Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 13

“Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học”(TH).

từ câu chuyện cuộc đời của người


nông dân miền núi,không chỉ vẽ lại hiện thực cuộc sống còn cảm nhận được dưới ngòi bút ấy là khúc ca vang
lên về sức sống, về khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc của con người. “Vợ chồng A Phủ” là một trong
những tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài trích trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đặc biệt, hình ảnh nhân vật
Mị trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông cởi trói cho A Phủ đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều
suy nghĩ, cảm xúc và minh chưngs:”Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai.” (Lỗ Tấn).
“Vợ chồng A Phủ” st 1953,kết quả 8 tháng đi thực tế ở Tây Bắc. Ở đây, Tô Hoài đã tx con người, bao
số phận, cuộc đời. Chính sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ của con người nơi đâylà nguồn cảm hứng chắp bước
cho sự thành công của tác phẩm. Nhân vật Mị vị trí trung tâm của tác phẩm, ở đó Tô Hoài tập trung vào khai
thác diễn biến tâm lí, sự thay đổi trong suy nghĩ, nhận thức để đi đến hành động. sự thay đổi của nhân vật Mị
hình ảnh ẩn dụ về sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của con người. Ở đâu đó trong mỗi người luôn ẩn
chứa một ngọn lửa đang âm ỉ cháy, dù là nhỏ thôi nhưng đó lại là tiền đề, là điều kiện, sẽ bùng cháy lên mạnh
mẽ hơn bao giờ hết. Vậy, tại sao nói hình ảnh Mị trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông giải cứu A
Phủ là minh chứng rõ nhất cho câu nói của Lỗ Tấn? Trước đây là một cô gái trẻ trung, yêu đời, có tài thổi
sáo, bị bắt về làm dâu nhà thống lí, thực chất lại là làm trâu làm ngựa, bị hành hạ, đày đọa đến mất đi ý thức
của một con người đúng nghĩa. Trong đêm tình mùa xuân, Mị như dần hồi sinh, ngọn lửa khát vọng tự do của
Mị như bùng cháy lên nhưng rồi lại vụt tắt. nó đã tạo tiền đề cho sức sống trỗi dậy mạnh mẽ sau này của
Mị. .đêm đông ấy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị hồi sinh hoàn toàn, khát vọng tự do thôi thúc Mị chạy
theo A Phủ, thoát thực tại đầy khổ cực. Đó là khi ngọn lửa sức sống của Mị bùng cháy lên mãnh liệt nhất.
Mùa xuân - mùa của tình yêu, tuổi trẻ, của những lễ hội vui tươi. Tưởng chừng như, dưới mùa xuân
đấy phải là hình ảnh vui tươi, tràn đầy sức sống của những cô gái tuổi đôi mươi. mượn thời khắc đẹp đẽ ấy
để khơi lên sức sống tiềm tàng trong Mị, đánh thức ý thức tưởng chừng đã nguội lạnh, chết đi trong tâm hồn
Mị. Tô Hoài đã vẽ lên khung cảnh mùa xuân đậm màu sắc và tươi sáng biết bao, ở đó có âm thanh của cuộc
sống, âm thanh của tiếng cười, tiếng trẻ con, tiếng chó sủa và đặc biệt là tiếng sáo. Mị có biệt tài thổi sáo
“có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”, âm thanh quen thuộc ấy đã ùa vào tâm trí Mị,
đánh thức ký ức trong Mị. Khác với những âm thanh mà trước giờ Mị vẫn nghe thấy, giờ đây tiếng Mị nghe
được là âm thanh của cuộc sống, đặc biệt là tiếng sáo, âm thanh quen thuộc ấy đã tác động đến Mị một cách
mạnh mẽ. Mị uống rượu. âthanh của tiếng sáo và hơi men của rượu đưa Mị sống dậy với những kí ức ngày
xưa, Mị sống trọn vẹn ở nơi đó mà không mảy may nghĩ đến thực tạiđau khổ.
Tâm hồn Mị phơi phới trở lại, “Mị còn trẻ lắm. Mị còn trẻ. Mị muốn đi chơi.”. Mị nhận thức về thực
tại, Mị nhận thức được về tuổi trẻ và khát khao được tự do và rồi Mị sửa soạn đi chơi, Mị tìm đến ánh sáng.
Ở đây, Tô Hoài sử dụng các câu văn ngắn, nhanh cùng động từ, có thể thấy hành động của Mị lúc này vô
cùng dứt khoát, quyết liệt. Khi bị A Sử trói, lòng Mị vẫn lơ lửng theo tiếng sáo, Mị vùng bước đi. có thể trói
Mị về thể xác nhưng không thể trói buộc được tâm hồn Mị lúc này. Nhưng rồi, Mị lại nhớ đến người đàn
bà đồng phận “Mị sợ quá, cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết” Mị trở về với thực tại đầy nghiệt ngã và
đó cũng là hình ảnh khép lại quá trình hồi sinh lần một của Mị.
Vậy mới thấy, trái tim của Mị không nguội lạnh hoàn toàn, đâu đó trong tâm hồn của người con gái
trẻ ấy vẫn luôn âm ỉ cháy ngọn lửa của khát vọng hạnh phúc, khát vọng tự do mãnh liệt. Sự thức tỉnh của Mị
ngày hôm nay là sự thức tỉnh trong tâm thức, sự hồi sinh ban đầu, tạo tiền đề cho sự trỗi dậy mạnh mẽ sau
này, là “báo hiệu cho đám cháy ngày mai”.
Đến đêm đông, dưới sự tác động của hoàn cảnh, của A Phủ và hơn cả sự tác động mạnh mẽ bên trong
con người Mị, khát khao về hạnh phúc, tự do trào dâng mãnh liệt, ngọn lửa cháy âm ỉ ngày nào đã bùng cháy
lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Ban đầu Mị vẫn giữ thái độ dửng dưng, thản nhiên khi thấy A Phủ bị trói, quá
quen với cảnh áp bức bóc lột này rồi. Thế nhưng, giọt nước mắt của A Phủ, Mị nhớ đến hoàn cảnh của mình,
thương mình, thương A Phủ. Sự đồng cảm ấy đã thôi thúc Mị, Mị quyết định cứu A Phủ, Mị cắt dây, cởi trói
cho A Phủ. Hành động cắt dây cởi trói ấy cũng là lúc Mị cắt dây cởi trói cho cuộc đời của mình.
Nhưng rồi, “Mị đứng lặng trong bóng tối”, phải chăng lúc đó trong người con gái ấy đang có sự đấu
tranh tâm lý vô cùng mãnh liệt. Chạy theo A Phủ để giải thoát cuộc đời mình, hay tiếp tục ở lại sống một
cuộc sống làm trâu làm ngựa. Dường như lúc này trong Mị vẫn đang có một sự ràng buộc, sự ràng buộc về
cường quyền và thần quyền. Và rồi Mị quyết định chạy theo A Phủ, “A Phủ, cho tôi theo với”, Mị sợ chết,
Mị sợ nếu Mị ở lại Mị sẽ tiếp tục phải sống trong cảnh tù đày, hành hạ ấy. Chạy theo A Phủ nhưng thực chất
là Mị đang chạy trốn khỏi cái chết, cởi trói cho A Phủ nhưng thực chất là Mị đang cởi trói cho cuộc đời
mình. Hành động của Mị không phải là bồng bột, đó là kết quả của cả một quá trình, trong Mị vẫn luôn âm ỉ
cháy ngọn lửa của sức sống tiềm tàng, và giờ đây A Phủ chính là ngọn gió thổi bùng lên ngọn lửa ấy trong
Mị, Mị giải cứu A Phủ và giải cứu cả cuộc đời mình. Sự thức tỉnh trong đêm tình mùa xuân, sự thức tỉnh
trong nhận thức đã thôi thúc Mị sống lại hoàn toàn, Mị vượt lên mọi điều, vượt lên rào cản của cường quyền
và thần quyền để chạy theo A Phủ, chạy đến với tự do để giải thoát cuộc đời mình đúng như nhận định của
Lỗ Tấn: “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai.”
Nếu trong đêm mùa xuân khát vọng sống của Mị nương theo tiếng sáo thì đến đến đêm đông sự thức tỉnh ấy
đã bùng cháy lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, sự thức tỉnh từ tâm thức, tiềm thức đến hành động. Sự hồi sinh
ấy không phải là bản năng mà nó xuất phát từ khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Trong đêm mùa xuân sự
giải thoát của Mị chỉ trong chốc lát thì trong đêm đông giải cứu A Phủ ấy đó là sự giải thoát cho cả cuộc đời,
giải thoát khỏi cuộc sống tù đày, giải thoát Mị khỏi những ngày tháng sống trong khổ nhục.
cảm nhận rõ tài năng của Tô Hoài trong cách xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật vô cùng khéo léo và
hợp lý, sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị và gần gũi vô cùng. hai đoạn văn chuyển biến trong tâm lý của
Mị, một sự chuyển biến tích cực, một sự mở đường, mở ra lối thoát cho nhân vật. Không giống như Nam Cao
hay Ngô Tất Tố đưa nhân vật đến bước đường cùng, Tô Hoài cái nhìn mới hơn, sáng hơn, nhà văn mở đường
cho nhân vật tìm đến hạnh phúc, tìm đến tự do như một cách giải thoát cho cuộc đời họ . Đó cũng là bởi, khi
“Vợ chồng A Phủ” được sáng tác, Tô Hoài đã được giác ngộ với lý tưởng của Cách Mạng, con người
đã tìm ra lối đi, tìm ra lối giải thoát cho cuộc đời mình. Qua tp, niềm tin vào con người, niềm tin vào khả
năng tìm đến tự do, vượt qua mọi rào cản để tìm đến hạnh phúc.“Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy
ngày mai” - Câu nói của Lỗ Tấn quả thật rất đúng đắn. Sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Mị đã
khiến người đọc có niềm tin mãnh liệt hơn vào con người, vào sức mạnh của trái tim khao khát tình yêu,
khao khát tự do cháy bỏng. Cho đến bây giờ, “Vợ chồng A Phủ” vẫn luôn giữ được sức sống, tác động mạnh
mẽ đến người đọc bởi sức sống tiềm tàng của Mị đã thổi hơi ấm vào đó và giữ mãi cho đến mai này.
Bữa cơm ngày đói

