ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. bản 1

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 21

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT


KHOA CHÍNH TRỊ & LUẬT
-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TIỂU LUẬN

ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI KINH TẾ


CỦA HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn: Ths. Lê Quang Chung


SVTH MSSV
Lê Thị Trà Dung - 22124162

Trịnh Ngọc Quyên - 22124231

Trần Thị Thảo Na - 22124203

Đào Thị Thanh Thủy - 22124247

Võ Thị Thanh Tiền - 22124251


Nguyễn Thị Thanh Hiền - 22124178
Lớp thứ 3 – Tiết 11-12
Mã lớp:

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2024


MỤC LỤC
Chương 1. HOÀN CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM KHI BƯỚC VÀO THỜI KỲ ĐỔI
MỚI ...................................................................................................................................... 3

1.1 Thuận lợi ................................................................................................................ 3


1.1.1 Quốc tế ................................................................................................................ 3
1.1.2 Trong nước .......................................................................................................... 3

1.2 Khó khăn ................................................................................................................ 4


1.2.1 Quốc tế ................................................................................................................ 4
1.2.1 Trong nước .......................................................................................................... 4

Chương 2. NỘI DUNG ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM LẦN THỨ VI .................................................................................................. 7

2.1 Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư ...................................... 7

2. 2 Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng
đắn các thành phần kinh tế .......................................................................................... 8

2.3 Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ............................................................................ 10

2.4 Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học, kỹ thuật .................................................. 11

2.5 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ................................................ 13

Chương 3. Kết quả và ý nghĩa của việc thực hiện đổi mới kinh tế của đại hội lần thứ
VI ............................................................................................................................... 15

3.1 Kết quả ................................................................................................................. 15


3.1.1 Thành tựu .......................................................................................................... 15
3.1.2 Hạn chế ............................................................................................................. 17

3.2 Ý nghĩa ................................................................................................................. 18

TÀI LIỆU THAM KHẢO (Nhóm Chưa sửa ) .......................................................... 20


Chương 1: HOÀN CẢNH KINH TẾ VIỆT NAM KHI BƯỚC VÀO THỜI KỲ
ĐỔI MỚI

1.1 Thuận lợi

1.1.1 Quốc tế

Sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Sự hợp tác toàn diện giữa nước ta với Liên Xô và các nước khác trong Hội đồng tương trợ
kinh tế là một nhân tố cực kỳ quan trọng, giúp chúng ta khắc phục khó khăn và tiến lên của
Việt Nam. Mối quan hệ về nhiều mặt và ngày càng chặt chẽ giữa ba nước Đông Dương mở
ra khả năng mới về hợp tác kinh tế và giúp đỡ lẫn nhau, tạo nguồn bổ sung cho nền kinh tế
của mỗi nước. Trong quan hệ kinh tế với các nước khác, chúng ta có thể sử dụng nhiều hình
thức để mở rộng trao đổi về hợp tác.

1.1.2 Trong nước

Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đã ngăn chặn được đà giảm sút. Nông
nghiệp và sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm so với thời kỳ 1976-1980. “Thu
nhập quốc dân cũng từ đó tăng bình quân hằng năm 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước.”

“Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, trong 5 năm 1981-1985, đã hoàn thành mấy
trăm công trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ
sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thuỷ lợi, giao thông…”

Cùng với việc áp dụng những thành tựu về khoa học, kỹ thuật, việc thực hiện rộng rãi
phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động trong nông nghiệp, tuy chưa
hoàn thiện và còn nhiều thiếu sót, đã góp một phần quan trọng tạo nên bước phát triển của
sản xuất nông nghiệp, mở ra phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ kinh tế tập
thể ở nông thôn.

Nhà nước và nhân dân ta cố gắng chăm lo bảo đảm các nhu cầu của quốc phòng và
an ninh, thi hành chính sách hậu phương quân đội, chăm lo đời sống của nhân dân
Cũng trong 5 năm từ 1981 - 1985, cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh
chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế của nhân dân và các lực lượng vũ trang ta đã giành thêm
những thắng lợi to lớn.

1.2 Khó khăn

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã nếu rõ quan điểm : “Nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật” Vậy nên bên cạnh những thuận lợi đã đạt được thì
đại hội đã chỉ rõ ra những khuyến điểm mà ở đại hội trước chưa khắc phục được. Nội dung
về những bất cập được xác định như sau:

1.2.1 Quốc tế

Các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách chống phá hệ thống xã
hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện bao vây cấm vận và “kế
hoạch hậu chiến”.

Mặt khác, Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải cách,
cải tổ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu
lần lượt sụp đổ, cuối cùng là Liên Xô dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế.
Các nước phát triển đấu tranh mạnh mẽ nhằm xác lập vai trò, vị thế của mình đối với khu
vực và thế giới.

1.2.1 Trong nước

Đất nước phải đối mặt với tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất tăng chậm,
không ổn định, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được, tài nguyên
bị lãng phí, phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu
dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn, nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu
hụt, không có tích lũy, lạm phát tăng cao kéo dài, Nền kinh tế đang mất cân đối lớn giữa
cung và cầu ở nhiều lĩnh vực, và chênh lệch giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu vẫn
đang gia tăng. Đất nước bao vây cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Xã hội chủ
nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế kinh doanh bị suy yếu, lòng tin đối
với Đảng và nhà nước bị giảm sút.

