VIỆT BẮC-Tố Hữu

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

VIET BA C

Puskin từng viết “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ
sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một
tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà thơ
“Tố Hữu” đã để tiếng lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm “Việt Bắc”
neo đậu mãi trong trái tim của người đọc về hình ảnh người lính anh dũng
cùng tình cảm gắn bó sâu nặng với đồng bào người dân Việt Bắc. ông đã
mang đến cho bạn đọc một góc nhìn vô cùng bi thương, ảm đạm về
những gian khổ của người chiến sĩ cách mạng trong thời chiến. Bài thơ đã
thể hiện tình cảm gắn bó nồng thắm, sâu đậm của quân và dân ta, thể
hiện nỗi nhớ thương khi phải chia xa, cùng với đó là sự phản ánh sâu sắc
hiện thực kháng chiến mười lăm năm đầy gian khổ và dự báo về những
diễn biến tư tưởng trong hòa bình:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
….……………………….
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng, ngọn cờ tiên phong tiêu biểu cho
thơ ca cách mạng Việt Nam. Từ thời thanh niên, ông đã giác ngộ lý tưởng
Cách mạng của Đảng và luôn hoạt động hăng say, năng nổ và dù ở nhà tù
thực dân cũng không ngừng tin tưởng vào Đảng, con đường mình đã
chọn.Thơ ông gắn với lịch sử dân tộc, lý tưởng cách mạng, Đảng và Bác
Hồ đã đề ra qua từng thời kì kháng chiến. Ngoài ra, ở Tố Hữu, con người
chính trị và con người thơ ca gắn bó chặt chẽ với nhau, hài hòa giữa chất
chính trị và trữ tình, những điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm Việt
Bắc.Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, cuộc
kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ đã thể hiện những nét tiêu
biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu. Việt Bắc là căn cứ
cách mạng, đầu não cuộc kháng chiến của quân và dân ta. Bài thơ được
viết vào thời điểm cơ quan trung ương của Đảng rời khỏi Tây Bắc để về
Hà Nội. Vì vậy ,những câu thơ trong bài thơ đều nói đến sự lưu luyến
không nỡ rời đi đối với con người và thiên nhiên nơi đây.
Mở đầu bài thơ thể hiện tình cảm lưu luyến đối với những con
người nơi đây:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Nhớ người yêu là nỗi nhớ luôn thường trực da diết khôn nguôi. Nếu ai đã
từng yêu, đang trong tình yêu hẳn có thể cảm nhận được nỗi nhớ này như
thế nào. Vậy mà Tố Hữu lại dùng nỗi nhớ này để nói đến tình cảm của
mình với con người nơi đây. Điều này cho thấy, tình cảm của nhà thơ
dành cho con người Việt Bắc sâu nặng biết dường nào. Nỗi nhớ trào
dâng, da diết khôn nguôi, như những người yêu nhau nhớ nhau vì sắp
phải rời xa nhau.Đó là nỗi nhớ ám ảnh thường trực, không nguôi nhiều
khi mãnh liệt và phi lý:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Nỗi nhớ “người yêu” được thể hiện qua những hình ảnh thiên nhiên đậm
chất Việt Bắc. Đó là hình ảnh của ánh trăng trên đỉnh núi mờ sương và
nắng chiều vắt ngang lưng. Một bức tranh thiên nhiên với hai miền sáng
tối vừa đẹp, trữ tình mà lại dạt dào cảm xúc. Nỗi nhớ được lặp lại nhiều
lần khi : “Nhớ gì như nhớ…” cho thấy sự da diết, sâu đậm , nỗi nhớ bao
trùm cả cảnh vật thiên nhiên.tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê hình
ảnh thiên nhiên “trăng, núi, nắng , khói sương, rừng nứa bờ tre , sông
suối. ...Từ đó bức tranh thiên nhiên Việt Bắc được khắc họa một cách
phong phú đa dạng đồng thời cũng rất lãng mạn thơ mộng và trữ tình.
Thời gian thì cứ liên tiếp nhau lặp lại cùng không gian bao la của núi
rừng. Dường như nỗi nhớ đã bao trùm toàn bộ không gian và thời gian.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống của con người Việt Bắc hiện lên trong
thơ rất chi tiết. Đó là hình ảnh khói mờ sương mỗi khi chiều xuống, từng
bản làng chìm trong sương khói.“Sớm khuya” là khoảng thời gian trong
ngày kết hợp với động từ “đi về” đã thể hiện sự vất vả chăm chỉ cần cù
của người dân Việt Bắc. Đặc biệt hai chữ Người thương hiện lên mới
chân tình, da diết làm sao. Đây chính là những con người hiền lành, chân
chất đã yêu thương, cưu mang che chở cho cán bộ suốt những năm tháng
gian khó. Một tình cảm không có gì có thể thay thế và đầy sự biết ơn, quý
trọng. Điệp ngữ “nhớ từng” được lặp lại hai lần như khắc sâu một lần nữa
tình cảm sâu nặng da diết. Bên cạnh đó tác giả đã liệt kê một loạt các địa
danh ngồi Thia sông. đáy, suối lệ đó là những địa danh thân thuộc gắn bó.