Khi nói về truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tâm sự: “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà họ
nghĩ đến cái sống”. Thật vậy, nơi ranh giới giữa sự sống và cái chết ấy con người vẫn khao khát tìm được
sự sống và hạnh phúc. Đoạn trích: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại… lá cờ đỏ bay phấp phới” đã
cho ta cảm nhận được tận cùng của sự xót thương về một khung cảnh khốc liệt của nạn đói nhưng con
người vẫn khát khao ánh sáng, hạnh phúc và tương lai.

Chi tiết bữa cơm ngày đói là bữa cơm đầu tiên đón con dâu về nhà Tràng là một chi tiết đặc sắc
vừa tái hiện chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong hoàn cảnh nạn đói hoành
hành, vừa mang gtnhân đạo vô cùng sâu sắc. Thông thường bữa cơm ngày đầu tiên đón con dâu
về sẽ rất quan trọng vì nó thể hiện được sự gắn kết của con dâu với nhà chồng. Nhưng với gia đình
Tràng thì bữa cơm đầu tiên ấy lại vô cùng đơn giản đến thảm hại "Giữa cái mẹt rách có độc một
lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành". những chi
tiết đơn giản nhưng Kim Lân đã khắc họa được sự khủng khiếp của nạn đói lúc ấy. Lúc này ăn chỉ
để sống qua ngày, con người đang cố gắng giành lấy chút sự sống mong manh từ tử thần. Bữa
cơm được chuẩn bị vô cùng sơ sài đến thảm hại, chắc hẳn chúng ta ai cũng biết với bữa cơm như
vậy thì sao mà ăn ngon lành cho được nhưng ở đây cả gia đình Tràng đều ăn rất ngon lành.