Sản xuất tăng chậm so với khả năng và nhu cầu cần nhanh chóng ổn định đời sống,
củng cố quốc phòng. Một số chỉ tiêu quan trọng của hoạch 5 năm không đạt, ảnh hưởng
đến hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân.

Trong xã hội, xuất hiện nhiều tiêu cực, pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Một số
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước lộng quyền, tham nhũng. Đời sống của nhân dân,
nhất là nông dân, công nhân, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn.
Nhiều nhu cầu chính đáng của người dân như ăn, ở, thuốc men không được đáp ứng. Trước
tình hình đó, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý của Nhà nước bị giảm sút nghiêm trọng.

Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế là do Việt Nam xây dựng đất
nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều
năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh, hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh
chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn
mới.

Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của nhà
nước. Xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế, nước ta không coi trọng khôi phục
kinh tế làm nhiệm vụ cấp bách, nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu, muốn
xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa trong vòng 5 năm tới, chưa biết kết
hợp kế hoạch hóa với quan hệ hàng hóa – tiền tệ, sai lầm trong cải tạo xã hội, trong lĩnh
vực phân phối lưu thông, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, buông lỏng
chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu
, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt trận của địch, mắc phải những sai lầm nói trên chỉ là sai lầm
nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Giai đoạn khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng nhất là các năm 1983, 1984, 1985.
Lạm phát bị đẩy lên mức 700-800%, tem phiếu phân phối thiếu thốn, người dân không đủ
lương thực. Bốn mặt hàng dân dụng phụ thuộc lớn vào viện trợ của Liên Xô là xăng dầu;
lương thực, bột mì; bông xơ phục vụ ngành dệt; phân bón thì lượng viện trợ giảm dần. Kinh
tế đất nước gần như kiệt quệ.

Cuộc cải cách chính sách tiền lương năm 1985 là chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa
sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo đó: về giá, tất cả các mức giá đều quy ra
thóc với quy định 25 đồng/kg; về lương, trả bằng tiền thay vì bằng hiện vật với mức tăng
20%; về tiền, thực hiện đổi đồng tiền cũ sang đồng tiền mới có mệnh giá thấp xuống 10 lần,
đồng thời phát hành đủ cho nhu cầu thay đổi của giá và lương. Cuộc cải cách này đã thất
bại, năm 1986 lạm phát đã lập đỉnh điểm 774%, tiền lương tăng đỉnh điểm tới 220%, giá
vật tư tăng đỉnh điểm tới trên 70%. Cuộc cải cách để chuyển sang hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa đã không cứu vãn được nền kinh tế kế hoạch hóa.Sai lầm của đợt tổng cải
cách giá – lương- tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế nước ta càng trở nên khó khăn.

Đảng ta đã không thực hiện được mục tiêu đề đã đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh
tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế
của nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làm cho trong Đảng và ngoài
xã hội có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực trạng của ba vấn đề lớn, cơ cấu
sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ cấu quản lý kinh tế. Thực tế tình hình đặt ra một yêu
cầu khách quan có tính chất sống còn đối với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển
được tình thế tạo ra sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy
là phải đổi mới tư duy.
Chương 2: NỘI DUNG ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM LẦN THỨ VI

2.1 Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư

Để sớm đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng rối ren, khó khăn việc đầu tiên cần phải
sắp xếp lại nền kinh tế. Để thực hiện điều đó, cần phải bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều
chỉnh cơ cấu đầu tư.

Ở chặng đường đầu tiên, cần thực hiện kế hoạch 5 năm 1986 – 1990 và ba chương
trình kinh tế lớn, bao gồm: chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu
dùng; chương trình hàng xuất khẩu. Mục tiêu là đảm bảo sản xuất phải cung cấp đủ lương
thực, hàng hóa cần thiết cho nhân dân và đồng thời tạo ra của cải tích lũy, dự trữ cho tương
lai.

Phải đưa nông nghiệp tiến lên một bước sản xuất mới, giữ vị trí hàng đầu, sử
dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh học và đầu tư các cở sở
vật chất như: máy cày, hệ thống thủy lợi, xe vận chuyển, nhà máy chế biến, …Đẩy mạnh,
thâm canh tăng vụ, dạng hóa các loại cây trồng, mở rộng diện tích đất canh tác.

Phát triển lâm nghiệp theo hướng bảo vệ và tận dụng hiệu quả tài nguyên rừng. Cụ
thể, tăng diện tích rừng, trồng cây chuyên canh và phủ xanh đất trống, đồi trọc. Ngăn chặn
phá rừng, cháy rừng, khuyến khích trồng cây lấy gỗ, cây làm nguyên liệu và củi. Bàn giao
đất, tiến hành định canh, định cư đất rừng cho nhân dân., đặc biệt là các dân tộc thiểu số
sống ở miền núi và xây dựng thêm các khu chế biến lâm nghiệp.

Thủy hải sản là ngành đem lại hiệu quả kinh tế cao, cần chú trọng đến cả đánh bắt và
nuôi trồng. Cần cải thiện việc chế biến, vận chuyển để đáp ứng nhu cầu trong nước, tăng
xuất khẩu. Bằng cách xây dựng các nhà máy chế biến thủy hải sản. Ngoài ra, nhà nước cần
có thêm nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ vốn để người dân đầu tư cơ sở vật chất. Mặt
khác, nên giao lại mặt nước không sử dụng hết cho nhân dân để mở rộng sản xuất.

