KỶ YẾU TỌA ĐÀM HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC Bản in

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 283

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

KỶ YẾU
TỌA ĐÀM KHOA HỌC

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – HÀNH TRÌNH


TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

Hà Nội, 2023
MỤC LỤC
Trang

PHÁT BIỂU KHAI MẠC TỌA ĐÀM 1


Chủ tịch Hồ Chí Minh - hành trình tìm đường cứu nước
TS. Nguyễn Thị Lan Phương
PHẦN 1 3
TỪ BẾN CẢNG NHÀ RỒNG
NGƯỜI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
VĂN HÓA, TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG 4
QUÊ HƯƠNG XỨ NGHỆ - NƠI THẮP LÊN NGỌN LỬA HOÀI BÃO
CỨU NƯỚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Nguyễn Thị Lan Phương
LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN – SỰ LỰA CHỌN 7
ĐÚNG ĐẮN, PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Nguyễn Văn Nguyên
PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO CỦA HỒ 12
CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
TS. Nguyễn Hải Yến
NGUYỄN ÁI QUỐC TỪ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC ĐẾN VỚI CHỦ 17
NGHĨA CỘNG SẢN
TS. Bùi Thị Hồng Thúy
LUẬN CƯƠNG CỦA V.I. LÊNIN - BƯỚC NGOẶT TRÊN CON 20
ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA HỒ CHÍ MINH
TS. Đào Thị Hữu
HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN CỦA NGUYỄN 23
ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
TS. Nguyễn Thị Giang
HÀNH TRÌNH TIẾP CẬN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TÌM RA 26
CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
TS. Phạm Thanh Hiền
CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM VÀ HÀNH TRÌNH TÌM 32
ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Đào Thu Hương
HỒ CHÍ MINH - NHỮNG BƯỚC CHÂN KHÔNG MỎI TRÊN CON 35
ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Nguyễn Thị Quyên, Trần Quỳnh Anh, Kiều Ngọc Hà, Nguyễn Thị Hồng
Khánh, Vũ Bảo Linh, Nguyễn Nguyên Nhung, Lê Nguyễn Thị Hải Triều
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ XÁC LẬP CON ĐƯỜNG GIẢI 49
PHÓNG DÂN TỘC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH
Hoàng Thị Thoa, Trịnh Thị Thu, Nguyễn Thị Lan Anh, Vũ Thị Thương
Nguyễn Thị Thanh Xuân, Phạm Lê Vân,
Nguyễn Hoàng Trâm Anh, Nguyễn Minh Ngọc
SỰ HÌNH THÀNH Ý CHÍ, KHÁT VỌNG CỨU NƯỚC, CỨU DÂN CỦA 57
NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC NGUYỄN TẤT THÀNH
Đào Phương Thảo, Nguyễn Thị Hoài, Lê Thị Như Quỳnh,
Trần Linh Phương, Hoàng Hương Khánh, Nguyễn Minh Thái,
Nguyễn Trần Lam Phương, Nguyễn Minh Ngọc,
Ý CHÍ, NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỂ 64
VƯỢT QUA NHỮNG KHÓ KHĂN, THỬ THÁCH TRONG HÀNH
TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Trần Quốc Huynh, Ngô Ngọc Anh, Nguyễn Văn Mạnh,
Đoàn Lan Hương, Nguyễn Hương Lan, Đặng Thị Hằng,
Nguyễn Thị Thu Thảo, Phạm Khánh Linh
Ý CHÍ, NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG 78
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Ngô Hồng Nhung, Phạm Mai Linh, Nguyễn Quốc Tuấn
Ý CHÍ, NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG 88
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Lê Nguyễn Nhất Linh, Nguyễn Thuỷ Linh,Hà Kiều Loan, Nguyễn Khải Minh,
Lê Đình Quang, Đặng Hoàng Quân, Bùi Phương Thảo, Lê Thị Thuỳ Trang,
Nguyễn Huyền Trang
TỪ BẾN CẢNG NHÀ RỒNG NGƯỜI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU 99
NƯỚC
Nguyễn Hà Trang, Vũ Khánh Linh, Trần Ngọc Linh,
Nguyễn Vũ Anh, Nguyễn Việt Quân
PHẦN 2 109
CUỘC HÀNH TRÌNH VĨ ĐẠI THỰC HIỆN
KHÁT VỌNG ĐỘC LẬP, TỰ DO CHO DÂN TỘC
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ 110
MINH TỪ NĂM 1911-1920
TS. Trần Thị Thu Hường
NHỮNG LUẬN ĐIỂM SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON 114
ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC–CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ
SẢN
TS. Nguyễn Văn Nguyên
HÀNH TRÌNH ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VĨ ĐẠI CỦA NGUYỄN 120
ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH
TS Nguyễn Thị Chinh
DẤU ẤN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ 124
TRÊN HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
TS. Nguyễn Thị Hạnh
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA 130
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, GIAI ĐOẠN 1928 – 1929: TẠI THÁI LAN
TS. Nguyễn Thị Giang
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA BÁC HỒ TRÊN ĐẤT 133
PHÁP
Th.s. Kiều Thị Yến
BÁC HỒ VỚI CHUYẾN ĐI LỊCH SỬ CHO DÂN TỘC VIỆT NAM 137
Ths. Trần Ngọc Hằng
BÁC HỒ Ở UDON THANI – THÁI LAN 141
TS. Đào Thị Hữu
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC- HỒI ỨC CHỐN NGỤC TÙ 143
Phạm Mạnh Cường, Nghiêm Minh Anh, Ngô Phan Thục Anh, Phạm Thị Hồng
Ngọc, Trần Bảo Sơn, Trần Ngọc Bách, Quách Trọng Phú,
NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG 154
QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Nguyễn Đức Hiếu, Đinh Thuý Huyền, Lê Nguyễn Phương Anh, Nguyễn Bảo
Ngân, Nguyễn Thị Phương Giang, Nguyễn Trần Trung Nguyên, Nguyễn Cẩm
Tú, Phạm Mai Phuơng, Đinh Quỳnh Phương
NGUYỄN ÁI QUỐC – BÔNG HOA 163
KHÔNG THỂ HÁI TRÊN ĐẤT HỒNG KÔNG (1930-1931)
Hoàng Thùy Linh, Nguyễn Linh Nga, Vũ Thị Thu Hằng, Lương Trần Thiên
Hoa, Đặng Thế Vinh, Phạm Văn Bình An,
NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG 176
QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Nguyễn Hà Vy Anh, Hoàng Nhật Dương, Nguyễn Tuấn Hiệp, Trần Thanh
Sơn, Nguyễn Đặng Đức Trung
TỪ BẾN CẢNG NHÀ RỒNG ĐẾN BA ĐÌNH LỊCH SỬ 186
Võ Lam My, Nguyễn Thuỳ Giang,
Hoàng Minh Ngọc, Phạm Thị Khánh Huyền,
Nguyễn Giang Phương Vy, Phạm Ngọc Khuê,
CUỘC HÀNH TRÌNH VĨ ĐẠI THỰC HIỆN KHÁT VỌNG ĐỘC LẬP 197
DÂN TỘC TỰ DO CỦA HỒ CHÍ MINH
Vũ Quang Tùng, Nguyễn Viết Duy, Phạm Minh Hoàng, Nguyễn Đức Thành,
NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG 205
QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Trương Thanh Thảo, Cao Thị Minh Hiền, Bùi Đức Anh,
Nguyễn Thúy Hiền, Đinh Ngọc Hà
PHẦN 3 212
SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
VỮNG BƯỚC THEO CON ĐƯỜNG NGƯỜI ĐÃ CHỌN
SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO 213
TẤM GƯƠNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Đào Thu Hương
NHỮNG GIAN NAN TRÊN HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC 216
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI TUỔI TRẺ
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
TS. Phạm Thanh Hiền
HÀNH TRÌNH ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ 221
CHÍ MINH VÀ BÀI HỌC CHO SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
ThS Vũ Mai Phương
DẤU ẤN VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA SỰ KIỆN BÁC HỒ RA ĐI TÌM 224
ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Th.s Nguyễn Đức Quỳnh
NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG 232
QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Nguyễn Hiền Anh, Trần Thị Ngọc Châu
Lê Hải Ngọc, Hồ Thu Quỳnh, Bùi Đức Thịnh
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG 241
VÀ PHÁT TRIỂN DÂN TỘC
Lộ Minh Anh, Bùi Thị Phương Thảo, Trần An Nhung,
Phạm Thu Hằng, Trần Việt Huyền, Trần Phương Hạ,
Nguyễn Huy Thành, Nguyễn Ngọc Huyền, Trần Đức Lương
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG 246
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Vũ Lê Ngọc Anh, Nguyễn Hải Anh,
Cát Hương Giang, Nguyễn Hương Lan,
Lê Minh Ngọc, Nguyễn Anh Thư
SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG VỮNG BƯỚC THEO 251
CON ĐƯỜNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐÃ LỰA CHỌN
Bùi Thị Mỹ Duyên, Vũ Trường Giang, Nguyễn Khắc Lương, Nguyễn
Thị Mai, Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Phạm Minh Uyên,
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU 261
NƯỚC
Trần Thái Dương, Nguyễn Minh Hiếu, Hà Đức Hùng, Trương Thái
Sơn,
Nguyễn Hồng Quang, Hà Minh Quân, Nguyễn Hải Yến
PHÁT BIỂU KHAI MẠC TỌA ĐÀM
Chủ tịch Hồ Chí Minh - hành trình tìm đường cứu nước
TS. Nguyễn Thị Lan Phương
Khoa Lý luận chính trị - Học viện Ngân hàng

Kính thưa các thầy cô và các em sinh viên thân mến!


Thay mặt BTC, tôi xin gửi đến các thầy cô và các em sinh viên tham dự buổi
tọa đàm khoa học hôm nay những lời chúc tốt đẹp nhất!
Cách đây 112 năm, Ngày 05/6/1911, tại Bến Nhà Rồng, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba, khi đó mới 21 tuổi, với khát khao cháy
bỏng “ độc lập cho tổ quốc, hạnh phúc cho nhân” đã quyết tâm ra đi thực hiện hoài
bão giải phóng nước nhà khỏi ách nô lệ của thực dân, đế quốc. Bằng một ý chí
mãnh liệt, nghị lực phi thường, sự kiên nhẫn trong lao động, học tập, cuộc hành
trình qua 3 đại dương, 4 châu lục và gần 30 quốc gia trên thế giới đã đưa Nguyễn
Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc. Con đường mà Người mở ra, đã đưa dân tộc ta từ đói khổ, lầm than, trở
thành nước Việt Nam độc lập - tự do - hạnh phúc.
Nói về hành trình vĩ đại ấy, cố nhà báo lão thành cách mạng Trần Bạch Đằng
đã viết: “Người ra đi với hai bàn tay trắng, và đem về cả một dải giang sơn”. Để có
được dải giang sơn đó, Hồ Chí Minh đã chấp nhận cuộc đời mà sự sống luôn gần
kề cái chết. Những dấu chân của Người in trên hành trình đó có thể gói gọn trong
ba chữ “khắc khổ, cần lao và tranh đấu”, nhưng không bao giờ xa rời mục đích giải
phóng dân tộc, giải phóng nhân dân.
Đã hơn một thế kỷ đã trôi qua, ý nghĩa lịch sử của hành trình tìm đường cứu
nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay, trên nền tảng
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đang bước vào
một thời đại mới, hội nhập và ngày càng phát triển.
Nhằm tiếp tục phân tích, làm sáng tỏ, sâu sắc hơn nữa giá trị to lớn của hành
trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những bài học rút ra từ
hành trình đó cho sinh viên Học viện Ngân hàng hôm nay, Khoa Lý luận chính trị,
Học viện Ngân hàng tổ chức buổi Tọa đàm khoa học cho sinh viên hệ chất lượng cao
K24 với chủ đề: Chủ tịch Hồ Chí Minh - hành trình tìm đường cứu nước.
Để buổi Toạ đàm đạt mục tiêu đề ra, BTC đề nghị các thầy cô, các em sinh viên
tập trung tham luận vào những nội dung chủ yếu sau đây:

1
1. Từ bến cảng Nhà Rồng Người ra đi tìm đường cứu nước.
2. Cuộc hành trình vĩ đại thực hiện khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc.
3. Sinh viên Học viện Ngân hàng vững bước theo con đường Người đã chọn.
Một lần nữa, thay mặt BTC, tôi xin gửi đến toàn thể quý vị đại biểu, các quý
thầy cô và các em sinh viên lời chúc sức khỏe và hạnh phúc; chúc buổi tọa đàm thành
công tốt đẹp.
Xin chân thành cảm ơn!

2
PHẦN 1
TỪ BẾN CẢNG NHÀ RỒNG
NGƯỜI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

3
VĂN HÓA, TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG
QUÊ HƯƠNG XỨ NGHỆ - NƠI THẮP LÊN NGỌN LỬA HOÀI BÃO
CỨU NƯỚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Nguyễn Thị Lan Phương
Khoa Lý luận chính trị - Học viện Ngân hàng

Nghệ An là vùng đất “địa linh, nhân kiệt”, địa danh giàu truyền thống cách
mạng, lịch sử hào hùng, văn hóa đậm đà bản sắc; đã sinh ra nhiều bậc anh hùng,
hào kiệt, sỹ phu yêu nước nổi tiếng. Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc, Nghệ An là vùng đất “phên dậu” của quốc gia, địa bàn trọng yếu của
đất nước, phần đất thiêng liêng trong dải non sông Việt Nam thống nhất. Với vị thế
chiến lược đặc biệt quan trọng, có bề dày truyền thống lịch sử, xứ Nghệ có nhiều
đóng góp lớn lao trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Thời kỳ chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, Nghệ An không chỉ
nhiệt thành hưởng ứng khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Bà Triệu, khởi nghĩa
Lí Bí, cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ… mà còn tự mình đứng ra dương cao ngọn
cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân thù, xây dựng đất nước, đó chính là cuộc khởi nghĩa
lớn do Mai Thúc Loan lãnh đạo (năm 713 – 722).
Bước sang thời kỳ độc lập tự chủ, núi rừng, sông biển và con người nơi đây
đã cùng hợp lực với nhau tạo nên vị thế chiến lược của quốc gia: đất “phên dậu”
thời Đinh – Tiền Lê – Lý; đất “cối kê” thời Trần; đất “đứng chân” và “thang mộc”
thời Hậu Lê; đất “Phượng Hoàng Trung Đô” thời Tây Sơn; là “thành đồng ao
nóng” và giữ vị trí then khóa của biết bao triều đại. Từ khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, nhân dân Nghệ An cùng các nhà văn thân đã tỏ rõ quyết tâm “đánh cả
Triều lẫn Tây”, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Trần Tấn và Đặng Như Mai
lãnh đạo. Đến khi phong trào Cần Vương dấy lên, Nghệ An không chỉ sục sôi với
cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn – Lê Doãn Nhã, mà còn hưởng ứng mạnh
mẽ cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng lãnh đạo phát triển ra.
Bước sang đầu thế kỷ XX, cuộc vận động giải phóng dân tộc bùng lên với
phong trào Đông Du và cuộc vận động Duy Tân theo khuynh hướng cách mạng dân
chủ tư sản. Không ai khác, chính Phan Bội Châu – người con ưu tú của quê hương
Nam Đàn, Nghệ An là linh hồn của phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam
trước khi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện.

4
Chính môi trường đó cùng lịch sử đấu tranh đã tôi luyện và hun đúc nên con
người nơi đây có sức sống bền bỉ; đức tính cần cù, nhẫn nại, ý chí và nghị lực phi
thường, anh dũng, kiên cường, bất khuất, với truyền thống yêu nước nồng nàn; tận
trung với nước, tận hiếu với dân; giàu lòng nhân ái và lao động sáng tạo để vượt
qua mọi khó khăn, gian khổ, vươn lên trong cuộc sống.
Xứ Nghệ nổi tiếng là vùng đất hiếu học. Hình ảnh thầy đồ Nghệ đã trở thành
biểu tượng khắc học của nền giáo dục Nho học. Từ thời Trần, xứ Nghệ đã có Trại
Trạng Nguyên và từ đó về sau số người học hành khoa cử đỗ đạt của vùng đất
Hồng Lam thuộc vào loại cao nhất của đất nước. Từ truyền thống hiếu học đó đã
sản sinh ra nhiều nhà khoa bảng nổi danh như: Trạng Nguyên Bạch Liêu, Trạng
nguyên Hồ Tông Thốc, Thám hoa Nguyễn Văn Giao, Thám hoa Phan Thúc Trực,
Tiến sỹ Ngô Trí Hòa…Nghệ An cũng là nơi có nhiều nhà giáo trứ danh như: Thám
hoa Nguyễn Đức Đạt, Nguyễn Thức Tự, Phan Bội Châu… và có cả một tầng lớp trí
thức bình dân đông đảo thường đi khắp nơi trong nước để dạy học.
Xứ Nghệ - đất rộng, người đông, khí hậu khắc nghiệt. Từ xa xưa, người dân
nơi đây đã phải vật lộn với thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Cộng đồng dân cư
Nghệ An đã phải cần cù lao động, chắt chiu tiết kiệm đến mức chịu thiếu, chịu khổ
mà cuộc sống vẫn khó khăn. Đã thế, thiên tai, địch họa lại rình rập, uy hiếp thường
xuyên. Trong hoàn cảnh đó, nhân dân lao động Nghệ An đã sớm biết đùm bọc,
thương yêu, hợp quần cố kết với nhau. Tình thương yêu mà họ giành cho nhau là
chân thành của những người lao động bình dị, chân quê, giàu lòng vị tha, “trọng
tình làng nghĩa xóm”, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Cũng chính những nhân tố đó đã
góp phần hun đúc nên con người Nghệ An với những đức tính nổi bật như: cương
trực, khảng khái, cần kiệm, giản dị, trưng thực, hiếu học, giàu nghị lực, ý chí, can
đảm, dám xả thân, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn.
Tuổi thơ của cậu bé Nguyễn Sinh Cung được tắm mình trong mạch nguồn
văn hóa của quê hương. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình văn hóa yêu nước, lại
là người có tâm hồn nhạy bén, chất văn hóa xứ Nghệ đã sớm kết tinh đậm nét ở
Người.
Và như thế, chính mạch nguồn truyền thống yêu nước của vùng đất “địa linh
nhân kiệt” này như một lẽ tự nhiên không chỉ đã sản sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh
mà còn góp phần tạo nên nền móng để hình thành hoài bão ra đi tìm đường cứu
nước của Người.

5
Nhờ sớm được bồi đắp truyền thống lao động từ quê nhà, mang trong mình
những đức tính tốt đẹp, riêng có của con người Nghệ An, Người đã ra đi tìm đường
cứu nước trong tư thế của một người lao động với hai bàn tay trắng. Và trên hành
trình tìm đường cứu nước, chính lao động không chỉ giúp mưu cầu sự sống mà còn
là một phương cách hữu hiệu để Người hoạt động yêu nước, hoạt động cách mạng,
thấu hiểu được tâm tư, tình cảm và ước vọng của giai cấp cần lao, tiếp thu và vận
dụng thành công Chủ nghĩa Mác Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp vô sản vào hoàn
cảnh của Việt Nam.
Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng lịch sử, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành với tên gọi là Văn Ba đã nhận làm phụ bếp cho tàu Pháp Latusơ
Tơrêvin, ra đi tìm đường cứu nước với một quyết tâm: Tự do cho đồng bào tôi, độc
lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi
hiểu... Mang trong mình lòng yêu nước, thương dân được hun đúc nên từ truyền
thống quê hương, gia đình Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, vừa lao động,
học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển
hình trên thế giới. Người đã đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu thế giới quan,
phương pháp luận cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy ở đó
con đường giải phóng dân tộc chính là con đường cách mạng vô sản.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng chính truyền thống quê hương là
một trong những mạch nguồn đầu tiên đã thấm sâu lan tỏa, góp phần hun đúc nên
một vĩ nhân của thế kỷ XX – Chủ tịch Hồ Chí Minh.

6
LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN – SỰ LỰA CHỌN
ĐÚNG ĐẮN, PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Nguyễn Văn Nguyên
Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Cách đây 112 năm, ngày 5 tháng 6 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành lấy tên Văn Ba đã ra đi tìm con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc. Trải qua hành trình đầy gian khổ, khảo sát thực tiễn,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã tìm thấy con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản. Sự lựa chọn đó phản ánh đúng
thực tiễn Việt Nam, đưa đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
NỘI DUNG
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
xâm lược của nhân dân Việt Nam diễn ra rất sôi nổi, quyết liệt nhưng đều thất bại.
Cách mạng Việt Nam bế tắc về con đường và phương pháp đấu tranh. Yêu cầu bức
thiết đặt ra đối với cách mạng Việt Nam lúc này là tìm ra con đường đấu tranh mới,
phù hợp với dân tộc và xu hướng phát triển của thời đại nhằm giải quyết được
những vấn đề đặt ra của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là vấn đề đấu tranh giành
độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân thoát khỏi thân phận nô lệ. Chính trong bối
cảnh đó, đã có rất nhiều người Việt Nam yêu nước ra đi tìm con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc trong đó có người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Trải
qua hành trình đầy gian khổ, đi qua rất nhiều quốc gia, châu lục, Người đã thấu
hiểu tình cảnh của nhân dân các dân tộc thuộc địa, nhận thức đúng đắn bối cảnh, xu
thế của thời đại. Chính những hiểu biết đó đã giúp Người lựa chon con đường cứu
nước đúng đắn, đó chính là con đường cách mạng vô sản.
1. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản – Sự lựa chọn đúng đắn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu con đường
cách mạng tư sản, mà trực tiếp là cách mạng tư sản Mỹ và cách mạng tư sản Pháp.
Tuy nhiên, Người cho rằng, con đường cách mạng tư sản là con đường cách mạng
không triệt để. Với cách mệnh Mỹ, Người khẳng định: Cách mệnh Mỹ đã thành
công hơn 150 năm nay nhưng công, nông vẫn cứ cực khổ, vẫn lo tính cách mệnh
lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản

7
chưa phải cách mệnh đến nơi. Đối với cách mệnh Pháp, Người nhận xét: Cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông,
ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Vì vậy mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu
tính cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên
nhớ điều ấy. Dù cách mạng tư sản có những tiến bộ nhất định, nhưng cuộc cách
mạng ấy chưa giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột. Chính vì vậy mà Hồ Chí
Minh đã không lựa chọn con đường cách mạng tư sản.
Thực tiễn Việt Nam lúc bấy giờ, dưới ách thống trị của thực dân Pháp và bọn
phong kiến tay sai, nhân dân Việt Nam sống trong cảnh khổ cực, lầm than. Xã hội
Việt Nam xuất hiện mâu thuẫn sâu sắc, không thể điều hòa được, đó là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Nhu cầu
của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách áp
bức, bóc lột. Do đó, con đường cách mạng tư sản không phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn, vì cuộc cách mạng đó thành công, nhân dân vẫn là đối tượng bị bóc lột.
Hồ Chí Minh nghiên cứu con đường cách mạng vô sản, và nhận thấy đây là
con đường đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và cho rằng đây là con đường
cách mạng triệt để. Người khẳng định: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Với Hồ Chí Minh, một cuộc
cách mạng triệt để phải giải quyết được hai vấn đề đặt ra của cách mạng Việt Nam:
Một là, giải quyết được vấn đề dân tộc, giành được độc lập dân tộc; hai là, giải
phóng nhân dân, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: Nếu nước được độc lập mà nhân dân không được hưởng hạnh phúc, tự
do thì độc lập ấy chẳng có nghĩa lý gì. Người dân chỉ thấy được giá trị của tự do,
độc lập khi người dân được ăn no, mặc ấm, hay, cả đời tôi chỉ có một mục đích là
phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những lúc tôi ẩn
nấp nơi núi non, vào ra chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo cũng là vì mục đích
đó. Từ quan điểm đó, ta có thể thấy được lý do vì sao Hồ Chí Minh lựa chọn con
đường cách mạng vô sản. Nội dung cốt lõi của con đường cách mạng vô sản là đi từ
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi từ độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản, sau đó tích cực truyền
bá vào phong trào mạng trong nước, dẫn tới phong trào vô sản hóa và phong trào
đấu tranh của nhân dân Việt Nam ngả dần sang khuynh hướng vô sản, đi theo con

8
đường cách mạng vô sản. Có thể nói, việc lựa chọn con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản ban đầu là lựa chọn mang tính
chủ quan của Hồ Chí Minh, nhưng rồi trở thành lựa chọn mang tính khách quan của
toàn dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn đó phù hợp với thực tiễn của dân tộc Việt Nam
và sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam là minh chứng rõ nét cho điều đó.
2. Giá trị con đường cứu nước của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt
Nam
Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản
có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hiện thực hóa con
đường cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, trong thời kỳ đấu tranh giành độc
lập (1930-1945), Đảng Cộng sản Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc xác định: Độc lập
dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm, trước hết và trên hết; đấu tranh giành độc lập dân
tộc là nội dung chủ đạo, chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực tiếp mà là phương hướng
tiến lên. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Trong thời kỳ vận động
Cách mạng Tháng Tám (1939-1945), trước những diễn biến mới của tình hình thế
giới và trong nước, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (5-1941),
khẳng định đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu: “Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Khi
thực dân Pháp quyết tâm xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Người đã khẳng định rõ
quyết tâm của nhân dân Việt Nam: “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, đó là tinh thần: “không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng chủ trương
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX,
vượt qua thách thức từ sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và
các nước Đông Âu, Đảng vẫn chủ trương tiếp tục vững bước trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam. Bởi lẽ:
“Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới đang
trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định

9
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới”.
Kiên định đường lối đổi mới và mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn sinh động của sự nghiệp đổi mới là minh
chứng hùng hồn khẳng định chân lý: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Trong giai đoạn hiện nay,
Đảng chủ trương càng phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, độc lập dân tộc là mục tiêu, là điều kiện tiên
quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội, không có độc lập dân tộc thì không thể xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
KẾT LUẬN
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua là quá trình vận dụng và
phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường
cách mạng vô sản. Đó là sự nhận thức, vận dụng sáng tạo về con đường độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đi từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp
và giải phóng con người. Nhận thức đúng đắn về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện mới của đất nước và thời đại, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
được đường lối, chủ trương đúng đắn, đúng như trong bài viết: "Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đó là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là
điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm
thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân

10
tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi
người, cho các dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi
vĩ đại trong suốt thế kỷ XX cho đến hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã chứng minh tính đúng đắn của việc lựa chon con đường cách mạng vô
sản của Hồ Chí Minh.