Có lẽ ai cũng hiểu được hoàn cảnh lúc này nhưng họ cố nén cảm xúc trong lòng và cố tỏ ra vui vẻ
để động viên nhau, làm động lực giúp nhau vượt qua hoàn cảnh khốn cùng này. Nhưng cũng có lẽ
đó là niềm vui thật sự bởi dù trong gian khổ nhưng họ vẫn có nhau, vẫn lạc quan và vẫn hạnh phúc
yêu thương nhau. Vượt qua mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu hà khắc và hoàn cảnh nghèo khó bà
cụ Tứ vẫn đón nhận, cảm thông và yêu thương cô con dâu mới, gia đình họ vô cùng hòa hợp, hạnh
phúc. Chính vì thế mà trong bữa cơm "Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau
này: Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà... này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho
mà xem". Những câu chuyện bà nói đều là những chuyện tốt đẹp sau này, đều nói về tương lai tươi
sáng đầy hy vọng phía trước. Qua đây ta thấy được sự lạc quan, luôn hướng về phía trước của bà
cụ Tứ, cũng như của cả đất nước trong cái giai đoạn khó khăn cực khổ ấy.
Nhưng những tiếng cười cũng như niềm hy vọng mong manh của cả gia đình nhanh chóng
bị dập tắt vì "niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn". Dường như
đã liệu được tình huống này sẽ xảy ra người mẹ nghèo khó với tấm lòng nhân hậu, thương người
và hết mực thương yêu con đã "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên
nghi ngút. Vừa khuấy khuấy vừa cười: chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Tuy nói là chè khoán nhưng
thật sự đó là nồi cháo cám chát xít, vốn là thứ thức ăn của súc vật. Qua đây, ta càng thấm thía hơn
cái thực trạng tàn khốc của nạn đói 1945 và tội ác tàn bạo của phát xít và tay sai đẩy những con
người khổ cực ấy vào tình cảnh khốn cùng. Nhưng qua đây ta lại càng thấy ngời lên được những
phẩm chất tốt đẹp của con người, họ bị bần cùng hóa nhưng không hề tha hóa.
Nổi bật nhất đó chính là bà cụ Tứ, nào đâu phải bà không biết nồi cháo cám kia chát xít chẳng hề
ngon lành gì nhưng bà vẫn bảo "ngon đáo để cơ" mà là bà đang cố động viên con mình cũng như
con dâu vượt qua hoàn cảnh khó khăn lúc ấy. Ta cảm thấy như bà mẹ già đang cố kìm nén những
cảm xúc tủi hờn nhất, những nỗi lo lắng khôn nguôi về tương lai vào tận sâu trong lòng để cười mà
động viên các con: "Cám đấy mày ạ", "Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy", gieo vào lòng
các con mình niềm hy vọng sống và vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Thật xót xa biết bao! Bà cụ Tứ
quả thật là một người mẹ nhân hậu, đảm đang, hết mực yêu thương con, sáng ngời những phẩm
chất tốt đẹp của một người mẹ nông thôn Việt Nam. Hơn thế nữa, chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim
Lân lại để người mẹ ở cái tuổi xế chiều ấy là người lạc quan nhất, luôn đon đả kể chuyện vui và
luôn động viên, gieo hy vọng vào lòng các con mình. Bởi lẽ, một người gần đất xa trời như bà cụ
Tứ mà còn khát khao sống mãnh liệt đến như vậy thì những người trẻ hơn sẽ lấy đó làm động lực
mà tiếp tục nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ là người thắp lửa, giữ lửa, và
truyền ngọn lửa khát khao sống, khát khao thoát khỏi đói nghèo, khát khao tự do đến với các con
cũng như những người khác.
Không chỉ có bà cụ Tứ mà qua hình ảnh bữa cơm ngày đói nhất là ở chi tiết nồi cháo cám ta
còn thấy được sự chuyển biến trong tính cách cũng như thái độ của anh Tràng và người vợ nhặt.
Khi Tràng gợt một miếng cháo cám bỏ vội vào miệng "mắt hắn chum ngay lại, miếng cám đắng
chát và nghẹn bứ trong cổ". Qđây thấy a Tràng là một người vô cùng khéo léo trong cách ứng xử.
Mặc dù có hổ thẹn vì không lo được cho vợ một bữa cơm đón dâu đầy đủ nhưng anh cũng hiểu
được hoàn cảnh mà không một lời oán than. Còn với người vợ nhặt, ta thấy được sự chuyển biến
trong tính cách của thị vô cùng rõ ràng. Ta không còn thấy một người đàn bà "chỏng lỏn", "đanh
đá", "chua ngoa" và "cong cớn, sưng sỉa" khi nói chuyện với anh Tràng, ta không còn thấy người
đàn bà bỏ hết cả sự duyên dáng và danh dự vì miếng ăn mà "cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh
đúc" trong ngày anh Tràng đưa thị về làm vợ. Mà thay vào đó là một người đàn bà hiểu chuyện: khi
nhận bát cháo cám từ tay mẹ chồng "người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt
thị tốt lại. Thị điềm nhiên và vào miệng". Ta thấy được thị là người dâu hiền, vợ thảo, hiểu chuyện
và biết chấp nhận và cảm thông với gia đình chồng mà không một lời kêu ca, muốn cùng gia đình
chồng vượt qua khó khăn. Đồng thời, ta cũng thấy được nổi khao khát một mái ấm gia đình hạnh
phúc của người đàn bà ấy cho dù có khó khăn nhưng thị vẫn đồng cảm và sẵn sàng đồng cam
cộng khổ cùng nhà chồng. Thật đáng quý!
Không chỉ dừng lại ở đó, chi tiết bữa cơm ngày đói còn phản ánh được cái hiện thực tàn
khốc lúc đó và lên án tội ác tàn bạo của bọn phát xít và tay sai. Chúng bắt người dân ta phải nhổ
lúa trồng đay, triệt đường sống của người nd lương thiện. Chúng khiến người dân ta sống cũng
như chết, sống lay lắt, vất vưởng như những thây ma ngoài đường, sống cũng không bằng chết.
Nhân dân ta phải ăn cháo cám, thứ thức ăn của gia súc, thậm chí có nhà còn không có cám mà ăn.
Trong hoàn cảnh ấy, cháo cám lại như một thứ đồ xa xỉ. Quả thật là một hiện thực tàn khốc.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: bữa cơm đón dâu thảm hại
chỉ với niêu cháo lõng bõng cùng nồi cháo cám chát xít. Kết hợp với nghệ thuật xây dựng tính cách
nhân vật chân thật, sinh động với cách miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế cũng như nghệ thuật trần
thuật mộc mạc, chắt lọc, có sức gợi cảm cao Kim Lân đã xây dựng lên được bữa cơm ngày đói của
gia đình Tràng trong ngày đầu đón con dâu thật chân thật và nhiều ý nghĩa.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói mà đặc biệt là nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc. Ta thấy được một hiện thực nạn đói vô cùng tàn khốc nhưng qua đó lại ngời lên
những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người. Trong cái khó khăn, bần cùng cơ cực ấy nhưng họ
vẫn có nhau, vẫn yêu thương nhau, vẫn hạnh phúc và luôn lạc quan tin tưởng vào cách mạng thành
công và tương lai tươi sáng
Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng

