn thì cũng
luôn có một lượng Pb rất nhỏ nhất định vẫn thâm nhập vào cơ thể của chúng ta qua
đường ăn uống và hít thở. Vì thế nên uống sữa, ăn nhiều rau xanh, các loại thực
phẩm và đồ uống giàu vitamin B1 và vitamin C thì có lợi cho việc chống lại và hạn
chế ảnh hưởng của Pb đối với cơ thể.
Do vậy người ta bị ngộ độc không những với hàm lượng cao của kim loại
nặng mà cả khi với hàm lượng thấp và thời gian kéo dài sẽ đạt đến hàm lượng
gây độc. Tính độc hại của các kim loại nặng được thể hiện như sau :

15
 Một số kim loại nặng có thể bị chuyển từ độc thấp sang dạng độc cao
hơn trong một vài điều kiện môi trường, ví dụ thủy ngân.
 Sự tích tụ và khuếch đại sinh học của các kim loại này qua chuổi thức
ăn có thể làm tổn hại các hoạt động sinh lý bình thường và sau cùng gây nguy
hiểm cho sức khỏe của con người.
 Tính độc của các nguyên tố này có thể ở một nồng độ rất thấp khoảng
0.1-10 mg/L
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ trích giới thiệu độc tính của một
số kim loại thuộc chương trình nghiên cứu đánh giá môi trường của EU
cũng như của nhiều quốc gia khác trên thế giới.
1.2. Tình hình ô nhiễm kim loại nặng của Việt Nam và thế giới.
Các khu vực khai thác mỏ, khoáng sản, các khu công nghiệp và các
thành phố lớn là những nguồn phát thải ra một lượng lớn KLN, chúng có khả
năng tồn tại trong môi trường, vấn đề không đáng lo ngại nhiều nếu chúng
không xâm nhập được vào cơ thể sinh vật và hệ sinh thái. Điều đáng quan tâm
là KLN có tính bền vững khó phân hủy, có khả năng xâm nhập và tích lũy đến
mức độ gây độc cho con người, sinh vật và hệ sinh thái.
Từ mức độ nhiễm chì trong đất trồng đến các độc tố trong nước và
không khí bị nhiễm phóng xạ, Học viện Blacksmith đã đưa ra các khu vực
"thảm họa sinh thái học’’ của thế giới.
Năm 2000, vụ tai nạn hầm mỏ xảy ra tai công ty Aurul (Rumani) đã thải
ra 50-100 tấn xianua và kim loại nặng (như đồng) vào dòng sông gần Baia
Mare(thuộc vùng Đông- Bắc). Sự nhiễm độc này đã khiến các loài thuỷ sản ở
đây chết hàng loạt, tổn hại đến hệ thực vật và làm bẩn nguồn nước sạch, ảnh
hưởng đến cuộc sống của 2,5 triệu người.
Ở các khu vực luyện kim, vùng khai thác Pb thì hàm lượng Pb trong
đất khoảng 1500 µg/g, cao gấp 15 lần so với mức độ bình thường như khu
vực xung quanh nhà máy luyện kim ở Galena, Kansas (Mỹ), hàm lượng chì
trong đất 7600 µg/g. Hàm lượng Pb trong bùn cống, rãnh ở một số thành phố

16
công nghiệp tại Anh dao động từ 120 µg/g - 3000 µg/g (Berrow và Webber,
1993), trong khi tiêu chuẩn cho phép tại đây là không quá 1000 (µg/g)
Ở nước ta trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của công
nghiệp và đô thị đã làm gia tăng KLN vào môi trường nước. Theo kết quả
quan trắc và phân tích môi trường, ở các vùng ven biển gần các thị trấn và
trung tâm công nghiệp hàm lượng các KLN như Cu, Pb, Cd, Co lớn hơn
nhiều so với mức tự nhiên của chúng có trong môi trường.
Các điều tra sơ bộ ở một số địa phương cho thấy, hàm lượng Asen trong
nước ngầm ở nhiều nơi vượt quá tiêu chuẩn cho phép đối với nước ăn uống và
sinh hoạt. Hàm lượng Asen ở một số điểm cao hơn gấp nhiều lần mức cho
phép như Quỳnh Lôi (Hạ Long) gấp 30 lần, Lâm Thao (Phú Thọ) gấp 50 – 60
lần, Lý Nhân (Bình Lục, Hà Nam) gấp 50 lần.
Riêng tại Hạ Long, 69% mẫu nước tầng trên và 48% mẫu nước tầng dưới
được kiểm nghiệm có nồng độ Asen cao hơn tiêu chuẩn. Tỷ lệ Asen trong
nước sông Khu vựcng và các khu vực khu khu vực ngoại thành cũng không đủ tiêu
chuẩn làm nước ăn uống và sinh hoạt (Hoàng Thanh Hải, 2013) .
Do phát triển các hoạt động công nghiệp, khai thác khoáng sản, sản xuất
nông nghiệp và phát triển đô thị dẫn đến một số lưu vực sông đã có dấu hiệu ô
nhiễm kim loại nặng khá nghiêm trọng, như trên sông Nhuệ - Đáy một số cơ sở
sản xuất cơ khí đã thải ra môi trường với hàm lượng KLN vượt TCCP rất nhiều
lần: Cr (IV) 420 lần, Cr (III) 18 – 100 lần, Pb 6 – 24 lần, Hg 6 – 32 lần gây ảnh
hưởng lớn đến hệ sinh thái, hoạt động sản xuất và sức khỏe người dân (Nguyễn
Kim Thùy, 2011)
1.3. Tổng quan về tình hình nghiên cứu sự tích lũy kim loại nặng ở động
vật thân mềm hai mảnh vỏ trong nước và trên thế giới
Bivalvia theo tiếng La-tinh có nghĩa là hai mảnh vỏ, một số tác giả sử dụng
tên Pelecypoda theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là chân hình rìu. Đặc điểm
nhận dạng là có hai mảnh vỏ và cơ thể dẹp bên. Bivalvia là lớp lớn thứ hai

17
trong ngành Mollusca, với hơn 7.000 loài bao gồm Sò(clam), Điệp (scallop),
Vẹm (mussel) và Hàu (oyster).
Động vật hai mảnh thường được sử dụng để đánh giá ô nhiễm kim loại
nặng vì chúng đã được định loại rõ ràng, dễ nhận dạng, có kích thước vừa phải,
số lượng nhiều, dễ tích tụ chất ô nhiễm, có đời sống tĩnh tại và có khả năng
sống dài.
Loài hai mảnh vỏ là một thành phần quan trọng của hệ sinh vật đáy có đời
sống tĩnh, phân bố rộng, kích thước tương đối lớn, việc lấy mẫu dễ dàng.
Các KLN tích lũy trong bộ phận cơ thể được hấp thụ từ bùn đáy, nước và thức
ăn, nên chúng có thể phản ánh được mức độ và sự tác động của ô nhiễm kim
loại nặng đến môi trường và hệ sinh thái.
1.3.1. Nghiên cứu tích lũy KLN trong động vật thân mềm hai mảnh vỏ
trên thế giới.
Từ những năm 40 của thế kỷ XX, đã có những nghiên cứu về sự tích lũy
của KLN trong mô của các loài động vật thân mềm. Sự tập trung cao của hàm
lượng dạng vết của các KLN được tìm thấy trong một vài loài nhuyễn thể hai
mảnh vỏ. Nghiên cứu của Goldberg (1975) và Phillips (1976), loài Mytilus
galloprovincialis được sử dụng rộng rãi như sinh vật chỉ thị ô nhiễm ở các khu
vực ven biển dựa trên khả năng tích lũy các kim loại Hg, Cd, Pb, Hg, Cu, Ni,
Mn, Cr. Nghiên cứu của Aysun Turkmen và cộng sự ở Vịnh Iskenderun, Thổ
Nhĩ Kỳ cho thấy có sự tích lũy khá cao các kim loại như Hg, Ni, Cd, Fe, Cu,
Cd, Mn, Cr, Co ở hai loài Chama pacifica và Ostrea stentina.
Theo nghiên cứu của L.Rojas de Astudillo và cs. (2005) ở vùng biển của
Trinidad và Venezuela nghiên cứu về sự tích lũy KLN trong 2 loài
Crassostrea spp và Perna viridis cho thấy có sự tích lũy các kim loại Cd, Cu,
Cr, Hg, Ni, Hg trong mô cơ thể chúng.
Vấn đề nghiên cứu về sinh vật tích tụ còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Theo
nghiên cứu của Đào Việt Hà (2002), hàm lượng KLN trong Vẹm xanh (Perna
viridis) tại Đầm Nha Phu (Khánh Hòa) là: từ 0,003 - 0,21 ug/g (tính theo khối

18
lượng tươi) đối với Cd; từ 0,14 - 1,114 ug/g đối với Pb; và từ 0,54 - 1,81 ug/g
đối với Cu.
Patel và Anthony (1991) nghiên cứu ảnh hưởng của muối cadmium vô cơ
(chloride, nitrate, sulfate, carbonate, acetate vae iodide) và muối hữu cơ (EDTA,
NTA và acid hữu cơ) lên 6 loài hai mảnh vỏ Bivalvia nhiệt đới: Anadara granosa,
A. rhombea, Meretrix casta, Katelysia opima perna viridis và P. indica ở phía Nam
Ấn Độ. Sự tích tụ Cd xảy ra cao nhất ở lô thí nghiệm với CdSO4, giá trị LC50 96
giờ đạt cao nhất với CdCl2 (3,5µg/ml). Tích tụ Cd có tương quan tuyến tính với
thời gian thí nghiệm và đạt cao nhất ở lô thí nghiệm với Anadara kế đến là Meretrix
và Perna [24].
Sadiq, Zaidi và Alam (1992) xác định hàm lượng chì (Pb) tích tụ trong
cơ thể của Meretrix meretrix, trong bùn và trong nước biển ở vịnh Arabian.
Kết quả hàm lượng Pb tích tụ trong cơ thể Ngao biến động từ 0,01 -
2,91mg/kg, trong bùn là 1,12 - 23,57mg/kg và trong nước là 1,7 - 4,22µg/lít.
Sự tích tụ Pb trong cơ thể Ngao không có tương quan với khối lượng và chiều
dài cơ thể nhưng có tương quan với hàm lượng Pb trong bùn (trầm tích) [26].
Sadiq và Alam (1992) xác định mức tích tụ Hg của ngao dầu (Meretrix
meretrix) ở vịnh Arabian với các kích cỡ và nồng độ muối khác nhau. Kết quả
hàm lượng Hg trong mô của Ngao biến động từ 5-160µg/kg (theo khối lượng
tươi). Kích cỡ ngao và nồng độ muối ảnh hưởng đến sự tích tụ Hg [30].
Sadiq, Alam và Mohanna (1992) xác định sự tích tụ nickel (Ni) và
vanadium (V) của Meretrix meretrix (vịnh Arabian) sống trong các nồng độ
5 muối khác nhau. Hàm lượng Ni, V trong cơ thể Ngao biến động từ 0,35 -
2,61mg/kg và 0,13 - 0,35mg/kg [27].
Chin và Chen (1993) nghiên cứu sự tích tụ Hg trong cơ thể của ngao mật
(Meretrix lusoria) cho thấy khi nuôi Ngao trong môi trường có chứa Hg với
hàm lượng 5 và 50µg/lít thì mức tích tụ Hg trong cơ thể Ngao lần lượt là
4,247 - 7,084µg/g và 9,956- 13,643µg/g (tính theo khối lượng khô). Mức tích
tụ Hg trong mang và nội tạng cao hơn trong màng áo, cơ khép vỏ, chân và

19
trong máu. Hg tích tụ trong mang có tương quan tuyến tính với Hg trong nội
tạng [18].
Nghiên cứu về khả năng tích luỹ Hg trong ngao của Y. Modassir (2000)
cho rằng, tích luỹ Hg cao nhất ở mang của ngao và khả năng tích luỹ cao nhất
ở độ muối 30‰ (so với 10 và 20‰ ) [29]. Nghiên cứu của Sadiq và
Alam.(2005) cũng ghi nhận được kích thước ngao và độ muối nước biển ảnh
hưởng đến mức độ tích luỹ Hg.
Haw-Tarn Lin (2004) khảo sát về mức độ tích lũy kim loại nặng trong 83
mẫu động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ thu từ các vùng khác nhau ở Đài Loan
thấy hàm lượng As, Cd, Cr, Cu, Hg, Ni, Pb, Zn trong các mẫu động vật lần
lượt là 1,55; 0,15; 0,18; 13,1; 0,004; 0,37; 0,17; 5,03 mg/kg. Đáng chú ý là
hầu có hàm lượng Cu và Zn cao hơn các loài nhuyễn thể khác [22].
Theo Munir Zuya Lugal (2005) sử dụng những sinh vật tích tụ cụ
thể là các loài 2 mảnh vỏ làm sinh vật chỉ thị quan trắc là rất hiệu quả. Vì
chúng có khả năng tích lũy KLN trong mô cao hơn gấp rất nhiều lần so với
môi trường mà chúng sinh sống.
Wahi và cs (2009) đã nghiên cứu sự tích lũy và bài tiết kim loại nặng ở
ngao Meretrix meretrix trong điều kiện phòng thí nghiệm cho thấy; ngao
Meretrix meretrix có thể tích lũy Cu, Zn, Pb với tốc độ là 0,99; 21,80;
0,57µg/g mỗi ngày và tốc độ bài tiết là 0,42; 23,55; 1,01µg/g mỗi ngày [30].
Nghiên cứu về mối liên hệ và sử dụng nhuyễn thể hai mảnh vỏ làm sinh
vật chỉ thị cũng được nghiên cứu nhiều. Bắt đầu điển hình là nghiên cứu của
Buhlmark (2003) đã đánh giá tích luỹ kim loại của ngao ở vịnh Maputo (Thuỵ
Điển) và đề xuất ngao (Meretrix meretrix) làm sinh vật chỉ thị để đánh giá
giám sát kim loại nặng từ sông Matola chảy qua các khu công nghiệp vào
vịnh Maputo [20].
Trong nghiên cứu của Santosh, Henrique và cs (2008) về sử dụng một số
loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ (ngao, sò huyết, Ngao...) làm chỉ thị để quan trắc
kim loại nặng ở ven biển phía Đông Bắc vịnh Bengal (Ấn Độ) cho rằng tích

20
luỹ kim loại nặng ở mỗi bộ phận cơ thể và mỗi loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ là
khác nhau [28].
Moselhy (2006) khi nghiên cứu sự tích lũy Hg trong nhuyễn thể và một
số sinh vật khác thu được từ hồ Timsah và Bitter thấy rằng, hàm lượng Hg
trong thành phần ăn của nhuyễn thể hai mảnh vỏ là 5,38 - 69,59ng/g trọng
lượng ướt. Sự tích lũy Hg cao được ghi nhận ở các sinh vật thuộc hồ Timsah
nơi mà nước thải nhận được từ các nguồn ô nhiễm khác nhau. Hàm lượng Hg
cao cũng được xác định trong nội tạng của các sinh vật, đặc biệt là ở gan. Kết
quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ Paphia
undulata có thể được sử dụng như một sinh vật chỉ thị về sự ô nhiễm Hg [19].
Nghiên cứu của Sarkar và cs (2008) về sử dụng một số loài nhuyễn thể
hai mảnh vỏ (ngao, sò huyết, Ngao...) làm chỉ thị để quan trắc kim loại nặng ở
ven biển phía Đông Bắc vịnh Bengal (Ấn Độ) cho rằng tích luỹ kim loại nặng
ở mỗi bộ phận cơ thể và mỗi loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ là khác nhau. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, ngao và Ngao là những sinh vật chỉ thị phù hợp để
ứng dụng trong các chương trình đánh giá những thay đổi về sự ô nhiễm kim
loại ở bờ biển Sunderban [28].
Trong nghiên cứu của Pourang và cs (2009) cho thấy có sự khác biệt rõ
về hàm lượng các kim loại giữa các vị trí lấy bùn kiểm tra. Các kim loại có
trong các mô và mẫu bùn biểu hiện theo hướng: Pb, Cu > Cd đối với mang,
Cu > Pb, Cd đối với chân và Cu > Pb > Cd đối với bùn [25].
Wahi và cs (2009) đã nghiên cứu sự tích lũy và đào thải kim loại nặng ở
ngao Meretrix meretrix trong điều kiện phòng thí nghiệm và thấy rằng, khả
năng tích lũy và bài tiết các kim loại nặng đã làm cho ngao Meretrix meretrix
trở thành một sinh vật chỉ thị hữu hiệu trong việc đánh giá chất lượng môi
trường nước [30], v.v.
• Như vậy, nhiều công trình nghiên cứu ở ngoài nước đã xác định được
mức tích tụ kim loại nặng trong ngao, khả năng tích tụ kim loại nặng ở từng bộ
phận cơ thể ngao và các ngưỡng ảnh hưởng của một số yếu tố kim loại nặng đối