11
PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO
CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
TS. Nguyễn Hải Yến
Khoa Lý luận Chính trị - Học viện Ngân hàng

MỞ ĐẦU
Phương pháp Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý giá và to
lớn đối với dân tộc và nhân loại. Trong đó, không thể không kể đến phương pháp tư
duy Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Nói đến
phương pháp tư duy Hồ Chí Minh là nói đến một trong những nét riêng, độc đáo
của Hồ Chí Minh, chứa đựng tính dân tộc, khoa học, cách mạng nên có thể nghiên
cứu, học tập và vận dụng phương pháp ấy vào mỗi người.
NỘI DUNG
1. Phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh
- Tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo
Phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Đây là đặc trưng nổi bật, bao
trùm nhất, điển hình trong phương pháp tư duy của Hồ Chí Minh. Đặc trưng này
được thể hiện ngay khi Người còn ngồi trên ghế nhà trường, cho đến sự lựa chọn
con đường cứu nước, trong việc xác định kẻ thù chính của dân tộc mình và cả quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau này. Chính nét đặc sắc này đã làm cho
phương pháp tư duy của Người vừa mang tính dân tộc, vừa có tính thời đại, vừa có
giá trị phổ biến bền vững, vừa có tính độc đáo rất riêng.
Trong phương pháp tư duy Hồ Chí Minh, độc lập là không lệ thuộc, không
phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi. Tuy rằng, con đường nhận thức chân
lý bao giờ cũng có sự kế thừa, nhưng là một sự kế thừa biện chứng, kế thừa và phát
triển với tính độc lập của chủ thể nhận thức, kế thừa và phát triển nhưng không phải
là một sự bắt chước, rập khuôn. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ của mình, làm
chủ bản thân và công việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm của mình trước đất
nước và dân tộc. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ, cái lạc hậu đang làm cản
trở quá trình phát triển của đất nước, dân tộc. Loại bỏ những cái cũ mà trước đây
với chế độ cũ là đúng nhưng nay không còn phù hợp, tìm tòi, đề xuất những cái
mới có khả năng đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống đặt ra. Cái mới với sự kế
thừa có chọn lọc những giá trị của cái cũ còn phù hợp và bổ sung vào đó những giá
trị mới. Cái mới sáng tạo ở Hồ Chí Minh là mới phù hợp với quy luật khách quan

12
của cách mạng Việt Nam, cũng như phù hợp với quy luật phát triển chung của nhân
loại. Hơn nữa, nhờ tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo của Hồ Chí Minh mà những
quy luật của cách mạng Việt nam đã được phát hiện.
Nét đặc sắc trong tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong phương pháp tư
duy Hồ Chí Minh có từ rất sớm, phương pháp tư duy này được hình thành từ khi
Người còn rất nhỏ cho đến tuổi thanh niên, đặc biệt khi Hồ Chí Minh đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo ở Người càng được nâng cao
và đã trở thành đặc điểm, thành một thuộc tính bền vững của phương pháp tư duy
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Tư duy độc lập, tự chủ của Hồ Chí Minh đã làm cho suy nghĩ của Người
khác biệt với những suy nghĩ của các nhà yêu nước mang tư tưởng phong kiến hoặc
tư sản, đặc biệt khác với tư duy của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Văn
Tường về con đường cứu nước, dù rằng cả ba ông đều có tấm lòng yêu nước, muốn
giành độc lập cho đất nước, vì dân, vì nước.
Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong phương pháp tư duy Hồ Chí Minh thực
sự có bước nhảy vọt về chất khi Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, từ đây, độc
lập, tự chủ trong tư duy của Hồ Chí Minh mới thực sự đi đến sáng tạo, trình độ tư
duy đạt đến sự chín muồi.
Hồ Chí Minh đã tư duy đó để đối chiếu, để so sánh, lựa chọn, chắt lọc và
tổng hợp những dữ liệu mà thực tế thế giới và Việt Nam đã cung cấp, những kinh
nghiệm mà cuộc sống đã đem lại, những tư tưởng của các thế hệ đi trước đã gợi
mở, để từ đó Hồ Chí Minh đi đến những nhận định mới, nhứng kết luận mới và
những tư tưởng mới.
Phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh đã hòa nhập
với tính cách mạng triệt để, tính biện chứng chặt chẽ và khoa học của chủ nghĩa
Mác- lênin. Từ đó, Hồ Chí Minh đã từng bước xác lập cả một hệ thống tư tưởng,
luận điểm sáng tạo của riêng mình.
- Thường xuyên tổng kết kinh nghiệm lịch sử, tiến lên nắm lấy những
tri thức mới
Quá trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là quá trình không
ngừng học tập, rèn luyện và hoạt động cách mạng. Trong quá trình đó, Người thường
xuyên tổng kết kinh nghiệm lịch sử để tiến lên nắm lấy những tri thức mới.
Vốn là một người rất nhạy cảm về chính trị. Người đã không đồng tình với
con đường dân chủ tư sản của các nhà cách mạng tiền bối Phan Bội Châu, Phan

13
Chu Trinh. Năm 1919. Sau sự kiện gửi Bản yêu sách tám điểm của dân tộc Việt
Nam tới Hội nghị Véc xây (Pháp), cái bánh vẽ chính trị mà chủ nghĩa đế quốc Mỹ
đưa ra để gạ gẫm các dân tộc đã được Người nhận ra. Người nói: “Chủ nghĩa
Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn” và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có
thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Kết luận quan trọng đó chính là tiền đề tư tưởng của phương châm chiến
lược “dựa vào sức mình là chính” của Đảng ta, do Người sáng lập chỉ đạo cách
mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Từ những năm 1919 - 1920, đoạn tuyệt dứt khoát với quan điểm dựa vào
nước ngoài để giải phóng dân tộc, tin tưởng mãnh liệt vào khả năng của nhân
dân, Hồ Chí Minh đã thực sự đứng ở đỉnh cao của tinh thần dân tộc, của chủ
nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam.
Vào năm 1919, bọn mật thám Pháp chuyên theo dõi Người đã nhận xét: “gần
đây có dấu hiệu cho thấy tư tưởng của Phan Chu Trinh khác xa tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc… Nguyễn Ái Quốc nổi lên là người lãnh đạo có uy tín với người
Việt tại Pháp, trong khi vai trò của Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường lu mờ dần”.
Năm 1920, sau khi được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã đứng hẳn về Quốc
tế III, về phía Lênin, kiên quyết đấu tranh chống khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa
trong nội bộ Đảng xã hội Pháp và đã trở thành một trong những người sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp. Đối với Người, mỗi một lần phê phán cái sai lầm là một lần
tổng kết kinh nghiệm nghiêm túc và qua mỗi lần đó Người lớn lên vượt bậc.
Không bằng lòng với tri thức thu lượm được ở đất Pháp, Người đi khắp
châu Âu, châu Á, đến châu Phi, châu Mỹ, Đaca, Máctiních… chứng kiến kiếp
sống của những người nô lệ. Ở Việt Nam, Trung Quốc…. Người chứng kiến
cuộc sống khổ nhục của những người dân mất nước dưới chế độ thuộc địa nửa
phong kiến. Ở Anh, Pháp, Mỹ, người phẫn nộ lên án chế độ tự xưng là “văn
minh” nhất nhân loại. Rồi qua sách báo và những người cộng sản Pháp, Người
vui mừng thấy cuộc sống mới trên quê hương Cách mạng Tháng Mười.
Đi đến đâu Người cũng quan sát và suy nghĩ. Bằng sự nghiên cứu nghiêm
túc nhất, với tinh thần trách nhiệm cao nhất trước dân tộc và giai cấp. Người đã
rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa

14
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Như vậy, vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã đứng ở
đỉnh cao nhất của tinh thần dân tộc. Từ đỉnh cao đó, Người tiếp thu chủ nghĩa
Mác-Lênin, tinh hoa của tư tưởng loài người, đưa cách mạng Việt Nam vào quĩ
đạo cách mạng vô sản.
2. Học tập phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí
Minh để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ chúng ta đang tiếp
tục xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu xây dựng xã
hội: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đến nay nhìn lại
hơn hai mươi năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi
mặt. Đời sống chính trị luôn ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Vị thế
của đất nước được khẳng định trên trường quốc tế, đời sống của các tầng lớp nhân
dân được cải thiện đáng kể. Những sự kiện trọng đại của đất nước trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội mà nhân dân ta giành được dưới sự lãnh đạo của
Đảng qua những năm qua đã minh chứng cho điều đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “năng lực con người không phải hoàn toàn
do tự nhiên mà có, một phần lớn là do công tác, do tập luyện mà nên”. Trong khi
đó, không ít người Việt Nam thiếu ý thức tự tu dưỡng rèn luyện phương pháp tư
duy độc lập, sáng tạo. Họ bằng lòng, thoả mãn, dừng lại, ngại học tập, lười suy
nghĩ. Năng lực tư duy của con người, nếu không được rèn luyện, bồi dưỡng thường
xuyên, nếu không tự giác rèn luyện hệ thống các thao tác cần thiết của lao động trí
tuệ như: phân tích, so sánh, tổng hợp, luận chứng, suy luận thì sẽ dần dần bị mai
một. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch lợi dụng sự mở cửa về kinh tế, văn hoá, giáo
dục, y tế… nhằm chống phá chế độ bằng cách mua chuộc, dụ dỗ, đe doạ, khống
chế, lôi kéo vào con đường sa đoạ về đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng để
chúng dễ bề thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”, phá hoại Đảng ta từ bên
trong. Chính vì chưa nắm chắc và chưa vận dụng đúng đắn, nhuần nhuyễn phương
pháp tư duy biện chứng duy vật mác xít nên trong tư duy của nhiều người còn rơi
vào các bệnh giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa, chủ quan, phiến diện một chiều…
Vì vậy, muốn khắc phục một cách căn bản, triệt để những yếu kém đó trong
tư duy của mỗi người cần phải xây dựng cho họ phương pháp tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn cần phải không ngừng học tập, rèn luyện

15
phương pháp tư duy biện chứng duy vật mác xít. Bản thân mỗi người cần nhận thức
được tư duy là xuất phát của mọi việc; muốn có hành động đúng trước hết phải có
tư duy đúng; không ai tư duy hộ, làm thay cho mình, phải tự mình học tập, trau dồi
và rèn luyện để có tư duy đúng. Đó là cơ sở để có những hành động đúng.
KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam và của các
dân tộc bị áp bức. Người đã tượng trưng cho tất cả những gì cao đẹp nhất của
dân tộc, là một trong các vĩ nhân của thời đại và của lịch sử nhân loại. Nói đến
phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh là nói đến một
trong những nét riêng, độc đáo của Hồ Chí Minh. Phương pháp tư duy Hồ Chí Minh
là điển hình của sự kết hợp hài hòa mối quan hệ biện chứng giữa tính khoa học và tính
cách mạng, tính lý luận và tính thực tiễn, tính dân tộc và tính quốc tế, kết hợp cả lý trí
và tình cảm cách mạng cao cả. Nét đặc sắc đó trong phương pháp tư duy Hồ Chí Minh
còn nói lên được bản lĩnh vững vàng, ý chí kiên cường, niềm lạc quan tin tưởng, sự
giản dị khiêm tốn và đặc biệt là khả năng nhìn xa trông rộng, khả năng tiên lượng
trong những bước ngoặt lớn của cách mạng.
Hiện nay, đứng trước những nhiệm vụ cách mạng mới mẻ, để giải quyết
những vấn đề sinh động của cuộc sống đặt ra, chúng ta không có con đường nào
khác ngoài con đường nâng cao phương pháp tư duy lý luận - mà phương pháp tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh là một mẫu mực. Đảng ta khẳng định
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động. Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành một yêu cầu bức thiết đối với toàn
Đảng, toàn dân, đòi hỏi được triển khai một cách toàn diện, sâu sắc và có hệ thống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo sư Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên): Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
[2]. Tập bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh (Hệ cử nhân chính trị), Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2004.
[3]. TS Trần Văn Phòng (Chủ biên): Học tập phong cách tư duy Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
[4]. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2007.

16
NGUYỄN ÁI QUỐC
TỪ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC ĐẾN VỚI CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
TS. Bùi Thị Hồng Thúy
Khoa Lý luận Chính trị - Học viện Ngân hàng

Tiếng đại bác rền vang ở cửa biển Đà Nẵng đã mở màn cho cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp sau một thời gian dài thăm dò, nhòm ngó.
Ban đầu triều đình phong kiến Nguyễn còn tỏ rõ vai trò của người đứng đầu, phát
động nhân dân thực hiện cuộc chiến tranh vệ quốc. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự
phương Tây đã khiến cho nhà Nguyễn không đủ sức chống đỡ, từng bước đầu hàng
thực dân Pháp, bỏ rơi ngọn cờ dân tộc. Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc
lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Mặc dù nhà Nguyễn bạc nhược, bỏ cuộc song phong trào yêu nước chống
Pháp vẫn diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân.
Sự nở rộ của các phong trào yêu nước trong bối cảnh thực dân Pháp điên cuồng
khủng bố và đàn áp đã chứng tỏ tinh thần yêu nước, ý trí tự cường và quyết tâm
giải phóng của người Việt Nam là không gì có thể khuất phục. Theo khuynh hướng
phong kiến phải kể tới phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi và Tôn Thất
Thuyết, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám…. Theo trào lưu dân chủ tư sản
với những đại diện tiêu biểu là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái
Học…. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến hay tư sản đều
không đi tới một kết quả như mong đợi, thậm trí còn bị thực dân Pháp đàn áp đẫm
máu. Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước trước khi có Đảng là do
thiếu một đường lối chính trị đúng đắn, thiếu một tổ chức vững vàng đứng ra tập hợp
rộng rãi mọi lực lượng, lãnh đạo nhân dân đấu tranh và chưa có phương pháp cách
mạng phù hợp.
Thất bại của phong trào yêu nước những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đã chứng tỏ sự lỗi thời, lạc hậu của hệ tư tưởng phong kiến, sự yếu ớt, bất lực
của hệ tư tưởng tư sản trước sứ mệnh mà lịch sử giao phó. Yêu cầu đặt ra cấp thiết
là phải kiếm tìm một hướng đi mới cho phong trào dân tộc. Rút kinh nghiệm từ sự
thất bại của các phong trào yêu nước và các tiền bối đi trước, chàng thanh niên
Nguyễn Tất Thành đã rời bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước vào ngày
5/6/1911 với một hướng đi hoàn toàn mới mẻ và táo bạo. Người muốn đi sang

17
phương Tây xem nước Pháp họ làm thế nào rồi về giúp đồng bào ta. Đây được coi là
quyết định táo bạo thể hiện tư duy khoa học và thức thời của Nguyễn Tất Thành.
Ở Pháp, Nguyễn Tất Thành đã chủ động hòa mình vào cuộc sống của những
người dân lao động, đến các buổi sinh hoạt chính trị, các buổi mít tinh, nói chuyện
ở các đường phố, gặp những người bạn Pháp đấu tranh trong phong trào công nhân.
Cũng trong năm 1917, cuộc cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ và là cuộc cách
mạng vô sản đầu tiên trên thế giới thành công. Thắng lợi cách mạng tháng Mười
Nga đã mở ra thời kỳ mới cho lịch sử thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã hướng tới ánh
sáng của cách mạng tháng Mười Nga và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của
cuộc cách mạng này.
Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, đồng thời, Người tích
cực hoạt động trong phong trào công nhân, nhân dân lao động nghèo khổ khắp
đường phố Pari, đặc biệt là các hoạt động kêu gọi nhân dân Pháp ủng hộ cuộc cách
mạng của nước Nga Xô Viết chống lại cuộc bao vây của các nước đế quốc như: rải
truyền đơn, tuyên truyền vận động nhân dân Pháp quyên góp tiền ủng hộ nước Nga
Xô Viết. Năm 1919, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt. Hội những người yêu nước
Việt Nam ở Pháp, Người đã gửi tới hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân
Việt Nam đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền
bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Với bản yêu sách đó, Nguyễn Ái Quốc đã gây
tiếng vang lớn không những trong dư luận xã hội nước Pháp mà còn dội mạnh về
nước, tạo nên bước chuyển mới trong phong trào giải phóng dân tộc. Còn đối với
bọn thực dân Pháp thì chúng đã điên cuồng điều tra tung tích Nguyễn Ái Quốc và
lập cơ quan chuyên trách theo dõi những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc và Việt kiều yêu nước để áp dụng những biện pháp ngăn chặn.
Tháng 7/1920, báo Nhân đạo (L’Humanite) của Đảng Xã hội Pháp đăng toàn
văn “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
của Lênin. Đọc Luận cương Leenin Người đã phải thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa
đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta!”. “Từ đó tôi tin hoàn toàn theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Luận cương đã
giải đáp đúng và trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang băn khoăn, trăn trở
và kiếm tìm. Luận cương của Lênin đã cho Người thấy được tư tưởng về quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, đó là nền tảng để sau này hình thành chân lý bất hủ “Không
có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng về giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa trong Sơ thảo luận cương của Lênin làm tiền đề để Chủ tịch

18
Hồ Chí Minh hoàn thiện lý luận về con đường cứu nước. 12 luận điểm trong Sơ thảo
luận cương của V.I.Lênin đã giải quyết các vấn đề về dân tộc và thuộc địa của cách
mạng vô sản như: phân biệt lợi ích của các giai cấp bị áp bức, bóc lột với lợi ích của
giai cấp thống trị; phân biệt quyền lợi của dân tộc bị áp bức với quyền lợi của các lực
lượng đi áp bức; gắn kết phong trào công nhân với phong trào giải phóng dân tộc,
gắn kết phong trào dân tộc với cách mạng thế giới; tư tưởng về giải phóng dân tộc
khỏi nô dịch, xâm lược của các dân tộc, thuộc địa, phụ thuộc.
Như vậy có thể thấy rằng hành trình cứu nước bôn ba qua nhiều đại dương,
châu lục với nhiều trải nghiệm sâu sắc để rồi Người bắt gặp, giác ngộ chủ nghĩa
Mác – Lênin và tìm thấy ở đây con đường đi đúng đắn để giải phóng dân tộc, mà
sau này chính Người đã thừa nhận “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Hành trình ấy cũng đã đưa
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản
và trở thành người cộng sản chân chính đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Sau nỗ lực tìm đường là hành trình truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về nước
bất chấp mọi gian nan, hiểm nguy. Ở trong nước,sự phát triển và trưởng thành của
phong trào công nhân Việt Nam từ tự phát sang tự giác đã trở thành mảnh đất màu
mỡ để chủ nghĩa Mác – Lênin ăn sâu, bén rễ. Bên cạnh đó chủ nghĩa yêu nước là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử đấu tranh cách mạng và mỗi khi Tổ quốc lâm
nguy thì tinh thần đấy lại càng cháy lên hết mình. Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, phong trào công nhân, phong trào yêu nước kết hợp đã dẫn tới
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng đã phản ánh quy luật
nói chung, đồng thời là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện
cụ thể ở nước ta, là sự kết tinh bản lĩnh, trí tuệ và nhãn quan chính trị nhạy bén của
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong hành trình nỗ lực thành lập một chính Đảng
lãnh đạo phong trào dân tộc.