MB: Nếu Chí Phèo đi vào trong tác phẩm của Nam Cao với dáng ngật ngưỡng của kẻ say và tiếng chửi đời
đầy chua chát. Thì nhân vật Tràng cũng bước vào trang văn của Kim Lân với cái lưng to như lưng gấu và
dáng đi lững thững đầy mỏi mệt, cái mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều. Nhưng trước cách mạng, Nam
Cao đã bất lực nhìn Chí Phèo chết mà không thể đưa tay cứu vì hạn chế của lịch sử. Còn Kim Lân viết về anh
cu Tràng sau cách mạng thành công nên nhân vật đã được dắt tay đến ánh sáng của cách mạng, tìm đường tới
tự do. Con đường ấy chông gai, và thách thức như thế nào trong thiên truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã vẽ
lại con đường ấy bằng ngòi bút chân thực, sống động khi miêu tả nhân vật Tràng, một nhân vật chính của
truyện với sự cảm thông và lòng nhân đạo sâu sắc.
Kim Lân là một cấy bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân chất phác, thật thà
và đậm tình người ở những làng quê Việt Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn “nông dân” xắn quần lội xuống
bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai, của cuộc sống con người để tái hiện lên rõ mồn một trên mỗi
trang viết. Với cốt truyện đơn giản, lời kể hấp dẫn và khă năng phân tích tâm lý nhân vật thiên tài, ông đã để
lại cho độc giả những trang viết sâu sắc và xúc động về người dân quê - những con người gắn bó rất tha thiết
với quê hương và cách mạng. Một trong những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “ Vợ
nhặt”. Tác phẩm được xây dựng trên nền nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Cái năm mà người ta vẫn nhắc
đến như một tai nạn thảm khốc khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Truyện
ngắn “Vợ nhặt” được in trong tập “ Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Tác phẩm kể về anh cu Tràng - một
thanh niên nghèo khổ làm nghề kéo xe bò thuê. Dù trong tình cảnh đói kém quay quắt nhưng anh vẫn dắt
thêm một người đàn bà về làm vợ. Sự việc khiến cả xóm ngụ cư và ngay cả mẹ Tràng - bà cụ Tứ hết sức ngạc
nhiên và lo lắng. Nhưng qua đó, Kim Lân muốn ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh liệt của con người vào
tương lai, vào cách mạng, vào tình người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Xuất thân của Tràng:Viết về người nông dân, Kim Lân đã “khơi nguồn chưa ai khơi” , đó là thân
phận rẻ rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Tràng - một nhân vật điển hình như thế
với một hoàn cảnh vô cùng khốn khó, mang một ngoại hình chẳng mấy ưu nhìn. Tràng xuất thân là dân ngụ
cư - tầng lớp người bị coi thường nhất lúc bấy giờ, sống cùng mẹ già trong “ túp lều tranh nằm rúm ró trên
mảnh vườn lổn nhổn những bụi cỏ dại”. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để sống sót qua nạn đói này. Tràng
thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói nhưng cũng cực nhọc vô cùng. Sinh ra
trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, chứng kiến biết bao là xác chết năm la liệt, lại hội tụ trong mình đầy
yếu tố của một loại người đáng bị coi khinh.Tràng còn có một ngoại hình hết sức thô kệch, cục mịch. Nó
được ví như “ sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa”. Nếu như trong văn Nam Cao ta thấy Chí Phèo xuất hiện đầu
tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, …nó chửi trời, chửi đất...” thì Kim Lân lại đưa
vào Tràng một số nét khắc họa ngoại hình “dáng đi ngất ngưỡng, hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào hướng
chiều hai bên quai hàm, đôi khi lại ngữa mặt lên cười khành khạch”. Tác giả khi xây dựng nhân vật này
không tập trung miêu tả ngoại hình mà chỉ chú trọng khắc họa những nét riêng biệt. Nhìn vào Tràng ai cũng
thấy, ngoại hình ấy không hề đẹp, có phần hoang dã khác hẳn với cách trau chuốt của xã hội văn minh. Bên
cạnh đó ngoại hình của Tràng còn được khắc họa rõ nét hơn khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Đó là dáng đi
mệt mỏi, đầu thì chúi về đằng trước mặt cứ gằm lại, nó làm mụ mị con người vui vẻ, ngất ngưỡng trước đây
ở Tràng. Tạo hóa đã ban cho anh cái xấu mà không hề thương xót. Phải chăng cách xây dựng nhân vật có số
phận như thế là dụng ý nghệ thuật của nhà văn Kim Lân?! Để từ đó người nghệ sỹ ấy làm bật lên vẻ đẹp bên
trong của con người Tràng!
Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân cách tốt đẹp. Tràng tốt bụng, hiền
lành, hào hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh nhẹn và thích nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng
đi làm về, trẻ con trong xóm ra vây lấy hắn reo cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh
hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính vì thế mà anh đã sẳng sàn
cưu mang người đàn bà xa lạ giữa nạn đói bằng một bữa ăn. Mặc dù anh cũng là tầng lớp đang bị cái đói
hoành hành. Tuy nhiên “ Thương người như thể thương thân”, anh đã cứu một người đàn bà đang ở giữa ranh
giới của sự sống và cái chết, sẳn sàng cưu mang thị với quyết định đưa về làm vợ. Tình thương người với
người tỏa sáng hơn bao giờ hết trong một con người tưởng chừng như gàn dở, ngờ nghệch đang bị coi
thường! Vẻ ngoài thô kệch chính là bàn đạp để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, yêu thương con người của
Tràng. Đó cũng chính là dụng ý của nhà văn Kim Lân. Một người ngờ nghệch như anh cu Tràng mà biết cưu
mang người khác, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thì những người cao hơn anh, có địa vị hơn anh
đánh rơi tình người ở đâu mất rồi?. Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn chân chính, những nhà
nhân đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì xét cho cùng, văn chương là vì con người, giáo
dục nhân cách chúng ta!
Người đàn ông nhân hậu, tốt bụng ấy sẵn sàng cưu mang những người cùng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã
ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo. Tình huống Tràng nhặt vợ khi gặp lại người con gái
đẩy xe bò giúp anh lần trước khiến anh không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm
của người cùng cảnh ngộ “quần áo rách như tổ đỉa trên khuân mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Cái
đói khiến người con gái ấy chẳng biết thể diện là gì, cứ thế mà thô thiễn, trơ trẽn bất chấp tất cả để được ăn.
Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường của người đàn bà ấy. Nó đã đánh
thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, phóng khoáng đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh
đúc. Vẻ đẹp tình người đã được nhen nhóm, thắp sáng lên giữa cái tối tăm của nạn đói. Và cũng chỉ một câu
nói tầm phơ tầm phào của Tràng “ Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về mà thị đã
theo Tràng về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất nỗi lo sợ về cái đói, cái chết, “ Thóc gạo này đến cái thân mình
cũng có nuôi nổi hay không mà còn đeo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất là cái thời đói kém như thế này.
Nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi “chậc, kệ”. Kệ ở đây không phải là kệ đời hay mặc xác đời mà là cái kệ trong
niềm tin mãnh liệt vào tương lai, cái “kệ” trong hành động của con người luôn khao khát hạnh phúc gia đình,
hạnh phúc lứa đôi ngay cả khi cái chết đang cận kề. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau mình tất cả
nổi sợ hãi, mọi lo nghĩ để hướng đến hạnh phúc. Người ta cho rằng đó là hành động liều lĩnh bởi ta đã chứng
kiến một chị Dậu phải bán con, bán chó để nuôi những đứa con khác, duy chì miếng sinh nhai, một anh Đĩ