21
với ngao... Bên cạnh đó, cũng khá nhiều công trình nghiên cứu về mối liên hệ
giữa hàm lượng kim loại nặng trong môi trường nước, trầm tích, trong ngao và
sử dụng ngao là sinh vật chỉ thị để quan trắc giám sát ô nhiễm kim loại nặng môi
trường nước và bùn đáy. Các kết quả nghiên cứu này là cơ sở khoa học quan
trọng để phục vụ cảnh báo sớm môi trường, sự cố nghề nuôi ngao, đặc biệt đã
đóng góp to lớn vào thực tiễn sản xuất, nuôi ngao đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, đạt hiệu quả ở nhiều nước trên thế giới.
1.3.2. Nghiên cứu tích lũy KLN trong các động vật thân mềm hai mảnh
vỏ ở Việt Nam.
Nghiên cứu của Đặng Thúy Bình và cộng sự nghiên cứu tại đảo Điệp Sơn
(Khánh Hòa) cho thấy hàm lượng As tích lũy trong Vẹm xanh (Perna viridis)
là 1,76 ug/g; so sánh với tiêu chuẩn của Bộ Y tế thì hàm lượng As trong Vẹm
xanh đã vượt quá 1,76 lần. Theo nghiên cứu của Lê Thị Mùi (2007) về sự tích
tụ chì và đồng của một số loài nhuyễn thể tại một số điểm ven biển Đà Nẵng
cho thấy hàm lượng trung bình trong khoảng 1,13 - 2,12 ug/g đối với chì và
7,15 - 16,52 ug/g đối với đồng.
Một nghiên cứu khác của Đoàn Thị Thắm nghiên cứu về sự tích lũy chì
trong một số loài vẹm, nghêu, sò tại một số điểm ven biển Đà Nẵng cho thấy ở
loài Vẹm xanh (Perna viridis) có hàm lượng chì là 12,94 - 14,57 ug/g; ở loài
Nghêu lụa (Paphia Undulata) từ 5,99 - 10,54 ug/g, ở loài Sò lông (Anadara
Subcrenata) từ 6,38 - 10,96 ug/g, loài Nghêu trắng (Meretrix lyrata) từ 6,97 -
8,17 ug/g.
Nghiên cứu xác định hàm lượng Pb, Cd, Hg của Ngô Văn Tứ, Nguyễn
Kim Quốc Việt ở Đầm Lăng Cô cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong
Vẹm xanh (Perna viridis) là 0,67 ± 0,52 ug/g (khối lượng tươi) đối với Pb,
0,14 ± 0,10 ug/g tươi đối với Cd, 33,2 ± 16,9 ug/g đối với chì; so sánh với
tiêu chuẩn cho phép cho thấy hàm lượng Pb, Cd, Hg trong nghiên cứu này
thấp hơn. Nguyễn Kim Phương và cộng sự đã có nghiên cứu về sự tích lũy
kim loại nặng Ag, Cd, Pb và Hg từ môi trường tự nhiên lên các loài nhuyễn

22
thể hai mảnh vỏ (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2009) [5], (Nguyễn Văn
Khánh và cộng sự, 2009) (Hoàng Thanh Hải, 2013) (Ngô Văn Tứ và
cộng sự, 2009) .
Nguyễn Xuân Tuyền và cs (2001) đã nghi nhận được, hàm lượng Zn và Pb
trong cơ thể một số loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ (ngán, ngao, ngó) ở vùng biển Hạ
Long (Quảng Ninh) luôn luôn vượt mức cho phép đối với vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Hàm lượng Hg vượt quá mức cho phép chỉ thấy ở ngao [16].
Nguyễn Văn Nguyên (2004) tiến hành điều tra nghiên cứu tảo độc hại ở
vùng nuôi ngao tập trung tại Thái Bình, Nam Định và Thanh Hoá đã đề cập đến
độc tố ASP, DSP và PSP trong ngao và một số yếu tố môi trường nước cơ bản
(nhiệt độ, độ muối, DO, pH) và các muối dinh dưỡng ở vùng nuôi ngao, nhưng
chưa đề cập đến các yếu tố kim loại nặng trong môi trường và trong cơ thể ngao
nuôi [5].
Chương trình quan trắc phân tích môi trường của Viện Tài nguyên và Môi
trường biển (thuộc Mạng trạm quan trắc Quốc gia) hàng năm quan trắc phân tích
các kim loại nặng trong nước, trầm tích và trong ngao (riêng hàm lượng kim loại
trong ngao không được thực hiện liên tục). Tuy nhiên, chương trình quan trắc chỉ
được thực hiện với tần suất 04 lần/năm và số điểm quan trắc không nhiều, mục tiêu
chính là phục vụ đánh giá hiện trạng hàng năm nên chưa đi sâu vào lĩnh vực sản
xuất.
Trong chương trình thường xuyên về kiểm soát an toàn vệ sinh vùng thu
hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ của Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và
Thuỷ sản - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng tiến hành kiểm soát
hàm lượng Cd, Hg và Pb ở đối tượng ngao thương phẩm ở một số tỉnh ven biển
của đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng (Thái Bình, Nam Định). Mục tiêu
của chương trình kiểm soát là phục vụ cho thu hoạch để đảm bảo chất lượng vệ
sinh an toàn cho tiêu dùng và xuất khẩu nên không đánh giá tích tụ hàm lượng
các kim loại nặng đồng bộ cả môi trường nước, trầm tích và trong nước.

23
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh các loài hai mảnh vỏ có khả năng tích
tụ các chất ô nhiễm trong mô với hàm lượng cao hơn môi trường bên ngoài,
nơi chúng sinh sống qua quá trình tích lũy sinh học. Qua phân tích hàm lượng
kim loại nặng tích lũy trong mô của những sinh vật này từ đó có thể đánh giá
các kim loại nặng có trong môi trường (Hoàng Thanh Hải, 2013).

24
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là động vật thân mềm hai mảnh vỏ ở Vịnh
Hạ Long, chủ yếu tập trung vào các vấn đề chính: các loại động vật thân mềm hai
mảnh vỏ và hàm lượng kim loại nặng trong mô của chúng.
Sau khi khảo sát tất cả các địa điểm nghiên cứu, đề tài nghiên cứu quyết định
chọn Sò và Ngao là 2 động vật thân mềm hai mảnh vỏ vì tính phổ biến, có thể lấy
mẫu ở tất cả các địa điểm nghiên cứu, tiện cho việc so sánh.
Về kim loại nặng, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu về 4 kim loại nặng: Chì
(Pb), Asen (As), Cadimi (Cd), và Thủy ngân (Hg). Đây là những kim loại nặng
quan trọng, có độc tính gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người và nằm
trong Chương trình kiểm soát Kim loại nặng của Châu Âu (Euro 2001 ).
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Vùng biển ven bờ (khoảng cách 200m trở vể) khu vực
Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh.
- Phạm vi thời gian: Được thực hiện từ tháng 11 năm 2018 đến tháng 3 năm
2019.
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Các nhân tố gây ảnh hưởng đến hàm lượng kim loại nặng
- Đánh giá hiện trạng hàm lượng kim loại nặng trong động vật thân mềm hai
mảnh vỏ.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý, bảo vệ, giảm thiểu ô nhiễm
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp.
- Số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.

25
- Các thông tin từ tài liệu đã công bố (sách, báo cáo khoa học, internet) về các
vấn đề liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu kế thừa kết quả quan trắc hiện trạng môi trường tỉnh Quảng Ninh
do Trung tâm Quan trắc và Phân tích Môi trường - Sở Tài nguyên và Môi trường,
Ban quản lý Vịnh Hạ Long thực hiện.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa.
Thực hiện lấy mẫu, phân tích mẫu sinh vật ven bờ Vịnh Hạ Long theo các tiêu
chuẩn, quy chuẩn hiện hành tại nơi thực hiện.
- Số địa điểm lấy mẫu là 06 điểm (tại các khu vực bãi biển, cảng, chợ, nơi tập
trung du lịch, cửa sông đổ ra vịnh)

+ Khu vực Tuần Châu (A1), tọa độ : 20°55'45.3"N 106°59'09.3"E.

+ Khu vực sau Chợ Hạ Long I (A2); tọa độ: 20°56'55.2"N 107°04'59.9"E.

+ Khu vực sau chợ Hạ Long II – Cầu Bãi Cháy (A3);

Tọa độ : 20°57'35.7"N 107°04'05.3"E.

+ Khu vực Vịnh Cửa Lục (A4); tọa độ : 20°58'44.9"N 107°02'54.5"E.

+ Khu vực Cái Xà Cong (A5); tọa độ : 20°57'00.7"N 107°10'10.1"E.

Hình 2.1. Sơ đồ thể hiện khu vực lấy mẫu

26
Các điểm được chọn đều là những điểm tiêu biểu cho khu vực ven bờ Vịnh
Hạ Long, nơi tập trung của các hoạt động công nghiệp, du lịch. Đó cũng là nơi tập
trung của các mẫu Ngao, Sò, hàu được nuôi cũng như tự nhiên như khu vực đầm
nuôi thủy sản cạnh khu du lịch Tuần Châu, khu vực Tàu cá đằng sau Chợ Hạ Long
1, khu vực bãi biển khu vực Cái Xà Cong, Hà Phong, thành phố Hạ Long và khu
vực ven Vịnh Cửa Lục.
Số lượng mẫu là 13 mẫu.
2.3.2.1 Phương pháp lấy mẫu.
Tiến hành thu thập mẫu môi trường, trầm tích và mẫu ngao theo
hướng dẫn trong TCVN 5998-1995 và “ Quy định về phương pháp quan trắc
và phân tích môi trường ” của Tổng cục Môi trường – Bộ TN và MT (2002).
Tiến hành thu mẫu ngao bằng cào hoặc tay, thu đồng thời với việc
thu mẫu môi trường trầm tích theo các điểm khảo sát. Tại mỗi điểm khảo sát (
bãi nuôi ngao nghiên cứu) tiến hành thu mẫu ngao ở 3 vị trí đồng thời với vị
trí lấy mẫu trầm tích. Mẫu ngao được bảo quản mát và đưa về phòng thí
nghiệm xử lý trong ngày.
2.3.2.2 Phương pháp bảo quản mẫu
+ Với mẫu nước: tiến hành axit hóa mẫu nước bằng axit HCl để tránh
các ion kim loại hấp phụ lên thành bình hoặc chai lọ.
+ Mẫu trầm tích: sau khi thu mẫu bảo quản lạnh ở khoảng 40C
+ Ngao, sò thu được sẽ được bảo quản mát rồi đưa về phòng Thí nghiệm,
Phân tích của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Quảng Ninh.
2.3.3. Phương pháp phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm.
2.3.3.1. Quy trình xử lý mẫu.

27
QUY TRÌNH XỬ LÝ MẪU THỰC PHẨM
XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG Cd,As,Pb

Cân 1-2g mẫuthử(dạngkhô) hoăc 1-2ml (dạnglỏng)


đãđượcđồngnhấtvàoốngteflon

Thêmvàoống 5mL HNO 3 đặc R R

Ngâm 4-8h cho bay hơihếtkhí

Đóngchặtbình Teflon, đặtvàotủsấy 1500trong 2h P P

Đểnguộikhivẫnđóngnắp, bỏống Teflon


khỏiốngbọcvàchuyểnphầnddvàochénnung, trángống Teflon
với 4mL HNO 3 0,1M vàchuyểnhếtvàochénnung
R R

Thêm 1 mL dd Mg(NO 3 ) 2 75 mg/mL


R R R R

Đuntrênbếpđiệnđếnkhô, chovàolònung 4500 ≥ 30 phút P P

Đểnguội, hòa tan cặn = 2 mL HCl 8M + 0,1 mL KI 20%


đểyêntrong 2 phút

Địnhmứcđủ 50 mL trongbìnhđịnhmức

2.3.3.2. Phương pháp phân tích.


Phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử là phương pháp xác định đặc hiệu
đối với hầu hết các nguyên tố kim loại, giới hạn định lượng của phương pháp ở mức
ppm đối với kỹ thuật ngọn lửa (F – AAS) và ở mức ppb đối với kỹ thuật không

28
ngọn lửa (GF – AAS). Do đó trong luận văn này chúng tôi chọn phương pháp
quang phổ hấp thụ nguyên tử kỹ thuật không ngọn lửa để xác định hàm lượng As,
Cd và Pb trong động vật nhuyễn thể.
Đối với phương pháp xử lý mẫu, chúng tôi lựa chọn phương pháp vô cơ hóa
ướt. Đối với phương pháp này có thể xử lý mẫu trong kín với áp suất cao (lò vi
sóng) hoặc hệ hở ở điều kiện bình thường.
CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
2.3.3.2.1. Vô cơ hóa mẫu bằng phương pháp lò nung:
Bước 1: Mẫu được chuẩn bị chuyển vào lò nung, nung mẫu ở 4500C trong 5
P P

giờ
Bước 2: Nếu mẫu vẫn còn đen thì làm ướt mẫu bằng 1 – 3ml nước sau đó
nung tiếp mẫu ở 4500C trong 1 - 2 giờ hoặc lâu hơn
P P

Bước 3: Lặp lại thao tác cho tới khi mẫu được tro hóa hoàn toàn, tức là tro có
màu trắng/ xám / hoặc màu hơi. Số lần lặp lại tùy thuộc vào từng loại sản phẩm
Bước 4: Chờ lò nung hạ nhiệt độ, để nguội và lấy chén nung ra
Bước 5: Hòa tan cặn trong 10 – 30 mL axit HNO 3 0,1M, khuấy cho tan cặn
R R

Bước 6: Nếu không tan cặn thì chuyển lên bếp điện đun nhẹ sao cho cặn
được hòa tan hoàn toàn
Bước 7: Chuyển toàn bộ dung dịch trong chén nung vào bình định mức
50mL
Bước 8: Lọc cặn qua giấy lọc và bù đủ bằng axit HNO 3 0,1M
R R

2.3.2.3.2 Xây dựng đường chuẩn


Xây dựng đường chuẩn dựa trên khoảng tuyến tính của thiết bị đối với
nguyên tố kim loại cần phân tích
Dung dịch trung gian: Hút 0,1 mL dung dịch chuẩn Cadimium 1000
mg/mL, định mức vừa đủ 100 mL bằng dung dịch HNO 3 0,1 M được dung dịch
R R

Cadimium 1 mg/L.