Phát triển công nghiệp nhẹ và tiểu công nghiệp để đáp ứng nhu của người dân và các
ngành khác, thúc đẩy việc xuất khẩu. Cần tận dụng nguồn nguyên liệu và phế liệu, và thu
hút thêm vốn và kỹ thuật từ nguồn lực trong và ngoài nước, bao gồm cả Việt kiều. Tổ chức
lại sản xuất, đầu tư để tối ưu hóa công suất hiện có, ưu tiên các cơ sở có hiệu suất cao. Đảm
bảo cơ sở sản xuất liên kết chặt chẽ với thị trường và nhu cầu người tiêu dùng, thông qua
việc thúc đẩy vai trò của các tổ chức thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Áp dụng hình thức
đấu thầu để ưu tiên cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất hiệu quả, và đẩy các cơ sở
kém hiệu suất thay đổi hoặc giải thể.

Phát triển công nghiệp nặng, ưu tiên công nghiệp năng lượng, cơ khí, sản xuất nguyên
liệu, vật liệu xây dựng. Sản phẩm tạo ra của công nghiệp nặng nhất thiết phải dùng ở trong
nước để phát triển ngành công nghiệp và nông nghiệp. Mặt khác, nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ sẽ phải sản xuất dư để xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Ngoài ra, cần nhập
khẩu các sản phẩm mà nước ta chưa sản xuất được.

Về cấu hạ tầng cần tập trung, phát triển giao thông, thông tin liên lạc, bảo dưỡng và
nâng cấp hạ tầng hiện có. Đồng thời xây dựng thêm cơ sở cần thiết để đảm bảo sản xuất,
lưu thông hàng hoá và phục vụ cộng đồng. Trong đó, ưu tiên phát triển đường thuỷ và
đường sắt, cải thiện vận tải đường bộ và đẩy mạnh vận tải đường không. Khuyến khích sự
đóng góp của tổ chức kinh tế và cộng đồng để mở rộng mạng lưới giao thông ở vùng nông
thôn và miền núi, phát triển các phương tiện vận tải, đặc biệt là phương tiện thô sơ.

Đi đôi với việc thực hiện các chương trình kinh tế, cần phải kết hợp thêm quốc phòng.
Tập trung vào việc phân bố lực lượng sản xuất trên các vùng lãnh thổ để tận dụng tối đa
tiềm năng của mỗi vùng, thúc đẩy mối quan hệ liên kết và bổ sung cho nhau giữa các vùng.
Từ đó, khắc phục được tình trạng tự cấp, tự túc lúc trước. Đặc biệt là kinh tế địa bàn huyện.
Cần điều lớn cơ cấu đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, ưu tiên đầu tư đồng bộ và đầu
tư chiều sâu cho các cơ sở hiện có.

2. 2 Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế

Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần
kinh tế khác cũng rất là cần thiết. Xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta và vận dụng
quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ, cũng như những rút ra kinh nghiệm từ những sai lầm mắc phải trong quá khứ,
Đảng đã xác định được phương hướng đi là cần đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình
thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Do đó, trong những năm kế tiếp điều quan trọng nhất là tăng cường và phát triển kinh
tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đẩy mạnh vai trò của kinh tế quốc doanh để điều hành các
thành phần kinh tế khác. Cần cải cách quản lý đối với kinh tế quốc doanh để tăng tính tự
chủ, chuyển đổi sang mô hình hạch toán kinh doanh xã hội, khôi phục kỷ luật và trật tự
trong hoạt động kinh tế. Đồng thời, Đảng đặt cũng ra nhiệm vụ là kinh tế xã hội chủ nghĩa
với khu vực quốc doanh làm nòng cốt phải giành được vai trò quyết định trong nền kinh tế
quốc dân.

Để tăng cường kinh tế tập thể, cần liên kết kinh tế quốc doanh với kinh tế gia đình
qua hoạt động cung ứng vật tư, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm và liên kết với hợp tác xã
qua việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, xây dựng nông thông mới, xây dựng quan hệ
sản xuất mới, cải thiện phương thức khoán thành phẩm cuối cùng đến người lao động trong
lĩnh vực nông nghiêp. Trong đó, kinh tế gia đình đóng vai trò quan trọng và có tiềm năng
phát triển nhất cần được ủng hộ và liên kết chặt chẽ với kinh tế quốc gia và tập thể.

Đối với kinh tế tiểu tư sản sản xuất hàng hóa, nhà nước thừa nhận vai trò quan trọng
của kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá trong thời kỳ quá độ và tiến hành chỉ dẫn, giúp đỡ nó sản
xuất, kinh doanh và liên kết với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Còn đối với tiểu
thương, nhà nước sắp xếp, cải tạo và sử dụng tiểu thương như một lực lượng bổ sung trong
kinh doanh xã hội chủ nghĩa và giúp đỡ họ chuyển sang sản xuất và dịch vụ. Đồng thời,
cho phép các nhà tư sản nhỏ sử dụng vốn và kiến thức kỹ thuật để tổ chức sản xuất, kinh
doanh. Trong khi kinh tế tư bản tư nhân sẽ được hướng dẫn thông qua sự kiểm soát của
Nhà nước và sự liên kết với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Kinh tế tư bản nhà nước
là hình thức kinh tế quá độ, có thể tổ chức từ thấp đến cao.
Trong lĩnh vực lưu thông, nhà nước loại bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân. Tuy nhiên
với cá nhân buôn bán loại vừa, lại có tay nghề cao trong lĩnh vực hàng tươi sống, nhà nước
sẽ sử dụng các hình thức liên doanh để sử dụng họ.