Chuột phải tự tử để nhường lại miếng cơm cho vợ và con mình. Vậy mà Tràng lại đi cưu mang người khác.
Tình thương đã cho anh quyết định dứt khoát hơn về hành động của mình. Nó còn tiềm ẩn cái khao khát hạnh
phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước. Nhà văn Kim Lân quả thật đã khám phá thành công
những vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân như Tràng - giàu tình yêu thương và sẵn sàng cưu mang
những kiếp người khổ hơn mình.
(Sau khi có vợ:) Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở thành
một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia đình. Ta nhận ra rằng, Tràng
là một người chồng hết sức yêu quý, quan tâm người bạn đời của mình. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “ mua cho
thị cái thúng con đựng lặt vặt”, đưa vào hàng cơm “ đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê”. Chăm sóc
từng cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng con không chỉ đựng
mấy thứ lặt vặt mà còn là minh chứng thị là một người phụ nữ giống như những người khác, để thị có thể tự
tin hơn khi về nhà chồng, ai lại để vợ về nhà bằng tay không bao giờ! Tràng còn “rất chịu chơi” khi chi hẳn
hai hào mua dầu để thắp sáng cho đêm tân hôn của mình. Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu vừa buồn cười
lại vừa xót thương. “Hai hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần”. Tràng muốn đêm tân hôn của mình sáng
lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào đỡ tủi thân trong buổi đầu về nhà chồng. Khi mà có hạnh
phúc thì con người ta sẳn sàng đánh đổi cho niềm tin của mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu
cũng như cho hy vọng của mình được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như vậy!
Ai đó đã từng nói rằng “ Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con người thay đổi một cách kỳ
lạ” và Tràng cũng không ngoại lệ. Tràng không còn cúi đầu lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phở khác
thường”, “ tủm tỉm cười”, “ hai mắt sáng lên lấp lánh”. Cái cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi đầu đi
bên vợ. Bởi vốn dĩ anh chưa từng được người đàn bà nào tình tứ với mình như thế, chưa bao giờ nghĩ mình
sẽ có được hạnh phúc giữa nạn đói này. Sự xuất hiện của thị, của người vợ nhặt không chỉ mang đến một
luồng sinh khí cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn cả xóm ngụ cư. Có thứ gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào
cuộc sống đói khát, tối tăm của họ. Từ câu chuyện của hai con người dưới đáy của xã hội nhắn nhủ với chúng
ta một điều “Trong những hoàn cảnh bần cùng nhất mà con người ta vẫn nghĩ đến tình người thì chắc chắn
sẽ còn một tia sáng ở cuối con đường”.
(Khi đem thị về nhà,) Tràng mới thật sự lo lắng, tâm trạng thiếu tự tin, giống như một đứa trẻ. Trong
lòng anh ngổn ngang trăm thứ cảm xúc vừa vui, vừa lo âu. Tràng vui vì hạnh phúc quá lớn, “ Hắn đã có
vợ rồi đấy ư?”, sẽ có một hạnh phúc gia đình. Nhưng rồi hắn cũng lo sợ ý của mẹ, hết chạy ra ngõ lại chạy
vào sân. Khi thấy mẹ, “Tràng reo lên như một đứa trẻ. Anh cẩn thận mời mẹ vào ngồi lên giường cho chĩnh
chện rồi mới giới thiệu. Không chỉ là một người đàn ông có trách nhiệm mà Tràng còn là một người con hết
mực lễ phép, ngoan ngoãn với mẹ. Anh giới thiệu với mẹ, “Kìa nhà tôi nó chào u đấy”. Kim Lân quả thật
rất tài tình trong việc xây dựng lời thoại rất ít chữ nhưng chứa đựng trong đó tình cảm rất nhiều. Chao ôi, cái
người mà Tràng gọi “nhà tôi” ấy, cái người đang ra mắt mẹ chồng lại chỉ là một người đàn bà nhặt được
theo không, không cưới hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu quy thì xác xơ như tổ đỉa. Tuy
nhiên, tiếng “nhà tôi” kia vẫn nghe như có gì đó hết sức thân thương, trân trọng. Nó có sự nghiêm túc, chín
chắn về việc hệ trọng cả đời người.
(Sáng hôm sau) Song song với niềm hạnh phúc vứa chớm nở, nhà văn Kim Lân đã cho thấy ở Tràng
một luồng sống mới vào sáng hôm sau. “Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”,
“trong người êm ái lửng lơ như người trong giấc mơ đi ra”. Việc có vợ như một giấc mơ đẹp trong cuộc đời
Tràng vậy, nó đột ngột, nhanh chóng, niềm vui sướng ngập dâng trong lòng,… bỗng nhiên hắn thấy yêu
thương, gắn bó với căn nhà này lạ lùng. Tràng đã có suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông trưởng thành, từ
vô tâm thành quan tâm, tử dửng dưng đến lo lắng cho hạnh phúc lứa đôi. Từ trách nhiệm với cá nhân gia
đình càng thêm khát khao cháy bỏng vào tương lai phía trước. Ở Tràng hiện rõ tương lai tươi sáng, dù trên
bờ vực thẳm, anh vẫn đi tìm sự sống “ Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây”.Và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng
tung bay phấp phới như báo hiệu trước cuộc sống đói khổ này sẽ chấm dứt thay vào đó là những ngày vui,
ấm áp của mọi người. Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm được tỏa sáng hơn bao giờ hết, tình thương, tình
yêu giữa người với người đã thắp lên hy vọng, niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp!
Với tác phẩm “ Vợ nhặt”, Kim Lân một lần nữa khẳng định tài năng, sức sáng tạo và tấm lòng nhân đạo sâu
sắc của mình. Cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, cái lối viết tưởng chừng như dễ nhưng rất khó
phỏng theo, giản dị nhưng ánh lên một vẻ hào hoa lạ kỳ của nhà văn. Nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi là
cách nhìn đời, nhìn người đầy xót xa, thương yêu của tác giả, là niềm tin mà ông muốn trao gửi qua
thiên truyện ngắn. Phát hiện và trân trọng những phẩm chất đẹp và ước mơ của họ: Tìm ra con
đường, lối thoát làm thay đổi cuộc sống của những người nghèo - con đường cách mạng:Tràng không
may mắn khi tạo háo ban cho ngoại hình chẳng mấy ưu nhìn, bị cuộc sống bùi dập đến đường cùng nhưng
anh vẫn luôn khát khao được sống hạnh phúc, vẫn vững tin vào tương lai trong cái tối tăm, đói kém của xã
hội bấy giờ. Viết về nạn đói, nhà văn muốn gửi đến thông điệp: Không có khát khao nào chính đáng bằng
khát khao được sống như một con người, sống cho ra người, dù cuộc đời có bi thảm đến đâu thì vẫn hướng
về ánh sáng, niềm tin vào tương lai.
Viết về đề tài người nông dân, ta đã từng bắt gặp nhiều sáng tác của các nhà văn trước năm 1945. Đó là Nam
Cao với hình ảnh “ Chí phèo” bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng vẫn khát khao được làm người,
nhà văn Ngô Tất Tố với hình ảnh chi Dậu phải hy sinh những gì quý giá nhất cuộc đời để duy trì sự sống cho
gia đình. Điểm chung của các nhân vật này và Tràng là đều có số phận hết sức bi thảm nhưng vẫn khát khao
vươn lên. Nhưng có lẽ, vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà chị Dậu, Chí Phèo.... đều phải bước vào đường
cùng khi không tìm ra ánh sáng. Còn Tràng, khi được sống trong tình yêu anh đã ý thức tìm thấy ánh sáng
của cách mạng, của Đảng. Song đó cũng là dụng ý của nhà văn Kim Lân khi mở con đường mới cho nhân
vật, đó là theo cách mạng. Và cũng qua câu chuyện của Tràng chúng ta thấm thía nhiều bài học quý giá.
Chúng ta được sinh ra trong điều kiện tốt hơn, được đón nhận nhiều điều tốt đẹp, vậy chẳng có lý do
gì mà chúng ta không yêu thương lẫn nhau? Chưa nói đến làm gì lớn lao, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ
như quan tâm sức khỏe bố mẹ, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cức tham gia các hoạt động
thiện nguyện.... Mỗi hành động nhỏ sẽ góp phần cho toàn xã hội ngày một tốt đẹp hơn, yêu thêm cuộc