29
Dung dịch làm việc: Hút 0,5 mL dung dịch Cadimium trung gian 1 mg/mL,
định mức vừa đủ 100 mL bằng dung dịch HNO 3 0,1 M được dung dịch Cadimium 5
R R

µg/L.
Xây dựng các điểm chuẩn 0,5 µm/L – 1,0 µm/L – 3,0 µm/L – 4,0 µm/L
từ dung dịch chuẩn làm việc 5 µm/L bằng hệ thống bơm mẫu tự động của hệ thống
nguyên tử hóa lò Graphyte
Nếu mẫu nằm ngoài thang chuẩn thì mẫu cần được pha loãng bằng HNO 3 R R

0,1M
2.3.2.3.3. Tính toán kết quả.
Hàm lượng Cadimium (mg/kg) có trong mẫu được tính theo công thức sau:
(a −b) x V
C =
m
Trong đó: C = nồng độ trong mẫu thử (mg / kg);
a = nồng độ mẫu phân tích trên máy ( mg / L) ;
b = nồng độ mẫu trắng (mg / L) ;
V = thể tích dung dịch thử (ml ) ;
m = khối lượng của mẫu thử (g)
2.3.2.3.4. Thông tin giá trị sử dụng của phương pháp.
- Giới hạn phát hiện : LOD = 3,75µg/kg
- Thông số lặp lại: %RSD = 10,78%
- Thông số tái lập: %RSD = 11,34%
- Hiệu suất thu khu vực i: 77,51% - 109,5%
2.3.4. Phương pháp xử lý số liệu.
Sử dụng tiêu chuẩn để so sánh Quyết định số 8-2/2011/QÐ-BYT của Bộ Y
tế là Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với gián hạn ô nhiễm Kim lọai nặng trong
thực phẩm trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ và theo Quy chuẩn của EC No 221/2002
(Hội đồng Châu Âu) . Để lấy một ví dụ, ta sẽ so sánh đánh giá hàm lượng Cd, Pb
trong cơ thể ngao nuôi ( bảng 2.1)

30
Bảng 2.1 . Giới hạn cho phép của các thông số kim loại trong ngao.
Tiêu chuẩn Quyết định
Thông EC No 221/2002
Đơn vị BTS sô TCN Bộ Y tế số
số ( Luật EU )
193:2004 8-2/2011
Cd mg/kg 1,0 1,5 1,0
Pb mg/kg 1,5 2 0,5
Tính toán hệ số tích tụ kim loại trong động vật thân mềm hai mảnh vỏ:
+ Hệ số tích tụ sinh học (BCF: Bioconcentration Factor)
Hệ số tích tụ sinh học là tỷ lệ của sự tập trung chất ô nhiễm trong sinh vật
sống dưới nước tại nơi nguồn cung cấp chất ô nhiễm duy nhất tiếp xúc trực tiếp với
sinh vật sống. Hệ số BCF này thay đổi không đáng kể theo thời gian được định
nghĩa theo hàm dưới đây:
BCF= C T /C W
R R R

Trong đó:
- BCF được tính toán bằng dữ liệu thực nghiệm (L/kg).
- Ct: nồng độ chất ô nhiễm trong cơ thể sinh vật (mg/kg).
- Cw: nồng độ chất ô nhiễm trong nước (mg/L) được định nghĩa là tổng nồng độ
hòa tan (dạng không tạo phức).
+ Hệ số tích tụ sinh học trầm tích (BSAF: Biota-sendiment
accumulation factor)
Hệ số tích tụ sinh học trầm tích là quan hệ sự tập trung tương đối của nồng
độ một chất trong mô của sinh vật sống với nồng độ chất đó trong trầm tích (Boese
and Lee, 1992)
BSAF= C T /C SR R R

Trong đó:
- BSAF được tính toán bằng dữ liệu thực nghiệm (kg tt/kg mô).
- Cs là nồng độ của chất ô nhiễm trong trầm tích (mg/kg).
- Ct là nồng độ của chất ô nhiễm trong mô sinh vật (mg/kg mô,
tốt nhất là theo trọng lượng).

31
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VÙNG VEN
BIỂN VỊNH HẠ LONG
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí
Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, là một phần bờ Tây vịnh
Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả và một
phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía Tây Nam giáp đảo Cát Bà, phía Tây giáp đất
liền với đường bờ biển dài 120km, được giới hạn trong các tọa độ từ 1060 58’ –
P P

1070 22’ kinh độ Đông và 20045’ – 200 50 vĩ độ Bắc, với tổng diện tích 1553 km2
P P P P P P P P

gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên (Ủy
ban nhân tỉnh Quảng Ninh, Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng Ninh,
2014).

Hình 3.1: Bản đồ vùng ven biển thành phố Hạ Long

32
3.1.1.2. Địa chất, địa hình, địa mạo
Đảo ở Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai
vùng chính là vùng phía Đông Nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía Tây Nam Vịnh
Hạ Long. Đây là hình ảnh cổ xưa nhất của địa hình có tuổi kiến tạo địa chất từ 250
– 280 triệu năm, là kết quả của quá trình vận động nâng lên, hạ xuống nhiều lần từ
lục địa thành trũng biển. Quá trình Caxto bào mòn, phong hóa gần như hoàn toàn
tạo ra một Hạ Long độc nhất vô nhị trên thế giới. Vùng tập trung dày đặc các đảo đá
có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp nổi tiếng trong vùng trung tâm
di sản thiên nhiên Vịnh Hạ Long, bao gốm Vịnh Hạ Long và một phần vịnh Bái Tử
Long.

Hình 3.2: Các đảo đá tại Vịnh Hạ Long


Địa hình đáy biển Hạ Long không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20
mét. Có những lạch sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm là nơi
sinh trưởng các rạn san hô rất đa dạng. Các dòng chảy hiện nay nối với các lạch sâu
đáy biển còn tạo nên hàng loạt luồng lạch là hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu
kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm năng cảng biển và giao

33
thông đường thủy rất lớn.
3.1.1.3. Khí hậu

Hình 3.3: Nhiệt độ không khí trung bình các tháng tại Vịnh Hạ Long (ºC)
(Nguồn: Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh, UBND tỉnh Quảng Ninh)

Hình 3.4: Lượng mưa trung bình các tháng (mm)


(Nguồn: Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh, UBND tỉnh Quảng Ninh)

34
Khí hậu Vịnh Hạ Long tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam.
Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đây là vùng nhiệt đới – gió mùa. Mùa hạ
nóng, ẩm, mưa nhiều, gió thịnh hành là gió Đông Nam. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít
mưa, gió là gió Đông Bắc. Nằm trong vùng nhiệt đới, Vịnh Hạ Long có lượng bức
xạ trung bình hàng năm 115,4 kcal/cm2. Nhiệt độ không khí trung bình hàng nằm
P P

trên 210C. Độ ẩm không khí trung bình năm là 84%. Từ đó lượng mưa hàng năm
P P

lên tới 1.700 – 2.400mm, số ngày mưa hàng năm từ 90 – 170 ngày. Mưa tập trung
nhiều vào mùa hạ (hơn 85%) nhất là các tháng 7 và 8. Mùa đông chỉ mưa khoảng
150 – 400mm. So với các tỉnh Bắc Bộ, vịnh Hạ Long chịu ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc mạnh hơn. Đây là nơi “dầu sóng ngọn gió”. Gió thổi mạnh và so với các
nơi cùng vĩ độ thường lạnh hơn từ 1 đến 30C. Vịnh Hạ Long cũng chịu ảnh hưởng
P P

lớn của bão tố. Bão thường đến sớm (các tháng 6,7,8) và cường độ khá mạnh.
3.1.1.4. Thủy văn – Hải văn
* Thủy văn
Khu vực nghiên cứu có nhiều sông, suối, khu vực và moong chứa nước hiện
đang được sử dụng cho các mục đích khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp, sinh
hoạt. Hầu hết các sông, suối này chảy theo hướng tây bắc – đông nam, vuông góc
với bờ biển. Những sông, suối này tạo ra các lưu vực sông có diện tích hàng trăm
km2. Trong đó, sông Diễn Vọng và khu vực Yên Lập là sông và khu vực lớn nhất
P P

trong lưu vực vịnh có ý nghĩa to lớn trong cung cấp nước cho hoạt động dân sinh –
kinh tế trong vùng. Mặt khác, do hệ thống sông ngòi trong vùng thường có độ dốc
khá lớn, nên mỗi khi có mưa lũ, lượng đất đá bị bào mòn từ vùng đất nông nghiệp,
rừng và các khu khai thác than trên thuợng nguồn theo các dòng chảy sông thoát
xuống biển, làm gia tăng các chất ô nhiễm vào vùng nước biển ven bờ.
* Hải văn
Theo Quy hoạch bảo vệ môi trường vùng Hạ Long – Cẩm Phả - Yên Hưng
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, vùng Vịnh Hạ Long có thủy triều vào
loại lớn nhất ở Việt Nam, khoảng 3,0 – 4,0m. Số ngày trong năm có mực nước trên
3,5m là 101 ngày, số ngày này thay đổi theo chu kỳ 19 năm. Con nước triều lớn

35
nhất xuất hiện từng tháng, mực nước biến thiên nhanh hàng giờ (0,5 m/h). Tuy vậy,
sau thời kỳ trên, con nước triều của Vịnh Hạ Long nhỏ, hầu như là con nước đứng
(tần suất chiếm 97-99%) Mặt khác, do đặc điểm địa hình đáy biển không sâu, đà gió
không mạnh, lại có nhiều hòn đảo như bức rào thưa cản nên sóng biển Vịnh Hạ
Long không có cơ hội phát triển, thường nhỏ ở cấp 0,25 – 0,5m.
Sự trao đổi nước trong vịnh: Thể tích nước vào vịnh là tổng cộng các lượng
nước chảy từ sông qua các vùng dẫn nước, nước thải từ các nguồn gây ô nhiễm đổ
trực tiếp vào vịnh, nước mưa và nước từ ngoài khơi đổ vào vịnh thông qua cửa
vịnh. Lượng nước ra vịnh thông qua các con đường: bay hơi (trung bình
23mm/ngày) và đổ ra đại dương. Nếu giả thiết sự thay đổi nước trong vịnh chủ yếu
do nước đổ từ các sông và nước mưa gây ra thì nước nằm trong vịnh là khoảng 6
tháng đối với vịnh Cửa Lục, 6 năm với vịnh Bái Tử Long. Từ các đặc điểm trên cho
thấy sự pha loãng các chất trong đó có các chất gây ô nhiễm môi trường nước biển
Vịnh Hạ Long thấp.
Vùng Di sản được Thế giới công nhận có diện tích 434km2, bao gồm 775
P P

đảo, như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía Tây), khu vực Ba Hầm
(phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông). Vùng kế bên là khu vực đệm và di tích
danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng năm 1962. Vịnh Hạ
Long là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ
sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái
rừng cây nhiệt đới,…với hàng ngàn loài động thực vật vô cùng phong phú đa dạng
như tôm, cá, mực…có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây.
3.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
3.1.2.1. Dân cư
Theo niên giám thống kế tỉnh Quảng Ninh năm 2015, dân số toàn tỉnh Quảng
T
2 T
2

Ninh đạt gần 1.235.500 người. Kết cấu dân số ở Quảng Ninh có một số điểm đáng
chú ý. Trước hết là "dân số trẻ", tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tới 37,6%. Người
già trên 60 tuổi (với nam) và trên 55 tuổi (với nữ) là 7,1%. Các huyện miền núi tỉ lệ
trẻ em dưới tuổi lao động còn lên tới 45%. Nét đáng chú ý thứ hai là ở Quảng Ninh,

36
nam giới đông hơn nữ giới (nam chiếm 50,5 %, nữ chiếm 49,5%). Ở các địa phương
có ngành công nghiệp mỏ, tỷ lệ này còn cao hơn, ví dụ: Cẩm Phả, nam 53,2%, nữ
46,8%.
Mật độ dân số của Quảng Ninh hiện là 200 người/km2 (năm 1999 là 196
P P

người/ km vuông), nhưng phân bố không đều. Trong đó dân số sống tại thành thị
đạt gần 790.700 người dân số sống tại nông thôn đạt 444.800 người. Tỷ lệ tăng tự
nhiên dân số phân theo địa phương tăng 1,4 %.
Tại thành phố Hạ Long, tính đến năm 2015, dân số thành phố là 253.300
người, trong đó nam là 119.600 người chiếm 50,8%, nữ là 115.700 người chiếm
49,2%. Mật độ dân số trung bình 855 người/km2. P P

Xung quanh vùng Vịnh Hạ Long, dân cư chủ yếu là người kinh, chiếm
89,2% tập trung ở các đô thị, các khu công nghiệp, sau đó là các dân tộc thiểu số có
nguồn gốc từ lâu đời như người Dao, người Tày, người Sán Dìu, Sán Chỉ tập trung
ở các vùng núi chủ yếu ống bằng nông nghiệp. Ngoài ra còn có người Hoa gồm
nhiều dân tộc thiểu số từ miền Nam Trung Quốc di cư sang từ lâu đời.
Khu vực Vịnh Hạ Long có nền văn hóa Hạ Long đã đực ghi vào lịch sử như
một mốc tiến hóa của người Việt. Cũng như các địa phương khác, cư dân sống ở
đây cũng có những tôn giáo, tín ngưỡng để tôn thờ như: Phật giáo, Kytô giáo, thờ
cúng tổ tiên và một vài tín ngưỡng dân khác.
3.1.2.2. Kinh tế
Vùng Vịnh Hạ Long là vùng tập trung nhiều hoạt động kinh tế phát triển
nhất tỉnh Quảng Ninh, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, đồng thời
là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với Di sản thiên nhiên thế giới
Vịnh Hạ Long. Thành phố Hạ Long và Cẩm Phả là khu trọng điểm công nghiệp –
thương mại – dịch vụ của tỉnh, là vùng khai thác than lớn nhất cả nước, cùng với
các ngành công nghiệp đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, chế biến
thủy hải sản… Năm 2015, ước tính GDP bình quân đầu người của Hạ Long là 3830
USD/năm, , cao hơn nhiều so với GDP bình quân đầu người của Việt Nam (1375
USD/năm) (Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh, 2015). Một số nét chính về các

37
ngành kinh tế của vùng Vịnh Hạ Long là:
* Ngành khai khoáng
Hạ Long và Cẩm Phả là hai trong ba vùng khai thác than lớn nhất của Quảng
Ninh và của cả nước. Các mỏ than lớn của thành phố Hạ Long là Hà Tu, Hà Lầm,
Tân Lập, Núi Béo, lượng than khai thác mỗi năm ước đạt trên 10 triệu tấn. Vân Đồn
cũng có ngành khai khoáng phát triển lâu đời, than đá đã được khai thác từ thời
Pháp thuộc ở mỏ than Kế Bào. Trữ lượng hiện còn khoảng 107 triệu tấn. Gắn liền
với các mỏ là các nhà máy sàng tuyển, cơ khí các xí nghiệp vận tải đường bộ,
đường sắt và bến cảng, là động lực giúp kinh tế phát triển, đóng góp đáng kể vào
ngân sách của tỉnh. Ngoài than đá, vùng này cũng rất giàu các loại tài nguyên
khoáng sản khác như đá vôi, đất sét, cao lanh và antimon. Hạ Long có nhiều mỏ đất
sét rất tốt, với khoảng 6 nhà máy sản xuất gạch ngói chất lượng cao, cung cấp cho
trong và ngoài tỉnh, có một phần xuất khẩu. Trong khi đó vùng núi đá vôi ở Cẩm
Phả và Hoành Bồ là nguồn nguyên liệu dồi dào cho việc phát triển các ngành sản
xuất xi măng, nhiệt điện và vật liệu xây dựng, với Nhà máy xi măng Cẩm Phả. Tại
Vân Đồn có mỏ cát trắng Vân Hải có trữ lượng trên 13 triệu tấn, hiện đang khai thác
với sản lượng 20.000 tấn/năm. Vàng sa khoáng và vàng trong đới quặng sắt có ở
đảo Cái Bầu, trong đó mỏ quặng sắt Cái Bầu có trữ lượng khoảng 154.000 tấn.

Hình 3.5: Khai thác than ở Quảng Ninh

38
* Ngành công nghiệp
Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2015, trên địa bàn khu vực
nghiên cứu có tổng số 4153 cơ sở sản xuất công nghiệp chiếm 57,13% tổng số cơ
sở sản xuất công nghiệp toàn tỉnh (7269 cơ sở), tập trung ở thành phố Hạ Long
(1436 cơ sở) và thị xã Quảng Yên (1510 cơ sở). Hạ Long có các cơ sở sản xuất
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp của các ngành khai thác chế biến than, vật liệu
xây dựng, cơ khí, chế biến gỗ, lương thực thực phẩm, may mặc. Có 3 khu công
nghiệp tập trung là Cái Lân, Việt Hưng và Hà Khánh. Hạ Long phát triển mạnh
công nghiệp đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm hải sản. Nhà
máy đóng tàu Hạ Long có thiết kế đóng tàu dưới 53.000 tấn, nhà máy Nhiệt điện
Quảng Ninh có tổng công suất 1.200 MW. Trong khi đó, các ngành công nghiệp cơ
khí, chế tạo thiết bị điện, máy mỏ, xe tải nặng, công nghiệp đóng tàu rất phát triển
tại Cẩm Phả. Tại huyện Vân Đồn, các ngành tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là nghề
đóng thuyền, sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ mộc, chế biến hải sản.