Cuối cùng, nhà nước cần xóa bỏ các thành kiến và đối xử không công bằng đối với
người lao động thuộc các tầng lớp kinh tế khác nhau, thông qua các chính sách cụ thể và
hoạt động tuyên truyền, giáo dục. Qua đó, để người lao động yên tâm làm việc, mạnh dạn
trong kinh doanh hơn.

2.3 Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế

Đầu tiên, cần quyết tâm xóa bỏ chế độ quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao
cấp thay bằng chế độ quản lý hạch toán, kinh doanh và kết hợp với thị trường. Nhưng có
sự quản lý của Nhà nước. Trong cơ chế quản lý đó, tính kế hoạch là đặc trưng thứ nhất và
sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai cần phải xây dựng. Thực
chất, tính kế hoạch là quản lý nên kinh tế đất nước theo kế hoạch thống nhất đã đề ra, còn
cơ chế quản lý mới về quan hệ hàng hóa- tiền tệ là cơ chế hoạch toán kinh doanh xã hội
chủ nghĩa theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ngoài ra, nền kinh tế cần quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu để hướng
đến lợi ích công bằng của tập thể, cá nhân người lao động.

Mặt khác, quá trình đổi mới phải tuân thủ các nguyên tắc. Một là, thực hiện dân chủ
trong quản lý nền kinh tế. Phát huy hơn nữa quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Bởi vì đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Thực hiện luôn kèm theo khẩu hiệu “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”. Nhưng phải chuyên
chính với kẻ địch. Hai là, đổi mới kế hoạch hóa. Bằng cách tăng cường hợp đồng kinh tế,
đảm bảo việc thực hiện bằng chế độ trọng tài kinh tế nhà nước. Ba là, sử dụng tốt các đòn
bẩy nền kinh tế bằng chính sách mở rộng giao lưu hàng hóa, chính sách giá cả, chính sách
tiền lương, chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách thuế, chính sách tiết kiệm nghiêm ngặt
cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Cụ thể, động viên người dân chi tiêu tiết kiệm, có tích lũy cho mai sau. Khuyến khích
sử dụng hàng trong nước sản xuất hơn hàng nhập khẩu từ nước ngoài, hạn chế dùng hàng
dành cho xuất khẩu.

Mặt khác, cần giảm tình trạng lạm phát, tăng giá xuống mức thấp nhất có thể trong
nền kinh tế. Năm 1991, lạm phát giảm từ 77,4% năm 1986 xuống còn 67,1% giảm 10,3%
trong 5 năm.

Cuối cùng, xây dụng bộ máy quản lý tinh gọn, đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp và có năng lực quản lý, điều hành, giải quyết vấn đề đất nước. Trong
đó, đặc biết chú trọng đổi mới tư duy về kinh tế theo hướng hiện đại hóa và giữ vững các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng.

2.4 Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học, kỹ thuật

Trên tình hình thực tế, việc mà các nước khác trên thế giới áp dụng khoa học - kỹ
thuật và đạt được thành tựu to lớn. Điều này cho thấy rằng, nước ta cũng cần sử dụng khoa
học và kỹ thuật làm động lực to lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta đã đề
xuất các chiến lược phát triển khoa học và kỹ thuật. Cụ thể trong những năm sắp tới, việc
áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và kỹ thuật thích hợp là cần thiết để thúc đẩy hoàn
thành tốt chương trình kinh tế đã được đề ra.

Trong nông nghiệp, đẩy mạnh công nghệ sinh học và khoa học kỹ thuật đã làm đất
đai màu mỡ, tăng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tổn thất. Trên các lĩnh
vực công nghiệp, xây dựng và giao thông, tiến hành thực hiện việc cải tiến công nghệ, đổi
mới thiết bị, sử dụng máy móc đã làm cho chất lượng sản phẩm được tăng cao, giảm lãng
phí, tăng hiệu suất, và tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu hơn trước.

Đầu tiên, cần tiến hành thực hiện một số đề tài đã được lựa chọn kỹ lưỡng của ngành
khoa học, kỹ thuật hiện đại như: tin học, điện tử, hóa học, công nghệ sinh học,… Ngoài ra,
Đảng còn chú trọng vào các ngành khoa học tự nhiên. Cụ thể là tập trung vào việc nghiên
cứu cơ bản các lĩnh vực kỹ thuật. Để qua đó, có thể lựa chọn đúng đắn các thành tựu khoa
học và kỹ thuật tiên tiến và lựa chọn kỹ thuật mũi nhọn cho đất nước Trong khi đó, khoa
học xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc định hình, thể chế hoá đường lối, cương lĩnh,
chủ trương của Đảng thành pháp luật và chính sách cụ thể. Giúp các văn kiện, cương lĩnh
vừa mang trong mình tính tính chất khoa học, vừa mang tính cách mạng xã hội chủ nghĩa
và giúp sáng tỏ nhiều vấn đề chưa chưa có câu trả lời. Cũng trong quá trình đó, ngành khoa
học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật luôn luôn hợp tác với nhau một cách
hữu cơ.