Hơn nữa từ “vơi đầy” là chỉ sự phơi bày của nước dòng sông và cũng như
nỗi nhớ dào dạt tha thiết của người về xuôi. Bức tranh thiên nhiên khép
lại để mở ra một nỗi nhớ da diết hơn về con người Việt Bắc.Bếp lửa, một
hình ảnh của một gia đình ấm cúng thường thấy. Phải chăng, tác giả đã
coi nơi đây như là nhà của mình, nay phải rời xa nên bịn rịn vô cùng, lưu
luyến vô cùng.
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia sẻ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Ngôn từ xưng hô thật giản dị, thân thương. Tác giả dùng ngôi “ta – mình
” để nói về tình cảm dành cho đồng bào Việt Bắc. Đó là tình cảm thân
thương, tình thân lưu luyến. Dù đi xa rồi nhưng vẫn nhớ thời gian bên
nhau, vẫn nhớ những đắng cay ngọt bùi đã trải qua cùng nhau. Hình ảnh
“Đắng cay” là ẩn dụ cho những khó nhọc, gian nan mà cán bộ đã trải qua
suốt thời kì kháng chiến, và niềm vui chiến thắng chính là những ngọt
bùi, tình cảm đồng bào dành cho cán bộ cũng là ngọt bùi khó quên.Tất cả
khó khăn ấy đầu khép lại bằng phép im lặng qua dấu ba chấm ở cuối câu,
để thể hiện cảm xúc dâng trào không thể tiếp tục nói lên lời. Họ không
chỉ trải qua khó khan, mà họ còn chia nhau “củ sắn lùi”,”bát cơm sẻ nửa”
“chăn sui” qua liệt kê một loạt các hình ảnh phong phú sinh động và chân
thực. Dường như tác giả đã vẽ lên bức tranh cuộc sống kháng chiến
không chỉ ác liệt với kẻ thù, mà còn thiếu thốn trong đời sống sinh
hoạt.Và có lẽ các động từ “chia sẻ” “đắp cùng” đã thể hiện chân thực cảm
động tình cảm giữa người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ chia
sẻ với nhau từng miếng ăn ngày đói, hơi ấm trong những đêm đông giá
lạnh. Chính những điều đó đã tiếp thêm động lực để cán bộ kháng chiến
có thể chiến đấu để có thể vượt qua những gian khổ. Đó cũng chính là cội
nguồn của nỗi nhớ. Nhưng cảm động hơn ở một khía cạnh khác đó là
hình ảnh của người mẹ trong kháng chiến:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh nắng cháy lưng lên ảnh tả thực gửi mẹ Việt Bắc lao động trong
điều kiện khắc nghiệt dữ dội nhất. Tố hữu đã sử dụng thành công các
động từ địu, Bẻ để diễn tả sự vất vả của người mẹ Việt Bắc trong cuộc
sống lao động. Người mẹ đã nhọc nhằn chịu thương chịu khó chắt chiu
cho con và ủng hộ kháng chiến. Lúc này con người Việt Bắc hiện lên
trong tứ thư của nhà thơ là những con người cần cù chịu thương chịu khó
trong lao động, yêu thương ủng hộ kháng chiến, thủy chung với cách
mạng. Bên cạnh đó còn là tình cảm yêu mến của nhà thơ và sự trân trọng
biết ơn đối với những người mẹ kháng chiến. Hình ảnh của họ từng hiện
lên rất xúc động trong thơ Thu Bồn.
“Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ
Mẹ ấp con bằng lồng ngực không còn mùa đông
Mẹ xoa đầu con
Bằng bàn tay mẹ xoa cánh đồng”
Vẫn mang dòng hoài niệm, nhưng kỉ niệm của lớp chữ, đám tiệc ở
chiến khu mang màu sắc tươi mới, náo nức:
"Nhớ sao lớp học 1 tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vân ca vang núi đèo”.