Hình 3.6: Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh

39
Hình 3.7: Nhà máy đóng tàu Hạ Long
* Ngành du lịch, thương mại, dịch vụ
Là khu vực tập trung nhiều nhất hoạt động du lịch, dịch vụ của tỉnh Quảng
Ninh nhờ được hưởng lợi thế của Vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long…, do đó, các
hoạt động kinh doanh thương mại, du kịch, khách sạn, nhà hàng ở đây chiếm một vị
trí quan trọng, đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế khu vực cũng như của tỉnh, góp
phần giải quyết việc làm cho hàng chục nghìn người lao động tại khu vực nghiên
cứu. Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh năm 2015, khu vực nghiên cứu có
35.620 cơ sở kinh doanh thương mại, khách sạn nhà hàng, du lịch (tương đương 60,
37% tổng số cơ sở toàn tỉnh) và thu hút khoảng 76.873 người lao động (tương
đương 63,44% lao động trong ngành trên toàn tỉnh) tập trung tại hai trung tâm du
lịch, thương mại, dịch vụ là thành phố Hạ Long và thành phố Cẩm Phả. Hạ Long
được coi là thành phố du lịch, một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt
Nam. Theo Quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 đã xác định Vịnh Hạ Long là tài nguyên đặc biệt quan trọng, cùng với
vịnh Bái Tử Long của huyện Vân Đồn định hướng thành địa bàn trọng điểm phát
triển du lịch gắn với cảnh quan biển, đảo Đông Bắc Việt Nam. Thực tế, trong những

40
năm qua, Vịnh Hạ Long đã luôn là tâm điểm, là động lực phát triển các hoạt động
du lịch trên địa bàn khu vực nghiên cứu nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Riêng năm 2015, số du khách đến với Vịnh Hạ Long khoảng 3.1 triệu lượt, trong đó
có khoảng 2.5 triệu lượt khách quốc tế. Thành phố Hạ Long đã quy hoạch Vùng
kinh tế Du lịch – Thương mại bao gồm phía Nam phường Bãi Cháy, Phường Hùng
Thắng và đảo Tuần Châu. Đi kèm với du lịch, ngành dịch vụ cũng rất phát triển với
20 khách sạn 4-5 sao và hơn 300 khách sạn nhỏ, cùng với nhiều nhà hàng, khu vui
chơi giải trí hàng năm đóng góp khoảng trên 50% ngân sách của thành phố. Huyện
đảo Vân Ðồn, nằm ôm trọn vùng vịnh Bái Tử Long, có nhiều đảo đá vôi và những
hang động đẹp, lại nối liền với Vịnh Hạ Long. Các xã đảo tuyến ngoài giáp Vịnh Hạ
Long (tuyến đảo Vân Hải) có nhiều bãi tắm đẹp, nhiều hải sản ngon, khí hậu trong
lành và những di tích lịch sử văn hóa và nhiều tiềm năng khác để phát triển kinh tế
dịch vụ du lịch. Khu kinh tế Vân Đồn được Chính phủ phê duyệt thành lập từ năm
2009 theo Quyết định số 1296/QĐ-TTg ngày 19 tháng 8 năm 2009 và hiện đang
được triển khai xây dựng các cơ sở hạ tầng. Theo quy hoạch, đây sẽ là một trung
tâm du lịch sinh thái biển đảo chất lượng cao và dịch vụ cao cấp, đồng thời là trung
tâm hàng không, đầu mối giao thương quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế ở Vân
Đồn nói riêng và Quảng Ninh nói chung. Bên cạnh du lịch, ngành thương mại, dịch
vụ tại khu vực nghiên cứu cũng rất phát triển. Khu vực nghiên cứu có mạng lưới
giao thông, cảng biển, bưu chính viễn thông… khá đồng bộ, cơ sở hạ tầng phát
triển với 66 chợ (tương đương 48.9% tổng chợ toàn tỉnh), 9 siêu thị (tương đương
với 64,3% tổng số siêu thị toàn tỉnh), số lượng khách sạn từ 1- 4 sao lần lượt là: 24,
31, 14, 14 (khách sạn) và rất nhiều nhà hàng, khu vui chơi giải trí khác. Trong
những năm tiếp thep, việc mở rộng cơ sở hạ tầng như sân bay Vân Đồn, đường cao
tốc Hạ Long – Hải Phòng – Quảng Ninh, cầu Vân Tiên … sẽ là động lực để tiếp tục
thúc đẩy ngành du lịch, thương mại, dịch vụ tại khu vực nghiên cứu phát triển mạnh
mẽ hơn nữa.
* Ngành nông - lâm - ngư nghiệp
Khu vực nghiên cứu thu hút khoảng 68.679 lao động hoạt động trong ngành

41
nông - lâm - ngư nghiệp (tương đương với 34,95% tổng số lao động trong ngành
toàn tỉnh), trong đó, có 45.238 lao động nông nghiệp (tập trung nhiều nhất tại thị xã
Quảng Yên và huyện Hoành Bồ), 3.954 lao động lâm nghiệp (tập trung tại huyện
Hoành Bồ), 19.487 lao động ngư nghiệp (tập trung tại thị xã Quảng Yên và huyện
Vân Đồn). Không những là ngành sử dụng nhiều lao động nhất trong cơ cấu kinh tế
của tỉnh Quảng Ninh nói chung và khu vực nghiên cứu nói riêng, mà còn là ngành
có tổng số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 3.848 người,
tương đương với 5,95%) so với số lao động chưa qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo
nhưng không có chứng chỉ (64.831 người). Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản chủ
yếu tập trung ở Vân Đồn, và Quảng Yên với các loài như tôm, động vật nhuyễn thể,
cá nước ngọt và cá biển. Năm 2011 sản lượng thủy sản của khu vực nghiên cứu đạt
45.3 nghìn tấn (chiếm 52.9% so với toàn tỉnh), trong đó: sản lượng nuôi trồng đạt:
16.3 nghìn tấn (tương đương với 55.67 % so với toàn tỉnh), sản lượng khai thác đạt
29 nghìn tấn (tương đương 51,7% so với toàn tỉnh). Thị xã Quảng Yên là địa
phương đạt sản lượng thủy sản cao nhất (19.9 nghìn tấn, chiếm 23.24% so với toàn
tỉnh), đứng đầu trong lĩnh vực nuôi trồng toàn tỉnh (đạt 8.8 nghìn tấn, tương đương
với 29.7% sản lượng toàn ngành). Trong lĩnh vực khai thác thủy sản, huyện Vân
Đồn là địa phương đứng đầu toàn tỉnh về sản lượng: 13.2 nghìn tấn (23.57% toàn
ngành) Ngành đánh bắt, nuôi trồng thủy sản phát triển nhất tại huyện Vân Đồn.
Vùng biển của huyện có nhiều chủng loại hải sản quý như: tôm he, cá mực, sá sùng,
cua, ghẹ, ngọc Sò, bào ngư... Nghề khai thác hải sản có từ lâu đời, song chủ yếu là
đánh bắt trong lồng bè và ven bờ, chỉ từ năm 1995 tới nay mới phát triển đánh bắt
xa bờ. Sản lượng hải sản đánh bắt và nuôi trồng đã tăng từ 3,5 nghìn tấn vào năm
2000 lên 18,8 nghìn tấn vào năm 2015. Ngư nghiệp cũng là một thế mạnh của Hạ
Long với nhiều chủng loại hải sản, và yêu cầu tiêu thụ lớn, nhất là phục vụ cho
khách du lịch và cho xuất khẩu. Thành phố Hạ Long đã quy hoạch vùng phát triển
nông – lâm – ngư nghiệp gồm phường Đại Yên và Nam phường Việt Hưng. Thành
phố Cẩm Phả có nghề khai thác hải sản với hơn 50 km bờ biển, nhưng chủ yếu là
đánh bắt trong bờ, sản lượng thấp. Ngành nông nghiệp, trồng trọt không phát triển

42
do địa hình khu vực chủ yếu là đồi núi (chiếm 70% diện tích) và hải đảo, rất ít đất
đai dành cho nông nghiệp. Ngoài Quảng Yên và Hoành Bồ có diện tích đất dành
cho nông nghiệp đáng kể, tương ứng là 6391,61 ha và 3720,31 (số liệu thống kê
2015) thì các huyện, thành phố còn lại đều có diện tích đất nông nghiệp rất thấp,
khoảng trên dưới 1000ha. Ðất nông nghiệp lại đất bạc màu, trên nền núi đá lại pha
cát, thiếu nước tưới vì ít sông khu vực nên năng suất không cao. Tổng diện tích đất
lâm nghiệp của khu vực nghiên cứu khoảng 138.270 ha, chiếm 35,6% tổng diện tích
đất lâm nghiệp của cả tỉnh. Chưa có số liệu thống kê về giá trị lâm nghiệp của vùng,
tuy nhiên năm 2015, ước tính ngành lâm nghiệp của cả tỉnh Quảng Ninh đóng góp
165 tỷ đồng cho GDP, chiếm 7% tổng giá trị GDP của ngành nông nghiệp Quảng
Ninh. Tuy giá trị đóng góp vào ngành kinh tế không lớn nhưng phát triển lâm
nghiệp góp phần đáng kể vào việc bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Ninh.
* Giao thông vận tải
Với đường bờ biển dài khoảng 100km tính từ thị xã Quảng Yên đến Vân
Đồn, vùng Vịnh Hạ Long có kinh tế giao thông vận tải cảng biển, kho bãi rất phát
triển với nhiều cảng lớn nhỏ. Cụm cảng Hòn Gai, với cảng nước sâu Cái Lân, với
khả năng xếp dỡ từ 5 đến 8 triệu tấn/năm, đang được xây dựng và mở rộng thành
một trong những cảng lớn nhất Việt Nam. Cẩm Phả có cảng Cửa Ông phục vụ các
tàu lớn chủ yếu là tàu than và các bến tàu nhỏ phục vụ cho du lịch, thăm quan vịnh
Bái Tử Long. Quốc lộ 18 chạy qua vùng, nối liền thủ đô Hạ Long với cửa khẩu
Móng Cái, là tuyến giao thông quan trọng trong việc chuyên chở hàng hóa và hành
khách giữa Quảng Ninh với các tỉnh miền Bắc cũng như giao thương với tỉnh
Quảng Tây, Trung Quốc. Đặc điểm quá trình đô thị hóa Quá trình đô thị hóa đang
đặt ra những nhiệm vụ cấp thiết đối với công tác bảo vệ môi trường do tài nguyên
thiên nhiên sử dụng không hợp lý, thiết kế hoạch và quỹ rừng suy giảm nghiêm
trọng, nhất là rừng phòng hộ và rừng đầu nguồn nên khí hậu có nhiều thay đổi và
thiên tai thường xuyên xảy ra. Tại các vùng đô thị hóa nhanh càng cần có các biện
pháp phát triển, bảo vệ bộ khung bảo vệ thiên nhiên là những vành đai xanh, hệ
thống công viên, hệ thống khu vực chứa nước…

43
3.2. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM KIM LOẠI NẶNG VỊNH HẠ LONG
Từ hiện trạng các nguồn thải chính lên nước biển ven bờ Vịnh Hạ Long, ta
có thể thấy được rõ ràng, hiện nay nước biển ven bờ Vịnh Hạ Long đang phải chịu
sức ép lớn từ các các nguồn thải đất liền đổ ra do sự phát triển nhanh của dân số,
hoạt động du lịch ven bờ và trên vịnh, hoạt động khai thác than, các ngành công
nghiệp ven biển. Mặc dù tỉnh Quảng Ninh rất quan tâm tới quản lý các nguồn thải ra
Vịnh Hạ Long và được đánh giá khá cao nhưng vẫn không tránh khỏi những sự ô
nhiễm từ các chất hữu cơ, dầu và các kim loại.
3.2.1. Ô nhiễm chất hữu cơ
Vùng biển Vịnh Hạ Long là nơi tập trung các hoạt động kinh tế khác nhau và
vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành. Theo cách quản lý này, các ngành thường
chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu phát triển kinh tế, các mục tiêu xã hội và môi
trường ít được ưu tiên, đồng thời chỉ chú trọng tới lợi ích ngành mình ít quan tâm
tới lợi ích ngành khác. Kết quả là tính toàn vẹn và tính liên kết của các hệ thống tự
nhiên vùng bờ bị chia cắt, dẫn tới chất lượng môi trường vùng biển ven bờ ngày
càng suy giảm. Bên cạnh đó, áp lực về dân số luôn đè nặng lên môi trường vùng
biển.
Vùng biển ven bờ Vịnh Hạ Long luôn là nơi thu hút dân cư kéo đến tìm kế
sinh nhai, dân đủ mọi thành phần, ngành nghề và không có trình độ hiểu biết nhất
định về công tác bảo vệ môi trường. Chính vì nghèo đói và thiếu hiểu biết nên dân
sống trong vùng biển này thường xả rác thẳng xuống biển, mặc cho nước biển nổi
lềnh bềnh những rác thải làm cho nước bốc mùi hôi thối.
Ngành dịch vụ du lịch cũng là một nguồn gây ô nhiễm cho nước ven biển
Vịnh Hạ Long. Hàng năm, Vịnh Hạ Long đón một lượng khách du lịch rất lớn, rác
thải từ các tàu thuyền du lịch và các nhà hàng dọc theo bãi biển đang làm cho nước
biển bị ô nhiễm, nhiều khu vực gần các nhà hàng nổi và các bến cảng nước biển có
màu đen và bốc mùi hôi thối.

44
Hình 3.8: Một góc tại cảng cá chợ Hạ Long I (cầu Bài Thơ)

Hình 3.9: Ô nhiễm nước thải sinh hoạt và hoạt động du lịch khu vực nhà hàng
nổi ven biển cột 5

45
Một nguồn gây ô nhiễm không kém phần quan trọng đó là các chất ô nhiễm
theo sông đổ vào biển. Chất thải sinh hoạt của dân cư đô thị trong lục địa đổ vào
sông và sông tải ra biển.
Sự phát triển của đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thủy sản cũng gây ô nhiễm
hữu cơ cho nước biển. Trong những năm vừa qua, ngành hải sản trong khu vực đã
có sự tăng trưởng rất đáng kể. Các chất thải hữu cơ từ các hoạt động sơ chế sau khi
đánh bắt (như đầu, vây, vảy, xương cá), thức ăn thừa sử dụng trong nuôi trồng thủy
sản cũng là một sức ép rất quan trọng với chất lượng nước vùng biển ven bờ.