Ngoài ra, các cơ quan khoa học cũng cần được tổ chức, phân bố hợp lý lại trên các
khu lực theo lãnh thổ theo nguyên tác gắn chặt khoa học, kỹ thuật với sản xuất và đời sống.
Điều này giúp sử dụng tiềm năng khoa học, kỹ thuật như một phần quan trọng của lực lượng
sản xuất xã hội, giúp giảm thiểu thời gian từ nghiên cứu đến sản xuất, cũng như loại bỏ sự
trùng lắp, chồng chéo lên nhau và phân tán.

Mặt khác, để thúc đẩu tiến bộ khoa học kỹ thuật cần được huy động từ từ các nguồn
khác nhau như: Ngân sách nhà nước, quỹ cơ sở sản xuất, quỹ hỗ trợ từ Việt kiều, …Việc
tập trung vào đầu tư chiều sâu và quản lý hiệu quả sẽ giúp tận dụng các cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện có của các cơ quan khoa học - kỹ thuật một cách hiệu quả nhất.

Hơn thế nữa, vấn đề mở rộng và tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
khoa học và kỹ thuật cũng là một trong những ưu tiên quan trọng hàng đầu. Vì thông qua
quá trình việc hợp tác, chúng ta có thể nhanh chóng tiếp cận các thành tựu mới nhất, tránh
lãng phí tiền của và tiết kiệm được thời gian, công sức thông qua việc tránh sự trùng lặp
trong nghiên cứu. Bằng cách hợp tác chặt chẽ khoa học, kỹ thuật và hợp tác kinh tế, chúng
ta sẽ tiến hành được quyền chuyển giao công nghệ hiệu quả, kết hợp được việc nghiêm cứu
và thực hiện ngay ở trong nước và trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế - kỹ thuật.

Cụ thể, nhà máy thủy điện đầu tiên Hòa bình được xây dựng và phát điện tổ máy số
1. Liên doanh dầu khí giữa hai nước Việt Nam và Liên Xô khai thác thùng dầu thô đầu tiên
trên vùng lãnh thổ đất nước ta. Việt Nam tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế năm 2000.

Đặc biệt là cuộc cách mạng đổi mới khoa học – kỹ thuật này không phải là nhiệm vụ
riêng của Đảng, nhà nước. Nó là sự nghiệp, nhiệm vụ của toàn thể quần chúng nhân dân
lao động Việt Nam. Do đó, cần thi hành chính sách đẩy mạnh trong trào quần chúng tiến
quân vào khoa học kỹ thuật. Bằng cách như vậy, sẽ tạo điều kiện cho sự sáng tạo, chia sẻ
kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến, thức đẩy tiến bộ trong kinh tế - xã hội.

2.5 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

Để đạt được mục tiêu phát triển và ổn định nền kinh tế nước nhà, Đảng ta cần tăng
cường, nâng cao hiệu quả trong quan hệ đối ngoại với các quốc gia, tranh thủ sự ủng hộ từ
cộng đồng quốc tế để xây dựng chủ nghĩa xã hội được thuận lợi. Qua đó, sức mạnh dân tộc
sẽ được kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Nước ta hợp tác với
Liên Xô, Lào, Campuchia và các xã hội chủ nghĩa khác.

Trong hoạt động mở rộng và nâng cao hiệu kinh tế đối ngoại, việc tăng cường xuất
khẩu là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì thông qua đó, có thể đáp ứng được
nhu cầu về nhập khẩu.

Chương trình xuất khẩu cần tính toán chính xác hiệu quả kinh tế của từng mặt hàng.
Từ đó, chọn được sản phẩm xuất khẩu chủ lực đem lại lợi nhuận cao nhất để triển khai khai
kế hoạch đầu tư. Đồng thời, cần đổi mới cơ chế quản lý và sử dụng các chính sách đòn bẩy
để thực hiện chương trình xuất khẩu một cách hiệu quả. Mặt khác, cần năng cao tay chế
biến, hạ giá thành sản phẩm, tận dụng nguồn lao động dồi dào giá rẻ, gia tăng khối lượng
sản xuất ra để tăng hiệu suất thu ngoại tệ và mở rộng xuất khẩu khoáng sán. Trong khi đó,
cần cam kết hoàn thành nghĩa vụ xuất khẩu, tăng cường kỷ luật giao hàng và điều chỉnh
chính sách thuế xuất khẩu để khắc phục tình trạng kích giá và tranh mua hàng xuất khẩu.
Kết quả là nước ta đã xuất khẩu thành công nông sản tới vùng Viễn Đông thuộc Liên Xô
và mở rộng thị trường sang các nước khác.

Tuy nhiên, cần đổi mới cơ chế quản lý các đơn vị sản xuất và kinh doanh hàng xuất
khẩu. Đó là sắp xếp một cách hợp lý, loại bỏ các khâu trung gian và thủ tục phiền phức.
Giao nhiệm vụ cho tổ chức công ty cần thống nhất đầu mối xuất, nhập khẩu cho các mặt
hàng quan trọng, khắc phục tình trạng tranh mua và tranh bán trên thị trường và nên chia
lợi nhuận công khai. Thêm vào đó, nhà nước cần bổ sung chính sách khuyến khích sản xuất
hàng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ kinh doanh.

Trong chương trình nhập khẩu, cơ cấu nhập khẩu cần phù hợp với cơ cấu sản xuất và
đầu tư. Đối phó với nhập khẩu không hợp lý bằng chính sách thuế nhập khẩu và xử lý giá
bán hàng nhập khẩu để ngăn chặn việc nhập hàng xa xỉ và thúc đẩy sử dụng hàng trong
nước.