19
LUẬN CƯƠNG CỦA V.I. LÊNIN - BƯỚC NGOẶT
TRÊN CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA HỒ CHÍ MINH
TS. Đào Thị Hữu
Khoa Lý luận Chính trị - Học viện Ngân hàng

“Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
(Bài thơ “Người đi tìm hình của nước” - Chế Lan Viên)
Câu thơ trên diễn tả sự xúc động tột cùng của Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí
Minh sau khi đọc Luận cương của V.I. Lênin trên hành trình đi tìm đường cứu
nước đầy gian nan của Người. Việc đọc và tiếp nhận “Sơ thảo lần thứ nhất Những
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đánh dấu bước
chuyển biến nhảy vọt trong nhận thức, tư tưởng, lập trường chính trị của Người,
đồng thời cũng mở ra bước ngoặt cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Luận cương của V.I.Lênin là dấu mốc lịch sử quan trọng, đã đánh dấu bước
ngoặt Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, trở
thành một người cộng sản. Tuy nhiên điều này đến không phải hoàn toàn ngẫu
nhiên, đó là hành động đáp ứng nhu cầu của lịch sử dân tộc và xu thế thời đại, một
sự kiện mang tính tất yếu và đã được chuẩn bị trên con đường cứu nước của Người.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời quê hương, tổ quốc ra đi tìm đường cứu
nước. Hành trang Người mang theo là lòng yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc,
là lòng dũng cảm, tư duy độc lập, sáng tạo. Sau nhiều tháng năm trong hành trình
xuyên đại dương, Người trở lại điểm đến quan trọng nhất là nước Pháp và tham gia
hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Người tận mắt thấy cuộc sống cực khổ
của nhân dân các nước thuộc địa và cũng thấy được sự bất công ngay trên các nước
tư bản phát triển, đồng cảm, đau xót trước cảnh tượng các dân tộc thuộc địa và
người lao động bị áp bức, bóc lột dã man. Những hoạt động thực tiễn và tiếp thu
chân lý ban đầu đã làm sáng tỏ hơn con đường cứu nước mà Người hướng tới.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, đã đưa chủ nghĩa Mác từ
khoa học thành hiện thực, mở ra một xu hướng phát triển mới trên thế giới - xu
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cũng thời gian đó, Hồ Chí Minh thay mặt nhóm
người Việt Nam yêu nước gửi đến Hội nghị Véc-xây bản “yêu sách của nhân dân
An Nam” đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam nhưng không được chấp nhận đã giúp Người có bước

20
nhận thức mới về quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Ngày 16 và 17/7/1920, báo
Nhân đạo (L’Humanite) của Đảng Xã hội Pháp đăng toàn văn “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Người đọc,
nghiên cứu bản Luận cương và Người đã tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân
tộc. Người đã thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta![1]
Luận cương của V.I. Lênin đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng về đấu
tranh giai cấp, giải phóng dân tộc, mối liên hệ giữa đấu tranh giai cấp và giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa, giúp Hồ Chí Minh hoàn thiện lý luận về con đường
cứu nước.
Sơ thảo luận cương của Lênin đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản để giải
quyết vấn đề dân tộc: thừa nhận các dân tộc có quyền bình đẳng, quyền tự quyết và
giải quyết vấn đề dân tộc trên nguyên tắc đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế. Các
dân tộc dù lãnh thổ rộng hay hẹp, dân cư đông hay ít, trình độ phát triển cao hay
thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết đối
với vận mệnh của mình: quyền tự do lựa chọn đường lối chính trị, đường lối phát
triển kinh tế, quyền phân lập hay liên hiệp đối với các khối liên minh, liên kết.
Không có một thế lực nào, chính quyền nào được phép can thiệp vào công việc nội
bộ của các quốc gia. Việc giải quyết vấn đề dân tộc cần dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, dựa tên tinh thần giai cấp vô sản. Do đó, phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc không tách rời phong trào công nhân. Giai cấp công nhân cần
phải đoàn kết lại trên phạm vi quốc tế để làm nền tảng cho sự thắng lợi của phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Xóa bỏ áp bức giai cấp là
cơ sở để xóa bỏ áp bức dân tộc. Chỉ có dựa trên những nguyên tắc giải quyết vấn đề
dân tộc như trên mới đảm bảo được lợi ích của các dân tộc. Như vậy, 12 luận điểm
trong Sơ thảo luận cương của V.I. Lênin đã giải quyết các vấn đề về dân tộc và
thuộc địa của cách mạng vô sản như: phân biệt lợi ích của các giai cấp bị áp bức,
bóc lột với lợi ích của giai cấp thống trị; phân biệt quyền lợi của dân tộc bị áp bức
với quyền lợi của các lực lượng đi áp bức; gắn kết phong trào công nhân với phong
trào giải phóng dân tộc, gắn kết phong trào dân tộc với cách mạng thế giới.
Những luận điểm được đưa ra trong Luận cương của V.I. Lênin đã giúp Hồ
Chí Minh nhận ra xu thế tất yếu của dân tộc và thời đại, đó là con đường độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách

21
nô lệ” [2]. V. I. Lênin chính là chiếc cầu nối đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, kể từ đây Người đã tìm ra con đường cứu nước, vận dụng sáng tạo
chủ chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam, dẫn đến sự
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Dưới sự dẫn dắt của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam từng bước
giàng thắng lợi, dân tộc Việt Nam được độc lập, tự do. Chính chủ nghĩa yêu nước
đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, và chủ nghĩa Mác – Lênin làm sâu
sắc và sáng tỏ hơn con đường cứu nước của Người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.562
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.563

22
HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN
CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
TS. Nguyễn Thị Giang
Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiral Latouche Tréville của hãng
Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc
bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước. Lúc đó, trong tâm trí người
thanh niên yêu nước ấy đau đáu về những câu hỏi cần tìm lời giải đáp:
- Làm thế nào để giải phóng được dân tộc và mang lại cuộc sống hạnh phúc
cho nhân dân?
- Có con đường nào khác so với con đường cứu nước của các vị tiền bối không?
- Sang phương Tây hay tiếp tục tìm kiếm con đường cứu nước ở phương Đông?
Đây chính là những câu hỏi luôn ngự trị và thôi thúc trong con người của
Hồ Chí Minh. Sự quyết tâm tìm đường cứu nước của Người được thôi thúc bởi
ước mơ cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất
cả những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”.
Trên hành trình bôn ba của mình, Người đã quan sát kỹ lưỡng, đã trải
nghiệm cuộc sống của người lao động ở những nơi Người đến, qua đó, Người hiểu
rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những nhận xét rất sâu sắc:
“Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là
thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn.”
Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người:
giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái
là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Từ kết luận này đã đặt cơ sở cho phát triển
quan điểm đúng đắn của Người về bạn, thù và sớm hình thành tư tưởng kết hợp chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, về sự đoàn kết cách mạng ở chính
quốc với cách mạng thuộc địa.
Những yếu tố đó đã dần đưa Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp cận được ánh sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau hơn 10 năm bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 7
nǎm 1920 qua báo L'Humanité (Nhân Đạo) của Pháp, Người được đọc bản “Sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.
Lênin. Bản Luận cương của V.I. Lênin như luồng ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào

23
trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, đem đến cho Người một
nhãn quan chính trị mới. Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:
“Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta!”. Như nhiều văn bản đã ghi lại, khi gặp bản Luận
cương này, Người đã thốt lên: Cơm áo là đây, hạnh phúc đây rồi!
Nguyên Cố Tổng bí thư Trường Chinh đã khẳng định: “Luận cương về những
vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về
chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hằng nung nấu”.
Sự kiện được đọc bản bản Luận cương của V.I. Lênin, cũng như việc nghiên
cứu và rút ra những nhận xét rất sâu sắc, toàn diện về cách mạng Tháng Mười Nga:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công
đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật,
không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang
bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho
công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất
cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”. Bên cạnh đó, cùng với những hoạt
động sát cánh với các tầng lớp công nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa,
cùng đồng bào mình trên đất Pháp trước đó, là tiền đề có tính quyết định việc
Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và thành lập
Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII tổ chức ở
thành phố Tua (Tours), tháng 12/1920. Người đã trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Mùa Xuân năm 1941, sau 30 năm tìm đường cứu nước ở các nước Phương
tây, Người đã về nước và cùng với Đảng ta lãnh đạo toàn dân làm nên cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử - sự kiện được đánh giá là vĩ đại nhất của dân
tộc ta vào thế kỷ XX, đập tan ách thống trị của chế độ thực dân, phong kiến, lập
nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - một Nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á. Chính con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã
lựa chọn đã dẫn dắt cả dân tộc ta đã anh dũng bước vào cuộc các cuộc kháng chiến
trường kỳ và vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, “đánh thắng hai đế quốc to là

24
Pháp và Mỹ”, viết nên trang sử vàng chói lọi của dân tộc bằng Đại thắng mùa Xuân
năm 1975, thu giang sơn về một mối, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: Kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.112.
[2]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nbx CTQG, H, 2011, tập 8, tr 13.
[3]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nbx CTQG, H, 2011, tập 15, tr 387.
[4]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nbx CTQG, H, 2011, tập 12, tr 562
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.2

25
HÀNH TRÌNH TIẾP CẬN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TÌM RA CON
ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH
TS. Phạm Thanh Hiền
Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng

MỞ ĐẦU
Việc người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc tìm ra Chủ nghĩa Mác
Lênin có ý nghĩa vô cùng to lớn, làm biến chuyển hoàn toàn cách mạng Việt Nam,
đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của Việt Nam đến bến bờ
thắng lợi. Con đường đến với chủ nghĩa Mác Lênin của Người không phải là sự
ngẫu nhiên, may mắn, nó là kết quả của quá trình giác ngộ lâu dài của một trái tim
yêu nước nồng nàn, một trí tuệ anh minh, vượt trước thời đại.
NỘI DUNG
1. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX và sự lựa chọn
của Nguyễn Tất Thành
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đâu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã từ giai đoạn tự
do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã xác lập được sự
thống trị trên phạm vi thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ
Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của chúng. Đời sống nhân dân ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc vô cùng cực khổ, trong đó có nhân dân Việt Nam dưới
xiềng xích của chế độ thực dân Pháp. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam
với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu
thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc bắt đầu phát triển và có xu hướng lan rộng.
Trước tình hình đó, chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng Nho
giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc chống ngoại xâm vì nền
ñộc lập dân tộc. Các phong trào đấu tranh của nhân dân ta theo ý thức hệ phong kiến
(tiêu biểu là phong trào Văn Thân và phong trào Cần Vương) lần lượt đều bị thất bại.
Sự tác động của tư tưởng tiến bộ ở phương Tây cũng như cuộc cách mạng
Tân Hợi và cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở Trung
Quốc cũng có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, nhất là quá trình chuyển biến về tư
tưởng chính trị. Trong bối cảnh đó, một số nhà tư tưởng tiêu biểu, từ Phạm Phú
Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch,… đến Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh,…đã thực hiện một bước chuyển tư tưởng

26
chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn. Những nội dung tư tưởng dân chủ tư sản của các
ông đã tạo nên bước chuyển biến quan trọng trên bình diện ý thức hệ: Từ sự xuất
hiện tư tưởng canh tân trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến của phương Đông
sang tư tưởng dân chủ tư sản của phương tây, làm dấy lên các phong trào yêu nước
chống Pháp có khuynh hướng dân chủ tư sản như phong trào Đông Du (Phan Bội
Châu), Đông Kinh Nghĩa Thục (Lương Văn Can, Nguyễn Quyền), Duy Tân (Phan
Chu Trinh)… Mặc dù có những nội dung mới, cách mạng và tiến bộ, nhưng trong
tư tưởng chính trị giai đoạn này có những biểu hiện dao động, mơ hồ, thậm chí có
lúc đi đến thỏa hiệp với thực dân và cuối cùng thất bại.
Tất cả các cuộc khảo nghiệm tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
của các nhà yêu nước tiền bối đều không thành công. Cách mạng Việt Nam bước
vào giai đoạn khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Yêu cầu khách quan, cấp
bách của cách mạng Việt Nam là phải tìm được con đường giải phóng dân tộc đúng
đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại để mở đường cho dân tộc Việt Nam
phát triển đi lên.
Tuy phong trào cách mạng dân chủ tư sản thất bại nhưng tư tưởng chính trị
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX là một bước chuyển, là khâu trung gian để chuyển
từ hệ tư tưởng phong kiến sang hệ tư tưởng vô sản. Người đã vượt qua những hạn
chế và tầm nhìn của lịch sử để thực hiện bước chuyển chính là Nguyễn Tất Thành -
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu
nước, thương dân, một địa phương có truyền thống văn hóa “địa linh, nhân kiệt”. Từ
lúc tuổi còn nhỏ, Người sớm được tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương đông,
hấp thụ vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn
hoá phương Tây. Chứng kiến cảnh khổ cực của người dân mất nước, tinh thần đấu
tranh bất khuất của cha anh, Người càng nung nấu thêm lòng yêu nước, thương dân
sâu sắc và hun đúc những hoài bão lớn lao. Vốn có tư chất thông minh, tinh thần
ham học hỏi, khả năng tư duy độc lập, tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới,
Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân, chí sĩ
xả thân vì nước nhưng Người không tán thành ñường lối cứu nước của các bậc tiền
bối. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành sớm đã thể hiện tầm vóc vượt trước
quan điểm cứu nước đương thời. Người cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh
yêu cầu người Pháp thực hiện cải cách chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng thương”;
chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp để đuổi Pháp chẳng khác nào “đưa

27
hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy thực tế
hơn nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt cách phong kiến”. Vì
vậy, Người quyết tìm con ñường cứu nước mới. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con
tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của hãng Năm sao, từ bến
cảng Nhà Rồng (thành phố Sài Gòn), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
(bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình lịch sử.
Khác hẳn với các nhà yêu nước tiền bối, Người đã chọn hướng con đường
cứu nước của mình sang phương Tây với bến đỗ đầu tiên trong hành trình là nước
Pháp. từ những nhận thức về bối cảnh đất nước, về văn minh phương Tây, văn hóa
Pháp khi Người còn ở độ tuổi niên thiếu và thời gian học ở Trường Quốc học Huế,
đã thôi thúc Người muốn tìm hiểu về nước Pháp để xem đằng sau những từ “Tự do
- Bình đẳng - Bác ái” là cái gì. Người cho rằng: “Muốn đánh hổ thì phải vào hang
hổ!”. Mặt khác, chính chủ nghĩa thực dân Pháp đang thống trị Việt Nam, cho nên
Người quyết chí đến Pháp để trực tiếp xem xét, nghiên cứu. Năm 1923, Người kể
lại cho một nhà báo Nga Xô-viết: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được
nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở
ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn náu
sau những chữ ấy”. Lần khác, Người trả lời một nhà văn Mỹ: “Nhân dân Việt Nam
trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường hỏi nhau ai sẽ là người giúp
mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là
Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao,
tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Như vậy, việc chọn hướng đi đúng trong hành trình tìm đường cứu nước là
sự đột phá mới trong tư duy chính trị, thể hiện bản lĩnh độc lập, sáng tạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, mở ra cơ hội lớn cho dân tộc Việt Nam với việc tích hợp tinh
hoa văn hóa nhân loại, mở đường cho dân tộc phát triển đi lên.
2. Con đường tìm đến Chủ nghĩa Mác – Lênin của Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh
Trong khoảng 10 năm (1911 - 1920), Người đã đi qua hàng chục quốc gia, từ
các nước tư bản phát triển đến các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ La-tinh.
Người vừa phải tìm việc làm để kiếm sống, vừa tự học tập, tìm hiểu tình hình chính
trị - xã hội của nước sở tại và các nước tư bản chủ nghĩa khác và tham gia hoạt
động yêu nước ở nước ngoài. Đến đâu Người cũng quan sát kỹ lưỡng, so sánh,
nhận xét, đi sâu tìm hiểu cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao

28
động, để tìm hiểu sâu về nền văn hóa của các nước tư bản phát triển thờì đó và thực
chất của nền văn minh dựa trên chế độ người bóc lột người, chứ không phải đi cầu
ngoại viện theo con đường “ỷ Pháp cầu tiến” của nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu
Trinh... Người hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những
nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai
cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế
quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn.
Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật
mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Từ kết luận này đã đặt cơ sở cho phát triển quan điểm
đúng đắn của Người về bạn, thù và sớm hình thành tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, về sự đoàn kết cách mạng ở chính quốc với
cách mạng thuộc địa.
Trong những năm ở nước Mỹ và nước Pháp, Người dành nhiều thời gian
tìm hiểu về các cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới là cách mạng Mỹ (1776) với
bản “Tuyên ngôn Độc lập” và cách mạng tư sản Pháp (1789) bản “Tuyên ngôn
Nhân quyền và dân quyền”. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở những
nước này, nhưng không thể đi theo con đường của họ được. Bởi vì, như Người đã
nói: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh
không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bằng nhãn quan chính trị sắc sảo, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vượt trên hẳn tư duy tìm đường cứu nước của các nhà cách mạng
tiền bối. Người đã kiên quyết không lựa chọn con đường cách mạng tư sản,
bởi theo Người, đó là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để vì
nó không hề đề cập đến vấn đề giải phóng mọi tầng lớp nhân dân lao động khỏi sự
áp bức, bóc lột, bất công.
Phương thức để đạt được mục đích cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh so
với các nhà cách mạng tiền bối và đương thời cũng có sự khác biệt và độc đáo. Cụ
Phan Chu Trinh sang nước Pháp nhờ cậy vào Hội nhân quyền của Pháp. Cụ Phan
Bội Châu sang Nhật Bản mưu cầu vào lòng “hằng tâm hằng sản” của nhiều người
trợ giúp. Nhưng Người ra đi tìm đường cứu nước bằng chính bàn tay lao động và trí
tuệ của mình; thông qua con đường “vô sản hóa” đi đến nhiều nước, Người vừa tích
cực học tập, nghiên cứu, vừa tìm cách đấu tranh với những kẻ xâm lược đất nước
mình ở ngay chính quốc. Tháng 6 năm 1919, khi các nước đế quốc thắng trận trong

29
Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị ở Véc-xây (Versailles) nước
Pháp để mục đích phân chia lại thế giới, Người đã chớp lấy cơ hội đó để cùng với
một số nhà yêu nước khác tại Pháp, gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An
Nam gồm 8 tám điểm, tố cáo chính sách của thực dân Pháp và đòi chính phủ Pháp
phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Sự kiện trên đã gây tiếng vang lớn trong thế giới thuộc địa. Bản Yêu sách phản ánh
nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam nhưng không được chấp nhận,
Nguyễn Ái Quốc càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc với những lời tuyên
bố về quyền tự do của các dân tộc chỉ là trò lừa bịp; và Người đã rút ra bài học vô
cùng giá trị là: Sự nghiệp giải phóng dân tộc mình chủ yếu phải do dân tộc mình
quyết định, phải trông cậy vào lực lượng của chính mình, chứ không phải dựa chủ
yếu vào bên ngoài… Qua sự kiện đó càng khẳng định sự nhạy cảm về chính trị,
tính chủ động, khôn khéo, sắc bén trong đấu tranh cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vượt lên trên tầm nhìn của các nhà chí sĩ yêu nước đương thời; đồng thời,
đánh dấu sự tiếp cận gần hơn chủ nghĩa Mác - Lênin của Người.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin qua bản “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Luận
cương của Lênin đến với Nguyễn Ái Quốc như một luồng ánh sáng mới soi rõ thêm
con đường cứu nước mà người thanh niên yêu nước đang tìm kiếm. Sau này, khi kể
lại sự kiện quan trọng đó, Bác nói: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:
Hỡi đồng bào bị đọa đầy đến khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta!”. Với lập trường yêu nước đúng đắn, Người vạch ra
chân lý: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Và “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”. Kết luận này khẳng định sự chuyển biến sâu sắc trong tư duy của
Nguyễn Ái Quốc, từ người yêu nước chân chính trở thành người cộng sản - người
đảng viên cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị
về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ báo Thanh

30
Niên ra ngày 21/6/1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới thành
lập Đảng. Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức
và cán bộ thông qua việc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) và tổ
chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô... Khi điều kiện thành lập
Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của Người, tại Hương Cảng
(Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng
thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt
Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ
bản được xác định. Đầu năm 1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài,
Người trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Người chủ trì
Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), quyết định chuyển hướng chiến lược cách
mạng phù hợp với sự thay đổi mau lẹ của tình hình quốc tế và trong nước, đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tổ chức vận động, tập hợp lực lượng toàn dân
tộc; thành lập Mặt trận Việt Minh; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ
địa, tạo nên các cao trào cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ trên phạm vi cả nước.
Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh
toàn dân tộc, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ
thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tiếp đó, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt
Nam đã vững bước trên con đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước
và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác - giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; thực hiện công cuộc đổi mới, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tích cực hội nhập quốc tế.
KẾT LUẬN
Những thắng lợi dân tộc Việt Nam đã đạt được là minh chứng rõ ràng nhất
về những giá trị to lớn, soi sáng, dẫn đường của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh. Đồng thời, thể hiện tầm vóc trí tuệ và bản lĩnh của Đảng ta trong việc
vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của
Người không chỉ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mà trong cả sự
nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

31
CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM VÀ HÀNH TRÌNH
TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Đào Thu Hương
Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta. Cả
cuộc đời của Người đã cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành
lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân ta. Sự kiện người thanh niên Nguyễn Tất
Thành - Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5 tháng 6 năm
1911 là sự kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với đất nước ta bởi đây là
bước ngoặt lớn đã đưa cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn phát triển mới,
từng bước giành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập
dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa đa dạng và đặc sắc. Các giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển gắn liền với lịch
sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc ta. Các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc được đúc kết từ trong quá trình lao động, từ trong cuộc đấu tranh
chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chống lại sự tàn phá của giặc ngoại xâm
đã trở thành những giá trị tinh thần bền vững của dân tộc. Đó chính là những giá trị
như lòng yêu nước, tự cường dân tộc, lòng nhân ái, lạc quan yêu đời, tinh thần đoàn
kết, đức tính cần cù, hiếu học... Trong đó, truyền thống yêu nước là giá trị văn hóa
tinh thần chủ đạo trong hệ giá trị văn hóa của người Việt. Truyền thống yêu nước
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, được thể hiện ở tình yêu thiên nhiên,
yêu quê hương, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Đã là người Việt Nam thì ai ai cũng
mang trong mình tinh thần yêu nước nồng nàn. Yêu nước không chỉ là yêu đất
nước, dân tộc mình mà còn là yêu toàn thể nhân loại. Lòng yêu nước đã tạo nên
động lực và sức mạnh để nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc giàu đẹp như ngày nay.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sự phát triển lên đến đỉnh cao của lòng yêu
nước, là sự kết hợp chặt chẽ giữa tình cảm yêu nước nhiệt thành và một hệ thống
các tư tưởng về tình yêu, lòng trung thành đối với Tổ quốc, ý thức phục vụ Tổ quốc
nhằm mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, mang
lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

32
Người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn
lên trong bối cảnh nước mất nhà tan, cả dân tộc đang chìm trong sự thống trị của
thực dân Pháp xâm lược. Trước cảnh đất nước bị giày xéo, đã có nhiều nhà cách
mạng đi trước nung nấu quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược như cụ Phan Châu
Trinh, cụ Phan Bội Châu... nhưng đều bị thất bại. Trước tình hình đó, nhu cầu thực
tiễn đặt ra là phải tìm ra một con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc, đưa
nhân dân ta thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh
thần yêu nước của các bậc chí sĩ đi trước nhưng không hoàn toàn tán thành con
đường cứu nước của các cụ.
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên tại Nam Đàn, Nghệ An trong một gia
đình có truyền thống yêu nước và tinh thần hiếu học. Từ nhỏ, Người đã được nuôi
dưỡng, giáo dục trong môi trường có gia phong, nề nếp và tình yêu thương của các
thành viên trong gia đình. Điều đó đã bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước, yêu
thương con người trong tâm hồn của Người. Trong quá trình trưởng thành, Người
chứng kiến những hành động tàn ác của quân xâm lược cũng như cuộc sống đau
thương, lầm than của nhân dân ta trước ách đô hộ của thực dân Pháp. Nguyễn Tất
Thành sớm có lòng yêu nước, thương dân và đã hình thành ý thức về trách nhiệm
của bản thân đối với vận mệnh của đất nước, tạo nên động lực mạnh mẽ để Người
quyết tâm đi ra nước ngoài tìm đường cứu dân, cứu nước. Người nói rằng: “Cả đời
tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của
nhân dân”, “bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là
làm cho ích quốc lợi dân” [1]. Động cơ khiến Người đi sang các nước phương Tây
tìm đường cứu nước là vì Người sớm nhận thức được rằng: “Nguồn gốc của những
đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại “chính quốc”, ở nước đế quốc thống trị
dân tộc mình” [2]; cho nên “Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi
xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi” [3].
Tinh thần yêu nước mạnh mẽ là động lực, đồng thời là điểm tựa tinh thần giúp
Người vượt qua mọi gian khổ, thử thách trong suốt hành trình tìm đường cứu nước ở
nước ngoài. Cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành qua nhiều nước tư bản, đế quốc,
nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc ở khắp các châu Á, châu Âu, châu Phi và châu
Mỹ đã giúp Người có cái nhìn chân thực về cuộc sống của những người lao động
nghèo khổ. Qua đó, đặt ra nhu cầu bức thiết là phải giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột. Người khẳng định rằng, sự nghiệp giải

33
phóng dân tộc mình chủ yếu phải do dân tộc mình quyết định, phải trông cậy vào lực
lượng của chính mình, chứ không phải chủ yếu dựa vào bên ngoài.
Sau này, khi được tiếp cận với bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các
vấn đề dân tộc và thuộc địa” (1920) của V.I.Lênin thì đã có sự tác động lớn tới
nhận thức và chuyển biến tư tưởng của Người. Người đã tìm ra con đường đúng
đắn duy nhất để cứu dân, cứu nước đó chính là con đường cách mạng vô sản, giành
độc lập dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Có thể thấy, sự kiện người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước vào năm 1911 là sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, khởi đầu cho một thời
kỳ mới trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển đất
nước ta. Chính chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc ta đã tạo nên động lực
mạnh mẽ đưa Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước và đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Chỉ khi kết hợp chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác -
Lênin, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội thì cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới thắng lợi, đem đến sự
thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh và
hạnh phúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
tr.240.
[2]. Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.14.
[3]. Hồ Chí Minh - biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1993, tr.46.