Các cán bộ cách mạng lên vùng cao không chỉ nuôi quân kháng chiến mà
còn gieo chữ vào làng, đem ánh sáng văn hóa về làng. Các lớp dạy chữ,
dạy chữ được mở khắp các làng xã. Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ
tràn đầy hạnh phúc khi chinh phục được chân trời trí tuệ mà còn tràn đầy
niềm vui trong các hoạt động tập thể. Điệp ngữ nhớ sao được nhắc lại hai
lần thể hiện một nỗi nhớ da diết mãnh liệt khôn nguôi đang chào dâng ăm
ắp trong lòng. Đó là hình ảnh của lớp học "i tờ " là hình ảnh của những lớp bình dân
học vụ xóa nạn mù chữ trong những ngày đầu kháng chiến. Cụm từ ấy đã gọi xa cách
đánh vần ngọng nghịu những nét chữ vụng về. Nhưng đằng sau đó là cả một sự cố
gắng và tinh thần giác ngộ cách mạng của con người Việt Bắc. Bởi có lẽ biết chữ họ
mới có thể tiếp cận được với thông tin kháng chiến để góp một phần công sức nào đó
vào sự độc lập của dân tộc.Hình ảnh những giờ liên hoan cũng được hiện lên với
không khí vui tươi phấn khởi náo nức. Đó là những phút giây khiến cho con người
kháng chiến quên đi những mệt nhọc để tiếp tục chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Khó khăn
gian khổ là thế nhưng đâu đó vẫn vang vọng tinh thần lạc quan yêu đời tin tưởng vào
ngày mai tươi sáng của những con người Việt Bắc qua âm thanh tiếng hát ca vang.
Câu thơ “gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” có sự tương phản giữa đời sống vật chất
gian khổ và tinh thần luôn lạc quan, yêu đời. Dù có khó khăn đến đâu thì vẫn cứ “ca
vang núi đèo”. Đến cả những âm thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của người
ra đi khiến cho mỗi chiều, mỗi đêm khuya càng thêm thao thức:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.
Hình ảnh cuối cùng "tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối" cho thấy âm thanh gõ
mõ yên bình trên núi rừng hòa lẫn với tiếng suối. Âm thanh vào buổi đêm đó sao thật
yên bình, góp phần vào khung cảnh của núi rừng. Tiếng mõ rừng chiều gợi hình ảnh
từng đàn trâu, đàn bò từ rừng núi thong thả trở về bản làng, tiếng mõ vang vọng, rộn
ràng cả buổi chiều sơn cước. Mỗi đêm khuya thanh vắng, tiếng chày giã gạo từ suối
xa vẫn đều đều vỗ về trong giấc ngủ. Hai câu cuối âm thanh hiện lên vô cùng sinh
động đã xua đi cái im lặng của núi rừng tiếng mõ rừng chiều chạy đêm nên cối suối
xa. Đó là những âm thanh quen thuộc của Việt Bắc mang nét đặc trưng của núi rừng,
gợi cuộc sống em đềm thanh bình êm ả. Tóm lại, những câu thơ đều diễn tả được
những kỷ niệm và cuộc sống ân nghĩa, gắn bó của tác giả về những tháng ngày ở Việt
Bắc với người dân.
Giọng thơ, ngôn từ mang đạm chất dân gian kết hợp với thể thơ truyền thống
lục bát của dân tộc làm cho lời thơ thêm dịu dàng, nhẹ nhàng thấm thiết. Và sử dụng
các biện pháp tu từ tái hiện lại vẻ đẹp kỉ niệm thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, quen thuộc, gần gũi, đậm sắc thái dân gian với nhịp điệu
thơ uyển chuyển ngân vang, giọng điệu thay đổi linh hoạt.
Có thể nói, Việt Bắc là một trong những bài thơ xuất sắc của nền thơ ca Việt
Nam. Những năm tháng gian khổ đó, những cuộc chiến mạnh mẽ, quyết liệt vẫn chưa
thể nào xóa nhòa được trong lòng toàn quân và toàn dân. Thật vậy, bài thơ Việt Bắc
của Tố Hữu đã gợi mở về tình quân dân đậm đà thắm thiết cùng với tinh thần yêu
nước mãnh liệt của nhân dân ta. Đó là sự hòa quyện tinh tế giữa tình cảm yêu nước và
nghĩa tình thủy chung đối với đồng bào Việt Bắc nơi đây. Những đặc sắc về cả giá trị
nội dung và nghệ thuật chính là yếu tố khiến bài thơ trở thành tác phẩm tiêu biểu
mang tính dân tộc của thời đại, khẳng định nét thơ trữ tình - chính trị đặc sắc tài tình
của Tố Hữu.Vì thế bản thân tôi khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường phải luôn cố
gắng chăm chỉ học tập thật tốt, yêu thương giúp đỡ những người xung quanh, làm
những việc giúp ích cho đời cho Tổ Quốc. Phải biết trân trọng những giá trị của hòa
bình và những mất mát hi sinh của dân tộc ta đã ra sức chiến đấu bảo vệ đất nước để
ta có được độc lập, tự do như hôm nay.

You might also like