Đặc biệt, cả hoạt động xuất và nhập khẩu cần chuyển sang hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa dưới sự độc quyền của nhà nước về ngoại thương.

Ngoài ra, lĩnh vực ngân hàng cũng là một phần liên quan đến phát triển kinh tế đối
ngoại. Cần thống nhất việc quản lý ngoại hối, bảo đảm quyền sử dụng ngoại tệ theo chính
sách của Nhà nước. Cơ chế mua, bán ngoại tệ qua ngân hàng này được nghiên cứu để ổn
định giá trị đồng tiền trong nước. Tỷ giá kết toán nội bộ và hối đoái được điều chỉnh kịp
thời và không lạc hậu so với tình hình thực tế.

Bên cạnh đó, cần tạo thêm nhiều chính sách khuyến khích Việt kiều giúp đỡ phát triển
đất nước thông qua vốn và kỹ thuật, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam, … Hơn thế nữa, cần tập trung vào phát triển kinh tế, khoa học
- kỹ thuật với Lào và Campuchia để đảm bảo sự bền vững trong khu vực, tiếp tục duy trì
mối quan hệ đặc biệt quan trọng này vì đây hai nước này là nước hàng xóm, láng giềng với
nước ta. Thúc đẩy xuất khẩu lao động và hỗ trợ chuyên gia đi học tập ở nước ngoài. Phát
triển du lịch quốc tế, nâng cao cơ sở hạ tầng vận tải, hàng không và đào tạo cán bộ có năng
lực kinh doanh đối ngoại để đàm phán, kết bạn.
Chương 3: Kết quả và ý nghĩa của việc thực hiện đổi mới kinh tế của đại hội
lần thứ VI

3.1 Kết quả

3.1.1 Thành tựu

Về kết quả của việc đổi mới nền kinh tế, thành tựu đầu tiên mà nhà nước ta đạt được
là những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế. Trong
đó gồm: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Thứ nhất, chương trình về lương thực - thực phẩm đang có những chuyển biến rất tốt.
Cuối năm 1988, chế độ bao cấp, phân phối theo tem phiếu đã được xóa bỏ. Việc tự do lưu
thông mở rộng, nhà nước thực hiện các chính sách khoán trong nông nghiệp, cung cầu
lương thực - thực phẩm trong cả nước được điều hòa. Lương thực và thực phẩm, từ các
vùng thiếu triền miên, năm 1988 phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo từ bên ngoài thì đến năm
1989 đã đáp ứng đủ nhu cầu của đất nước, có lượng lương thực dự trữ và đem đi xuất khẩu
nước ngoài. Đời sống người dân nhờ vậy dần được cải thiện, cán cân xuất - nhập khẩu ổn
định.

Thứ hai, tình hình lưu thông hàng hóa trong thị trường thuận lợi, hàng tiêu dùng được
sản xuất đa dạng và phong phú nhiều mặt hàng. Trong đó, nguồn hàng sản xuất trong nước
tuy chưa đạt kế hoạch nhưng cũng tăng hơn trước và có tiến bộ rõ rệt về mẫu mã, chất
lượng. Nhu cầu thị trường và các cơ sở sản xuất gắn chặt với nhau, chế độ bao cấp của nhà
nước về vật tư, tiền lương, vốn,... giảm đi trông thấy.

Cuối cùng là chương trình về xuất nhập khẩu, Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh, quy
mô và hình thức phát triển được mở rộng đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục
tiêu kinh tế - xã hội. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 439 triệu rúp và 384 triệu đô la năm
1986, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đô la năm 1990. Mức độ nhập siêu so với trước đây
đã giảm khá lớn. Từ năm 1989 có thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu
thô và một số mặt hàng mới khác.
Trong 5 năm từ 1986 -1990 đã dành cho ba chương trình kinh tế hơn 60% vốn đầu tư
của ngân sách trung ương, 75-80% vốn đầu tư của địa phương. Phần đầu tư của nhân dân
rất lớn, đồng thời cũng đã thu hút được một số vốn đầu tư của nước ngoài. Mặc dù vốn đầu
tư của ngân sách trung ương giảm, nhưng xét tổng thể các thành phần kinh tế thì tổng vốn
đầu tư trong nền kinh tế không giảm. Hình thành một số ngành sản xuất mới có triển vọng
như dầu khí, công nghiệp lắp ráp hàng điện tử, nuôi và chế biến tôm… Một số vùng tập
trung về việc trồng các loại cây công nghiệp, đánh bắt thủy sản,... xuất hiện. Nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
bước đầu hình thành, kinh tế đối ngoại phát triển nhanh hơn trước. Chính sách này được
nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống.