34
HỒ CHÍ MINH – NHỮNG BƯỚC CHÂN
KHÔNG MỎI TRÊN CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Nguyễn Thị Quyên, Trần Quỳnh Anh, Kiều Ngọc Hà,
Nguyễn Thị Hồng Khánh, Vũ Bảo Linh,
Nguyễn Nguyên Nhung, Lê Nguyễn Thị Hải Triều
K24CLC, Ngân hàng A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Đối với từng người con đất Việt, tượng đài vững chãi mang tên Hồ Chí Minh
là một sự tồn vô cùng vĩ đại và không gì thay thế được. Người như một ngôi sao,
một ngọn đuốc soi đường chỉ lối cho đất nước Việt Nam trong những thời kì nguy
nan, giúp cho nhân dân thấy được cơ hội, con đường đúng đắn để chuyển mình,
thoát khỏi những gông kiềng tàn khốc đã đày đọa và bóc lột họ. Để Việt Nam được
hạnh phúc, ấm no như ngày hôm nay, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta đã phải cống
hiến đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì cuộc sống của nhân dân. Người đã đi qua một thời oanh liệt, đầy gian khổ
hy sinh, đặc biệt mang ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng tới bước ngoặt của cách mạng
Việt Nam chính là quãng thời gian dài 19 năm người hoạt động gian khổ tại nước
ngoài, chuẩn bị và hình thành đường lối kháng chiến đúng đắn cho đất nước ta.
Đã 112 năm kể từ khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành mang trong mình
ý chí quyết tâm và tấm lòng yêu nước, thương dân sâu nặng ra đi thực hiện hoài
bão to lớn của mình là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của đế quốc, thực dân.
Nhưng những giá trị cốt lõi của cuộc hành trình gian khó đó để lại cho người dân
Việt Nam vẫn không thay đổi. Từ Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc,... rồi thành
Hồ Chí Minh, Người tranh thủ mọi thời cơ để học hỏi, nghiên cứu, kết hợp các học
thuyết cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa yêu nước, song song với đó,
người hòa mình vào thực tiễn và sớm nhận thức được xu thế phát triển tất yếu của
lịch sử và tính chất của thời đại mới mà Cách mạng Tháng Mười mở ra. Người xác
định con đường đúng đắn và phù hợp nhất cho cách mạng Việt Nam, đó là: “Chỉ
có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Suốt cả cuộc đời mình,
Người luôn một lòng vì nước, vì dân, đấu tranh không ngừng nghỉ vì sự nghiệp của
nước nhà - giải phóng dân tộc. Người và Đảng ta đã dẫn dắt Việt Nam từ một đất
nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc đang

35
trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội và hướng đến một đích đến xa hơn là cộng
sản chủ nghĩa.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách mang giá trị nhân văn sâu sắc của Người
không chỉ đã ăn sâu vào trái tim, khối óc của mỗi người Việt Nam mà còn lan tỏa,
trở thành nguồn động lực to lớn thúc đẩy cả nước hăng hái học tập, lao động, sản
xuất, phấn đấu tiến lên. Thế hệ trẻ hiện nay cũng vậy, đặc biệt là với sinh viên học
viện ngân hàng, tư tưởng Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng truyền cảm hứng tới
nhận thức và hành động của sinh viên. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh là yêu cầu, trách nhiệm, nhưng đồng thời cũng là tình cảm, là
nguyện vọng tha thiết của mỗi sinh viên cũng như mỗi cán bộ, đảng viên và người
dân Việt Nam, để xây dựng một đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh; dân tộc Việt Nam độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam
được ấm no, hạnh phúc; đưa nước Việt Nam từng bước tiến lên “sánh vai với các
cường quốc năm châu”.
NỘI DUNG
1. Động lực tinh thần và chí hướng cứu nước
Nguồn gốc khơi gợi lòng yêu nước của Nguyễn Tất Thành
Động lực tinh thần chủ yếu và xuyên suốt hành trình tìm đường cứu nước
của Hồ Chí Minh là một tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và sự khao khát giải
phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi cảnh bị áp bức bóc lột, với
mong muốn đưa con người hướng tới cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc. Nhìn lại cuộc
đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại, có thể thấy rằng cội nguồn tư tưởng, tình yêu
nước nồng nàn của Người được nảy sinh và bồi đắp ngay từ khi còn bé bởi nó bắt
nguồn từ nhân tố gia đình, từ sự ảnh hưởng mạnh mẽ của đấng sinh thành ra Người.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước tiến bộ trên mảnh đất giàu
truyền thống của người dân xứ Nghệ, cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy
đầu tiên dạy chữ, dạy làm người và giáo dục lòng yêu nước; còn ở mẹ, Người được
học, rèn và xây dựng nền tảng đạo đức nhân ái vị tha. Tất cả những nhân tố này đã
là chiếc nôi tốt, sớm nuôi dưỡng trong Nguyễn Tất Thành tình yêu nước, thương
dân với một thiên hướng đặc biệt.
Chứng kiến cảnh đất nước ta đắm chìm trong những đêm trường nô lệ, thực
dân Pháp câu kết với triều đình nhà Nguyễn đã áp bức bóc lột nhân dân ta đến tận
xương tủy, chịu cảnh “một cổ hai tròng”, những người lao động nghèo khổ đang
rên xiết dưới ách thống trị tàn ác của thực dân phong kiến, Người vô cùng thương

36
xót trước cảnh lầm than ấy. Điều này đã tác động giúp Người nâng cao nhận thức
hiểu biết về con người, xã hội và vận mệnh đất nước.
Đứng trước cảnh nước mất nhà tan như vậy, nhiều phong trào yêu nước đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc đã bùng nổ khắp nơi với nhiều phương pháp và xu
hướng khác nhau. Tiêu biểu có thể kể tới khởi nghĩa Yên Thế, phong trào Cần
Vương, phong trào Đông Du theo xu hướng bạo động, cuộc vận động Duy Tân theo
xu hướng cải cách,... Tuy nhiên, các xu hướng cứu nước ấy đều thất bại và bị đàn
áp. Cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng mất phương hướng về đường lối cứu
nước, đòi hỏi tất yếu phải có một phương hướng cứu nước mới. Như vậy, hiện thực
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đã tác động trực tiếp đến tư tưởng cứu nước và chí
hướng cách mạng của Nguyễn Tất Thành.
Người tiếp xúc với các văn thân sĩ phu ở khắp Trung Kỳ, đến những nơi có
phong trào đấu tranh chống Pháp sôi nổi và anh dũng, kết giao với người có chí cứu
nước, luôn day dứt trước tình hình đất nước và số phận dân tộc. Mặc dù vô cùng
ngưỡng mộ và khâm phục tinh thần yêu nước của các vị tiền bối, nhưng Người vẫn
nhận thấy những mặt hạn chế của phong trào so với tình hình thế giới lúc bấy giờ.
Nếu Phan Bội Châu muốn dựa vào Nhật để đánh Pháp thì khác nào “đuổi hùm cửa
trước, rước sói cửa sau”; nếu Phan Châu Trinh muốn cải cách văn hóa mở mang
dân trí làm cho nước giàu mạnh, buộc Pháp trả độc lập thì “chẳng khác gì xin giặc
rủ lòng thương”. Những đánh giá đó là kết quả của một quá trình trăn trở, suy nghĩ,
tìm hiểu, đối chiếu của một tư duy độc lập, nhạy cảm với thời cuộc. Từ đó, Người
định hình cho mình con đường đi riêng, hình thành tư tưởng cứu dân cứu nước với
một chí hướng rất rõ ràng: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra
tôi, lúc này tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi sự thống trị của Pháp.
Người này nghĩ là Anh, người kia lại nghĩ là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài
xem cho rõ. Sau khi xem họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Quyết
tâm tìm ra con đường giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng mới của
Nguyễn Tất Thành không phải là ngẫu nhiên hay may rủi mà nó dựa trên cơ sở
vững chắc về vấn đề cấp bách của đất nước và vượt qua tầm nhìn hạn chế của các
nhà yêu nước cùng thời. Người luôn có một nỗi khát khao tột bậc, làm sao cho
nước nhà được độc lập, nhân dân được sống tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, cũng được học hành. Nỗi khát khao đó chính là động lực tinh thần thôi thúc
Người quyết chí ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc thoát khỏi ách nô lệ, áp bức
bóc lột.

37
Chí hướng cứu nước trong những năm đầu ra nước ngoài
Với lòng yêu nước và quyết tâm của một người dân mất nước, với ý chí và
nhiệt huyết của tuổi xuân, ôm ấp một hoài bão lớn lao đó là tìm hiểu nền văn minh
của thế giới, ra sức học hỏi để về giúp nước, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời
bến cảng nhà Rồng để ra đi tìm đường cứu nước. Như vậy, một giai đoạn mới, một
bước ngoặt mới mở ra trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành. Người lấy tên là Văn Ba
xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Tréville đi đến Pháp. Hành trang mà
Người mang theo là hai bàn tay trắng nhưng với lòng yêu nước nhiệt thành và
quyết tâm “làm bất cứ việc gì để sống và để đi” nhằm thực hiện hoài bão tìm ra
con đường cứu nước, cứu dân. Cuộc hành trình đầy vất vả, công việc trên tàu cũng
không nhàn hạ, dậy sớm thức khuya, phải làm đủ mọi thứ từ quét dọn trên boong,
đến phục vụ hành khách, phụ bếp nhưng đối với anh Ba, những điều đó đã tạo sức
mạnh ý chí nghị lực giúp anh quyết tâm tìm ra con đường cứu nước chỉ với hai bàn
tay trắng. Những lúc rảnh rỗi, vào giờ tan ca buổi tối, anh thường dành thời gian để
đọc sách. Qua cuộc hành trình đến nhiều nước thuộc địa, tư bản, đế quốc, Người lại
có điều kiện tìm hiểu về cuộc sống, đất nước và con người nơi đây. Đặc biệt, những
ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo
như Việt Nam, anh nhận thấy có những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn
những tên thực dân Pháp ở Đông Dương. Người nhận thấy ở đâu nhân dân cũng
mong muốn thoát khỏi áp bức bóc lột. Từ đó hiểu và xúc động trước cảnh bị áp bức
và khổ cực của số phận người dân lao động. Không chỉ đau với nỗi đau của dân tộc
mình, Người còn xót xa trước nỗi đau của các nước dân tộc khác. Từ lòng yêu
thương đồng bào mình, Người càng đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên
thế giới. Theo hành trình của con tàu, anh Ba lại trở về Sài Gòn. Nhưng anh đã
không dừng lại, cũng không trở về mà tiếp tục cuộc hành trình tiếp theo.
Có thể thấy rằng, tinh thần yêu nước mãnh liệt, thương dân sâu sắc thông qua
nhận thức đầy đủ hiện thực xã hội, vận mệnh lịch sử đặt ra đối với dân tộc Việt
Nam và những nhân tố mới của thời đại, tất cả đã tác động và thôi thúc Người
quyết tâm giành độc lập dân tộc.
Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê trên một
chiếc tàu của hãng Chargeurs Réunis đi khắp châu Phi và đã có dịp dừng lại ở các
bến cảng của một số quốc gia như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi,
Congo, Dahomey, Senegal, Réunion... Đến đâu anh cũng thấy cảnh cực khổ của
người lao động dưới sự áp bức bóc lột bất công và tàn bạo của bọn cai trị. Cảnh

38
tượng ấy làm cho Nguyễn Tất Thành vô cùng thương xót. Anh liên tưởng ngay đến
số phận của người dân Việt Nam, đồng bào ruột thịt của mình. Họ cũng là nạn nhân
của hành động tàn ác, dã man của bọn chúng. Những sự việc như thế diễn ra khắp
nơi trên đất nước anh đi qua, gợi lên ở anh sự cảm thông sâu sắc với số phận khó
khăn của người dân những nước ấy.
Nguyễn Tất Thành theo tàu tiếp tục đi qua Martinique (Trung Mỹ), Uruguay
và Argentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở Hoa Kỳ vào cuối năm 1912. Tại đây, Người
có dịp tìm hiểu về cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên
ngôn độc lập lừng lẫy trong lịch sử. Anh làm công ăn lương để kiếm sống trong khi
tìm hiểu về cuộc sống lao động Mỹ. Anh đến thăm khu phố Brooklyn ở New York
và bắt tàu điện ngầm đến khu phố Harlem để tìm hiểu về cuộc sống và cuộc chiến
chống phân biệt chủng tộc của người da đen.
Tuy không ở lâu trên đất Mỹ nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm nhìn rõ bộ mặt
thật của đế quốc Mỹ. Đằng sau khẩu hiệu “dân chủ cộng hòa” của giai cấp tư sản,
Mỹ che giấu những hành vi tàn bạo nhất của nhân dân lao động. Anh thông cảm sâu
sắc với cuộc sống của những người lao động da đen và căm phẫn với những kẻ phân
biệt chủng tộc đã hành quyết dã man người da đen, về điều mà sau này anh ấy đã viết
trong một bài báo, “Những cuộc hành quyết của Lincoln”. Khoảng đầu năm 1913,
Nguyễn Tất Thành theo tàu biển từ Mỹ trở lại Le Havre rồi quay trở lại Anh. Khi đến
Anh để kiếm sống, anh ấy làm công việc dọn tuyết ở trường học và sau đó là thợ đốt
lò và không bao giờ quên đi việc học: “Công việc của tôi rất khắt khe, nhưng tôi
dành thời gian còn lại trong ngày để học tiếng Anh”.
Cuối năm 1913, sau hai tuần bị cảm không đi làm được, Nguyễn Tất Thành
bắt đầu làm nhân viên tại khách sạn Drayton Kok. Trong khoảng thời gian đó,
Nguyễn Tất Thành hăng hái tham gia các buổi diễn thuyết ngoài trời của nhiều
chính trị gia và triết gia, tham gia Hội Công nhân hải ngoại và ủng hộ cuộc đấu
tranh yêu nước của nhân dân Ireland. Giữa lúc Chiến tranh thế giới thứ nhất đang
diễn ra ác liệt, tình hình Đông Dương có nhiều biến động, đến cuối năm 1917,
Nguyễn Tất Thành từ Anh trở về Pháp để có điều kiện hoạt động trực tiếp trong
phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. Khi đến Paris, không có giấy
tờ hợp pháp, Nguyễn Tất Thành đã được các đồng chí trong Ban tiếp nhận công
nhân lưu cư của Đảng Xã hội Pháp giúp đỡ. Trong thời gian chờ đồng bọn tìm giấy
tờ thô, Người phải ở ẩn, hạn chế đi lại để tránh sự kiểm tra của công an. Người
thường xuyên gặp gỡ những người Việt Nam ở Pháp, có tư tưởng, khuynh hướng

39
tiến bộ như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Nguyễn Ái Quốc từng bước tham
gia cuộc đấu tranh của công nhân và phong trào lao động Pháp.
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương của Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa. Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội của
Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Sau khi
trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động mưu sinh, hoạt động
trong phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phong trào công nhân, học tập,
nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc
cách mạng trên thế giới. Hơn hết, khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công,
Người nhận thức rằng “chỉ có Cách mạng Nga thành công” vì nó mang lại lợi ích
cho đông đảo công nhân và nông dân. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công
của Cách mạng Tháng Mười Nga là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Bôn-sê-vích
do Lênin đứng đầu.
2. Tìm ra con đường cứu nước
Bản Yêu sách gửi tới hội nghị Véc-xai
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) là minh chứng lịch sử cho tiên
đoán của Mác, Ăngghen, Lênin về sự phơi bày bản chất áp bức bất công trên phạm
vi thế giới, về mâu thuẫn nội bộ giữa bầy sói thực dân đế quốc gây chiến tranh
giành thị trường, đẩy người dân vô tội vào thảm họa chiến tranh, làm bia đỡ đạn
cho chủ nghĩa tư bản. Hội nghị Véc – xai là cuộc hoan hỉ của những nước thắng
trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất; bản chất chính trị, xã hội của nó là sự thỏa
thuận chia chác lợi ích cho các nước thắng trận (nòng cốt là Mỹ - Anh - Pháp).
Tuy nhiên, vào thời điểm năm 1919, nhân loại chưa kịp nhận diện nguyên
hình bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chủ nghĩa tư bản mới thì người ta vẫn le lói hy
vọng vào một trật tự thế giới mới có sinh khí dân chủ. Xứ An Nam, Đông Dương,
cũng như nhiều nước châu Phi đang là thuộc địa của Pháp cũng mong mỏi có được
sự cải thiện, nới lỏng sợi dây bóp nghẹt quyền tự do, dân chủ. Rõ ràng, xét về bối
cảnh lịch sử thì đây là cơ hội mới.
Với tư cách là người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành tự lãnh trách
nhiệm chính trị, thỉnh nguyện tới lãnh đạo của các cường quốc thế giới, mong cởi
nút thắt nền thống trị hà khắc đối với xứ An Nam và Đông Dương. Bản “Yêu sách
của nhân dân An Nam” do nhóm người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại
Pháp cùng hội tụ trí tuệ, tâm huyết, được đứng tên bởi Nguyễn Ái Quốc đã được

40
gửi tới Hội nghị Véc – xai. Tuy không được đưa vào chương trình nghị sự, nhưng
nhờ được đăng trên báo và gửi các đại biểu dưới hình thức “bên lề” hội nghị, nên
những tư tưởng dân chủ, nhân quyền, pháp lý, tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa, xã
hội, kinh tế… mà Nguyễn Ái Quốc đòi cho người An Nam được lan truyền rộng rãi
tại Pháp và thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa.
Từ đó, Người nhận thấy rằng các nước chỉ có thể giành được độc lập bằng
chính sức mình chứ không phụ thuộc vào các nước khác: Công cuộc giải phóng
phải là công cuộc “tự giải phóng” chứ không thể trông chờ vào thiện chí hay sự bố
thí, rộng lượng của những kẻ cướp nước. Vì thế, lên án chủ nghĩa thực dân bao
nhiêu thì Người cũng quyết liệt bấy nhiêu trong việc kêu gọi nhân dân các dân tộc
bị áp bức tiến hành cuộc đấu tranh tự giải phóng: “Vận dụng công thức của Các
Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Đây chính là bước ngoặt
quan trọng trong quan niệm của Bác về chiến đấu cho độc lập dân tộc.
Đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa
- tìm ra con đường cứu nước
Sau đó 1 năm (vào ngày 16 và 17-7-1920) Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận và
phát hiện chân lý thời đại trong Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (đăng trong 2 số liền nhau trên Báo “Nhân
đạo” của Pháp). Sau khi đọc luận cương Người đã phải thốt lên rằng: “Luận cương
của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang
nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ. Đây là cái
cần thiết với chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn
tin theo Lênin, tin theo quốc tế III” (Quốc tế III: thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của
Mác, tổng kết bước tiến trong một thế kỷ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào
công nhân, tạo nên một khái niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản).
Người đón nhận những tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin với niềm phấn
khởi và tin tưởng của một người chiến sĩ cách mạng sau nhiều năm nghiên cứu lý
luận, khảo sát thực tiễn. Tác phẩm đã giúp Nguyễn Ái Quốc tìm thấy lời giải đáp
cho những câu hỏi lớn về vận mệnh dân tộc, soi sáng con đường giải phóng dân
tộc: Con đường cách mạng vô sản.
3. Hình thành phương hướng, đường lối cơ bản giải phóng dân tộc
Sau khi phát hiện ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã
ngay lập tức thực hiện những hành động thiết thực, áp dụng những tinh hoa và chân

41
lý mà bản thân lĩnh hội được để sẵn sàng cho bước ngoặt quan trọng trong hành
trình giải cứu nước và mở ra một tương lai tươi sáng dân tộc Việt Nam, cho nhân
dân Việt Nam. Và từ đây, một thời kỳ lịch sử hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái
Quốc trên các lĩnh vực bắt đầu.
Từ những kinh nghiệm và sự nhìn nhận sắc bén về tình hình Việt Nam và thế
giới, Nguyễn Ái Quốc đã nhận ra rằng giải phóng dân tộc không thể đạt được mà
không có sự kết nối và hợp tác với phong trào cộng sản quốc tế. Vào tháng 12 năm
1920, lần đầu tiên có một người Việt Nam tham gia một đại hội đại biểu của một
chính đảng Pháp, Nguyễn Ái Quốc là đại biểu Đông Dương, và là người bản xứ
duy nhất trong số đại biểu các thuộc địa tham gia đại hội toàn quốc lần thứ XVIII
của Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua (Tours). Tại phiên họp của đại hội,
sau lời mời của Chủ tịch Đại hội Gút Đơ (Goude), Nguyễn Ái Quốc với tư cách là
đại biểu Đông Dương đã phát biểu ý kiến, người lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì
lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông Dương và trong suốt nửa thế kỷ
qua, nhân dân Đông Dương không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã
mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái
Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương, và
cho rằng “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những
người bản xứ bị áp bức”, rằng “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất
cả các nước thuộc địa... đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa...”.
Nguyễn Ái Quốc đã kết thúc bài phát biểu được Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh
bằng lời kêu gọi thống thiết: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các
đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu
chúng tôi!”. Và khi được hỏi về lý do bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III,
người không ngần ngại đáp lời rằng: “Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng
thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Cũng từ giây phút người cùng những người chủ trương gia nhập Quốc tế III
tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản, đã đánh dấu bước chuyển
biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong tư tưởng và lập trường chính trị
của Nguyễn Ái Quốc từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một chiến sĩ cộng
sản. Việc gia nhập Quốc tế Cộng sản đã mang lại cho Nguyễn Ái Quốc cơ hội tiếp
cận với những ý tưởng tiến bộ và cách mạng từ các nhà lãnh đạo cộng sản hàng đầu
thời đó. Nhờ sự ảnh hưởng đó giúp người định hình được một hướng đi chính xác