10

6
Mùa mưa
4 Mùa khô

0
A1 A2 A3 A4 A5 A6 A7 A8

Hình 3.10 : Nồng độ BOD5 từ 6/2015 – 1/2016 tại các điểm quan trắc

Theo số liệu của Cục Môi trường, trong những năm từ 1995-2010 BOD biến
đổi trong khoảng 5 - 7 mg/l. Nhưng theo số liệu của nhóm nghiên cứu đề tài (xin
xem phần phụ lục) thì BOD 5 tại một số khu vực tương đối cao, lên tới trên gần 10
R R

mg/l, điều này chứng tỏ mức độ ô nhiễm biển Vịnh Hạ Long và các vùng lân cận
trong những năm gần đây đang có xu hướng tăng dần.
3.2.2. Ô nhiễm kim loại nặng.
Các loại nặng được quan trắc ở tất cả các khu vực biển ven bờ và ngoài khơi
là: Hg, As, Hg, Fe, Mn. Sau đây là một số đánh giá về các chỉ tiêu kim loại nặng
vừa nêu:

46
3.3.2.1. Chì (Pb):

Bảng 3.4 : Nồng độ Hg từ 7/2018 – 01/2019 tại các điểm quan trắc
Hàm lượng Pb mùa Hàm lượng Pb mùa mưa
mưa (mg/l) (mg/l)
Khu vực Bãi tắm Bãi Cháy 0,1 0,1

Khu vực Bãi tắm Tuần Châu 0,12 0,12

Bến phà Bãi Cháy cũ 0,3 0,32

Vịnh Cửa Lục – Cầu Bãi Cháy 0,35 0,33

Khu vực sau chợ Hạ Long I (cầu 0,09 0,17


Bài Thơ)
Khu vực cột 5 – cột 8, Hòn Gai 0,1 0,15

Khu vực gần cảng Nam Cầu 0,3 0,32


Trắng
Sông Diễn Vọng – Cầu Bang đổ 0,25 0,24
ra biển
QCVN 10-MT:2015/BTNMT 0,5 mg/l

Đối với biển ven bờ Vịnh Hạ Long, hàm lượng chì trung bình biến động trong
khoảng 0,09 - 0,35 mg/l, có giá trị nằm trong giới hạn cho phép đối với nước biển
ven bờ dùng cho nuôi trồng thủy sản. Khu vực có hàm lượng chì cao là ở các cảng,
có lẽ là do thường xuyên được nạo vét nên chì nằm ở tầng bùn đáy bị hoà tan ra
hoặc do nước thải từ các nhà máy đóng tàu. Khác với các chất dinh dưỡng, hàm
lượng chì trong nước biển vào mùa lũ có giá trị thấp hơn vào mùa khô ở hầu hết các
trạm quan trắc ven bờ, điều này cho thấy Hg có lẽ có nguồn gốc tự nhiên ở biển.

47
3.2.2.2. Thuỷ ngân (Hg)

0,006

0,005 QCVN 10-MT:2008

0,004

0,003 Mùa mư a
Mùa khô
0,002

0,001

0
A1 A2 A3 A4 A5 A6 A7 A8

Hình 3.11.: Nồng độ thủy ngân tại các điểm quan trắc
Thuỷ ngân là kim loại độc nhất trong số các kim loại nặng. Theo số liệu của
Cục Môi trường, nồng độ Hg trong nước biển Việt Nam nói chung tăng dần từ năm
1995 đến nay. Theo số liệu phân tích thì hàm lượng Hg trong vùng Vịnh Hạ Long
giao động trong khoảng 0,002 đến 0,006 mg/l, cao hơn tiêu chuẩn cho phép đối với
nước biển nuôi trồng thuỷ sản và nước dùng cho mục đích tắm biển (0,005 mg/l).
Theo các nhà chuyên môn, hàm lượng Hg trong nước biển cao (đặc biệt là trong các
khu vực cảng) chủ yếu là do sơn chống hà của tàu biển nhả ra. Hiện nay, tổ chức
môi trường của Liên hiệp quốc đã khuyến cáo không nên sử dụng sơn có độc tố là
Hg, nhưng trong thực tế Hg vẫn được sử dụng hết sức rộng rãi trong hàng hải bởi
hiệu quả cao và giá thành rẻ.

48
3.3.2.3. Một số kim loại khác

Bảng 3.2: Nồng độ một số kim loại nặng tại vùng ven biển Hạ Long
Mùa mưa Mùa khô So sánh với QCVN 10-
Địa điểm lấy (mg/l) (mg/l) MT:2015/BTNMT
mẫu
As Mn Fe As Mn Fe As Mn Fe

Bãi tắm Bãi Cháy 0,04 0,08 0,28 0,05 0,07 0,3

Bãi tắm Tuần 0,02 0,06 0,2 0,02 0,08 0,3


Châu
Bến phà Bãi Cháy 0,04 0,07 0,5 0,04 0,07 0,49

Vịnh Cửa Lục – 0,04 0,08 0,4 0,04 0,08 0,004
Cầu Bãi Cháy
0,04 0,5 0,5
Khu vực sau chợ 0,05 0,08 0,2 0,04 0,08 0,2
Hạ Long I (cầu
Bài Thơ)
Khu vực cột 5 – 0,03 0,07 0,21 0,03 0,07 0,21
cột 8, Hòn Gai
Khu vực gần cảng 0,08 0,03 0.8 0,02 0,03 0,06
Nam Cầu Trắng
Sông Diễn Vọng 0,04 0,4 0,6 0,04 0,08 0,5
– Cầu Bang đổ ra
biển

Hàm lượng các kim loại As, Fe, Mn đã quan trắc được cho thấy nồng độ kim
loại As, Fe có giá trị vượt quá giới hạn cho phép đối với nước biển ven bờ cho mọi
mục đích sử dụng. Nguyên nhân chủ yếu do nước thải của công nghiệp tuyển than
theo sông tải ra biển. Nồng độ của các kim loại này trong 10 năm gần đây không thể

49
hiện xu hướng tăng giảm rõ rệt. Về tổng thể nước Vịnh Hạ Long không bị ô nhiễm
bởi Sắt, Mangan. Tuy nhiên, tại một số điểm như bến Phà Hạ Long cũ, sau chợ Hạ
Long 1, Cảng Nam Cầu Trắng, hàm lượng các kim loại này khá cao và có thời điểm
vượt quá GHCP. Các kim loại nặng khác như Chì, Camidi trong nước khu vực
nghiên cứu hiện vẫn nhỏ hơn rất nhiều ngưỡng cho phép của QCVN 10-MT:2015/
BTNMT. Nước biển ven bờ Vịnh Hạ Long đang bị tiếp nhận các nguồn ô nhiễm từ
sông đổ vào biển. Sông Diễn Vọng trước khi đổ ra biển đều chảy qua các khu dân cư
tập trung, nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, một số bãi thải mỏ của ngành than và
vùng nông nghiệp phát triển; vì vậy, nguồn thải từ nước sông cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng nước biển ven bờ. Các chất thải không qua xử lí từ các lưu vực và
vùng ven biển được đưa ra biển ngày càng nhiều, làm cho nhiều vùng biển ven bờ có
nguy cơ bị thiếu ôxy trên diện rộng, khiến cho một số loài sinh vật biển bị đe dọa.
Vịnh Hạ Long là nơi tiếp nhận nước của các con sông chảy qua một phần tỉnh
quảng Ninh và một phần thành phố Hải Phòng. Đây là hai nơi có mức độ phát triển
kinh tế lớn nên kéo theo nó là một loạt những vấn đề về nước thải và rác thải, ảnh
hưởng trực tiếp tới môi trường nước Vịnh Hạ Long.

Bảng 3.3: Thải lượng của các chất gây ô nhiễm đổ vào biển vùng Hải Phòng -
Quảng Ninh
STT Chất gây ô nhiễm Khối Lượng
1 Nước thải (103m3/năm)
P P P P 895.793,00
2 COD (tấn/năm) 141.122,30
3 BOD (tấn/năm) 25.207,80
4 Tổng nitơ (tấn/năm) 14.272,30
5 Tổng phốt pho (tấn/năm) 7.770,20
6 TSS (tấn/năm) 3.079.485,70
7 Cu (tấn/năm) 65,29
8 Pb (tấn/năm) 45,12
9 Hg (tấn/năm) 804,73
10 Hg (tấn/năm) 5,13

50
11 As (tấn/năm) 45,89
12 Cd (tấn/năm) 3,44
13 Thuốc trừ sâu (tấn/năm) 7,50
14 Phân hóa học (tấn/năm) 255,10
15 Dầu mỡ (tấn/năm) 22.448,10
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng Môi trường Việt Nam 2010).
Một nguồn gây ô nhiễm kim loại nặng đáng kể nữa là hoạt động nạo vét cảng
biển. Để duy trì hoạt động các cảng biển cần phải thường xuyên nạo vét, vì nói
chung hầu hết các cảng đều có sa bồi. Hoạt động đó cũng là nguyên nhân gây ô
nhiễm (đặc biệt là làm tăng nồng độ các kim loại nặng trong nước biển) và làm thay
đổi chất lượng nước biển. Nguyên nhân là do các chất ô nhiễm, trong đó có kim loại
nặng đang nằm trong trầm tích đáy có cơ hội được hòa tan trở lại môi trường nước
do việc nạo vét đáy gây ra.
* Nhận xét chung:
Dựa vào các số liệu quan trắc và các phân tích ở trên, có thể rút ra một số đặc
điểm về chất lượng nước khu vực nghiên cứu trong 10 năm qua như sau:
- Chất lượng nước vùng lõi Vịnh Hạ Long khá còn khá tốt xong vùng đệm đã
xuất hiện những khu vực ô nhiễm cục bộ. Các khu vực ô nhiễm cục bộ là các khu
vực bến cảng, khu vực sau chợ Hạ Long 1, khu vực nhà bè cột 5.
- Các vấn đề chất lượng nước cần quan tâm là ô nhiễm chất dinh dưỡng, chất
hữu cơ, dầu. Các thông số ô nhiễm chủ yếu là amoni, dầu mỡ, TSS. Ngoài ra, một
vài điểm ven bờ còn có hàm lượng Fe, Mn, Hg khá cao.
- Hàm lượng của các thông số trong mùa mưa cao hơn mùa khô, trong thời
gian nước ròng lớn hơn trong thời gian nước lớn và không có sự khác nhau nhiều
giữa tầng mặt và tầng đáy.
3.3. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ Ô NHIỄM KIM LOẠI NẶNG TRONG CÁC
MẪU ĐỘNG VẬT THÂN MỀM HAI MẢNH VỎ Ở VỊNH HẠ LONG.
Các mẫu nhuyễn thể hai mảnh vỏ được lấy từ các địa điểm nghiên cứu và
chuyển về Phòng Thí nghiệm môi trường của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Quảng

51
Ninh để xử lý và phân tích. Quá trình phân tích tuân thủ nghiêm ngặt theo các
phương pháp AOAC.
Các kết quả nghiên cứu đối với từng loài (Ngao, Sò) tại các khu vực với số
lượng không lớn do vậy về mặt thống kê không có ý nghĩa nhiều, nhưng cũng đã
đánh giá được hàm lượng và sự tích lũy. Kết quả phân tích nhuyễn thể hai mảnh vỏ
tại các khu vực nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 3.7.

Bảng 3.4: Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong các động vật
thân mềm hai mảnh vỏ
Thủy
Khối Định Chì Cadimi Asen
`STT Loại mẫu ngân
lượng mức (Pb) (Cd) (As)
(Hg)
(mg/Kg) (mg/Kg) (mg/Kg) (mg/Kg)

Hàu – Chợ Hạ
1 1,651 g 50 mL 0,044 0,00015 0,007 0,00012
Long 2

Ngao – Chợ Hạ
2 3,118 g 50 mL 0,003 0,00006 0,006 0,00014
Long 2
Sò – Chợ Hạ Long
3 4,882 g 50 mL 0,0018 0,00012 0,004 0,00007
2

4 Ngao – Cái xà cong 6,305 g 50 mL 0,001 0,00002 0,0018 0,00005

5 Sò – Cái xà cong 2,131 g 50 mL 0,003 0,00007 0,0055 0,00016

6 Hàu – Cái xà cong 2,705 g 50 mL 0,0027 0,0001 0,004 0,0001

8 Sò – Cửa Lục 0,842 g 50 mL

9 Ngao – Cửa Lục 3,955 g 50 mL 0,00003

52
Ngao – chợ Hạ
10 3,515 g 50 mL 0,0026 0,0002 0,0057 0,00007
Long 1
Sò – chợ Hạ Long
11 1,184 g 50 mL 0,007 0,0005 0,016 0,00004
1

12 Ngao – Tuần Châu 2,374 g 50 mL 0,0036 0,0002 0,0084 0,00014

13 Sò– Tuần Châu 1,655 g 50 mL 0,0051 0,0002 0,0119 0,00024

3.1.1. Hàm lượng Cd

0.0005

0.0004

0.0003
Hàm lượng Cd trong Sò
0.0002
Hàm lượng Cd trong ngao
0.0001

0
Tuần Chợ HL 1Chợ HL 2 Cái Xà Cửa lục
Châu Cong

Hình 3.12 Hàm lượng Cadimi trong Ngao và Sò vịnh Hạ Long.


Hàm lượng Cd tích lũy trong Sò nghiên cứu nêu trên thấp hơn giới hạn cho
phép QCVN 8-2/2011/BYT hơn 400 lần. So sánh giữa các điểm nghiên cứu cho
thấy, hàm lượng Cd trong sò nằm trong giới hạn cho phép (=2 mg/kg). Hàm lượng
dao động từ 0 mg/kg đến 0.005 mg/kg (cao nhất ở chợ Hạ Long I), thậm chí không
phát hiện Cadimi trong các mẫu sò ở Tuần Châu và vịnh Cửa Lục.
3.3.2. Hàm lượng Pb
Kết quả ở Bảng 3.4 cho thấy sự tích sự tích lũy Pb trong loài Ngao và loài Sò

53
có sự tương đồng.

0.007
0.006
0.005
0.004 Hàm lượng Pb trong sò
0.003 Hàm lượng Pb trong ngao

0.002
0.001
0
Chợ HL 2 Cái Xà Cong Cửa Lục Chợ HL 1 Tuần Châu

Hình 3.13 Hàm lượng Pb trong sò và ngao.

Hàm lượng Pb tích lũy trong hai loài nghiên cứu nêu trên thấp hơn giới hạn
cho phép QCVN 8-2/2011/BYT hàng chục lần cho thấy mức độ an toàn thực phẩm.
Hàm lượng cho phép đối với Pb trong nhuyễn thể 2 mảnh vỏ là 1.5 mg/kg. So sánh
giữa các điểm nghiên cứu cho thấy, hàm lượng Pb trong nhuyễn không có sự khác
nhau nhiều.
Hàm lượng Pb trong loài Sò dao động từ 0 mg/kg đến 0.07 mg/kg và trong loài
Ngao giao động từ 0 mg/kg đến 0.003 mg/kg . Cao nhất là khu vực chợ Hạ Long 1
và Tuần Châu.
3.3.3 Hàm lượng As

0.016
0.014
0.012
0.01
0.008 Hàm lư ợng As trong sò
0.006
Hàm lư ợng As trong ngao
0.004
0.002
0
Chợ HL Cái Xà Cửa Lục Chợ HL Tuần
2 Cong 1 Châu

Hình 3.14. Hàm lượng As trong sò và ngao

54
Tuy chưa có tiêu chuẩn để đánh giá, nhưng đã thấy xu hướng tích lũy cao
As trong các mô tế bào của nhuyễn thể hai mảnh vỏ tại các khu vực ở Hạ
Long. Với hàm lượng cao hơn so với Cd và Pb. Khu vực có hàm lượng cao vẫn tập
trung chủ yếu ở chợ Hạ Long 1 và Tuần Châu. Hàm lượng dao động từ 0-0.016
mg/kg đối với Sò và 0-0.0084 mg/kg đối với Ngao.
3.3.4. Hàm lượng Hg.
Kết quả ở Bảng 3.4 và Hình 3.15 cho thấy kết quả phân tích hàm lượng Hg
trong nhuyễn thể lấy tại Hạ Long và Chợ Hạ Long cao hơn hàm lượng Hg trong
nhuyễn thể lấy tại các sông thoát nước ra vịnh Hạ Long.