sống này hơn. Còn gì tuyệt vời hơn khi mỗi sáng mai thức dậy, ta được làm thêm nhiều việc tốt! Và thấm
thía hơn, ta học được bài học về cách nhìn người, nhìn đời – cái nhìn đầy yêu thương, bao dung, trìu mến và
lạc quan, tin tưởng. Chúng ta chỉ được sống có một lần trong đời, vậy hãy chọn sống tích cực và ý nghĩa!
Luận điểm 1: Giá trị hiện thực
+ Bức tranh nạn đói năm 1945
+ Hiện thực về thân phận người lao động.
- Luận điểm 2: Giá trị nhân đạo
+ Xót xa thương cảm với cuộc sống bi thảm của người dân nghèo trong nạn đói năm 1945.
+ Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta
+ Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người
+ Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đoạn cuối vợ Nhặt
1)- Kim Lân là nhà văn được coi là “con đẻ của đồng ruộng”. Ông “một lòng đi về với đất, với người với
thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng). Ông viết chân thực về những người
nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.
- Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi cách mạng
Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954),
Kim Lân dựa vào một phần của cốt truyện cũ để viết tác phẩm “Vợ nhặt”. Tác phẩm được đưa vào tập “Con
chó xấu xí” (Xuất bản 1962).
2) Vị trí: Đoạn trích được trích ở phần cuối của tác phẩm, trong bữa cơm đón nàng dâu mới.
- Khái quát bối cảnh đoạn trích: Tràng vốn là một người đàn ông xấu xí, thô kệch lại là dân xóm ngụ cư
sống trong nạn đói. Trong một lần đẩy xe bò đã “nhặt” được vợ. Đoạn trích tái hiện lại phản ứng của các
nhân vật trước sự việc thu thuế diễn ra sau khi Tràng nhặt vợ.
b. Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, niềm tin vào tương lai và khát vọng đổi đời đáng trân trọng của
những con người đang trên bờ vực của cái chết
* Đoạn trích thể hiện niềm tin vào tương lai: Trong bữa cơm đón nàng dâu mới, sau khi truyền cho các con
niềm tin, niềm vui thông qua một loạt những hình dung tích cực về tương lai thì tiếng trống thúc thuế vang
lên dồn dập, kéo bà cụ Tứ trở về với hiện thực, niềm vui của bà không thể cất cánh, niềm tin của bà không
thể mở rộng; nỗi lo lắng phục sinh vẹn nguyên.
- Thế nhưng ngay sau đó,câu nói của ng con dâu mới đã đưa đến thông tin mang tính chất như định hướng
để mở ra lối thoát. Người vợ nhặt đã đem đến một niềm tin, niềm hi vọng cho một tương lai mới mẻ.
- Nỗi niềm của bà vơi dần đi qua lời nói của người con dâu về những điều bà chưa từng được nghe, được
thấy bao giờ -> ánh sáng le lói cuối đường hầm. Bà đã nhìn thấy lối thoát cho mình, cho gia đình mình và
tất cả những người dân khốn cùng như bà.
* Đoạn trích thể hiện khát khao đổi đời của nhân các nhân vật.
Khao khát đổi đời được thể hiện rõ nhất qua suy nghĩ của nhân vật Tràng sau khi nghe người vợ nhặt nói
về việc phá kho thóc của Nhật.
- Tràng từ một anh chàng thô kệch, ngờ nghệch đã bắt đầu biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội:
mạn Thái Nguyên, Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho thóc Nhật chia cho người đói. Tràng nghĩ
ngợi, anh nhớ lại sự kiện những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước là lá cờ đỏ to
lắm. Hôm ấy Tràng không hiểu gì nên đã kéo xe thóc đi lối khác. Bây giờ thông qua câu chuyện của người
vợ, anh biết được họ phá kho thóc để chia cho người đói. Nghĩ đến đây anh bỗng thấy hối hận.
=> Đây là tín hiệu cho một tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo CM.
- Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng hiện lên trong tâm chí Tràng báo hiệu cho một sự giải phóng. Tràng sẽ hòa
vào dòng người kia để giải phóng những người dân nghèo cũng như giải phóng chính mình.
- Nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người nông dân:
+ Thủ pháp đối lập tương phản giữa tính cách và hoàn cảnh sống.
+ Với ngôn ngữ mộc mạc mà tinh tế, Kim Lân bộc lộ tài năng xây dựng nhân vật khi họ cùng hoàn cảnh,
cùng chung tâm trạng vui sướng hạnh phúc nhưng mỗi người lại có cách biểu lộ cảm xúc riêng.
+ Sự am hiểu tâm lí con người đã giúp ông có được những trang văn chân thực, cảm động.
+ Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, giọng điệu tự nhiên, không cầu kì, đậm phong thái của những con người
nơi vùng quê chất phác.
=> Nhà văn Kim Lân không chỉ nói lên sự sống mỏng manh của con người trước nạn đói khủng khiếp mà
quan trọng hơn là đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết vẻ đẹp của con người vẫn luôn tỏa rạng.
Trong cái khốn cùng, thiếu thốn, đói nghèo con người vẫn dành cho nhau những tình cảm chân thành và
đáng trân trọng nhất: “Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm
lòng”. (Hoài Việt)
2. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân
- Cái nhìn của tác giả là cái nhìn sắc sảo để phơi bày hiện thực xã hội những năm trước cách mạng
- Cái nhìn tiến bộ của thế giới quan cách mạng: hiện thực cuộc sống luôn có sự vận động từ tăm tối, khốc
liệt tới ánh sáng, tương lai.
- Cái nhìn giàu tình thương và nhân ái: trân trọng, nâng niu khát khao sống và khát vọng hạnh phúc của
người nông dân. Thể hiện niềm tin về khả năng kì diệu của con người khi bị đẩy đến bờ vực, con người
không còn là nạn nhân một chiều của hoàn cảnh mà có khả năng cải tạo hoàn cảnh, cách mạng chính là
con đường sáng dẫn lối.
 Giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ
+ Là một bà mẹ nghèo khổ, goá bụa, già nua, ốm yếu, là dân ngụ cư.
+ Bà sống với con trai là một anh phụ xe nghèo
+ Ngoại hình bà: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính
toán theo thói quen của người già.
 Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch "bà lão phấp phỏng" đó là một lâm lý bất an, phân
vân, hồi hộp, "đứng sững lại"- bà cụ giật mình vì sự xuất hiện của người đàn bà mà con trai mình
mang về; "hấp háy cặp mắt" là thói quen của người già, thể hiện sự ngạc nhiên và tò mò muốn
nhìn rõ hơn.
Bà cụ không hề biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà,
bà rất ngạc nhiên, tâm lí bị động trước sự việc.
Advertisements
- Sau khi hiểu ra:
+ Bà thương cho con trai mình phải lấy vợ nhặt
+ Bà cũng thấy hờn tủi chính mình có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện lấy vợ cho con
chu đáo.
+ Bà đồng cảm với người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con bà, thương sự ngờ
nghệch của đứa con trai.
- Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất, chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về
- Bà lo lắng cho cuộc sống của các con sau này
- Bà đối xử với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:
+ Ân cần quan tâm con: "con ngồi đây....đỡ mỏi chân"
+ Nói về tương lai với niềm lạc quan "biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời"
+ Bảo ban các con làm ăn.
Bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con.
Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.
2/ Tổng quát nhân vật Mị.
– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:+ Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng
hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê”;+ Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của
tình yêu.+ Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.–
Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động,
“không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”, bị đày đọa nơi địa ngục
trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …– Dù chịu nhiều bất hạnh, đau khổ nhưng Mị là người có phẩm chất tốt đẹp, có
sức sống tiềm tàng, khao khát tự do, nhất là trong đêm tình mùa xuân…