42
cho cuộc đấu tranh, từ việc xây dựng đảng chính trị mạnh mẽ đến việc tạo dựng
liên minh quốc tế để hỗ trợ cho việc giải phóng dân tộc. Và từ đây, một thời kỳ lịch
sử hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc trên các lĩnh vực bắt đầu.
Dưới ánh sáng Nghị quyết của Quốc tế cộng sản và Đề cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lênin, được sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, với kinh
nghiệm bản thân, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng các nhà yêu nước của các nước
thuộc địa của Pháp thành lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pari, thủ đô nước Pháp
ngày 9/10/1921. Với mục đích của Hội là giải phóng những dân tộc thuộc địa với
tuyên ngôn kêu gọi: “Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp tư sản nước
các bạn đã đánh lừa các bạn, đem các bạn dùng làm công cụ đi xâm lược đất nước
chúng tôi. Ngày nay vẫn dùng chính sách xảo quyệt ấy, giai cấp tư sản nước các
bạn lại định dùng chúng tôi để đàn áp mọi cố gắng tự giải phóng của các bạn”.
Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, lợi ích của chúng ta thống nhất;
các bạn hãy nhớ lời hiệu triệu của Các Mác: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.
Sự thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa là một sự kiện lịch sử đáng kể đối với các
dân tộc bị áp bức. Đây là một sáng kiến quan trọng đóng góp vào việc thực hiện
khẩu hiệu chiến lược của Lênin trong thời đại cách mạng vô sản. Hội Liên hiệp
Thuộc địa đã góp phần quan trọng trong quá trình hình thành phong trào giải phóng
ở khu vực Đông Dương và mở ra những cơ hội mới để tăng cường sự đoàn kết và
sự phát triển của các nước thuộc địa chống lại sự thống trị của Pháp, xây dựng sự
đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân các nước thuộc địa trong một mặt trận chung
chống lại chủ nghĩa đế quốc; đánh thức ý thức của nhân dân thuộc địa và đào tạo
cán bộ cho phong trào giải phóng dân tộc trong các thuộc địa Pháp. Từ đó, chúng ta
cũng thấy được sự nhạy bén và khả năng lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc
xây dựng liên kết và đấu tranh cho giải phóng dân tộc như Lêô Phighe và Sáclơ,
trong Hồ Chí Minh, đồng chí của chúng ta, Nhà xuất bản Xã hội, Pari, 1957, tiếng
Pháp trang 57 viết: “Từ Pari, Nguyễn Ái Quốc đã gieo hạt giống cách mạng đến
bốn phương thế giới. Đồng thời, Người chăm lo bảo vệ sự nghiệp của tất cả các dân
tộc thuộc địa”.
Vào ngày 1/4/1922, với tôn chỉ: “Báo Le Paria là vũ khí chiến đấu với sứ
mệnh rõ ràng: Giải phóng con người” Báo Le Paria-Người cùng khổ, cơ quan ngôn
luận của Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, đã xuất bản số đầu tiên. Bất chấp sự
ngăn cấm của nhà cầm quyền Pháp, nhưng mỗi số, Le Paria in hàng nghìn bản cho
thấy vai trò và sự cần thiết của báo trong việc xây đắp tình đoàn kết, hữu nghị, sự

43
hiểu biết, đồng cảm giữa những người vô sản bản xứ trong cuộc đấu tranh chống
xâm lược cai trị. Báo Người cùng khổ vẫn luôn là tờ báo có sức sống để thực hiện
mục đích, tôn chỉ của mình. Sáng lập và làm báo “Người cùng khổ”, Nguyễn Ái
Quốc đã cùng các đồng chí của mình tạo ra “một luồng gió mới thổi đến nhân dân
các nước bị áp bức”.
Ðặc biệt, nhiều thông tin ở các bài viết của Nguyễn Ái Quốc trên báo Le
Paria là cơ sở để Người hoàn thành tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất
bản tại Pháp năm 1926. Số 38 ra tháng 4/1926, ở trang nhất, báo Le Paria đưa tin:
vừa xuất bản “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc…Nguyễn Ái
Quốc thông qua tác phẩm này đã lên án chế độ thực dân và chỉ trích những hành
động tàn ác và dã tâm của đế quốc Pháp. Trước khi nổ ra chiến tranh, trong mắt
bọn thực dân Pháp, người dân bản xứ chỉ được coi là những tên da đen, những
người bẩn thỉu An-nam-mít, chỉ biết kéo xe và chịu đòn của người cai trị. Tuy
nhiên, sau khi cuộc chiến tranh bùng nổ, họ trở thành những "đứa con cưng" và
"bạn hiền" của các quan cai trị, được phong danh hiệu cao quý như "chiến sĩ bảo vệ
công lý và tự do". Tuy nhiên, sự vinh dự này đánh đổi bằng "thuế máu" mà nhân
dân phải trả. "Bản án chế độ thực dân Pháp", Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo chế độ
"lính tình nguyện" và bộ mặt độc ác của đế quốc Pháp. Tác phẩm nhằm tố cáo
những tội ác của chế độ thực dân, vạch trần sự bạo lực, bất công và áp bức mà
người dân Việt Nam phải chịu đựng dưới sự thống trị của Pháp. Qua đó, lòng căm
thù và tinh thần đấu tranh của người dân thuộc địa được khơi gợi và lan tỏa khắp
nơi. Đồng thời, nó cũng thức tỉnh tinh thần chính nghĩa của những người yêu hòa
bình trên thế giới, khuyến khích họ ủng hộ và tham gia vào cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chính là “linh hồn” của báo Le Paria-Người cùng
khổ và tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp". Những bức biếm họa được
Nguyễn Ái Quốc thể hiện giản dị song hàm chứa nội dung mạch lạc và sự đả kích,
hài hước sâu xa, tạo hiệu ứng tích cực. Le Paria có nét riêng biệt, độc đáo, được bạn
đọc khắp bốn phương ủng hộ một phần bởi có lối viết và những nội dung mà nhà
cách mạng-nhà báo Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện. Lối viết tinh tế, hóm hỉnh thấm
đượm tinh thần nhân đạo cộng sản, gắn chặt với truyền thống nhân văn Việt Nam
được biểu đạt trong việc sử dụng ngôn ngữ báo chí Pháp một cách nhuần nhuyễn đã
tác động sâu xa vào tâm trí bạn đọc, thôi thúc sự quyết tâm, tinh thần kiên định và
sự tôi rèn ý chí, góp phần thức tỉnh, đoàn kết nhân dân các thuộc địa cùng nhau

44
đứng lên phá tan xiềng xích nô lệ… Ðặt những bài viết của Nguyễn Ái Quốc trên
Le Paria vào những năm 20 của thế kỷ trước, chúng ta cảm nhận thêm những điều
sâu xa mà Người đã suy nghĩ thấu đáo và thể hiện dung dị những vấn đề chiến lược
cách mạng ở các nước thuộc địa, góp phần đẩy mạnh phong trào cách mạng của
giai cấp vô sản các dân tộc thuộc địa.
Tờ báo "Người cùng khổ" và tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" đã phơi
bày bộ mặt thật của thực dân Pháp, từ những hành động tàn ác đối với người dân bản
xứ cho đến những chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc và dối trá của họ. Những tác
phẩm này đã làm rõ tình trạng thực sự của thế giới trong thời điểm đó và khơi gợi
lòng căm thù đối với kẻ thù, đồng thời thức tỉnh tinh thần đấu tranh của nhân dân
thuộc địa. Thông qua việc phát hành tờ báo và xuất bản tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc
đã lan tỏa thông điệp của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và chủ nghĩa Mác-Lênin
đến mọi ngóc ngách của các thuộc địa Pháp, đóng vai trò quan trọng trong việc đào
tạo cán bộ cho phong trào giải phóng dân tộc và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin đến
những người yêu hòa bình và công lý trên toàn thế giới, thúc đẩy sự chống chủ nghĩa
đế quốc và giải phóng dân tộc trên khắp thế giới, mang lại hy vọng và khát vọng tự
do, công bằng và chính nghĩa cho những người bị áp bức.
Sau khi rời Paris vào ngày 13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc đã đến Liên Xô, quê
hương của Cách mạng Tháng Mười Nga, để bắt đầu một giai đoạn học tập, hoạt
động và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác-Lênin và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trên đất
nước của Lênin vĩ đại, người đã tiếp thu kiến thức ngày càng có hệ thống và hoàn
thiện dần.
Quá trình tiếp thu của Nguyễn Ái Quốc đã làm cho người cảm nhận thức
được sức mạnh của nhân dân lao động, mối quan hệ giữa các dân tộc bị áp bức và
bị bóc lột, cũng như quan hệ giữa các cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa và các
nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc. Từ đó, giúp Người hiểu về
vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quan trọng của giai cấp công nhân, để phát
triển và sáng tạo những luận điểm bổ sung cho nhận thức về chính quyền Cách
mạng, đưa ra quan điểm mới trong quá trình này.
Việc học tập và hoạt động tại Liên Xô đã đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành tư tưởng Cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, là nền tảng quan trọng cho
cuộc Cách mạng ở Việt Nam và người đã tiếp tục phát triển, hoàn thiện và áp dụng
những nguyên tắc Cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

45
Vào khoảng tháng 9, Nguyễn Ái Quốc từ Matxcova ngày ấy còn thuộc Liên
Xô đã tới Quảng Châu, Trung Quốc vào ngày 11/11/1924. Trong thời gian ở Trung
Quốc, Người đã thay đổi rất nhiều tên để hoạt động như Vương, Lý Thụy. Đầu tiên,
Người đã tìm cách bắt mối liên lạc với các tổ chức cách mạng như: Tâm Tâm Xã,
Việt Nam Quốc Dân Đảng... sau đó Người chọn số thanh niên yêu nước trong các
tổ chức cách mạng nói trên và một số thanh niên khác ở trong nước, mở trường
huấn luyện chính trị nhằm đào tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng để đưa họ
về nước hoạt động trong phong trào công nhân. Nguyễn Ái Quốc có những học
viên tiêu biểu như: Lê Hồng Phong, Ngô Gia Tự, Trần Phú. Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong thời gian này đã xác định rõ và chuẩn bị về đường lối chính trị, tư tưởng.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội (Hội cách mạng thanh niên Việt Nam). Hội có những hoạt động
tiêu biểu như: Sau khi Hội được thành lập, Người đã lựa chọn một số cán bộ gửi
sang Mátxcơva học tập lý luận ở trường Đại học Phương Đông và số khác vào học
trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc). Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quảng
Châu mở trường huấn luyện chính trị có ý nghĩa rất to lớn đối với việc chuẩn bị
thành lập Đảng của công dân Việt Nam. Người đã đào tạo thành công cho cách
mạng Việt Nam những lớp cán bộ đầu tiên đi theo đường lối của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Thêm vào đó, ở trong nước, Người đã tiến hành lập chi bộ các cấp ở trong
nước và tất cả các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các học viên sau đã được tập
hợp thành tập sách “Đường kách mệnh”.
Ngày 21 tháng 6 nǎm 1925, báo "Thanh niên" ra đời. Đây là tờ báo cách
mạng làm nhiệm vụ tuyên truyền giới thiệu về chủ nghĩa Lênin và cách mạng
Tháng Mười Nga; giải thích đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam. Báo là người tuyên truyền tập thể, người cổ động và tổ chức tập thể, góp
phần quan trọng vào việc xúc tiến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 5 nǎm 1927, Nguyễn Ái Quốc, rời Quảng Châu, đi Mátxcơva, sau đó
đi Béc lin, tham dự Hội nghị Ban chấp hành mở rộng của Liên đoàn chống chiến
tranh đế quốc tại Brúc xen (Bỉ), đi Italia và trở về Xiêm (Thái Lan).
Cuối mùa thu năm 1929, đang hoạt động ở Thái Lan được nghe báo cáo về
tình hình mâu thuẫn giữa các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, được sự uỷ nhiệm của
Quốc tế cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở lại Hồng Kông triệu tập Hội nghị đại
biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất tổ chức, thành lập đảng cộng sản Việt Nam.

46
Dưới sự chủ toạ của Người, Hội nghị đã họp từ ngày mồng 3 đến ngày mồng
7 tháng 2 năm 1930 trong căn phòng hẹp của một người công nhân ở Cửu Long
(gần Hồng Kông). Sau 5 ngày làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, Hội
nghị này đã hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản trong nước gồm (Đông Dương
Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành
một đảng duy nhất, lấy tên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các
văn kiện: Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt của Đảng và lời
kêu gọi do Hồ Chủ tịch soạn thảo.
Nhân dịp thành lập Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Quốc tế cộng sản
và Đảng cộng sản Việt Nam đã ra lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính,
thanh niên, học sinh và đồng bào bị áp bức: “Đảng cộng sản Việt Nam đã được
thành lập. Đó là Đảng của giai cấp công nhân. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh
đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp
bức, bóc lột của chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta phải gia nhập Đảng, ủng hộ
Đảng và đi theo Đảng”.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất diễn
ra ở Hồng Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi
sang Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế
Cộng Sản) và tại cuộc hội nghị này đồng chí Trần Phú cũng được bầu làm Tổng
Bí thư đầu tiên.
Hội nghị thành lập Đảng chính là bước ngoặt vô cùng lớn trong lịch sử Việt
Nam ta. Điều này chứng tỏ rằng giai cấp vô sản của nước ta đã đủ sức để lãnh đạo
cách mạng. Sự ra đời của Đảng là một tất yếu lịch sử do điều kiện trong nước và
thế giới lúc ấy quyết định. Đồng thời đó là kết quả rực rỡ của một quá trình hoạt
động sôi nổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã phấn đấu kiên cường trong
phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, kiên trì học tập,
tìm tòi nghiên cứu và rèn luyện. Đó là một kết quả to lớn của gần 10 năm chuẩn bị
rất công phu và đầy đủ của Người về các mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu về hành trình chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước, sinh viên càng hiểu biết rõ hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, về tầm
quan trọng mà cuộc hành trình dài 30 năm lịch sử đã đem lại cho đất nước Việt
Nam. Những ý chí, tầm nhìn mới và sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc
đúng đắn của Người không chỉ đem lại những giá trị về mặt tư tưởng, nhân cách,

47
đạo đức mà còn là những bài học sâu sắc để lại cho thế hệ sau về sự chủ động,
quyết đoán, sáng tạo, bản lĩnh, nghị lực của Người.
Dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh, dân tộc Việt
Nam đã bước vào thời đại mới, thời đại mới, có diện mạo mới, đổi thay, hội nhập,
từng bước phát triển, bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu. Điều đó chứng tỏ ý nghĩa văn hóa to lớn, sâu sắc của sự kiện tìm đường cứu
nước, tư tưởng Hồ Chí Minh còn mãi trường tồn với thời gian. Cũng chứng minh
rằng di sản Người để lại là vô giá.
Để giữ gìn và phát huy những giá trị quý báu đó, sinh viên phải nhận thức
đầy đủ sâu sắc, nhạy bén khối lượng tri thức đồ sộ và bài học mà các thế hệ đi trước
để lại. Đây cũng là cơ sở để khẳng định tính chân thực, tính cách mạng và tính khoa
học của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với quê hương, đất nước và con người Việt
Nam. Thế hệ trẻ, nhất là sinh viên Học viện Ngân hàng cần góp phần nâng cao hiệu
quả nghiên cứu, ứng dụng, phát huy sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và các giá trị
vô giá gây dựng nên đất nước Việt Nam trong tình hình mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng (2021), Hành trình đi tìm đường
cứu nước
[2]. Cổng thông tin điện tử Đảng bộ (2021), Bác Hồ ra đi tìm đường cứu
nước và bước ngoặt của cách mạng Việt Nam
[3]. Lý luận chính trị và truyền thông (2022), Ý nghĩa lịch sử và thời đại
hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh
[4]. Ban quản lý lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (2016), “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin và ảnh
hưởng của nó đối với sự hình thành tư tưởng Nguyễn Ái Quốc về con đường cách
mạng Việt Nam
[5]. Hội đồng lý luận trung ương (2022), Báo Người cùng khổ và dấu ấn
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

48
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ XÁC LẬP CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH
Hoàng Thị Thoa, Trịnh Thị Thu
Nguyễn Thị Lan Anh, Vũ Thị Thương
Nguyễn Thị Thanh Xuân, Phạm Lê Vân
Nguyễn Hoàng Trâm Anh, Nguyễn Minh Ngọc
K24CLC, Kế toán A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu nước, bất cứ người con đất Việt
yêu nước nào cũng đều có thể sẵn sàng hi sinh tất cả cho độc lập, tự do của đất
nước. Trong lịch sử, từ khi buổi đầu tiên các Vua Hùng dựng nước cho đến hàng
nghìn năm sau nhân dân Việt Nam giữ nước, ông cha ta đã nhiều lần phải đối đầu
với giặc xâm lăng hùng mạnh, do vậy, từ thực tế chiến đấu chống giặc ngoại xâm tổ
tiên ta đã đúc rút ra được nhiều kinh nghiệm và bài học quý giá để bảo vệ Tổ quốc.
Vào những năm tháng còn non trẻ với lòng tin mãnh liệt là đòi độc lập tự cứu
mình, Hồ Chí Minh đã mang trong mình hành trang truyền thống là lòng dũng cảm, sự
kiên cường và trí tuệ thông thái của dân tộc khi lên đường đi tìm đường cứu nước.
Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tìm tòi, học hỏi những tư tưởng của một số
nhà yêu nước vĩ đại khác trên thế giới, từ đó đưa lên tầm cao mới của thời đại và lồng
vào đó là tinh thần giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
NỘI DUNG
1. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh và truyền thống quê hương
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/05/1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên
(nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mất ngày 2/9/1969. Tên khai
sinh của Bác là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đổi tên thành Nguyễn Tất Thành, trong
nhiều năm hoạt động cách mạng Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc.
Ông ngoại Bác, Cụ Hoàng Xuân Đường – một thầy giáo đức độ và giàu lòng
nhân ái. Người đã cưu mang giúp đỡ, nuôi dưỡng và dạy dỗ thân sinh Bác (Nguyễn Sinh
Sắc). Sau này mến đức, cảm tài của học trò nghèo, vượt qua lễ giáo phong kiến ngày xưa
là “môn đăng hộ đối”, cụ đã gả con gái Hoàng Thị Loan cho Nguyễn Sinh Sắc. Dẫu chỉ
được sống cùng với ông ngoại 3 năm, nhưng trong những năm tháng đầu đời quan trọng
ấy, qua những câu chuyện giản dị mà ông ngoại đã đọc cho Bác nghe, tuy chưa hiểu hết
một cách trọn vẹn, song cũng đã có tác động rất lớn đối với việc hình thành nhân cách của
cậu bé.

49
Bà Hoàng Thị Loan mẹ của Bác sinh trong một gia đình nho học, ít nhiều được
học chữ thánh hiền, lớn lên ở một vùng quê giàu truyền thống yêu nước và những làn
điệu dân ca trữ tình, bà đã sớm có sự phong phú về vốn sống, vốn văn học dân gian.
Bà đã giáo dục các con ngay từ thửa nằm nôi qua những lời ru bằng làn điệu dân ca ví
dặm xứ Nghệ… Qua đó đã nhen nhóm tình yêu quê hương đất nước đối với Nguyễn
Sinh Cung.
Thân sinh của Bác, ông Nguyễn Sinh không chỉ là nhà Nho uyên bác mà còn
là vị quan thanh liêm, chính trực. Với nhân cách cao thượng, cụ sống giản dị, thanh
bạch, yêu nước, thương dân, căm ghét bọn thực dân tay sai. Dù là sống ở quê nhà
hay là ở kinh đô Huế, cụ luôn dạy con với phương châm: “Vật dĩ quan gia, vi ngô
phong dạng” (Đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình). Vì vậy
khi đậu Phó bảng về Làng Sen sinh sống hay những năm tháng làm quan ở Huế,
ông vẫn luôn giữ nếp sống dân giã, đạm bạc. Có thể thấy rằng cụ Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc là một nhân cách lớn.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở một vùng quê giàu truyền thống văn hiến
và cách mạng. Vùng quê ấy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước,
thường xuyên đương đầu với muôn vàn thử thách, tàn phá do giặc giã, thiên tai. Tuổi thơ
của Người trải qua tại nơi có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Không những thế, Nghệ
Tĩnh còn là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử như Mai Thúc Loan,
Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội
Châu....Như vậy, cái nôi quê hương giàu truyền thống bất khuất với những bản sắc
riêng của xứ Nghệ đã tạo cho Nguyễn Tất Thành có lòng yêu nước thương dân, chí
căm thù giặc, kích thích cao độ ý chí của Tất Thành, giúp cậu có thêm nhận thức
mới, tình cảm mới, nghị lực mới, tầm nhìn mới.
2. Quá trình hình thành tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
- Năm 1911: Ra đi tìm đường cứu nước
Tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết tâm
rời khỏi quê hương để ra đi tìm đường cứu nước. Với lòng yêu nước nồng cháy, ý
chí quyết tâm và khát vọng dân tộc là hành trang của Người. Người mang theo
mình một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi,
đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Có thể thấy đây là con đường mới mẻ, khác với hướng đi truyền thống của
các bậc sĩ phu yêu nước bấy giờ bởi, Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài không phải
để “cầu viện” mà Người muốn đi nhiều nước để tìm hiểu sự thật của thế giới. Theo

50
hành trình của tàu, ngày 6 tháng 7 năm 1911, Nguyễn Tất Thành đặt chân lên bến
cảng Marseilles của nước Pháp, sau khi đã ghé nhiều cảng trước đó. Những ngày
đầu tiên trên đất Pháp, Người chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo khổ
như Việt Nam. Vô cùng đau xót và thương cảm, với những gì tận mắt chứng kiến –
sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân và cuộc sống cơ cực, bị áp bức của những người
lao động. Người nhận thấy, ở đâu nhân dân cũng mong muốn thoát khỏi ách áp
bức, bóc lột; đều có khát vọng được giải phóng.
Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành theo chuyến tàu sang
Mỹ. Tại đây, Người có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ
với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử. Nguyễn Tất Thành vừa làm thuê
để kiếm sống, vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ và cuộc đấu tranh
chống phân biệt chủng tộc của những người da đen. Người đã nghiên cứu nước Mỹ
với mong muốn để học tập được nhiều ở nước Mỹ về việc giành độc lập từ tay thực
dân Anh.
Từ việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, tầm nhìn của Nguyễn Tất
Thành được mở rộng thêm so với lúc còn ở trong nước. Sự chuyển biến về nhận
thức tư tưởng là động lực trực tiếp để Nguyễn Tất Thành chuyển biến về lập trường
chính trị. Từ yêu thương nhân dân mình, đồng bào mình, Người đã mở rộng tình
thương đối với nhân loại lầm than; từ tình yêu dân tộc mình mở rộng đến yêu các
dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới. Cuối năm 1913, Người từ Mỹ sang
Anh – một nước tư bản có nhiều thuộc địa nhất trên thế giới. Sự ra đời của “Đảng
xã hội Anh” – một đảng cánh tả, tuyên bố đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
- Tác động của thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga đến nhận thức của
Hồ Chí Minh
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp. Đây là một quyết định sáng
suốt, một bước ngoặt lịch sử trong cuộc đời hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận
của Người. Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, đảng của giai cấp công
nhân thuộc quốc tế II lúc bấy giờ. Nguyễn Tất Thành không chỉ học tập, nghiên cứu
mà còn đấu tranh không mệt mỏi cho nền độc lập của dân tộc và phong trào cách
mạng thế giới.
Cuộc hành trình gần mười năm đã đưa Nguyễn Tất Thành đến nhiều vùng
đất thuộc châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ,… Dù nghiên cứu khá nhiều những
tư tưởng của cách mạng Mỹ, cách mạng Anh và đặc biệt là hệ tư tưởng dân chủ tư
sản của đại cách mạng Pháp. Người nhận thức một cách sâu sắc cả những ưu điểm