0.00025

0.0002

0.00015
Hàm lượng Hg trong Sò
0.0001
Hàm lượng Hg trong
0.00005 Ngao

0
Chợ Cái Xà Cửa Chợ HL Tuần
HL2 Cong Lục 1 Châu

Hình 3.15. Hàm lượng Hg trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ

Hàm lượng Hg tích lũy trong nhuyễn thể dao động trong khoảng 0-0.00024
mg/kg đối với Sò, từ 0-0.00014 mg/kg đối với Ngao. Tuy chưa có tiêu chuẩn để
đánh giá, nhưng đã thấy xu hướng tích lũy cao Hg trong các mô tế bào nhuyễn thể
hai mảnh vỏ ở Hạ Long. Do hàm lượng quy định của thủy ngân thấp hơn Pb, Cd, As
trong các thực phẩm. Khu vực có hàm lượng thủy ngân cao nhất là Tuần Châu.
3.3.5. So sánh hàm lượng Kim loại nặng trong Ngao và Sò.
* Đối với Cadimi :
U

55
Hình 3.12 cho ta thấy hàm lượng Cadimi tích lũy trong Sò lớn hơn trong
Ngao. Qua 5 vị trí khảo sát thì hàm lượng Cadimi có trong Ngao và Sò chỉ tương
đương nhau ở khu vực Tuần Châu , =0.0002 mg/kg. Còn lại ở Chợ Hạ Long 2, hàm
lượng Cd ở Sò cao gấp hai lần (0.00012 so với 0.0006 ở Ngao), ở Cái Xà Cong là
hơn 3 lần ( 0.0007 và 0.0002 mg/kg ) và ở chợ Hạ Long 1 hàm lượng Cadimi ở
trong Sò cũng nhiều hơn hẳn 2.5 lần.
* Đối với Chì :
U

Kết quả ở hình 3.13 cũng cho ta thấy một kết quả là hàm lượng Chì có trong
Sò nhiều hơn Ngao. Cụ thể chỉ có hàm lượng Pb trong Sò ở Chợ Hạ Long 2 0.0018
mg/kg là nhỏ hơn Ngao , 0.003 mg /kg. Còn lại, ở tất cả các vị trí khác hàm
lượng Pb có trong Sò đều lớn hơn Ngao từ 2-3 lần. Cụ thể ở Cái Xà Cong, hàm
lượng Pb có trong Sò là 0.003 mg/kg , gấp ba lần Ngao 0.001 mg/kg; ở chợ hạ Long
1 hàm lượng trong Sò gấp gần hơn 2 lần lần Ngao ( 0.007 và 0.0026 mg/kg).
* Đối với Asen:
U

Hình 3.14, hàm lượng Asen trong Sò cũng cao hơn Ngao qua các khu vực
khảo sát. Mẫu ở chợ hạ Long 1, hàm lượng Asen có trong Sò cao hơn Ngao 2 lần, ở
trong mẫu ở Cái Xà Cong, hàm lượng ở trong Sò cao hơn 3 lần so với Ngao (
0.0055 mg/kg so với 0.0018 mg/kg ). Chỉ có mẫu ở chợ Hạ Long 2, hàm lượng As
trong Ngao lớn hơn Sò ( 0.006 mg/kg so với 0.004 mg/kg ).
* Đối với Thủy ngân:
U

Riêng với Thủy ngân thì sự khác biệt trong hàm lượng giữa Sò và Ngao là
không rõ ràng. Tùy theo khu vực mà hàm lượng Thủy ngân ở trong Sò và Ngao có
sự chênh lệch khác nhau. Ví dụ hàm lượng thủy ngân trong Ngao ở Chợ Hạ Long 2
cao gấp đôi soi với Sò ( 0.00014 so với 0.0007 mg/kg) . Tuy nhiên ở Cái Xà Cong
thì ngược lại, hàm lượng Hg trong Sò lại cao hơn Ngao 3 lần ( 0.0016 so với 0.0005
mg/kg).

56
3.3.6. Tương quan giữa hàm lượng Kim loại nặng trong động vật thần
mềm hai mảnh vỏ so với trầm tích.
Ở hình 3.16, hình 3.17, hình 3.18 là tương quan giữa hàm lượng thủy ngân
trong nước biển với hàm lượng thủy ngân ở trong động vật thân mềm hai mảnh vỏ.

0.004
0.0035
0.003
0.0025
0.002
Mùa mư a
0.0015 Mùa khô
0.001
0.0005
0
Bãi Tuần Cửa Chợ HL Chợ Hl Cái Xà
Cháy Châu Lục 1 2 Cong

Hình 3.16 Hàm lượng Thủy Ngân trong nước biển ở các khu vực Khảo sát

57
0.00045
0.0004
0.00035
0.0003
0.00025
0.0002 Hàm lư ợng Thủy ngân
0.00015 trong Sò
0.0001
0.00005
0
Bãi Tuần Cửa Chợ Chợ Hl Cái Xà
Cháy Châu Lục HL 1 2 Cong

Hình 3.17 : Hàm lượng thủy ngân trong Sò

0.00016
0.00014
0.00012
0.0001
0.00008
Hàm lư ợ ng Thủy ngân
0.00006 trong Ngao
0.00004
0.00002
0
Bãi Tuần Cử a Chợ Chợ Hl Cái Xà
Cháy Châu Lục HL 1 2 Cong

Hình 3.18 : Hàm lượng thủy ngân trong Ngao.

Ta có thể thấy rằng hàm lượng Thủy ngân ở Vịnh Cửa Lục và Tuần Châu là
hai vị trí hàm lượng thủy ngân luôn ở mức cao hơn các vị trí khác. Vịnh Cửa Lục ô
nhiễm thủy ngân do các nhà máy xi măng, nhiệt điện tập trung chủ yếu ở đây. Ở

58
Tuần Châu là trường hợp khác do là nơi tập trung các hoạt động du lịch của Hạ
Long.
Ngoài ra thì Hàm lượng thủy ngân trong Ngao phản ánh khá chính xác các
khu vực có hàm lượng thủy ngân cao hay thấp. Điều này minh chứng được khả
năng chỉ thị môi trường của sinh vật thân mềm 2 vỏ này.
Tương tự ta xem xét với Asen ở hình 3.18.

0.08
0.07
QCVN 10-
0.06 MT:2008
0.05
0.04
Mùa mư a
0.03
Mùa khô
0.02
0.01
0
Tuần Châu Cửa Lục Chợ HL 1 Chợ Hl 2 Cái Xà
Cong

Hàm lượng Asen ở Tuần châu và Cái Xà Cong , gần càng Nam Cầu Trắng có
giá trị Asen ca hơn cả và giờ xét đến hàm lượng Asen trong Sò và Ngao ở khu vực
này.
Chúng ta có một biểu đồ gần như tương tự.

0.016
0.014
0.012
0.01
0.008
Hàm lượng As trong sò
0.006
Hàm lượng As trong ngao
0.004
0.002
0
Chợ HL Cái Xà Cửa Chợ HL Tuần
2 Cong Lục 1 Châu

Rõ ràng là hàm lượng Asen trong Ngao và Sò ở Tuần Châu và chợ Hạ Long

59
1 cũng cao hơn hẳn nhưng khu vực khác. Nên có thể nhận xét rằng hàm lượng kim
loại nặng trong nước biển và trong động vật thân mềm hai mảnh vỏ có quan hệ tỉ lệ
với nhau. Hay nói các khác các động vật thân mềm hai mảnh vỏ này hoàn toàn đặc
trưng cho khu vực cần khảo sát về hàm lượng kim loại nặng.
3.3.6.1. Kết quả tính toán hệ số tích lũy trầm tích BCF.

BCF As
BCF Pb
STT Vị trí trong
trong Ngao
Ngao
1 Chợ HL 2 0.0100 0.1500
2 Cái Xà Cong 0.0040 0.0450
3 Cửa Lục 0.0001 0.0000
4 Chợ HL 1 0.0289 0.1425
5 Tuần Châu 0.0360 0.4200

Bảng 3.5 Hệ số tích tụ sinh học trong Ngao.


BCF Pb BCF As
STT Vị trí
trong Sò trong Sò
1 Chợ HL 2 0.0060 0.1000
2 Cái Xà Cong 0.0120 0.1375
3 Cửa Lục 0.0000 0.0000
4 Chợ HL 1 0.0778 0.4000
5 Tuần Châu 0.0510 0.5950

Bảng 3.6. Hệ số tích tụ sinh học trong Sò.


Từ bảng kết quả hệ số BCF trong Ngao và Sò ở các mẫu nghiên cứu ta có thể
thấy tích lũy kim loại nặng trong động vật thân mềm hai mảnh vỏ thấp hơn mẫu lấy
trong nước từ 1/1000- 1/2 lần.
- Đối với chì Pb:
Các vị trí có chỉ số BSF cao nhất là Chợ Hạ Long 2, Chợ Hạ Long 1 và Tuần
Châu đối với Ngao và ta cũng có các số liệu tương tự đối với Sò. Tuần Châu
là vị trí có chỉ số BSF cao, 0.036 với Ngao và 0.05 đối với Sò thể hiện mối
quan hệ giữa hàm lượng kim loại nặng và nước biển ở đây. Chợ Hạ Long 1

60
cũng là nơi có chỉ số BSF với Chì cao so với các vị trí còn lại với 0.02 đối
với Ngao và 0.07 đối với Sò.

- Đối với Asen :


Ta thấy Sò có khả năng tích lũy Asen cao hơn Ngao trong hầu hết các khu
vực nghiên cứu, đo đó kết quả tích lũy sinh học cũng cao hơn và thể hiện
mối quan hệ giữa hàm lượng kim loại nặng trong nước biển và trong Ngao
Sò rõ ràng hơn.
Cụ thể đặc biệt với khu vực Tuần Châu thì chỉ số BSF với Asen đặc biệt cao
với 0.42 ở Ngao và 0.59 ở Sò. Ngoài thể hiện tính chính xác của phép đo, các
chỉ số BSF này càng cho ta thêm cơ sở để nhận định rằng loài Sò có khả
năng chỉ thị sinh học tốt hơn Ngao và có thể đặc trưng cho khu vực nghiên
cứu.

3.3.6.2. Kết quả tính toán hệ số tích lũy sinh học trầm tích BCF.

BSCF Pb BSCF As
STT Vị trí
trong Sò trong Sò

1 Chợ HL 2 100.00 6.67

2 Cái Xà Cong 250.00 22.22

3 Cửa Lục 11666.67 0.00

4 Chợ HL 1 34.62 7.02

5 Tuần Châu 27.78 2.38

Bảng 3.8. Kết quả tính toán hệ số tích lũy sinh học trầm tích trong Sò.

61
Kết quả tính toán hệ số tích lũy sinh học trầm tích trong Sò cho ta thấy hàm
lượng kim loại nặng có trong Ngao và Sò lớn hơn trong trầm tích của khu vực
nghiên cứu.
Đối với Pb, các số liệu ở Tuần Châu, chợ HL 1, Cái Xà Cong… nhưng vị trí
mà chỉ số BSCF nhỏ hơn 250 thể hiện tính chính xác của phép phân tích cao hơn,
mối quan hệ giữa hàm lượng kim loại nặng có trong trầm tích và trong Sò. Đặc biệt
Tuần Châu có chỉ số BSCF thấp nhất trong các khu vực thể hiện mối quan hệ giữa
hàm lượng kim loại nặng trong Sò ở đây gần sát nhất với hàm lượng trong trầm
tích. Thể hiện được tính đặc trưng cho khu vực.

3.4. NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP.


Dù hàm lượng kim loại nặng trong các mẫu đều thấp hơn Tiêu chuẩn cho
phép của Bộ Y tế, thậm chí thấp hơn nhiều lần nhưng sự khác biệt về hàm lượng
kim loại nặng giữa các khu vực đã cho ta thấy những vấn đề ô nhiễm đang ảnh
hưởng đến hàm lượng kim loại nặng trong nước nước biển cũng như trong sinh vật.
Đặc biệt là ở những nơi có hoạt động công nghiệp và du lịch diễn ra mạnh như khu
vực Tuần Châu và chợ Hạ Long 1.
3.4.1. Nguyên nhân gây ô nhiễm.
3.4.1.1. Sức ép dân số ven biển
Sức ép dân số và tốc độ tăng dân số ở vùng ven biển của Vịnh Hạ Long, đặc
biệt là các khu tập trung dân cư ở ngay bờ biển như thành phố Hạ Long, khu công
nghiệp khai thác than, các khu công nghiệp khác... làm tăng lượng chất thải các loại,
nhất là nước thải sinh hoạt vào môi trường thiên nhiên, vào biển, vào sông và theo
sông ra biển.
3.4.1.2. Sự phát triển du lịch
Vùng ven biển của Vịnh Hạ Long có tốc độ tăng trưởng du lịch cao nhất
nước. Hoạt động du lịch là một trong những ngành kinh tế gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng nếu không có các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm hiệu quả. Nếu vẫn để
tình trạng rác thải và chất thải từ việc ăn uống trên bãi biển ở rất nhiều nơi như hiện

62
nay, nếu không tính toán số lượng khách hợp với khả năng chịu tải của các bãi tắm,
nếu không có nội quy nghiêm ngặt về thải dầu và các chất thải rắn từ các tàu thuyền
du lịch thì sự phát triển đó sẽ kèm theo nguy cơ rất lớn dẫn đến ô nhiễm nước biển.
Đặc biệt các nhà hàng nổi trên biển được phát triển hết sức bừa bãi, riêng khu vực
Bãi Cháy, quanh đảo Tuần Châu đã có hàng trăm nhà hàng. Các nhà hàng này thoải
mái thải nước rửa và đồ ăn thừa xuống biển, gây ô nhiễm quanh khu vực rất nặng
nề, nước biển biến thành màu đen và bốc mùi hôi thối.
3.4.1.3. Sự phát triển của hệ thống cảng biển và giao thông vận tải
Cảng Cái Lân, cảng nước sâu lớn nhất nước vừa đưa vào sử dụng, cộng với
hệ thống cảng Hải Phòng, cảng than Quảng Ninh, cảng dầu B12..., đã biến vùng
biển Quảng Ninh - Hải Phòng thành một khu vực có hoạt động vận
tải biển rất nhộn nhịp. Năng lực bốc xếp của các cảng này đã lên đến gần 30
triệu tấn/năm. Không nói đến các vụ tràn dầu do tai nạn, chỉ riêng việc ra, vào của
tàu thuyền trong khu vực đã gây áp lực ô nhiễm nước rất lớn cho Vịnh Hạ Long do
các tàu thường thải nước lacanh và các chất thải sinh hoạt xuống biển. Việc quản lý
về mặt môi trường đối với các tàu này hiện chưa thể thực hiện được do năng lực về
con người và phương tiện của các cảng vụ còn rất hạn chế.
Việc phát hiện ra các vệt dầu loang có diện tích hàng chục nghìn m2 trong
P P

khu vực cảng là chuyên thường xuyên.


Để duy trì hoạt động các cảng biển cần phải thường xuyên nạo vét, vì nói
chung hầu hết các cảng đều có sa bồi. Hoạt động đó cũng là nguyên nhân gây ô
nhiễm (đặc biệt là làm tăng nồng độ các kim loại nặng trong nước biển) và làm thay
đổi chất lượng nước biển.
3.4.1.4. Sông tải ra biển
Nước thải và chất thải rắn từ các lớp đất đá bị mưa bào mòn, nhất là do triệt
phá rừng đầu nguồn, các hoạt động công nghiệp (đặc biệt là khai thác than và xử lý
than theo phương pháp tuyển nổi), nông nghiệp và chất thải sinh hoạt của dân cư đô
thị trong lục địa thải đổ vào sông và sông tải ra biển.