3/ Phân tích nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp của đoạn trích:
a/ Về nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân
– Những bức tranh thiên nhiên có vẻ đẹp riêng của miền núi Tây Bắc, đặc biệt là cảnh mùa xuân trên vùng núi cao,
được Tô Hoài miêu tả bằng những rung cảm thiết tha của hồi ức.

+ Tết của đồng bào miền núi Tây Bắc là sự cộng hưởng của vẻ đẹp đất trời và niềm vui thu hoạch mùa màng. “Trên
đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”.
+ Cái tết ở Hồng Ngài năm ấy đến vào lúc thời tiết khắc nghiệt, gió thổi và rét rất dữ dội nhưng không ngăn nổi những
sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, không ngăn nổi cái rạo rực của lòng người. Cả bản làng sáng bừng trong sắc vàng, đó
là màu vàng của ngô, lúa, của trái bí đỏ, của cỏ gianh cùng với những sắc màu rực rỡ của “những chiếc váy hoa đã
đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ.”

+Ngoài sắc màu, bức tranh xuân vùng miền núi Tây Bắc còn rộn rã với thanh âm. Đó là âm thanh của tiếng khèn, của
tiếng nói cười của trẻ con, tiếng chó sủa xa xa và đặc biệt hơn cả là tiếng sáo. Nhà văn Tô Hoài rất dụng công trong
mô tả tiếng sáo bởi tiếng sáo mùa xuân được xem như linh hồn của đời sống tinh thần nhân dân vùng Tây Bắc. Tiếng
sáo là sự mã hóa vẻ đẹp tâm hồn nhân dân Tây Bắc, là phương tiện giao tiếp của đồng bào nơi đây “Anh ném pao, em
không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”.
– Vẻ đẹp của bức tranh sinh hoạt, phong tục miền núi, đặc biệt là cảnh ngày tết của người Mèo, qua ngòi bút của Tô
Hoài, thực sự có sức say lòng người.