Trong lĩnh vực tài chính, sửa đổi và bổ sung hệ thống thuế, thi hành pháp lệnh về kế
toán và thống kê, động viên khá hơn các nguồn thu cho ngân sách; giảm các khoản chi có
tính chất bao cấp, mở rộng quyền chủ động tài chính cho cơ sở, thu hẹp các khoản đầu tư
theo phương thức cấp phát, mở rộng đầu tư qua tín dụng. Ngành ngân hàng đã tổ chức các
ngân hàng kinh doanh, triển khai kinh doanh tiền tệ, ngoại tệ, vàng bạc, thực hiện chính
sách lãi suất linh hoạt (tuy chưa nhất quán). Vấn đề về xây dựng pháp luật kinh tế được đẩy
mạnh. Bộ máy Nhà nước chuyển mình sang thực hiện các chức năng nhà nước, can thiệp
và điều hành kinh doanh các cơ sở. Trong nông nghiệp, thực hiện theo Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị (4 - 1988) ban hành về khoán sản phẩm cuối cùng khi đến tay nhóm hộ và hộ
xã viên, người nông dân được nhận khoán và canh tác trên diện tích đất ổn định trong 15
năm; đảm bảo có thu nhập từ 40% sản lượng khoán trở lên. Gần một phần ba các xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh vươn lên trong kinh doanh và thích ứng được với cơ chế mới. Xuất
hiện một số nông trường, lâm trường kinh doanh có hiệu quả. Đã xuất hiện một số hình
thức hợp tác mới thuộc nhiều lĩnh vực cùng hoạt động trên một địa bàn. Thực tiễn khẳng
định Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị là đúng đắn, phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta và
nguyện vọng của nông dân.

Thành tựu quan trọng cuối cùng là đã kiềm chế được một bước đà lạm phát. Đây là
kết quả tổng hợp của việc thực hiện ba chương trình kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý, đổi
mới chính sách giá và lãi suất, mở rộng lưu thông và điều hoà cung - cầu hàng hoá. Nếu chỉ
số tăng giá bình quân hằng tháng của thị trường xã hội năm 1986 là 20%, năm 1987 - 10%,
năm 1988 - 14%, thì năm 1989 là 2,5% và năm 1990 là 4,4%. Qua những điểm được nêu
trên đã chứng minh cho ta thấy rằng những đường lối đổi mới của Đại hội VI đề ra là đúng,
bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Đó là cơ sở quan trọng để chúng ta
tiếp tục tiến lên trong những năm tiếp theo.

3.1.2 Hạn chế

Bên cạnh các thành tựu của chương trình về lương thực - thực phẩm, còn có một số
hạn chế như sau: Bình quân lương thực đầu người của nước ta còn thấp, việc điều hoà lương
thực có lúc chưa tốt, quản lý dự trữ lương thực quốc gia có khuyết điểm lớn, giá cả lương
thực - thực phẩm có những lúc tăng đột biến vì nhiều nguyên nhân, tình trạng thiếu đói từng
thời gian vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Đến với chương trình về hàng tiêu dùng, sản xuất
công nghiệp nói chung và sản xuất hàng tiêu dùng nó riêng phát huy tiềm năng còn thấp.
Nhiều cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở tiểu, thủ công nghiệp và công nghiệp quốc doanh
địa phương, đang gặp khó khăn, chủ yếu do trình độ trang bị kỹ thuật lạc hậu, chất lượng
sản phẩm kém, giá thành sản phẩm cao, thiếu thị trường tiêu thụ và thiếu vốn, lại bị hàng
ngoại chèn ép. Cuối cùng là chương trình về hành xuất khẩu, thị trường xuất khẩu cần phải
hoạt động mạnh mẽ hơn để đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu và trả nợ của đất nước. Tình
hình thị trường xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn, chưa có mặt hàng chủ lực và khác biệt
để có sức cạnh tranh trong việc chiếm lĩnh thị phần, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm thô còn lớn,
chưa thể tự sản xuất các sản phẩm hoàn thiện. Trong quản lý hoạt động đối ngoại còn nhiều
điểm yếu như: hàng nhập lậu xuất hiện tràn lan, bị nước ngoài dìm giá khi mua hàng xuất
khẩu.

Về việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư có tình trạng phân tán, không tập trung vào các
công trình thiết yếu, lãng phí và kém hiệu quả. Các hoạt động thương nghiệp, dịch vụ phát
triển không hợp lý và lộn xộn; nhiều cơ sở công nghiệp và thương nghiệp quốc doanh chậm
được sắp xếp lại; công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản chậm phát triển; cơ cấu kinh tế
miền núi chưa có chuyển biến rõ rệt theo hướng sản xuất hàng hoá. Chưa đồng bộ cơ sở
quản lý kinh tế, thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng.
Các hoạt động tài chính - ngân hàng, thương nghiệp quốc doanh còn nhiều yếu kém. Chính
sách tài chính chưa tạo điều kiện để đẩy mạnh phát triển sản xuất và tạo nguồn thu; tình
trạng thất thu thuế và bội chi ngân sách còn lớn; Nhà nước quản lý lỏng lẻo. Ngân hàng
chưa được chú ý, phát triển còn yếu kém, chưa có phương thức giải quyết thỏa đáng vốn
cho các cơ sở kinh doanh; chính sách lãi suất cho vay và nhận gửi có nhiều bất hợp lý.
Thương nghiệp quốc doanh chưa làm tốt chức năng điều hoà cung - cầu và điều tiết giá cả
những mặt hàng trọng yếu. Công tác quản lý thị trường có nhiều sơ hở, nạn buôn lậu, làm
hàng giả trầm trọng và kéo dài, chậm ban hành các chính sách có hiệu lực để bảo hộ sản
xuất trong nước. Còn nhiều hạn chế trong công tác phân tích kinh tế, dự đoán các tình huống
xảy ra và chuẩn bị các biện pháp ứng phó. Thiếu chặt chẽ trong công tác thanh tra, không
phát hiện kịp thời và xử lý những vụ vi phạm chưa nghiêm. Nhiều cấp, nhiều ngành còn bố
trí những cán bộ kinh doanh thiếu hiểu biết về kinh tế và luật pháp, không tính đến năng
lực nghiệp vụ chuyên môn, chậm phát hiện và xử lý những người thoái hoá biến chất về
đạo đức.