63
Ngoài ra còn một khối lượng lớn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cũng được
thải ra biển qua nước sông.
3.4.1.5. Sự phát triển của đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thủy sản
Trong những năm gần đây, ngành hải sản trong khu vực nghiên cứu đã có sự
tăng trưởng rất đáng kể. Trong khu vực hiện có hàng nghìn lồng nuôi tôm cá trên
biển. Các đội tầu, thuyền đánh bắt cá ngày càng phát triển. Thêm vào đó, việc khai
thác tôm cá trái phép của nhiều tàu Trung Quốc, Đài Loan, ở vùng biển Việt Nam
cũng gia tăng trong những năm gần đây. Đặc biệt nguy hại là việc đánh bắt bằng
thuốc nổ và các chất hoá học.
Các chất thải sinh hoạt và dâu máy không được xử lý từ các tàu thuyền, chất
thải hữu cơ từ các hoạt động sơ chế sau khi đánh bắt (như đầu, vây, vảy, xương cá),
chất thải chủ yếu là hữu cơ từ thức ăn sử dụng trong nuôi trồng cũng là một sức ép
rất quan trọng đối với chất lượng nước vùng biển ven bờ của Vịnh Hạ Long.
3.4.2. Các giải pháp giảm thiểu.
Muốn giảm thiểu ô nhiễm cho một vùng biển cụ thể chúng ta cần phải thực
hiện việc kiểm soát ô nhiễm biển. Quy trình kiểm soát ô nhiễm cho các vùng biển
có nhiều nguy cơ xảy ra sự cố môi trường nhằm hướng dẫn việc thực thi các biện
pháp cần thiết theo một trình tự logic, có tính hiệu quả cao và tiết kiệm nhất về mặt
chi phí cũng như thời gian để bảo vệ môi trường biển trước các hoạt động cùa con
người có thể gây ra.
Thực hiện kiểm soát ô nhiễm tại các vùng biển ở Việt Nam cho đến nay vẫn
là vấn đề xa lạ đối với các cơ quan bảo vệ môi trường. Trong khi đó ở các nước
công nghiệp, vấn đề này luôn được quan tâm và ưu tiên. Ví dụ: Khi tiến hành lập dự
án xây dựng cảng Cái Lân, Công ty Nippon Koei & Associates đã xếp phòng Quản
lý môi trường ngang hàng với các phòng quan trọng khác của cảng như Phòng kỹ
thuật, Phòng khai thác...
Quy trình kiểm soát ô nhiễm sẽ bao gồm các vấn đề quản lý việc phát thải
các chất gây ô nhiễm của các con tàu trong khu vực biển, của các khu vực nuôi
trồng hải sản, của các đơn vị hoạt động du lịch biển, quản lý việc hoạt động bốc xếp

64
của cảng, hướng dẫn xây dựng đơn vị phòng chống sự cố tràn dầu và phương án
thực hiện khi có sự cố xảy ra.
* Kiểm soát ô nhiễm đối với tàu biển
Kiểm soát ô nhiễm từ khâu thiết kế, đóng mới tàu biển
Kiểm soát quá trình thiết kế và công nghệ chế tạo là kiểm soát toàn bộ quá
trình đóng mới phương tiện, nhằm chứng nhận chất lượng phương tiện phù hợp với
các tiêu chuẩn kỹ thuật của Quy phạm phân cấp và đóng tàu biển vỏ thép và các
Công ước quốc tế liên quan, đặc biệt là an toàn và bảo vệ môi trường. Đó là hai mặt
chính của một vấn đề cùng song song tồn tại ngay trong con tàu. Thực hiện kiểm
soát tại giai đoạn này là thực hiện các biện pháp mang tính chất ngăn ngừa ô nhiễm
biển trong quá trình khai thác.
Các yêu cầu về kết cấu và trang thiết bị của tàu
Theo yêu cầu của Công ước quốc tế và Quy phạm Việt Nam, tàu bất kỳ có
tổng dung tích từ 400 GT trở lên phải có trang thiết bị lọc dầu được chính quyền (cơ
quan giám sát kỹ thuật) chấp thuận. Đối với tàu bất kỳ có tổng dung tích từ 10.000
GT phải có trang thiết bị lọc dầu với hệ thống báo động và tự động dừng thải khi
hàm lượng dầu vượt quá 15ppm. Đây là yêu cầu quan trọng nhất đối với thiết bị
này.
Hệ thống lọc hỗn hợp dầu nước thông thường bao gồm thiết bị lọc, bơm phục
vụ các đường ống hút, ống xả, bích nổi tiêu chuẩn Quốc tế, các két lacanh, két dầu
cặn ... Hệ thống này phải thoả mãn một số yêu cầu riêng, đặc biệt do Tổ chức Hàng
hải quốc tế (IMO) soạn thảo.
Việc chọn các thiết bị lọc cũng như các bộ phận liên quan kèm theo là do chủ
tàu quyết định trên cơ sở các yêu cầu kỹ thuật có tính đến lợi ích kinh tế. Thậm chí
nhiều khi không cần bố trí đến hệ thống này mà chỉ bố trí các két với dung tích phù
hợp để chứa hỗn hợp dầu – nước, rồi sau đó chuyển lên bờ

Bảng 3.10. Một số yêu cầu chính đối với tàu Việt Nam

Loại tàu Nội dung yêu cầu trang bị

65
Cách ly nhiên liệu với nước dằn

Tất cả các tàu từ 400GT trở Thiết bị lọc


lên (cho khu vực buồng Hệ thống đo, báo động và dừng thải
cháy) Két dầu cặn
Nhật ký dầu, Kế hoạch ứng cứu tràn dầu

Két lắng
Các tàu từ 150GT trở lên
Hệ thống đo, kiểm soát dự thải
(cho khoang hàng)
Dụng cụ đo ranh giới dầu nước
Nguồn: Cục Đăng Kiểm Việt Nam, 2015.
Qua bảng ta thấy tàu Việt Nam chạy tuyến quốc tế phải thoả mãn:
- Cách ly hệ thống nhiên liệu với nước dằn.
- Lắp thiết bị lọc dầu (đạt được nồng độ dầu sau lọc 15ppm).
- Nếu tàu có dung tích trên 1000GT cần được lắp bộ phận đo, báo động và
dừng thải tự động.
- Cần có két chứa dầu cặn và sổ nhật kí bơm, tiếp dầu.
- Đối với tàu có tổng dung tích dưới 400GT hoặc tàu hoạt động trong vùng
biển Việt Nam không phải là tàu dầu. Tối thiểu nhất các tàu này phải có đủ trang
thiết bị và két chứa để giữ dầu lại trên tàu trong thời gian chuyến đi giữa hai cảng
gần nhất theo quy định của Quy phạm các hệ thống ngăn ngừa ô nhiễm biển của
tàu, 1997.
Kiểm soát ô nhiễm trong quá trình khai thác tàu biển
Đối với tàu biển phải tập trung vào việc kiểm soát đầu ra các chất ô nhiễm
sau đây:
- Kiểm soát việc thải dầu trong quá trình khai thác.
- Kiểm soát việc xả nước thải bẩn, rác thải sinh hoạt và rác của tàu.
- Kiểm soát khả năng xảy ra sự cố tràn dầu ở cấp phương tiện hoặc công ty.
- Kiểm soát việc xả nước có các chất độc hại.

66
- Kiểm soát sự phát thải các khí có khả năng làm suy giảm tầng ozon, gây ra
hiệu ứng nhà kính.
Kiểm soát việc thải dầu cặn trong quá trình khai thác tầu biển Đối với tàu
thuyền ra vào cảng, nước Lacanh gây ô nhiễm dầu mỡ là rất thường xuyên, 100%
các con tàu khi đậu trong cảng đều phải xả nước Lacanh. Cán bộ thanh tra môi
trường của cảng cần phải xác định xem tàu có được trang bị máy trích ly dầu hay
chưa. Nếu như chưa có thì buộc họ phải thuê của cảng thì mới được phép vào.
Nước dằn tàu (Ballast) cũng là một đối tượng cần kiểm soát. Với các con tàu
vào cảng nhận hàng, thường chứa hàng ngàn tấn nước để giữ thăng bằng, nước này
thường được bơm lên từ cảng xuất phát rất có thể chứa các chất gây nguy hiểm cho
môi trường. Yêu cầu tất cả các tàu đều phải bơm bỏ hết nước dằn tàu cách cảng ít
nhất 50km.
Tình hình khai thác hệ thống phân ly nước lacanh hiện nay của tàu Việt Nam
khá phức tạp. Bởi vì tàu được nhập khẩu từ các nguồn khác nhau nên loại thiết bị
này cũng khác nhau và thông thường bên bán tàu chỉ lắp vào để đối phó. Nhiều chi
tiết phụ tùng dự trữ máy bị thiếu. Các bộ phận quan trọng như van từ, đầu cảm biến,
hộp điều khiển, các phin lọc kiểu hấp phụ hoặc kết tụ đều hỏng, mất tác dụng lọc.
Việc khai thác hệ thống không đúng quy trình và càng vận hành ít càng dễ bị tắc
nghẽn. Rất nhiều tàu thường xả trực tiếp nước lẫn dầu ra biển, tại vùng ngoài khơi,
kể cả ở khoảng cách trên 100 hải lý. Luật biển quốc tế đã quy định vùng đặc quyền
kinh tế trong phạm vi cách 200 hải lý từ đường bờ là vùng “chủ quyền” của quốc
gia ven biển, vùng bảo vệ môi trường của các quốc gia đó và mọi phạm vi xảy ra
trong vùng này đều bị xử phạt. Chính vì lý do trên, nhiều tầu chờ đến đêm (ở cảng
Việt Nam) hoặc chờ đến khi chạy ra vùng biển trên 12 hải lý để bơm trộm nước
lacanh ra biển.
Biển Việt Nam bị ô nhiễm một phần cũng chính tại do hành vi thiếu trách
nhiệm này gây nên. Tàu Việt Nam bị phạt ở nước ngoài do gây ô nhiễm cũng
thường vì nguyên nhân này.

67
Đối với tất cả các tàu, những câu hỏi đặt ra là: Khi nào thì được thải? Nồng
độ giới hạn cho phép thải? Những vùng nào là vùng cấm? Lượng thải tối đa là bao
nhiêu?... Đó là, những vấn đề quan trọng nhất để kiểm tra tàu trong quá trình khai
thác. Việc kiểm tra giám sát hoạt động của tàu tại các cảng biển, và trên các vùng
biển của Việt Nam, kiểm tra các cơ sở đóng và sửa chữa tàu... đã được tiến hành
tương đối thường xuyên. Một biện pháp theo dõi việc xả của tàu là kiểm tra các loại
sổ nhật ký rác. Kiểm tra việc huấn luyện và luyện tập kế hoạch ứng cứu dầu tràn.
Kiểm soát ô nhiễm đối với việc thu gom và xử lý chất thải của tàu
Yêu cầu tất cả các con tàu đều phải có thùng chứa, khi cập cảng sẽ được đưa
đi xử lý đúng nơi quy định, nghiêm cấm việc vút chất thải rắn xuống biển. Đặc biệt
đối với các tàu du lịch và chở khách, khối lượng rác thải và nước thải sinh hoạt là
rất lớn.
Vấn đề cuối cùng cần kiểm soát đối với các con tàu ra vào cảng là hàng hoá
trên tàu. Đối với các mặt hàng có thể gây nguy hiểm cho môi trường cần phải được
bao gói đúng quy định, khi bốc, xếp không thể bị rơi vãi hoặc bay hơi. Chủng loại
hàng hoá và khối lượng cần được khai báo đầy đủ trước khi vào cảng.
Hầu hết các cảng biển của Việt Nam chưa có thiết bị tiếp nhận chất thải lỏng
phù hợp với yêu cầu của Công ước và Luật. Nước thải các loại từ tàu (đặc biệt là
nước chứa dầu) từ các nhà máy đóng và sửa chữa tàu hầu hết đều đổ trực tiếp ra
sông, biển mà không qua hệ thống xử lý nước thải. Dịch vụ phá dỡ tàu cũ ngày càng
tăng nhưng các cơ sở này đều mới phát triển từ vài năm nay nên kinh nghiệm và
hiểu biết về bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, các ụ phá dỡ tàu không có khu
vực cách ly với môi trường. Các phế liệu chưa được tái chế thải ra môi trường hàng
năm ước tính tới hàng trăm tấn
* Đối phó sự cố tràn dầu
Công tác ứng cứu tràn dầu rất quan trọng, nó luôn bất ngờ như hoả hoạn và
cũng đòi hỏi tính khẩn trương như công tác phòng cháy, chữa cháy. Do vậy phải có
công tác kiểm tra, giám sát việc chuẩn bị và tổ công tác thực hiện phải thường trực
sẵn sàng.

68
Những công tác chuẩn bị như trên cũng chỉ đối phó được các vụ tràn dầu nhỏ
và trung bình (các sự cố làm tràn ra biển trên 10 tấn xăng, dầu được coi là lớn). Do
vậy, ban lãnh đạo cảng cần có phương án phối hợp với các đơn vị hữu quan như Hải
quân, Uỷ ban phòng chống và cứu hộ Trung ương, Bộ Tài nguyên và Môi trường,...
để phối hợp ứng cứu có hiệu quả với các vụ tràn dầu lớn.
Tuy nhiên phải đặt công tác phòng cao hơn chống, tức là thực thi các biện
pháp cần thiết để ngăn ngừa các vụ tràn dầu ít xảy ra nhất. Các biện pháp cần thiết
đó là:
Quản lý và giám sát được các tàu trong khu vực biển qua hệ thống RADAR.
Trình độ của các hoa tiêu lái dắt tàu vào cảng phải đạt yêu cầu ở mức cao
nhất để tránh va quệt giữa các tàu vì đây là nguyên nhân chính dẫn đến tràn dầu.
Các loại phao tiêu, biển báo, đèn báo và luồng lạch ra vào cảng luôn ở tình
trạng kỹ thuật tốt.
Công tác thông tin về thủy triều, khí tượng, thời tiết luôn được cập nhật và
thông báo kịp thời cho các tàu trong khu vực biển và các tàu ra vào cảng .
Giáo dục, cảnh báo và thực hiện việc phạt nặng đối với các tàu để xảy ra sự
cố tràn dầu.
Một khi sự cố tràn dầu đã xảy ra. Đơn vị quản lý Môi trường cần có thái độ
tích cực trong công tác khắc phục, thông báo kịp thời cho các cơ quan có trách
nhiệm, không được giấu giếm và chối bỏ trách nhiệm của mình. Yêu cầu các chủ
tàu gây sự cố phải thực hiện nghĩa vụ của mình với việc phục khu vựci môi trường
biển, trong trường hợp cần thiết phải đóng góp tài chính đền bù thiệt hại cho những
bên liên quan như cơ quan nuôi trồng hải sản, ngư dân...
* Kiểm soát các chất thải trong khu vực cảng (trên cạn).
Các chất thải này bao gồm chất thải sinh hoạt từ khu vực làm việc của các
nhân viên trong cảng. Chất thải công nghiệp từ các phân xưởng sửa chữa, bảo
dưỡng thiết bị phục vụ bốc dỡ và chuyên chở hàng hoá trong cảng. Chất thải từ các
phân xưởng sửa chữa và bảo dưỡng tàu. Hàng hoá rơi vãi trong quá trình bốc xếp

69
hàng cho các con tàu, đặc biệt là khi bốc xếp hàng rời. Theo các quy định về quản
lý chất thải, tất cả đều phải được tập trung xử lý trước khi thải ra môi trường.
- Đối với chất thải sản xuất: sinh ra từ các phân xưởng sửa chữa, bảo dưỡng
U U

thiết bị của cảng đều chứa một lượng đáng kể dầu mỡ (chủ yếu là dầu bôi trơn động
cơ đã hết hạn sử dụng), cần phải được thu gom và đưa đi tái chế hoặc xử lý, tuyệt
đối không được thải ra cống nước của phân xưởng. Phần nước thải của phân xưởng
cần đưa vào thiết bị trích ly dầu trước khi cho chảy xuống biển.
- Đối với chất thải của phân xưởng sửa chữa và bảo dưỡng tàu chứa rất
U U

nhiều các độc tố và kim loại nặng có trong lớp sơn bảo vệ của tàu, cần phải thu gom
vào bể xử lý. Công tác xử lý chất thải này cần phải làm triệt để và tuân theo quy
trình xử lý để kết tủa hoàn toàn các kim loại nặng có trong đó. Trước khi cho thải ra
biển, nước thải này cũng cần phải cho qua máy trích ly dầu để tách bỏ hoàn toàn
dầu mỡ.
Các chất thải rắn của phân xưởng cũng có độc tính rất cao và hầu như không
bị phân hủy theo thời gian, do vậy không thể cho chôn lấp tùy tiện mà cần phải
được thu gom đưa đi cho các đơn vị chuyên trách xử lý mới đảm bảo không gây
nguy hiểm cho môi trường.
Khi bốc xếp hàng hoá lên, xuống tàu hoặc đưa vào kho của cảng, một lượng
đáng kể sẽ bị rơi vãi ra mặt đất, tất cả chất rơi vãi này đều phải được quét dọn và
thu gom hàng ngày, đặc biệt đối với mặt hàng hoá chất cần có sự giám sát chặt chẽ.
Cảng cần có những quy định cụ thể rõ ràng về vấn đề đóng gói, ký hiệu, mã số cho
từng loại hàng hoá. Đối với các mặt hàng nguy hiểm có thể gây cháy, nổ, bắt buộc
chủ hàng phải thông báo trước và có các phương án đề phòng sự cố môi trường.
Đối với các mặt hàng nhập khẩu, chủ hàng phải tuân thủ nghiêm mọi quy
định về bảo vệ môi trường. Cần giáo dục ý thức cảnh giác và tinh thần trách nhiệm
cho những công nhân làm công việc bốc xếp hàng hoá trên cảng.
- Đối với việc thu gom nước mưa cháy tràn: Toàn bộ mặt bằng của cảng nhất
U U

thiết phải có hệ thống cống, khi có mưa, nước mưa sẽ theo hệ thống cống này tập
trung về một cửa trước khi chảy ra biển. Bình thường thì rác, các chất bao gói và