+Đoạn trích giúp chúng ta ít nhiều có thể hình dung về phong tục đón Tết của người Mèo (H’Mông): người Mèo đón
Tết khi vụ mùa gặt hái đã xong; mọi người thường tập trung ở một không gian thoáng, rộng, thường là mỏm đất
phẳng ở đầu làng để thổi khèn, thổi sáo, đánh quay, ném còn.

+ Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Từ láy lấp ló gợi âm thanh tiếng sáo lúc ẩn lúc hiện. Thanh
âm ấy tạo không gian mênh mông, được nhà văn miêu tả từ xa đến gần, là biểu hiện của sinh hoạt mang nét đặc
trưng của con người Tây Bắc. Đây cũng là dịp để các chàng trai cô gái trẻ kiếm tìm người yêu, người tâm đầu ý hợp
với mình. Mùa xuân là mùa của hò hẹn, mùa của tình yêu, của hạnh phúc. Giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng,
quyến rũ và say mê, nổi bật con người Tây Bắc đa tình, nghệ sĩ.
+ Nhà văn tập trung tả lễ hội diễn ra ở Hồng Ngài vào mùa xuân, trong đó phần Hội được nhấn mạnh hơn cả. Trong
đêm tình mùa xuân, ông tả Hội trước: Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết.
Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.Về dung lượng, chỉ có ba câu
văn tả trực tiếp Lễ cúng ma ngày Tết diễn ra trong không gian nhà thống lý: Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa
cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa
cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa.Hai đoạn văn gần nhau, tự nó toát lên cái nhìn so sánh của tác giả và khơi gợi
ý so sánh ở người đọc. Nhìn ở góc độ vật chất, đó là thế giới của nghèo và giàu; nhìn ở góc độ địa vị, đó là thế giới của
dân dã và chức sắc; nhìn ở góc độ phong tục, đó là thế giới của bên vui chơi và bên thờ cúng; nhìn từ góc độ tuổi tác,
bên thường gắn với trẻ, bên gắn với già; nhìn từ tính chất của hoạt động thì một bên trần tục và một bên linh thiêng.
Nhìn từ thân phận Mị, thế giới trần tục ở ngoài kia trở thành thế giới của tự do – thế giới Mị khao khát, thế giới linh
thiêng ở trong này biến thành thế giới của giam cầm – thế giới Mị muốn chối bỏ.
– Vẻ đẹp tâm hồn và sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị được miêu tả tinh tế, xúc động.

+Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị nào có biết xuân là gì? Nhưng thật bất ngờ, những đêm tình mùa xuân ở
Hồng Ngài đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh trở lại. Có thể nói, tâm trạng và hành động của Mị đã được Tô Hoài thể
hiện một cách tinh tế và xúc động.
+Tâm hồn Mị tha thiết bổi hổi khi nghe tiếng sáo từ đầu núi vọng lại. Mị đã ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang
thổi sáo. Sau bao nhiêu ngày câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ này đã khẽ hát, dù chỉ là nhẩm
thầm. Mị nhẩm thầm (không phải là “hát thầm”), tức là khẽ khàng nhắc lại theo sự hồi tưởng, thậm chí không liền
mạch, lúc nhớ lúc quên lời bài hát của người đang thổi. Có lẽ trước đây Mị cũng đã từng thổi sáo hoặc hát bài này rồi.
Giờ nghe tiếng sáo ngoài đầu núi vọng lại, lúc ẩn lúc hiện, trong Mị đã thức dậy điều gì đó quen thuộc, lâu nay bị lãng
quên.
+ Mị lén lấy hũ rượu uống ực từng bát. Cách uống khiến người đọc cảm nhận dường như không phải Mị đang uống
rượu mà là uống từng bát cay đắng, uất hận vào lòng. Những cay đắng, uất hận đó chất chồng và cứ bị dồn đẩy,
nghẹn đắng trong lòng Mị.
+ Men rượu đã làm cô hồi tưởng về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng trong tai Mị. Bao nhiêu kỉ niệm đẹp
thời con gái đã sống dậy trong lòng Mị: cô thổi sáo giỏi và có bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo. Hồi
tưởng lại mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã
bừng sáng tâm hồn Mị.

b/ Về nghệ thuật:

– Các từ ngữ địa phương gợi những hình ảnh gần gũi đặc trưng cho miền núi Tây Bắc: nương ngô, nương lúa, vỡ
nương, lều canh nương, cùng những sinh hoạt độc đáo: hái bí đỏ chơi quay, thổi sáo.

-Từ ngữ miêu tả chi tiết đẹp và giàu sức sống: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy đem ra phơi trên mỏm đá xòe ra
như những con bướm sặc sỡ, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi.

-Đoạn miêu tả giàu tính nhạc thơ, trữ tình gợi cảm. Âm điệu câu văn êm ả, ngắn và đậm phong vị Tây Bắc (kiểu cách
nói năng của người miền núi: nương ngô, nương lúa đã gặt xong, lúa ngô…)

– Đi sâu vào khai thác diễn biến tâm lí nhân vật Mị rất tự nhiên, chân thực và sâu sắc thông qua hành động và tâm
trạng, chủ yếu thể hiện nội tâm tinh tế, xúc động.

3/ Nhận xét chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài.


+Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên vời vợi với những núi non, nương
rẫy, sương giăng… không thể lẫn được với một nơi nào trên đất nước ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen,
hoà quyện trong lời kể của câu chuyện.+ Đoạn trích cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng
bào vùng cao là lễ hội mùa xuân tràn ngập màu sắc và âm thanh, ấn tượng nhất về màu sắc là vẻ đẹp của váy hoa, của
âm thanh là tiếng sáo.+Nét đặc sắc nhất của chất thơ biểu hiện ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một
cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn le lói những
đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống.+Ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh,
các hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên thơ và đậm màu sắc.+Chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài được tạo nên bởi sự
kết hợp nhuần nhuyễn cái khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt mà của một văn phong điêu
luyện.+Bên cạnh nghệ thuật sử dụng ngôn từ, Tô Hoài còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi khả
năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa, tinh tế trong thế giới đa cung bậc và muôn vàn sắc thái của tình cảm.

– Ý nghĩa: Chất thơ trong đoạn trích không những bộc lộ tài năng nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài mà còn thể hiện
tình yêu thiên nhiên và tấm lòng nhân đạo của ông với con người Tây Bắc, góp phần làm sáng tỏ cảm hứng lãng mạn
cách mạng của văn xuôi Việt Nam 1945-1975

You might also like