3.2 Ý nghĩa

Mở đầu hành trình đổi mới toàn diện cho đất nước, Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi
mới cùng với sự đoàn kết vững chắc. Hướng đi mới được khẳng định trong Đại hội VI đã
mở ra con đường cho đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, và tiếp tục hướng
tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là bước đánh dấu sự trưởng thành của Đảng
trong việc đối mặt với thách thức chính trị và thể hiện năng lực lãnh đạo. Đảng đã can đảm
nhìn thẳng những sai lầm khuyến khuyết trước đây và điều chỉnh đổi mới theo xu hướng
mới của thời đại.

Qua kết quả của Đại hội, đã rõ ràng rằng văn hóa chính trị, giáo dục và xã hội là nguồn
động lực to lớn trong sự phát triển của đất nước lúc bấy giờ. Đại hội đã đề xuất các biện
pháp hiệu quả nhằm giảm lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và thay đổi cấu trúc xã
hội, tạo điều kiện cho một giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Và thấy rằng Việt Nam đã trở
thành quan sát viên của ASEAN vào năm 1992 và gia nhập chính thức vào năm 1995, điều
này là minh chứng rõ ràng cho sự thành công của quá trình đổi mới. Đảng đã rút ra những
bài học quý báu, đặc biệt là: Một, Đảng cần hoàn toàn cam kết với tư tưởng 'lấy dân làm
gốc', xây dựng và thúc đẩy quyền làm chủ của tập thể nhân dân lao động. Hai, phải luôn
cân nhắc và hành động dựa trên thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ba, cần phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với xu hướng của thời đại trong điều kiện bối
cảnh mới. Bốn, Đảng phải chú trọng vào việc xây dựng một tổ chức mạnh mẽ ngang tầm
với một đảng lãnh đạo cầm quyền nhân dân trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Ban Chấp hành Trung ương khóa VI và các tổ chức Đảng ở cấp cơ sở, trong hoạt động
của mình, phải thấu suốt và áp dụng một cách nghiêm túc những bài học quý giá. Họ phải
nỗ lực không ngừng để đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng, đồng thời lãnh đạo
nhân dân phát huy thắng lợi, vượt qua khó khăn, và tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ
trong sự phát triển của đất nước.

Đại hội VI của Đảng mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong hành trình chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội và mở ra một thời kỳ phát triển
mới cho cách mạng Việt Nam.

Đường lối đổi mới của Đảng đã đáp ứng đúng những mong muốn và nguyện
vọng của toàn Đảng và toàn dân ta, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại
mới.

Đường lối đổi mới của Đảng phản ánh tinh thần độc lập, tự chủ, năng động, sáng tạo
và bản lĩnh lãnh đạo chính trị của Đảng. Đại hội được định hình như là một sự kết hợp của
"trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới".

Tuy nhiên, Đại hội VI vẫn còn một số hạn chế liên quan đến việc tháo gỡ những vấn
đề phức tạp trong phân phối và lưu thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO (Nhóm Chưa sửa )

[1] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng | Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(dangcongsan.vn)
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tập
47 trang 380.
[3] Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Truy
cập tại: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI | Đảng Cộng sản Việt Nam - Đại hội XIII
(dangcongsan.vn)
[4] Bộ giáo dục và đào tạo (2021). GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia sự thật. (259 – 260)
[5] Hoàng Nhật. (2019). Báo Gia Lai. 3 lần khủng hoảng và 3 lần kinh tế Việt Nam
chuyển mình sau 1975. Truy cập ngày 04/04/2024 tại: https://baogialai.com.vn/3-lan-
khung-hoang-va-3-lan-kinh-te-viet-nam-chuyen-minh-sau-1975-post124752.html
[6] Lê Văn Tuấn. Tiểu luận Ý nghĩa lịch sử của Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng.
Thư viện luận văn, đồ án, tiểu luận, luận án, báo cáo, bài tập lớn, đề tài, đề án, chuyên đề
thực tập, tốt nghiệp, thạc sĩ, tiến sĩ, cao học. Truy cập này 12/04/2024 tại:
https://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-y-nghia-lich-su-cua-dai-hoi-dai-bieu-lan-thu-vi-
cua-dang-19004/
[7] Bộ giáo dục và đào tạo (2021). GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia sự thật.
[8] Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (2/4/2024). Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng. Truy cập tại: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-
uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi
[9] PGS. NGND Lê Mậu Hãn, PGS.TS Trình Mưu, GS.TS Mạch Quang Thắng
(2006). Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (Dùng trong các trường đại học, cao
đẳng) (Tái bản lần thứ hai có sửa chữa và bổ sung). Nhà xuất bản Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Truy cập ngày 2/4/2024 tại:https://www.tailieumienphi.vn/doc/giao-trinh-lich-su-dang-
cong-san-viet-nam-xl1otq.html.
[10] Bộ Giáo dục và Đào tạo . Giáo trình Lịch sử Đảng Việt Nam (Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội,
2021, trang 132, 133.

You might also like