70
các chất không tan sẽ được lưới ngăn lại, vớt lên đưa đi xử lý không để chảy tự do
xuống biển. Trong trường hợp có sự cố môi trường, ví dụ vỡ bể chứa dầu trên cảng
hoặc có thùng hàng hoá chất nguy hiểm bị vỡ khi bốc xếp, cửa cống này sẽ bị đóng
ngay lập tức, không để các chất nguy hiểm chảy thoát xuống biển.
- Đối với chất thải sinh hoai: Từ khu vực văn phòng hoặc nơi ở của nhân
U U

viên trong cảng thải ra thường bị ô nhiễm hữu cơ, cũng phải được xử lý cẩn thận
trước khi cho chảy thoát xuống biển, loại nước thải này có thể xử lý bằng phương
pháp vi sinh. Khả năng tự làm sạch của nước biển đối với ô nhiễm rất cao, nên đối
với các cảng nhỏ, lượng nước thải sinh hoạt ít thì có thể cho chảy thẳng xuống biển
không cần qua xử lý.
* Các giải pháp ngăn chặn ô nhiễm từ nuôi trồng thủy sản.
Để ngăn chặn ô nhiễm môi trường phát sinh do việc nuôi trồng thủy sản, cần
phải thực hiện các biện pháp sau:
- Quy hoạch quy mô và các phương thức nuôi trồng thủy sản.
- Ngăn chặn việc chặt phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản. Kinh
nghiệm từ cơn bão số 7 năm 2005 cho thấy những đoạn đê biển có rừng ngập mặn
bảo vệ đều không bị vỡ. Vì vậy, bảo vệ rừng ngập mặn là bảo vệ hệ sinh thái đặc
biệt, bảo vệ nguồn lợi thủy sản và còn để bảo vệ đê biển.
- Tuyên truyền để nhân dân tuân thủ các quy định của nhà nước trong khai
thác và nuôi trồng thủy sản nhằm bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo vệ các loài hải
sản quí hiếm.
- Điều tra đánh giá một cách toàn diện hoạt động nuôi tôm trên cát để từ đó
xây dựng được các giải pháp tổng thể nhằm giảm thiểu tác động môi trường. Các
giải pháp cần quan tâm là: giải pháp về quy hoạch, giải pháp công nghệ (kỹ thuật
thiết kế, xây dựng ao nuôi; kỹ thuật xử lý chất thải rắn, nước thải...); giải pháp về
vốn; giải pháp về chuyển giao kỹ thuật; giải pháp về thủy lợi, tạo nguồn nước và
giải pháp về các chính sách hỗ trợ.

71
Tiếp tục triển khai áp dụng mô hình quản lý tổng hợp đới bờ tại địa phương
ven biển. Xây dựng và triển khai Chiến lược quản lý tổng hợp đới bờ nhằm tạo ra
khung hành động cho hoạt động phát triển bền vững tại dải ven biển.
* Các biện pháp bảo vệ môi trường trong du lịch.
Vịnh Hạ Long hàng năm tiếp nhận hàng chục nghìn khách du lịch từ khắp
mọi miền trên đất nước ta và bạn bè thế giới đến thăm quan. Đây là một nguồn lợi
rất lớn cho ngành du lịch, nhưng cũng chính hoạt động của ngành này là nguyên
nhân gây ra ô nhiễm môi trường. Để bảo vệ môi trường trong hoạt động của ngành
du lịch, cần áp dụng các giải pháp sau:
- Nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện các cơ chế chính sách, ưu tiên các dự án
du lịch có các giải pháp cụ thể về giảm thiểu ô nhiễm, phát triển khai thác hợp lý
các nguồn tài nguyên, đảm bảo phát triển du lịch bền vững.
- Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường: nghiêm
chỉnh thực hiện “Quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch. Đánh giá tác
động môi trường các khu vực trọng điểm về phát triển du lịch.
- Quy hoạch và xây dựng các hệ thống xử lý nước thải đối với các khu du
lịch, nghỉ dưỡng.
* Các biện pháp cần thiết của Cơ quan quản lý môi trường
- Thực hiện việc tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức cộng đồng để giữ
cho biển được sạch, nhất là ở các bãi tắm, các khu du lịch. Những người dân, kể cả
những người trong các cơ quan quản lý vẫn chưa thực sự hiểu biết về biển, vẫn còn
coi biển là nơi có thể làm sạch mọi thứ bẩn mà con người đưa vào.
- Cần xây dựng các nhà máy xử lý nước thải, rác thải ở những nơi tập trung
đông dân như ở Hạ Long, Bãi Cháy... trước khi cho chảy ra biển.
- Phải thực hiện ĐTM cho các dự án mới, quan trọng ở biển và ven bờ như
các cảng, các nhà máy lọc dầu, sửa chữa tàu, các công trình duy tu các luồng lạch,
các dàn khoan v.v...

72
- Đưa vào thực thi các đề án quản lý tổng hợp vùng biển ven bờ (như của
ADB, World Bank và IMO), toàn ngành du lịch phải thực hiện đề án phát triển
ngành du lịch có lưu ý đến việc đánh giá các rủi ro cho môi trường.
- Phát triển các trạm monitoring của khu vực biển Vịnh Hạ Long, các trạm
này phải nằm trong hệ thống monitoring quốc gia.

73
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN:
Tại các điểm nghiên cứu chưa thấy có dấu hiệu bị ô nhiễm bởi kim loại nặng
trong nguồn nước, các thông số đều nằm trong giới hạn quy định tại QCVN 08:
2008.
Hàm lượng kim loại nặng trong nhuyễn thể hai mảnh vỏ
- Hàm lượng Cd tích lũy trong loài Sò và loài Ngao đều thấp hơn giới hạn
cho phép quy định tại QCVN 8-2/2011/BYT, tuy nhiên hàm lượng Cd ở chợ Hạ
Long 1 cao đột biến so với các khu vực cần xem xét..
- Hàm lượng Pb tích lũy trong hai loài nghiên cứu nêu trên thấp hơn giới hạn
cho phép quy định tại QCVN 8-2/2011/BYT hàng chục lần.Hàm lượng Pb ở chợ Hạ
Long 1 và Tuần Châu đều cao hơn hẳn.
- Hàm lượng As tích lũy trong loài Sò và Ngao tuy chưa có Quy chuẩn để so
sánh nhưng cũng cần lưu ý các khu vực Tuần Châu và chợ HL1 vẫn có hàm lượng
cao hơn nhiều các khu vực khác.
Mối quan hệ giữa hàm lượng kim loại nặng trong nhuyễn thể và trong trầm
tích: Hàm lượng các kim loại nặng (Cd, Pb, As) tích lũy trong động vật nhuyễn thể
hai mảnh vỏ đều có tỉ lệ với hàm lượng kim loại nặng (Cd, Pb, As) trong trầm tích
nhưng ở các mức độ khác nhau.
Qua tính toán các chỉ số tích lũy sinh học và chỉ số tích lũy sinh học trầm
tích cho thấy mỗi quan hệ giữa hàm lượng kim loại nặng có trong động vật thân
mềm hai mảnh vỏ như Ngao Sò đối với trầm tích và nước biển ở cùng một vị trí lấy
mẫu. Có thể thấy đặc biệt mối quan hệ này rõ ràng ở loài Sò với các chỉ số BSF và
BCSF cao, thể hiện khả năng chỉ thị sinh học về kim loại nặng của Sò.
Đặc biệt khi so sánh hàm lượng kim loại nặng của Sò với Ngao ở các chỉ số
Cd, Pb, As ta cũng thấy được hầu hết hàm lượng kim loại nặng có trong Sò cao hơn
Ngao khoảng 2-3 lần nên có thể nói ở khu vực vịnh Hạ Long, loài Sò có khả năng
tích lũy kim loại nặng nhiều hơn loài Ngao.

74
Ở hai khu vực là Tuần Châu và sau chợ Hạ Long 1 nơi diễn ra các hoạt động
du lịch , ta thấy hàm lượng kim loại nặng đặc biệt cao hơn hẳn các khu vực khác
nhiều lần. Cần đặc biệt lưu ý theo dõi Asen ở khu vực Tuần Châu ( 0.012 mg/kg) và
chợ Hạ Long 1 (0.019 mg/kg) là những nơi có hàm lượng Asen cao gấp 10 lần các
khu vực khác.
KIẾN NGHỊ
Động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ có khả năng sử dụng để làm sinh vật chỉ
thị ô nhiễm môi trường. Vì vậy cần tiếp tục có các nghiên cứu sâu và rộng hơn nữa
về khả năng tích lũy kim loại nặng trên nhiều đối tượng khác nhau.
Loài động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ là loại thực phẩm khá phổ biến hiện
nay. Tuy nhiên, hiện nay các tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định giới hạn ô nhiễm kim
loại nặng trong loài nhuyễn thể còn hạn chế như chưa có quy chuẩn quy định giới
hạn ô nhiễm kim loại nặng (Cu, Zn, As...). Vì vậy cần phải xây dựng các tiêu
chuẩn, quy chuẩn để đánh giá ngưỡng độc tính của các kim loại nặng trong nhuyễn
thể hai mảnh vỏ.
Thực hiện quan trắc, cảnh báo mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong nhuyễn
thể tới người dân để giảm thiểu những tác động bất lợi đến sức khỏe con người
thông qua chuỗi thức ăn. Vì thực tế hiện tại việc quan trắc ở Hạ Long nói chung chỉ
được thực hiện trên nước biển và trầm tích, về trầm tích còn rất hạn chế còn ở trên
động vật gần như không có.
Kiến nghị về quy hoạch nuôi trồng thủy sản của tỉnh Quảng Ninh cần nghiên
cứu khu vực Tuần Châu là khu vực có hàm lượng kim loại nặng dù ở trong mức cho
phép nhưng lại là nơi có hàm lượng cao nhất, cần phải theo dõi thường xuyên và có
những nghiên cứu chuyên sâu về vùng nuôi trồng thủy hải sản ở đây, đảm bảo thực
phẩm an toàn.

75
Nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm như đã nêu trên là do chúng ta
còn thiếu những giải pháp thích họp để quản lí các hoạt động phát triển kinh tế
trong khu vực một cách đồng bộ, đa ngành chứ không phải đơn ngành như hiện nay.
Để bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm biển như hiện
nay, chúng tôi xin đề xuất một số khuyến nghị như sau:
- Bên cạnh việc quản lí đa ngành chúng ta còn cần áp dụng thật nghiêm túc
những quy định về việc xử lí những ngành, tổ chức và cá nhân nào vi phạm vào
những nguyên tắc về bảo vệ môi trường.
- Cần có sự đầu tư hơn nữa về mặt tài chính trong công tác khắc phục các sự
cố môi trường xảy ra trong vùng Vịnh Hạ Long và những vùng phụ cận vì nếu vùng
biển bên cạnh bị ô nhiễm, chẳng hạn có một vụ tràn dầu xảy ra, thì Vịnh Hạ Long
không tránh khỏi cũng bị ảnh hưởng.
- Hạn chế việc lấn biển để lấy đất xây dựng các công trình cũng như tạo thêm
quỹ đất phát triển đô thị, việc làm này gây ảnh hưởng rất lớn tới môi trường nước
ven biển của Hạ Long, làm thay đổi môi trường nước, đồng thời kéo thêm các hệ
quả to lớn đối với môi trường nước ven biển, kể cả các khu vực trong ven biển của
thành phố Hạ Long
- Quan trắc thường xuyên liên tục về các hoạt động khai thác than để giảm
thiểu tối đa ảnh hưởng đến môi trường. Khai thác than đặc biệt khai thác lộ thiên
ảnh là hoạt động phát thải kim loại nặng nhiều ra môi trường, cần phải theo dõi và
thanh tra chặt chẽ.
- Về mặt kỹ thuật, chúng ta nên đầu tư nhiều hơn vào việc nghiên cứu, ứng
dụng những công nghệ tiên tiến, hiện đại và những công nghệ phù hợp với điều kiện
thực tế của Việt Nam để xử lý và giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển.

76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Cơ sở khoa học Môi trường- Lưu Đức Hải NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
2. Báo cáo Tổng hợp Quy hoạch phát triển ngành thủy sản Quảng Ninh từ
năm 2020 đến năm 2030.
3. Hoàng Thanh Hải (2013), Nghiên cứu khả năng sử dụng một số loài động
vật hai mảnh vỏ để giám sát ô nhiễm kim loại nặng tại khu vực của sông Kôn và
đầm Thị Nại tỉnh Bình Định.
4. Báo cáo Quy hoạch môi trường Vịnh Hạ Long 2015 – 2020
5. Báo cáo hiện trạng môi trường Vịnh Hạ Long năm 2015, Ban quản lý
Vịnh Hạ Long
6. Trần Thị Phương (2012), Phân tích và đánh giá hàm lượng kim loại nặng
trong một số nhóm sinh vật tại hai hồ Trúc Bạch và Thanh Nhàn của thành phố Hà
Nội, Trường ĐH KHTN.
7. Báo cáo kết quả quan trắc nước Vịnh Hạ Long năm 2018.
8. Báo cáo kết quả quan trắc môi trường các trạm quan trắc trong Mạng lưới
quan trắc môi trường quốc gia năm 2005 – 2010.
9. Báo cáo hiện trạng ô nhiễm dầu trên biển, Chi cục biển và hải đảo, Sở Tài
nguyên và Môi trường Quảng Ninh
10. Báo cáo phòng Nước và Biến đổi khí hậu, Sở TNMT Quảng Ninh 2015
11. Đinh Hải Hà (2010) Phương pháp phân tích các chỉ tiêu môi trường,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hạ Long
12. IUCN và USAID (2015) Phân tích hiện trạng chất lượng nước biển Vịnh
Hạ Long
13. Kỷ yếu Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, Bộ tài nguyên và Môi
T
2
6

trường, Hạ Long, 29/09/2015


14. Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh 2015

77
15. Nguyễn Xuân Thành, Nguyễn Như Thanh, Dương Đức Tiến (2003). Vi T
2 T7
2

sinh vật học nông nghiệp. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
T
7
2

16. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo hiện trạng môi
trường Quảng Ninh năm 2015.
17. Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ninh, Chiến lược quốc gia về bảo
vệ môi trường đến năm 2015, tầm nhìn nhìn 2020.
18. Vũ Thanh Ca, Viện nghiên cứu quản lý Biển và Hải Đảo, Môi trường
biển: Khái niệm và các vấn đề về môi trường biển, 2010
19. Thu Ngân – Phòng thông tin và dữ liệu, bài báo “ô nhiễm môi trường
biển ở Việt Nam”, trang web đài khi tượng thủy văn Nam Trung Bộ
20. Ủy ban nhân tỉnh Quảng Ninh, Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của
tỉnh Quảng Ninh, 2014.
21. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quy hoạch thoát nước và xử lý nước thải khu
vực đô thị tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
22. Wikipedia tiếng Việt.
TIẾNG ANH
30. Bui, T.H & Le, T.A. (2014). Is the UNESCO World Heritage inscription
positive to Ha Long Bay? A question from visitor management perspective.
Proceeding at the 12th annual AsiaPacific Conference (APC 12), from 1-3
November 2014, Ritsumeikan Asia Pacific University(APU), Beppu, Japan

31. Duc, T. A., & Guinea, J. G. (2014). Vulnerability, pressures, and protection
of karst caves and their speleothems in Ha Long Bay, Vietnam. Environmental earth
sciences, 71(11), 4899-4913.

32. ESRT. (2014). Vietnam visitor survey 2014. European Union funded
Environmentally and Socially Responsible Tourism (ESRT) Capacity Development
Program. Hanoi.

78

You might also like