51
và hạn chế của những mô hình cách mạng này, đó là những cuộc cách mạng
“không đến nơi”, “không triệt để”, không đáp ứng nhu cầu giải phóng của các
tầng lớp nhân dân lao động. Từ đây, Người rút ra bài học kinh nghiệm đối với
cách mạng Việt Nam: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mạng thì nên làm cho tới
nơi…”. Trong thời gian hoạt động tại phong trào công nhân Pháp, Nguyễn Tất
Thành đã nghe tiếng vang của cuộc cách mạng tháng Mười Nga (1917). Cách
mạng tháng Mười Nga thành công đã ảnh hưởng tích cực đến xu hướng hoạt động
của Người. Lúc này, con đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành đã có định
hướng mới đó là vươn theo ánh sáng của của cuộc cách mạng vô sản Nga và
phong trào quốc tế cộng sản. Người đánh giá: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mạng Nga là đã thành công và thành công đến nơi” Người cũng hiểu rằng sự
nghiệp cách mạng Việt Nam cần thiết phải có sự giúp đỡ bên ngoài, trong đó có
cách mạng Nga.
Tháng 1-1919, đại biểu các nước thắng trận, kết thúc chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (1914 -1918), tổ chức họp Hội nghị quốc tế hòa bình tại Versailles, Pháp.
Một số đoàn đại biểu thay mặt các dân tộc bị áp bức và phụ thuộc như Ấn Độ,
Ailen, Triều Tiên, A Rập... đã đến Versailles; vì tại đây sẽ có tuyên bố của Tổng
thống Mỹ Uynxơn hứa trao trả độc lập. Không để lỡ cơ hội, ngày 18 tháng 6 năm
1919, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người
Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi bản “Yêu sách của nhân dân Việt Nam” đến Hội
nghị Versailles. Bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi chính phủ Pháp phải thừa
nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bản yêu
sách gồm 8 điểm nêu lên nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam là đòi
quyền độc lập, tự do và quyền tự quyết của các dân tộc thuộc địa. Tuy nhiên, Bản
yêu sách đã không được Hội nghị xem xét; các nhà chính trị tư bản đến Hội nghị
Vécxây chỉ bàn việc chia lại thị trường và tranh giành lợi ích, họ không hề quan
tâm đến nguyện vọng của các dân tộc bị áp bức. Từ đó, ông Nguyễn Ái Quốc rút ra
kết luận quan trọng rằng: Muốn độc lập, tự do, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào
mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình, không hy vọng, mong chờ gì vào
bọn thực dân đế quốc
- Bắt gặp Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I.Lênin, tìm thấy được con đường cứu nước giải phóng dân tộc
Tháng 7 năm 1920, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đọc được Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng

52
trên báo Nhân đạo. Bằng sự nhạy cảm về chính trị, sau nhiều lần đọc và hiểu phần
chính, “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao. Tôi vui mừng nước đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tôi nói to như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày
đau khổ. Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế III”.
Sự kiện này là mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển biến nhảy vọt của
Người về nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị. Vượt qua sự hạn chế về tư
tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ
Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn
khuynh hướng chính trị vô sản.
3. Quá trình xác lập con đường giải phóng của dân tộc
- Sự chuẩn bị về mặt tư tưởng
Tháng 7- 1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo, từ đó
xác định được con đường giải phóng dân tộc đúng đắn - con đường cách mạng vô
sản. Từ đó, Hồ Chí Minh bắt đầu việc tìm hiểu, khảo sát và hoàn thiện nhận thức về
đường lối cách mạng vô sản. Cùng với đó, người bắt đầu truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin về Việt Nam với mong muốn hiện thực hóa tư tưởng vĩ đại của Mác - Lênin:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, một trong những hành động để đạt được
mục tiêu đó là chuẩn bị mọi tiền đề để sáng lập ra Đảng cộng Sản Việt Nam.
Sự chuẩn bị rõ nét nhất về tư tưởng của Hồ Chí Minh được thể hiện qua hoạt
động báo chí và tuyên truyền. Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách
mạng của các nước thuộc địa khác, Hồ Chí Minh tham gia thành lập hội Liên Hiệp
thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) song song với đó
Người viết nhiều bài báo trên các báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí
Cộng Sản,...Người tập trung tố cáo tội ác của thực dân, tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lenin tới các nước thuộc địa, đặc biệt là Việt Nam.
Đến năm 1922, Bác được cử làm Trưởng tiểu ban Nghiên cứu về Đông
Dương trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng Sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc
vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện
tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

53
- Sự chuẩn bị về mặt chính trị
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước,
đồng thời kế thừa và phát triển những quan điểm của V.I.Lênin dựa trên bối cảnh
thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, Người đã đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải
phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp
bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản.
Ngay từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc đã đặt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta vào quỹ đạo
của cuộc cách mạng vô sản. Trong đó, điểm nổi bật là, ngay lúc đầu khi tiếp thu lý
luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã thấy được vai trò to lớn của
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
Cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản ở chính quốc như "hai cánh
của một con chim". Giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với
cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho
nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Thay vào đó, cách mạng ở các nước thuộc địa có
thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thành công trước, không thụ động
chờ thắng lợi cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà bằng cuộc đấu tranh của nhân
dân do Ðảng lãnh đạo. Từ sự thắng lợi của cách mạng thuộc địa có thể góp phần hỗ
trợ tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong điều kiện một
nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc,
phong kiến trực tiếp áp bức bằng đủ thứ thuế quan, bóc lột sức lao động một cách
nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên
minh công nông làm nòng cốt. Với niềm tin vô hạn vào sức mạnh của nhân dân,
sức mạnh của con người, Nguyễn Ái Quốc khẳng định sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội là do những người lao động và bị áp bức thực hiện.
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.

54
- Sự chuẩn bị về mặt tổ chức
- Chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Tháng 6 năm 1925, với nòng cốt là Cộng sản Đoàn, Nguyễn Ái Quốc đã
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu, Trung Quốc. Hội
đã xuất bản tờ báo Thanh niên để tuyên truyền tư tưởng, tôn chỉ, mục đích của Hội,
đồng thời truyền bá tư tưởng Mác-Lênin, và phương hướng pháp triển của các cuộc
vận động giải phóng dân tộc ở VN.
Hội VNCMTN đã tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc
trực tiếp phụ trách. Các bài giảng của Bác được được xuất bản thành cuốn Đường
Kách Mệnh (1927). Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng
và phát triển phong trào CM theo khuynh hướng vô sản.
- Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Vào nửa cuối năm 1929, sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản đã khẳng định
bước phát triển về chất của phong trào yêu nước, phù hợp với xu thế và nhu cầu
bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản không
tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước. Nhu
cầu thành lập một chính đảng có khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc ngày càng bức thiết.
Thế nên, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng
sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng
Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho
Quốc tế Cộng sản. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt
Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng
bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức
Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm
dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt
Nam đầu thế kỷ XX.
4. Liên hệ thực tiễn
Như vậy, từ chuyến đi lịch sử hơn trăm năm về trước, Bác Hồ đã tìm ra con
đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam rực rỡ cho đến ngày hôm nay. Ngày nay,

55
đất nước đã hòa bình, độc lập, tự chủ và phát triển. Đó là vai trò cao cả của Đảng
và cũng là ước mơ, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là làm sao cho nhân dân
Việt Nam ta: “Ai ai cũng có cơm ăn, áo mặc, có nhà để ở, được học hành…” và
dân tộc Việt Nam có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Khát vọng của
Người vẫn luôn là niềm thôi thúc các thế hệ thanh niên tiếp tục học tập, rèn luyện,
phấn đấu không ngừng trong hành trình đưa đất nước tiến lên và hội nhập quốc tế. Tinh
thần yêu nước, độc lập tự chủ, bản lĩnh dám nghĩ dám làm, dám dấn thân của người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mãi là bài học quý
báu đối với thế hệ trẻ hôm nay.
Sinh viên cần phải chăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích, động
cơ học tập đúng đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu học tập tốt là yêu
nước. Quan tâm đến đời sống chính trị- xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời
thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
đồng thời vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật. Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh,
tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng,
thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá- đạo đức truyền thống của dân tộc.–Tích cực
tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết thực,phù hợp
khả năng như: tham gia bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn xã hội,xoá đói giảm
nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động mang tính xã hội
như hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên… Biết phê phán, đấu tranh với
những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Sinh viên chúng ta cần nỗ lực
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập 1, Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
[2]. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập 10, Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2002.
[3]. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.

56
SỰ HÌNH THÀNH Ý CHÍ, KHÁT VỌNG CỨU NƯỚC, CỨU DÂN CỦA
NGƯỜI THANH NIÊN YÊU NƯỚC NGUYỄN TẤT THÀNH
Đào Phương Thảo, Nguyễn Thị Hoài,
Lê Thị Như Quỳnh, Trần Linh Phương,
Hoàng Hương Khánh, Nguyễn Minh Thái,
Nguyễn Trần Lam Phương, Nguyễn Minh Ngọc,
K24CLC, Kế toán A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Thời thanh niên là thời của ước mơ và hoài bão, của dấn thân và cống hiến;
của đối diện và vượt qua khó khăn, thử thách; của kiến tạo và phát triển sự nghiệp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, cũng có một thời thanh
niên vô cùng đẹp đẽ với khát vọng và bản lĩnh của người cách mạng trẻ tuổi, hiến
dâng trọn vẹn cho cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Cách đây
112 năm về trước, tại Bến cảng Nhà Rồng thơ mộng, người thanh niên trẻ tuổi yêu
nước với biết bao hoài bão, ước mơ đã từ giã gia đình, quê hương, đất nước để tìm
con đường cứu dân, đưa đất nước thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực
dân, đem lại quyền sống, tự do, hạnh phúc cho muôn triệu người dân Việt Nam.
Bài tham luận “Sự hình thành ý chí, khát vọng cứu nước, cứu dân của người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành” của nhóm chúng tôi sẽ góp phần làm rõ
những câu hỏi trên, giúp mọi người có cái nhìn sâu sắc hơn về sự hình thành khát
vọng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, từ đó ta càng thêm kính trọng, biết ơn đối
với Người, đã hiến dâng trọn đời mình cho dân tộc và củng cố ý chí quyết tâm của
toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng mà Đảng
ta, Bác Hồ kính yêu, cùng lớp lớp những người con ưu tú của dân tộc đã đánh đổ bằng
mồ hôi, xương máu, nước mắt của mình tạo dựng, vun đắp nên cho giang sơn, đất
nước được độc lập, tự do, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc
NỘI DUNG
1. Bối cảnh thế giới
- Sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
Đến cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau xâm chiếm thuộc địa và đã căn
bản hoàn thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách thống trị thực dân ở khắp các nước
Á, Phi và Mĩ Latinh. Thế giới bị chia cắt làm hai: một khu vực gồm các nước tư bản,
có nền công nghiệp phát triển, hay được gọi là phương Tây, còn khu vực còn lại gồm

57
các nước thuộc địa và phụ thuộc, nền kinh tế còn lạc hậu, thường được gọi là phương
Đông. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa và phụ thuộc là làm thế nào để được giải
phóng. Thế giới hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với
chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Nó trở thành điều kiện khách quan cho phép phong trào
cách mạng ở các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là
với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản.
Trong bối cảnh chung của tình hình quốc tế, Việt Nam cũng bị chi phối bởi
những điều kiện lịch sử đó. Việt Nam là một quốc gia hình thành sớm. Ý thức quốc
gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn xưa. Cuộc đấu
tranh chống thiên tai và giặc ngoại xâm trong hàng ngàn năm lịch sử đã hun đúc
cho dân tộc Việt Nam những truyền thống tốt đẹp: yêu nước nồng nàn, độc lập tự
chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất. Dân tộc Việt Nam không ngừng
giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp đó. Và cũng chính những truyền
thống ấy đã tạo tiền đề cho hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất
Thành để giành được độc lập cho Việt Nam từ tay thực dân Pháp.
- Sự thất bại của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, nhất là từ nửa sau thế kỷ XIX, khi
chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền, các nước tư bản phương Tây
đẩy mạnh hơn nữa việc xâm lược thuộc địa ở các nước Châu Phi, Châu Á, Mỹ La
Tinh thì các quốc gia Đông Nam Á lần lượt bị các nước đế quốc phương Tây thôn
tính. Với tinh thần và ý chí chiến đấu quật cường, toàn thể nhân dân các quốc gia
Đông Nam Á đã tự nguyện tham gia vào hàng ngũ yêu nước, chiến đấu chống lại
kẻ thù chung, nhằm hoàn thành một ước nguyện là góp một phần sức lực nhỏ bé
của mình công cuộc bảo vệ sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Có thể nói rằng
phong trào là sự thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn, là đỉnh cao của tinh thần
quật cường của nhân dân các nước Đông Nam Á. Tuy nhiên có thể thấy đa số các
phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á đều thất bại do chưa có đường lối đúng
đắn và thiếu sự đoàn kết; chính quyền phong kiến ở các nước đầu hàng, làm tay sai.
Bên cạnh đó, lực lượng của các nước thực dân phương Tây còn mạnh. Nhìn thấy
được điều này, nên Nguyễn Tất Thành quyết định không sang các nước Châu Á để
tìm đường cứu nước mà đến các nước phương Tây, đó chính là Pháp.
2. Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
- Tình hình khốn khó của đất nước
Từ những tháng đầu năm 1858 trở về trước, Việt Nam là một nước phong kiến
có chủ quyền; đến ngày 1/9/1858, Pháp xâm lược Việt Nam, sau hiệp định Pa Tơ Nốt

58
(1884), Việt Nam trở thành nước thuộc địa của thực dân Pháp, lúc này Việt Nam mất
tự do. Sang đến đầu thế kỷ XX, sau khi cơ bản hoàn thành giai đoạn vũ trang xâm
lược nước ta, đế quốc Pháp tiến hành kế hoạch “khai thác thuộc địa" nhằm mục đích
vơ vét, bóc lột một cách tối đa bù đắp sự tổn thất của chúng trong các cuộc chiến tranh
xâm lược.
Về kinh tế, để thu được lợi nhuận tối đa, đế quốc Pháp thi hành chính sách
kinh tế thực dân rất bảo thủ và phản động, đó là chế độ thuế khóa vô cùng nặng nề và
hết sức vô lý. Không chỉ vậy, Pháp thực hiện tiến hành cướp đoạt hàng ngàn, hàng vạn
hecta ruộng đất để lập đồn điền trồng lúa, trồng cao su. Tình cảnh bần cùng khốn khổ
của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong
kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng
đất và quyền sống tự do. Bên cạnh giai cấp nông dân, giai cấp tư sản Việt Nam cũng
bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép. Do đó, các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những
mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột.
Về chính trị, đế quốc Pháp thực hành chính sách chính trị chuyên chế. Đứng
đầu bộ máy cai trị ở Đông Dương là một tên toàn quyền người Pháp. Triều đình
nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng chia nước ta thành ba kỳ với ba hình
thức cai trị khác nhau nhằm chia rẽ và gây hằn thù dân tộc. Chúng còn bóp nghẹt
quyền tự do, dân chủ, đàn áp dã man mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta.
Những chính sách đàn áp tàn bạo, dã man đã làm dấy lên lòng thù hận của nhân
dân đối với thực dân Pháp, làm cho mâu thuẫn xã hội giữa nhân dân Việt Nam và
thực dân trở nên sâu sắc.
Về văn hóa, xã hội, đế quốc Pháp thi hành chính sách ngu dân, truyền bá văn
hóa nô dịch, phản động, khuyến khích đồi phong, bại tục, gây tâm lý tự ti, vong
bản. Đặc biệt, thực dân Pháp còn thi hành ở Việt Nam chính sách pháp luật hết sức
phản động, phân biệt đối xử giữa người da trắng và người bản địa. Vì vậy, trong xã
hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa Nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai
cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày
càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể Nhân dân Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược.
- Hạn chế của các cuộc khởi nghĩa trong nước
Vào những năm cuối thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh
hưởng của trào lưu dân chủ tư sản, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội

59
Châu và xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh. Trước hết, với xu hướng bạo động,
dựa vào Nhật để đánh Pháp, phong trào “Đông Du” của Phan Bội Châu đã tổ chức
đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập, tuy nhiên phong trào
nhanh chóng thất bại bởi năm 1908, chính phủ Nhật cấu kết với thực dân Pháp trục
xuất lưu học sinh Việt Nam và những người đứng đầu. Với mục tiêu đánh đổ phong
kiến và chủ trương dựa vào Pháp để cải cách đất nước sau mới đánh Pháp, Phan
Châu Trinh đã phát động phong trào “Duy Tân” vào năm 1906, nhưng kết cục cũng
bị Pháp đàn áp dã man và thất bại, chấm dứt xu hướng cải cách trong phong trào cứu
nước của Việt Nam.
Như vậy, phong trào yêu nước những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỷ XX
theo ngọn cờ phong kiến và dân chủ tư sản đã diễn ra quyết liệt và rộng khắp song
không đi đến kết quả cuối cùng. Nguyên nhân thất bại đó là do thiếu đường lối
chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản; chưa có tổ chức
vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc và chưa xác định được
phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù. Có thể thấy, cách mạng Việt
Nam đang đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.
3. Nhân tố chủ quan
- Lòng yêu nước của Nguyễn Tất Thành
Tình yêu quê hương, đất nước ở Nguyễn Tất Thành được bồi đắp do ảnh
hưởng sâu sắc từ tư tưởng và nhân cách của người cha - tuy phải chịu nhiều vất vả,
thiệt thòi nhưng có tài, có chí, thông minh, hiếu học. Cậu thường được cha cho
đứng bên cạnh trong những lần ông tiếp khách. Những lúc ấy, Thành được nghe
những câu chuyện về thời cuộc xã hội Việt Nam hồi đó và những việc làm cứu
nước của các ông. Nhờ đó mà nhận thức về xã hội và lòng yêu nước của cậu cũng
đã được nhen nhóm lên từ đây.
Càng lớn lòng yêu nước, thương dân và khát vọng giải phóng dân tộc của
Nguyễn Tất Thành được thôi thúc và nhân lên khi Người ngày càng thấm thía thân
phận cùng khổ của người dân mất nước. Sự kiện có ảnh hưởng nhất đến Nguyễn
Tất Thành thời kỳ này là tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Thừa Thiên
Huế. Mặc dù mang tính chất ôn hòa nhưng đã bị thực dân Pháp và triều đình phong
kiến nhà Nguyễn đàn áp hết sức dã man. Năm 1911, khi ở Sài Gòn, Nguyễn Tất
Thành lại thấy thêm sự đối lập giữa cảnh xa hoa dành riêng cho người Pháp, còn
người Việt Nam đa số vẫn lam lũ, khổ cực. Như vậy, từ truyền thống gia đình, quê
hương và dân tộc; từ những tri thức, tư tưởng học ở trường, ở các thầy giáo và đặc

60
biệt từ những điều mà anh trực tiếp chứng kiến hằng ngày của một dân tộc bị mất
nước, đã làm nảy nở và ngày càng bồi đắp, hun đúc, nhân lên lòng yêu nước,
thương dân và khát vọng cứu nước, cứu dân của Người. Đây chính là những nhân
tố cơ bản, chủ yếu, là cơ sở quan trọng nhất để Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh
quyết định ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
- Lý luận về “Tự do, bình đẳng, bác ái” của các nước phương Tây thúc
đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước
“Tự do, bình đẳng, bác ái” được biết đến là những nguyên tắc cốt lõi của các
nước phương Tây. Đây cũng chính là nguồn động lực to lớn thôi thúc chàng trai trẻ
Nguyễn Tất Thành dứt áo ra đi đến miền đất phương Tây xa xôi để tìm ra con
đường cứu nước cho dân tộc mình. Năm 13 tuổi, Người đã từng nói rằng: “Khi tôi
độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái.
Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế.
Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những
gì ẩn đằng sau những chữ ấy.”
Mục đích cao cả của việc quyết tâm đi ra nước ngoài để “Xem nước Pháp và
các nước làm thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào” đó là nhằm tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Có thể thấy, Nguyễn Tất Thành đã tạo ra
một sự đột phá trong tư duy so với các nhân sĩ, trí thức ở Việt Nam lúc bấy giờ, đó là
một tư duy “vượt thời đại” mặc dù Người được sinh ra trong một gia đình nhà Nho và
đã sớm thông tuệ đạo Thánh hiền, “lấy đức trị quốc”. Nguyễn Tất Thành đã sớm vượt
qua phương thức chống giặc ngoại xâm theo lập trường của phong kiến, không đi theo
con đường cứu nước của Nho giáo. Người cũng đã vượt qua lập trường dân chủ tư sản
và tiểu tư sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam; đồng thời phê
phán tính không triệt để của nó; thấy được lập trường dân chủ tư sản, tiểu tư sản ở một
nước thuộc địa nửa phong kiến chưa đủ sức tập hợp lực lượng để chống lại chủ nghĩa
thực dân, tất yếu sẽ bị thất bại, bị thực dân Pháp đàn áp dã man.
- Khát vọng giải phóng dân tộc, vì ấm no, tự do và hạnh phúc của nhân dân
Cuối thế kỷ XIX, tư tưởng phong kiến đã hoàn toàn bất lực và thất bại trước
các nhiệm vụ lịch sử. Đầu thế kỷ XX, tư tưởng tư sản cũng bất lực và thất bại hoàn
toàn. Một bầu không khí ảm đạm bao trùm đất nước. Nhiều người than thở: “Đêm
sao đêm mãi tối mò mò/Đêm đến bao giờ mới sáng cho”. Các nhà yêu nước ngồi
đàm đạo chỉ với một câu hỏi: “Ai có thể giúp ta đánh đuổi thực dân Pháp để giải
phóng đất nước? ” Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Trong bối cảnh

61
đó, với lòng yêu nước, căm thù xâm lược, muốn cho đất nước được độc lập, Nguyễn
Tất Thành trăn trở về con đường cứu nước, cứu dân.
Khát vọng và bản lĩnh sớm hình thành từ độ tuổi thiếu niên đã phát triển
mạnh mẽ ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Năm 1908, khi Nguyễn Tất Thành
18 tuổi, phát sinh một sự kiện đặc biệt. Đó là việc anh tham dự cuộc biểu tình
chống thuế của nông dân Thừa Thiên. Đến cuối tháng 5 năm 1908, phong trào bị
thực dân Pháp dập tắt trong máu lửa. Sự kiện Nguyễn Tất Thành hoà mình vào
cuộc đấu tranh của nhân dân lao động, không e ngại sức mạnh bạo quyền của chính
quyền thực dân phong kiến đã thể hiện rõ nét khát vọng và bản lĩnh của người
thanh niên yêu nước trẻ tuổi, đánh một dấu mốc quan trọng trong cuộc đời cách
mạng của Người.
Động lực, khát vọng và sức mạnh dẫn đến những quyết định ấy của Người
không nằm ở bên ngoài mà ẩn chứa từ bên trong, từ những nung nấu, ấp ủ thuở
nhỏ. Cũng chính vì khát vọng ấy đã biến người thanh niên mới 20 tuổi dũng cảm
rời nước ra đi với hai bàn tay trắng, sẵn sàng làm đủ mọi nghề, từ bồi tàu, thủy thủ,
đốt lò, đến quét tuyết, bán diêm, bán báo miễn là để sống, sống để đi, đi để quan
sát, học hỏi nhằm “tìm ra con đường đúng đắn có thể đem lại độc lập cho Tổ quốc,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân”.
Như vậy, từ truyền thống gia đình, quê hương và dân tộc; từ những tri thức,
tư tưởng học ở trường, ở các thầy giáo và đặc biệt từ những điều mà anh trực tiếp
chứng kiến hằng ngày của một dân tộc bị mất nước, đã làm nảy nở và ngày càng
bồi đắp, hun đúc, nhân lên lòng yêu nước, thương dân và khát vọng cứu nước, cứu
dân của Người. Đây chính là những nhân tố cơ bản, chủ yếu, là cơ sở quan trọng
nhất để Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh quyết định ra đi tìm đường cứu nước,
cứu dân.
KẾT LUẬN
Sự hình thành ý chí, khát vọng và nghị lực của người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước đã trở thành điểm tựa
soi sáng giúp thanh niên Việt Nam rút ra nhiều bài học quý báu trong cuộc sống,
học tập, công tác, lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thanh niên Việt
Nam ngày nay luôn học tập và làm theo tấm gương về ý chí, khát vọng và nghị lực
của Bác, vững tin vào cuộc sống, vào tương lai; có bản lĩnh chính trị vững vàng,
không nản chí trước những khó khăn, thất bại; có tinh thần đổi mới sáng tạo; dám

62
dấn thân vào những thử thách; luôn có ý thức rèn luyện thái độ sống đúng đắn và
có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống.
Mang trong mình sự nhiệt huyết của thế hệ trẻ, chúng tôi - thế hệ tương lai của
đất nước, đã nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình trong sự nghiệp xây dựng
đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, chúng tôi sẽ cố gắng học
tập, không ngừng trau dồi và rèn luyện bản thân, nêu cao tinh thần nghị lực và ý chí
quyết tâm; tích cực sáng tạo, chủ động học hỏi, nâng cao năng lực ngoại ngữ, trở
thành những công dân toàn cầu; luôn làm giàu cho bản thân cả về tri thức, sức khỏe,
kỹ năng; không ngừng nâng cao giác ngộ lý tưởng cách mạng để hoàn thành xuất sắc
sứ mệnh vẻ vang của tuổi trẻ, đóng góp vào sự phát triển của đất nước vì một Việt
Nam hùng cường như tâm nguyện và khát vọng cháy bỏng của chủ tịch Hồ Chí Minh
vĩ đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập ( 2009), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[2]. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1989), Bác Hồ thời
niên thiếu, Nxb Sự thật, Hà Nội
[3]. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb Sự thật, Hà Nội
[4]. Hà Sơn Thái (2021), Động lực tinh thần đi tìm đường cứu nước của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Ban Tuyên giáo trung ương, truy cập lần cuối ngày 11
tháng 5 năm 2023, từ https://tuyengiao.vn/theo-guong-bac/dong-luc-tinh-than-di-
tim-duong-cuu-nuoc-cua-chu-tich-ho-chi-minh-133705
[5]. Hoàng Dương (2021), Khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" của cách
mạng Pháp với việc ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành, Ban Dân
vận tỉnh ủy tỉnh Lâm Đồng, truy cập lần cuối ngày 11 tháng 5 năm 2023,
từ https://bdvtu.lamdong.dcs.vn/nghiep-vu/nghiep-vu-cong-tac-dan-van/type/
detail/id/26091/task/1735
[6]. Lý Nhật Quang (2023), “Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là khai
hóa văn minh” - một luận điệu xuyên tạc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, truy cập
lần cuối ngày 11 tháng 5 năm 2023, từ http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-
tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/thuc-dan-phap-xam-luoc-viet-nam-la-khai-hoa-van-
minh-mot-luan-dieu-xuyen-tac/13773.html

63
Ý CHÍ, NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
ĐỂ VƯỢT QUA NHỮNG KHÓ KHĂN, THỬ THÁCH TRONG
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Trần Quốc Huynh, Ngô Ngọc Anh, Nguyễn Văn Mạnh,
Đoàn Lan Hương, Nguyễn Hương Lan, Đặng Thị Hằng,
Nguyễn Thị Thu Thảo, Phạm Khánh Linh
Lớp K24CLC, Kế toán A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, người
đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước, cho sự ấm no,
hạnh phúc của nhân dân. Ở cái tuổi đôi mươi đẹp nhất, người thanh niên yêu nước
với đôi bàn tay trắng ấy đã dũng cảm dứt áo ra đi, vượt ngàn dặm trùng dương để
tìm ra con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc cho những người đồng
bào bị áp bức trong ròng rã 30 năm. Đó là quãng thời gian Bác vừa lao động, chăm
chỉ học tập nhằm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn; vừa phải đối mặt với sự
truy đuổi, càn quét, rình rập rộng khắp của kẻ thù. Đó cũng là quãng thời gian dài
đằng đẵng khi người cộng sản cách mạng ưu tú phải chịu đựng những trận tra tấn
dã man, tàn bạo dưới sự kiềm tỏa, khống chế gắt gao, bị cầm tù nơi đất khách.
Dẫu vậy, Hồ Chủ tịch vẫn không hề nản chí, e sợ. Người vẫn luôn giữ vững
lòng yêu nước, lòng thương yêu con người; ý chí, nghị lực phi thường, không ngại
gian khó; tinh thần lạc quan, ham học hỏi… Nhân dịp kỷ niệm 112 năm ngày Bác
Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 - 5/6/2023), nhóm chúng em xin gửi đến
bài dự thi: “Ý chí, nghị lực cách mạng phi thường của “Người đi tìm bóng hình đất
nước” nhằm nghiên cứu ý chí, nghị lực phi thường của Nguyễn Ái Quốc để vượt
qua những khó khăn, thử thách trong hành trình tìm đường cứu nước và liên hệ đến
sinh viên ngày nay.
NỘI DUNG
1. Cơ sở hình thành ý chí, nghị lực của Nguyễn Ái Quốc
1.1. Nguyên nhân khách quan
- Hoàn cảnh lịch sử
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa Đế quốc hiếu chiến đẩy mạnh
xâm lược thuộc địa, xác lập quyền thống trị của mình trên phạm vi thế giới, tự cho
mình có quyền nô dịch và áp bức các dân tộc nhỏ yếu hơn. Năm 1858, Thực dân
Pháp tiến hành xâm lược nước ta, triều đình phong kiến nhà Nguyễn từng bước đầu

64
hàng, Việt Nam chính thức trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến yếu nhược,
bị áp bức bất công và chịu ách đô hộ bạo ngược của chế độ Thực dân Pháp. Nguyễn
Ái Quốc đã sớm hình thành lên ý chí và nghị lực qua môi trường sống, điều kiện và
hoàn cảnh lịch sử của đất nước lúc bấy giờ. Người sinh ra và lớn lên ở vùng đất Nghệ
An địa linh nhân kiệt và cũng là nơi diễn ra các cao trào đấu tranh sôi nổi mà kể đến
như khởi nghĩa Hương Khê (Phan Đình Phùng), phong trào Đông Du (Phan Bội
Châu),... Môi trường đấu tranh sôi nổi và nhiệt huyết của những bậc ông cha đã nhen
nhóm trong ý thức của cậu bé Nguyễn Sinh Cung một bóng dáng quê nhà, một bóng
hình đất nước bị áp bức, bị bóc lột, bị chèn ép “một cổ hai tròng” nhưng những con
người ở đó vẫn thật cao cả, chất phác và cũng thật kiên cường, bất khuất.
- Truyền thống yêu nước
Qua môi trường sống sôi nổi, được tiếp xúc với những con người mang nặng
tư tưởng “Ái quốc”, được giáo dưỡng nề nếp trong một gia đình Nho giáo, Nguyễn
Ái Quốc kế thừa trọn vẹn giá trị truyền thống yêu nước cao đẹp của dân tộc ta qua
bao thế hệ. Trên tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn thân yêu nước và càng đi
sâu vào cuộc sống của người dân địa phương, chàng trai Nguyễn Tất Thành càng
thấm thía và đồng cảm với thân phận cùng khổ của người dân mất nước, những đứa
trẻ lang thang, những thanh thiếu niên bị bắt đi làm xa không biết ngày trở về,... [10]
Người nhận thức được xã hội Việt Nam đang tồn tại song song cả mâu thuẫn giai
cấp xã hội và mâu thuẫn dân tộc nên không thể đi theo con đường cách mạng như
các vị tiền bối mà đất nước độc lập phải đi đôi với dân được hưởng quyền tự do, ấm
no, hạnh phúc. Người càng kiên định hơn, càng quyết tâm hơn với việc ra đi tìm
một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với bối cảnh của nước nhà bấy giờ.
Người đã từng khẳng định: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là
chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [3]. Như vậy,
tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và phát triển mang tính thời
đại, gắn liền với mục tiêu triệt để giải phóng dân tộc và tư tưởng yêu nước sáng tạo
ấy đã trở thành mục tiêu lý tưởng thôi thúc Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm
đường cứu nước, là nền tảng cơ sở để hình thành nên những phẩm chất, những đức
tính cao đẹp và hoài bão lớn lao.
1.2. Nguyên nhân chủ quan
- Phẩm chất cá nhân từ một nền tảng giáo dục tốt.
Nguyễn Ái Quốc đã sớm được kế thừa những nét giá trị văn hóa truyền thống
từ gia đình, là nền móng cơ sở để hình thành nên những phẩm chất cá nhân cao

65
đẹp. Phong cách sống nhân nghĩa cùng ý chí, nghị lực quật cường ấy đã được dựng
xây, bồi đắp từ tình yêu quê hương, đất nước của cụ Nguyễn Sinh Sắc, và được vun
vén, uốn nắn bởi phong cách sống và đạo lý bác ái của bà Hoàng Thị Loan. Tuổi
thơ của Nguyễn Sinh Cung như tờ giấy trắng đã được viết lên những dòng chữ đầu
tiên, định hướng nhân cách, tỏa sáng tâm hồn, bồi đắp lòng bác ái, tình nghĩa đồng
bào. Ngay từ tuổi thơ ấu, tấm gương của bậc cha mẹ đã đi vào tâm khảm, tạo nên
bản lĩnh tự lực cánh sinh trong mọi lúc mọi nơi của Người sau này. Tất cả những
điều kể trên đã đặt nền móng để hình thành lên một tượng đài Nguyễn Ái Quốc với
ý chí đầy mạnh mẽ, nghị lực kiên cường, luôn vững vàng với lý tưởng cao đẹp của
mình “Vì giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do”.
- Một trái tim ham học hỏi, khả năng tư duy độc lập và năng lực hoạt động
thực tiễn
Thứ nhất, bản thân Hồ Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ đã có một tinh thần
ham học hỏi, tư chất hơn người, thích khám phá những điều mới lạ. Theo học thầy
Vương Thúc Quý từ lúc 10 tuổi, Người được truyền dạy những giá trị yêu
nước, chí làm trai phải lập nghiệp với muôn dân, dạy những đạo lý về Khổng Tử.
Dòng chữ Hán đơn giản trên xà nhà của Vương Thúc Độ, "Thao tâm cần khổ, hảo
ái nhân quân” đã nhắn nhủ Người hằng ngày phải kiên trì trong học tập, nhẫn nại
trong cuộc sống để gặt hái được kết quả tốt đẹp hơn. Ý chí phấn đấu, siêng
năng chịu khổ trong cuộc sống sớm đã được tôi luyện, rèn giũa, tạo tiền đề cho
một ý chí phi thường nằm trong dáng dấp cậu thanh niên trẻ yêu nước Nguyễn
Tất Thành.
Thứ hai, Nguyễn Tất Thành có khả năng tư duy độc lập và năng lực hoạt
động thực tiễn tuyệt vời. Với sự mẫn cảm trước thời cuộc, Người đã nhanh chóng
nhận ra rằng khẩu hiệu: "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" chỉ là lời giả dối; khẩu hiệu
"thiên đường" mà trường học đưa ra cũng chỉ là sự ngụy biện. Bằng một trái tim
đầy cảm thông, dường như Hồ Chí Minh đã cảm nhận được ngọn lửa âm ỉ, muốn
thiêu rụi bọn thực dân áp bức bóc lột trong những tấm thân gầy guộc của nhân dân
cùng khổ. Hơn thế, chính trong lòng người thanh niên xứ Nghệ ấy cũng đang bùng
lên một ngọn lửa mãnh liệt "có chí đánh đuổi thực dân Pháp và giải phóng dân
tộc". Càng tham gia các phong trào dân tộc, phong trào chống thuế và càng tiếp xúc
với Thực dân Pháp nhiều hơn, Người càng kiên định với phương hướng xuất ngoại
để tìm con đường cách mạng đúng đắn. Bằng khả năng tư duy độc lập và góc nhìn
vấn đề đa chiều, độc đáo, Hồ Chủ tịch đã thành công kiếm tìm một ánh sáng chân

66
lý đúng đắn, một con đường giải phóng dân tộc triệt để cho những người đồng bào
ở những ngày tháng gian truân nơi xứ người sau này.
2. Ý chí, nghị lực phi thường của Nguyễn Ái Quốc để vượt qua những
khó khăn thử thách trong hành trình tìm đường cứu nước
2.1. Nghị lực vượt khó để thích ứng với điều kiện xa lạ
Ý chí và nghị lực của Người thể hiện trước hết ở khả năng tư duy độc lập, tự
vạch ra con đường đi cho riêng mình và tinh thần quyết tâm thực hiện mục tiêu.
Với tinh thần hiểu biết và ham học hỏi, với tư duy độc lập sáng tạo, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã sớm hình thành chí hướng lớn lao và quyết tâm tìm con đường đi
cho cho riêng mình: đi ra nước ngoài xem các nước khác, sau đó trở về giúp đồng
bào của đang bị áp bức tại quê nhà. Ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước chỉ
đang ở độ tuổi đôi mươi - Nguyễn Tất Thành, đã quyết định ra đi tìm đường cứu
nước, mặc dù biết rằng sẽ rất khó khăn, vất vả và cả hiểm nguy. Lúc ấy, đã có
người khuyên anh không nên đi, đã có người lo ngại về điều kiện sống “Lấy đâu ra
tiền mà đi?”, nhưng người thanh niên trẻ không hề lung lay ý chí, đã xòe hai bàn
tay ra và nói: “Đây, tiền đây. Chúng ta sẽ làm việc, chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì
mà sống và để đi”. Như vậy, không tiền bạc, không bạn bè, người thân, hành trang
theo Người mang theo lên tàu ra nước ngoài chỉ có tấm lòng yêu nước, thương dân
tha thiết cùng ý chí và nghị lực mạnh mẽ, người thanh niên ấy đã dám nghĩ dám
làm, dám dấn thân vào hành trình thực hiện khát vọng, quyết tâm giải phóng cho
dân tộc. Điều đó đã cho thấy nghị lực và ý chí quyết tâm phi thường của Người
ngay từ buổi đầu của hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân mà không phải thanh
niên yêu nước nào cũng có được.
Ý chí và nghị lực của Người còn được thể hiện ở tinh thần vượt qua gian
khổ, khó khăn để vươn lên những hoàn cảnh về điều kiện sống.
Làm công việc phụ bếp trên tàu, anh Ba phải dậy từ 4 giờ sáng và làm việc
đến 9 giờ đêm. Anh làm những công việc nặng nhọc với cường độ liên tục: quét
dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, rồi đốt lửa trong các lò, đi khuân than, xuống hầm
lấy rau, thịt, cá, nước đá… Bên cạnh công việc nặng nhọc, điều kiện sống khi lênh
đênh trên biển cũng khó khăn muôn phần. Thời tiết trên biển thất thường, ngày
nắng, đêm lạnh, chưa kể những hôm mưa bão, gió lớn, sóng cao hàng chục mét. Có
lần, anh Ba suýt chết đuối do gặp biển nổi sóng lớn, may bị sóng đẩy vào giữa cột
buồm và dây xích nên đã thoát chết. Lênh đênh trên biển với thời tiết thất thường
và những đợt sóng dữ dội khiến Người không tránh khỏi những cơn say sóng và
những trận ốm sốt liên miên.
67
Sau này, khi đã đặt chân đến các nước Anh, Pháp, Mỹ, Người vẫn phải làm
thuê để duy trì cuộc sống. Người làm phụ bếp cho các khách sạn, cào tuyết, đốt lò,
làm đồ giả cổ, vẽ quạt, lọ hoa, chao đèn… Công việc khó nhọc mà bấp bênh, đồng
lương thì ít ỏi, cuộc sống của Người vẫn khó khăn và thiếu thốn muôn phần. Mùa
đông Người phải lấy những viên gạch bỏ lò, bọc trong các tờ báo cũ rồi để trên
giường cho đỡ rét. Ăn uống thiếu thốn cùng với lao động và hoạt động vất vả, sức
khoẻ của Người giảm sút. Nhiều lúc tưởng chừng như Người không vượt qua nổi
thử thách đầu tiên. Nhưng ý chí và nghị lực kiên cường, càng gian khổ, khó khăn
sức chịu đựng của Người ngày càng rắn rỏi, Người đã vượt qua những khó khăn về
sức khỏe để tiếp tục tham gia vào những hoạt động chính trị.
Như vậy, có thể nói, công việc và điều kiện sống trong hành trình tìm đường
cứu nước của Người là vô cùng khó khăn và khổ cực. Tuy nhiên, với nỗi niềm đau
đáu với quê hương, bằng ý chí kiên định với con đường đã chọn, với tinh thần vượt
khổ, vượt khó vươn lên, người thanh niên gầy gò ấy vẫn luôn hoàn thành công việc,
luôn cố gắng hết mình để chiến thắng nghịch cảnh, vượt qua bệnh tật, khó khăn để
tiếp tục với hành trình vạn dặm.
Ý chí, nghị lực được khẳng định trong việc tự thân rèn luyện, tự thân học
tập, tự thân vươn lên trong mọi nghịch cảnh.
Mặc dù đã mệt lả sau một ngày làm việc vất vả nhưng anh Ba vẫn không đi
ngủ mà còn thức đến 23 giờ khuya hoặc lâu hơn nữa để đọc sách hoặc viết lách.
Khi mọi người nghỉ ngơi, chơi bài thì anh Ba vẫn không ngừng học tập. Học ngoại
ngữ là một trong những “vũ khí” có thể “phá vỡ” những rào cản về kiến thức, văn
hóa, phong tục tập quán, mở đường cho việc tiếp cận những tinh hoa văn hóa nhân
loại. Ý thức được điều đó, trên hành trình lênh đênh trên biển, chỉ cần có thời gian
rảnh, anh Ba sẽ ngay lập tức học tập, rèn luyện. Khi có thời gian, anh thường hỏi
những người Pháp trên tàu về các vật dụng, các từ vựng khó và học thuộc chúng.
Đôi khi, anh còn viết lên tay, hay những nơi thường qua lại và tối về lại xóa đi.
Buổi tối, anh lại học viết các từ và câu. Một thời gian anh đã có thể nói và viết khá
tốt tiếng Pháp. Dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn muôn phần nhưng
Người vẫn không ngừng nỗ lực vươn lên, cả trong điều kiện sống và trong học tập,
tiếp thu tri thức. Như vậy, Bác là một tấm gương sáng về tinh thần học tập, rèn
luyện với những phương pháp học tập độc đáo, sáng tạo để từ đó tu dưỡng bản
thân, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại.

68
2.2. Khó khăn trong tìm con đường cứu nước đúng đắn
Ý chí, nghị lực của Bác được thể hiện qua sự kiên định, gan dạ, sáng suốt khi
quyết định sang nước ngoài đi tìm con đường cứu nước.
Trước toàn cảnh xã hội thời bấy giờ, đã có biết bao phong trào đấu tranh nổ
ra, với những tên tuổi được liệt vào bậc anh hùng nghĩa khí quyết tâm tìm đường
cứu nước nhưng tất cả đều thất bại. Đứng trước sự bế tắc tưởng chừng như không
tìm được lối ra của lịch sử. Là một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã vô cùng
băn khoăn, trăn trở: “Liệu ta có thể tìm con đường cứu nước ở đâu ?”. Để rồi cuối
cùng Nguyễn Ái Quốc quyết định đi đến chính cái nơi, khởi nguồn cho sự đau
thương ở Việt Nam: “Đi tới Pháp, đi tới các nước tư bản, tới cái nôi của nền văn
minh nhân loại, của nơi “Tự do, bình đẳng, bác ái” đầy giả dối ấy.” Theo Người:
“Muốn đánh Pháp thì phải hiểu lực lượng gốc rễ của Pháp và phải học cách tổ
chức của những dân tộc mạnh hơn Pháp”. Lịch sử cách mạng đã chứng minh đây
là một quyết định vô cùng đúng đắn, một quyết định mang giá trị tư duy thời đại,
như một “phát kiến địa lý” trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp tại các nước thuộc địa.
Đó là cái tài, cái bạo của Người. Giữa hàng ngàn cách cứu nước khác nhau,
không theo các bậc tiền bối, cũng chẳng theo những người cùng thời, Người giữ
vững tư duy độc lập của riêng mình: quyết định tới một đất nước xa lạ, xông vào
“hang cọp” của bọn thực dân, đối mặt với những gian nan, hiểm nguy không thể
lường trước được, và một chuyến đi không biết ngày trở về. Anh Lê - người bạn
của Bác đã quyết định ở lại cũng là vì cái tương lai mù mịt đó. Nhưng Nguyễn Ái
Quốc không dừng lại, anh đi, anh dám nghĩ, cũng dám làm, anh gan dạ và sáng
suốt. Bằng tình yêu nước sâu sắc và nghị lực phi thường, Người đã lựa chọn lẽ sống
không chỉ cho riêng mình, mà quyết tâm đối mặt với gian khổ, hiểm nguy để đi tìm
con đường cứu nước, cứu đồng bào nhân dân.
Ý chí, nghị lực của Người còn được thể hiện thông qua sự kiên trì, không
ngừng tìm kiếm, học hỏi để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
Trên hành trình của mình, Nguyễn Ái Quốc đã đi tới Pháp, tới các nước tư
bản và thuộc địa khác. Người cũng đã chứng kiến, đồng cảm và đau xót trước cuộc
sống khổ cực/ cảnh tượng các dân tộc thuộc địa và người lao động bị áp bức bóc lột
dã man. Nguyễn Ái Quốc nhận ra rằng nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn, chủ
nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù. “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi
bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản

69
ở thuộc địa”. Nhưng nhận diện được kẻ thù rồi chúng ta cần làm gì để đánh thắng
chúng? Con đường cách mạng ta lúc này là gì? Làm sao có thể giúp nhân dân ta trở
thành người dân của một nước độc lập, có quyền sống, quyền được tự do và mưu
cầu hạnh phúc như hai bản “Tuyên ngôn độc lập”, “Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền” của Mỹ và Pháp đã nhắc tới? Những băn khoăn khiến hành trình tìm
con đường giải phóng của Người trở lên gian khổ hơn. Người đã nhận ra vấn đề
dân tộc bị áp bức bóc lột không chỉ hiện hữu tại các nước thuộc địa mà còn tồn tại
ở ngay cả những nước đế quốc, ẩn sâu, hiện hữu trong sự mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản.
Đến năm 1917, cuộc cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi. Đây là
cuộc cách mạng duy nhất từ trước tới nay thực sự triệt để, xóa bỏ sự phân biệt giai
cấp trong xã hội. Cuộc cách mạng đã trả lời cho một phần câu hỏi mà Nguyễn Ái
Quốc đang tìm kiếm, Người bắt đầu tìm hiểu nhiều hơn về cách mạng vô sản.
Nguyễn Ái Quốc quay trở Pháp, trực tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và
phong trào công nhân Pháp, tham gia vào Đảng Xã hội Pháp. Dù phải hoạt động
một cách ẩn náu, vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật,
nhưng Người vẫn cố gắng không ngừng, vẫn kiên trì, hăng say học tập và hoạt
động. Bởi vì đây là ánh sáng duy nhất cho con đường cứu nước phù hợp với cách
mạng Việt Nam mà Người tìm thấy lúc này. Điều thực sự đã làm Bác thức tỉnh và
trao niềm tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba chính là “Luận cương của Lênin
về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Luận cương đã vạch ra đường lối cơ bản cho
phong trào cách mạng cho các nước thuộc địa, giải đáp cho Người những băn
khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó, Người nói: "Luận cương của
Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang
nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"!. Khát vọng ấy, ý
chí nghị lực bền bỉ phi thường ấy đã giúp Người tìm ra ánh sáng chân lý, tìm ra
được con đường giải phóng dân tộc.
2.3. Khó khăn trong việc bất đồng quan điểm, tư tưởng với các đồng chí khác
Ý chí, nghị lực của Người được thể hiện ở sự kiên định, dũng cảm khi bày tỏ
quan điểm về vận mệnh của các nước thuộc địa trước toàn thể Đảng Xã Hội Pháp.

70
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc được cử đi dự Đại hội toàn quốc lần thứ 18
của Đảng xã hội Pháp tại thành phố Tours với tư cách là đại biểu chính thức và duy
nhất của các nước thuộc địa Đông Dương. Ở giữa trung tâm, sào huyệt của chủ
nghĩa đế quốc, Người thẳng thắn tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và đề nghị sự
can thiệp của Đảng Xã Hội Pháp về vấn đề này. Mặc dù là người bản xứ duy nhất
trong số đại biểu các nước thuộc địa có mặt trong buổi Đại hội nhưng Bác đã cho ta
thấy cái ý chí vững vàng, sự kiên định trong mục tiêu lý tưởng thông qua bài phát
biểu của mình về vấn đề thuộc địa. Vấn đề thuộc địa là một trong những vấn đề
tranh luận nhạy cảm ở phương Tây trong những năm 1919 – 1920 nhưng Người là
một ngoại lệ, Người đã dũng cảm đứng lên đề cập về vấn đề thuộc địa trước toàn
thể Đại hội khiến nó trở nên có tầm cỡ hơn, được nhiều người đồng chí Cộng sản
Quốc tế để ý hơn.
Đồng thời, Người còn bày tỏ quan điểm ủng hộ sự gia nhập của Đảng Xã
hội vào Quốc tế thứ III - Quốc tế Cộng sản do Lênin thành lập. Người nhận định
đó mới thực sự là tổ chức giúp đỡ các dân tộc bị áp bức đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc để giành độc lập tự do. Cuối cùng với 2/3 số phiếu tán thành, trong
đó có lá phiếu của Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Pháp đã ra đời. Đây chính là
bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến từ nhận thức, tư tưởng thành hành động của
Nguyễn Ái Quốc, từ người Việt Nam yêu nước thành người Cộng sản Quốc tế
đồng thời xác lập cơ sở lý luận cho cách mạng Việt Nam, theo lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Ý chí nghị lực còn được khắc họa qua những khó khăn mà Người phải đối
diện khi bất đồng quan điểm so với Quốc tế Cộng sản về đường lối chính trị.
Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản
ở Việt Nam được tổ chức thành công, thông qua hội nghị đã xác định: Thành lập 1
đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930, đồng thời đề ra
“Cương lĩnh chính trị” (bao gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều
lệ vắn tắt). Tuy nhiên, nội dung bản Cương lĩnh chính trị có nhiều điểm khác biệt
so với đường lối của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ. Nếu như Quốc tế Cộng sản đặt
nặng vấn đề đấu tranh giai cấp, coi giai cấp tư sản và phong kiến nói chung đều là
cừu địch của cách mạng, Đảng phải là đảng chung của 3 nước Đông Dương và tên
Đảng phải là Đảng Cộng sản Đông Dương, thì Nguyễn Ái Quốc lại có lối suy nghĩ
khác biệt. Người cho rằng, nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được đặt
lên hàng đầu với chủ trương đánh đổ bọn tư sản và phong kiến tay sai phản động,

71
còn lại phải “hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ về
phe vô sản giai cấp” ngay cả đối phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam
mà chưa rõ phản cách mạng thì cũng phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập[5]. Về vấn đề tên Đảng, Người tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc và
đồng thời vẫn giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia trên mọi mặt trận.
Với tư cách là đại diện, Nguyễn Ái Quốc là người nắm rất rõ đường lối của
Quốc tế Cộng sản nhưng Người lại đưa ra những quyết định khác biệt, đi ngược lại
so với đường lối ấy. Người chấp nhận sự phê phán, kỷ luật của cấp trên, kiên định
làm theo chủ trương mà mình đã định ra. Người đón nhận tất cả những chỉ trích đó
và kiên định với lý tưởng cách mạng của mình, bởi đối với Người thì tự do cho
đồng bào, độc lập cho Tổ quốc/ mới là tất cả.
2.4. Khó khăn vì bị truy đuổi, theo dõi, tra tấn, giam giữ
Trong hành trình cứu nước của mình, Người đã có sức ảnh hưởng sâu sắc tới
đời sống tình cảm của khoảng 5.000 người Việt Nam đang ở nước ngoài. Điều này
đã khiến bọn bọn mật thám quốc tế phải dốc sức điều tra, ngăn chặn sức ảnh hưởng
lớn lao của Bác nhưng chúng chỉ càng làm quyết tâm thêm ý chí chí nghị lực của
Người thông qua hai sự kiện bị bắt đó là sự kiện bị bắt giam ở Hồng Kông và sự
kiện bị bắt giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch tại Trung Quốc. Vào cuối năm
1929, Bác lấy tên Tống Văn Sơ đến Hong Kong chủ trì cuộc họp thành lập Đảng
Cộng Sản Việt Nam - đội quân tiên phong đã giúp cách mạng ở Việt Nam có sự
chuyển mình mạnh mẽ. Không thể làm ngơ trước sự bành trướng của chế độ cộng
sản mật thám Pháp cùng với bọn mật thám quốc tế Anh, Hà Lan, Nhật Bản đã tích
cực phối hợp giăng lưới khắp nơi, lùng sục, bắt bớ những nhà cách mạng Ấn Độ,
Việt Nam, Triều Tiên…, trước hết là những người có liên hệ với Quốc tế Cộng sản
và Nguyễn Ái Quốc được liệt vào hàng đầu trong “sổ đen” của “Cảnh sát quốc tế”.
Sau khi đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản Joseph Ducroux bị Sở Liêm phóng
Pháp đọc trộm thư từ liên lạc, tung tích của Nguyễn Ái Quốc cũng bị bại lộ. Sáng
ngày 6/6/1931, Nguyễn Ái Quốc đã bị một tốp cảnh sát Anh sai ập vào xích tay áp
giải và bị tạm giam ở trụ sở Cảnh sát Hong Kong. Sau gần một tuần bị giam giữ,
cảnh sát Hong Kong đã chuyển Tống Văn Sơ về nhà tù Victoria nhằm dẫn Nguyễn
Ái Quốc về Đông Dương để thi hành án tử hình. Dù chịu cảnh giam giữ đầy nghiệt
ngã nhưng Người không lo cho tính mạng của bản thân mà chỉ lo cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc..Với sức lan tỏa rộng rãi cùng ý chí quật cường, cương nghị, sự
thông minh trong từng câu nói bằng tiếng Anh đã làm cho Frank H. Loseby (một vị

72
luật sư có tiếng người Hong Kong) phải cảm thán: “Sau 30 phút gặp gỡ, Người đã
hoàn toàn chinh phục tôi. Ở Người toát ra một sức mạnh cảm hóa rất kỳ diệu” [8].
Chính điều này khiến vị luật sư dốc hết sức tham gia bào chữa cho Bác đến cùng.
Sự kiên thứ hai diễn ra vào tháng 8/1942, khi Nguyễn Ái Quốc, dưới danh
nghĩa là đại biểu Việt Minh, đã từ Pác Bó (Cao Bằng) sang Trùng Khánh (Trung
Quốc) để kêu gọi sự ủng hộ của các nước đồng minh chống phát xít trong công
cuộc đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật. Tuy nhiên, trên đường từ Ba Mông,
huyện Tĩnh Tây tới huyện lỵ Bình Mã, Nguyễn Ái Quốc đã bị chính quyền địa
phương của Tưởng Giới Thạch bắt ở thị trấn Túc Vinh, huyện Thiên Bảo vì bị tình
nghi là gián điệp. Từ đây, Người đã trải qua hành trình gian khổ và bị đày đi giam
cầm ở 30 nhà lao thuộc 13 huyện khác nhau trong suốt 13 tháng ròng. Tác giả Trần
Dân Tiên đã kể về những ngày bị giam cầm của Bác trong tác phẩm “Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” như sau: “Tay bị tróc cổ mang xiềng
xích, có sáu người lính mang súng giải đi. Cụ hồ đi mãi đi mãi nhưng vẫn không
biết là đi đến đâu… Mỗi buổi sáng khi gà gáy đầu làng người ta lại giải cụ Hồ đi.
Mỗi buổi chiều khi chim về tổ người ta lại dừng lại ở một địa phương nào đó, giam
cụ vào xà lim, trên một đống giơ bẩn, không cởi trói cho cụ ngủ…” [4]. Trong hoàn
cảnh tù đày cả thể xác lẫn tinh thần, Bác vẫn lạc quan, yêu đời viết nên những vần
thơ như một cách vơi đi nỗi khổ đày đọa con người và những vần thơ đó đã được
tập hợp lại thành tập thơ “Nhật ký trong tù”:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”
Những vần thơ quen thuộc gợi lên tinh thần ung dung tự tại của Hồ Chí Minh
khi bị giam lỏng trong bốn bức tường cô quạnh. Đối mặt với gông xiềng tra tấn của
quân thù, Bác vẫn an nhiên hưởng thụ, bày tỏ niềm yêu thích thiên nhiên. Dường
như nhà tù chỉ công cụ giam giữ thân xác, chứ không thể giam giữ được tinh thần
của Bác. Phải chăng đây chính là cuộc vượt ngục tinh thần của người tù cách
mạng? Đối với nhiều người, việc bị giam lỏng, biệt lập hoàn toàn với thế giới bên
ngoài, có thể bị xử tử bất kỳ lúc nào thì làm sao có thể lạc quan được nhưng với
Bác càng trong thế hiểm nguy thì sự kiên trì và niềm tin sẽ giúp con người vượt qua
mọi thách thức:

73
“...Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”
Giữa bao nhiêu tăm tối của dãy xa lìm nhưng trong nhà giam đó vẫn ngời
sáng lên một tâm hồn lạc quan. Giữa muôn vàn khổ cực Bác vẫn vui vẻ, vẫn cảm
thấy cái vui tràn đầy trong cuộc sống. Những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc đến
nỗi bình thường chung quanh ta, nhưng với một tấm lòng yêu đời sâu sắc thì thiên
nhiên chính là người bạn tuyệt vời nhất. Lạc quan là vậy nhưng trong thâm tâm Bác
vẫn mang một nỗi lo, đó không phải là cái chết mà là cho dân cho nước.
“Một canh …hai canh… lại ba canh
Trằn trọc bâng khuâng giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”
Chân sải bước trên đất Bắc nhưng lòng vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào
đang trong cảnh lầm than, nhớ tiếng khóc của bao em bé đất Việt qua tiếng khóc của
một em bé Trung Quốc, nhớ các đồng chí đã đưa tiễn mình đến bên sông, nhớ lá cờ
tung bay phất phới trước gió, nhớ cả trong lúc tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ. Bác có
thể lạc quan để quên đi nỗi khổ của bản thân nhưng không thể nào quên đi nỗi đau
mất nước. Tinh thần lạc quan đầy bất khuất kết hợp cùng nỗi căm thù giặc sâu sắc,
quyết chí vì dân tộc và đất nước đã giúp Người vượt qua những lần bị tra tấn, bắt
giam và tù đày xa xứ.
3. Liên hệ với sinh viên hiện nay
Cả cuộc đời Bác Hồ là một tấm gương sáng trong về nghị lực, quyết tâm cho
thế hệ sinh viên ngày nay kế thừa và noi theo, như lời dạy trong bài nói chuyện tại
buổi lễ khai mạc Trường đại học nhân dân Việt Nam: “Nhiệm vụ của thanh niên
không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì
cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì
lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”
Thứ nhất, sinh viên phải có ước mơ và ý chí, nghị lực kiên cường chinh phục
những khát vọng, lý tưởng, hoài bão. Sức mạnh ý chí, niềm tin sẽ định hướng sinh
viên hướng về những điều tốt đẹp và gặt hái thành quả trên con đường chinh phục
ước mơ. Thực tế, cuộc sống hiện nay có biết bao tấm gương về ý chí, nghị lực phi
thường. Đó là chị Nguyễn Thúy Hằng - Thủ khoa đầu ra khoa Kế toán - Kiểm toán
Học viện Ngân hàng năm 2022 với GPA đạt 3.9/4.0. Mặc dù chị phải đối mặt với
những áp lực trong cuộc sống: bố mất sớm, gia đình chị nhiều năm đều thuộc hộ

74
nghèo, nhưng với nguồn động lực to lớn chị Hằng đã có 2 bài khoa học đăng tạp
chí khi còn là sinh viên, trở thành thủ khoa đầu ra, và làm tại PwC - Big 4 ngành
Kiểm toán. Như vậy, các bạn trẻ thế hệ mới hãy biến khó khăn, thử thách, khiếm
khuyết thành đòn bẩy, tiếp sức trên con đường chinh phục tương lai tươi đẹp ở phía
trước.
Thứ hai, sinh viên hiện nay cần phải rèn luyện tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước,
tránh đi những lối cũ, và tự mình phải luôn tìm tòi, suy nghĩ. Tự chủ là tự mình làm
chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân
tộc. Sáng tạo là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc
thù; sẵn sàng từ bỏ những cái cũ, và đề xuất những cái mới.
Học tập theo phong cách tư duy đổi mới không ngừng của Bác, sinh viên
trong thời đại công nghệ số đang rất hăng hái tham gia các cuộc thi, phong trào về
sự đổi mới, sáng tạo. Một trong số đó là cuộc thi Sáng tạo Robot châu Á - ABU
Robocon. Đặc biệt, sinh viên Việt Nam hiện đang nắm giữ nhiều lần vô địch nhất
trong cuộc thi này với 7 lần vô địch trong tổng số 18 lần góp mặt. Bên cạnh sự sáng
tạo, thế hệ trẻ Việt đang ghi một dấu ấn đậm sâu về lối tư duy độc lập và tinh thần
học tập trên trường quốc tế. Đó là em Ngô Quý Đăng - người đã mang lại huy
chương vàng với số điểm tuyệt đối tại Olympic Toán quốc tế (IMO) về cho nước
nhà sau 19 năm. Tự chủ, sáng tạo, ham học hỏi là tốt; tuy nhiên, sinh viên phải biết
tiếp thu những điều hay và bài trừ những nguồn tri thức hỗn tạp, không chính
thống. Đặc biệt, các bạn trẻ cần tỉnh táo khi tiếp xúc với các tin tức xuyên tạc, bịa
đặt về Đảng Cộng sản, về Bác Hồ đang tràn lan trên không gian số hiện nay.
Thứ ba, trang bị cho bản thân các kiến thức nền tảng về chính trị, văn hóa,
xã hội và tích cực tham gia vào các phong trào đoàn viên thanh niên. Lớp trẻ cần
phải có những hiểu biết vững chắc về lịch sử, truyền thống, phong tục, tập quán và
văn hóa Việt Nam, như Bác đã dạy: “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích
nước nhà Việt Nam”. Đồng thời, việc hòa mình vào các công việc xã hội - thiện
nguyện, như “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”,... sẽ
giúp sinh viên có thêm nhiều bài học mới, góp phần xây dựng Việt Nam tươi đẹp.
Như vậy, bài học về nghị lực và ý chí quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong hành trình tìm đường cứu nước vẫn còn nguyên giá trị đối với tuổi trẻ Việt
Nam hôm nay. Bài học ấy nhắc nhở tuổi trẻ phải phát huy tốt vai trò xung kích, ra
sức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; có được nghị lực và ý

75
chí quyết tâm, không ngừng nâng cao giác ngộ lý tưởng cách mạng, để cải tạo
Đảng ta ngày càng vững mạnh, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp, sáng
ngang cùng với các cường quốc năm châu.
KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu đã tập trung khai thác về những phẩm chất và tinh thần cách
mạng trong năm tháng bôn ba nơi xứ người (5/6/1911 - 28/1/1941) của vị lãnh tụ vĩ
đại của dân tộc Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là những năm tháng tuy khó
khăn, vất vả, nhưng lại tràn đầy sự nhiệt huyết tuổi trẻ, tinh thần ham học hỏi, ý chí
kiên cường bất khuất, tinh thần cách mạng triệt để, lòng yêu nước nồng nàn của
người thanh niên cộng sản Nguyễn Ái Quốc. Những đức tính cao đẹp đó được hòa
trộn một cách hài hòa, đẹp đẽ trong “người đi tìm hình dáng đất nước”. Với sự
phấn đấu không ngừng cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân, Hồ
Chí Minh đã thành công thực hiện được lý tưởng đem lại độc lập, tự do cho những
người đồng bào cùng khổ trên mảnh đất sông núi nước Nam.
Cuộc đời đầy lý tưởng của Hồ Chủ tịch đã trở thành một tấm gương cao quý
cho thế hệ con cháu, đặc biệt là sinh viên học tập và noi theo. “Học và làm theo
Bác” sẽ vẫn luôn là câu khẩu hiệu của biết bao phong trào vận động nhân dân cùng
tiến bộ, xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh. Từ đó, thế hệ thanh niên Việt Nam
ngày nay, mang trên mình danh hiệu cao quý “con cháu Bác Hồ”, cần phải cố gắng,
nỗ lực học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức, tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục
vụ”.
Mang tinh thần học hỏi và mong muốn lan truyền lòng ngưỡng mộ đến Bác
Hồ - người anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhóm chúng em cùng nhau viết
nên bài dự thi: “Ý chí, nghị lực cách mạng phi thường của “Người đi tìm bóng
hình đất nước”. Mặc dù có thể còn chút sai sót nhưng chúng em hy vọng thông qua
bài nghiên cứu này các bạn sinh viên sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về ý chí, lý tưởng
vượt khó của vị anh hùng vĩ đại của dân tộc, qua đó sẽ càng có thêm động lực để cố
gắng bước tiếp cuộc sống đầy chông gai của bản thân trở thành những “chủ nhân
tương lai” xứng đáng xây dựng và phát triển đất nước ngày một phồn vinh như
những gì người cha già kính yêu của toàn dân tộc Việt Nam hằng mong muốn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa
Lênin”, Bảo tàng Hồ Chí Minh tỉnh Thừa Thiên Huế, truy cập lần cuối ngày 8
tháng 5 năm 2022.

76
[2]. Đỗ Quang Lưu (2021), “Hành trình tìm đường cứu nước và những
chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc”, Học viện Lục quân, truy cập lần cuối ngày 8 tháng 5
năm 2022.
[3]. DTMLinh (2022), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước và ý
nghĩa đối với thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Cổng thông tin điện
tử tỉnh Lào Cai - Sở Khoa học và công nghệ, truy cập lần cuối ngày 10 tháng 5 năm
2022, từ https://skhcn.laocai.gov.vn/dang-bo/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-chu-nghia-
yeu-nuoc-va-y-nghia-doi-voi-thanh-nien-viet-nam-trong-giai-doa-997832
[4]. Man Thau Philla (2023), "Nhật ký trong tù - Tư tưởng Hồ Chí Minh",
Studocu, truy cập lần cuối ngày 2 tháng 5 năm 2202, từ
[5]. Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương (2021), "Vai trò của Nguyễn Ái
Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam", Cổng thông tin điện
tử tỉnh Bạc Liêu, truy cập lần cuối ngày 6 tháng 5 năm 2022,
[6]. ThS.Nguyễn Thị Mai (2022), “Sự khác biệt trong con đường cứu nước
của Nguyễn Ái Quốc”, Báo Tuổi trẻ Bình Dương, truy cập lần cuối ngày 6 tháng 5
năm 2022, từ http://m.tuoitrebinhduong.vn/tin-tuc/su-khac-biet-trong-con-duong-
cuu-nuoc-cua-nguyen-ai-quoc-19487.html
[7]. ThS. Bùi Ngọc Nguyên (2022), “Hành trang Nguyễn Ái Quốc khi ra đi
tìm đường cứu nước”, Ban quản lý quảng trường Hồ Chí Minh va tượng đài Bác
Hồ, truy cập lần cuối ngày 11 tháng 5 năm 2023, từ
https://quangtruonghochiminh.vn/vi/hanh-trang-nguyen-ai-quoc-khi-ra-di-tim-
duong-cuu-nuoc-ssn364.html
[8] Trịnh Văn Dũng - Nguyễn Văn Duyên (2022), "Kỳ 4: Bông hoa không
thể hái trên đất Hong Kong", Báo điện tử Quân đội Nhân dân, truy cập lần cuối
ngày 2 tháng 5 năm 2202, từ https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/ky-4-
bong-hoa-khong-the-hai-tren-dat-hong-kong-661550
[9]. TS. Tôn Thất Bình (2008), “Phong trào chống thuế năm 1908 ở Huế và
sự tham gia của anh Nguyễn Tất Thành”, Bảo tàng Hồ Chí Minh tỉnh Thừa Thiên
Huế, truy cập lần cuối ngày 11 tháng 5 năm 2022,

77
Ý CHÍ, NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
TRONG HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Ngô Hồng Nhung, Phạm Mai Linh
Nguyễn Quốc Tuấn
Lớp K24 CLC, Quản trị A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kinh yêu, anh hùng của dân tộc Việt Nam,
Người là nhà cách mạng và Chủ tịch nước đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Người là tấm gương sáng về đạo đức, ý chí, nghị lực phi thường cũng
như một con người với lối sống giản dị và nhân cách cao đẹp để tất cả mọi người
noi theo.
Ý chí và nghị lực phi thường của Bác được thể hiện xuyên suốt trong cuộc
đời, đặc biệt là những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước. Người phải bôn ba qua
nhiều nước, gặp nhiều khó khăn về cả thể chất và tinh thần, phải đối mặt với sự
truy đuổi của kẻ thù cùng với sự hiểu lầm của các chiến hữu trong Quốc tế Cộng
sản vì những tư duy sáng tạo của Người trong việc xác định nội dung, tính chất,
mục tiêu của con đường giải phóng dân tộc. Không những vậy, trong quá trình hoạt
động cách mạng, có những lần Người đã rơi vào tay kẻ thù, ở trong tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Tuy nhiên, bằng ý chí kiên cường Người đã vượt qua và tìm
thấycon đường cứu nước phù hợp với dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi đến
thắng lợi hoàn toàn
NỘI DUNG
1. Tóm tắt về hành trình ra đi tìm đường cứu nước
Vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành mang cái tên Văn Ba đã rời khỏi bến cảng nhà Rồng trên con tàu Amiran
Latusơ Tơrêvin, bắt đầu cuộc hành trình ra đi tìm đường cứu nước. Sau khoảng thời
gian một tháng vượt biển, chuyến tàu Amiran Latusơ Tơrêvin cập bến đến Mácxây,
một hải cảng vô cùng quan trọng của nước Pháp. Đây là lần đầu tiên Nguyễn Tất
Thành đặt chân lên đất nước Pháp.
Trong gần 10 năm (1911-1920) trên hành trình tìm đường cứu nước, Người
vừa phải lao động kiếm sống, vừa tiến hành các cuộc khảo sát thực tiễn tại nhiều
nước tư bản và các nước thuộc địa, cũng như khảo sát các cuộc cách mạng ở các
nước Pháp, Anh, Mỹ và nhìn nhận ra những mặt trái của xã hội phương Tây…
Nguyễn Tất Thành đã rút ra được một nhận thức rất quan trọng đó là: Nhân dân lao

78
động trên toàn thế giới cần phải đoàn kết lại với nhau để đấu tranh chống kẻ thù
chung đó là giai cấp thống trị; cùng nhau thực hiện nguyện vọng chung đó là giành
được độc lập, tự do.
Vào cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp trong lúc cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vừa bùng nổ thắng lợi. Sự kiện này
đã mở ra một hướng phát triển mới trong lịch sử loài người và có ảnh hưởng rất lớn
đến nhận thức của Người.
Đến cuối năm 1919, Người đã tham gia Đảng xã hội Pháp, một chính Đảng
duy nhất ở Pháp tỏ ý quan tâm đến số phận các dân tộc thuộc địa. Tuy nhiên, Bác
nhanh chóng cảm thấy thất vọng, vì họ nói rất hay, thông qua những nghị quyết rất
kêu, để sau đại hội đưa vào viện bảo tàng.
Vào ngày 30 tháng 12 năm 1920, tại đêm bế mạc Đại hội Tours của Đảng xã
hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế 3, sau đó tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình.
Cuối năm 1924, Người trở lại Quảng Châu (Trung Quốc) và bắt đầu truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng
lớp nhân dân và xây dựng tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát
triển lực lượng cách mạng. Cuối năm 1929, Người đã triệu tập các đại biểu của các
tổ chức Cộng sản sở Đông Dương dự Hội nghị hợp nhất (Người trực tiếp trủ trì Hội
nghị) dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930). Người đã soạn
thảo các văn kiện và sau đó được Hội nghị hợp nhất thông qua: Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt.
Sau nhiều năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28 tháng 1 năm 1941, Người
đã vượt qua biên giới Việt - Trung để đặt chân trở lại trên mảnh đất địa đầu của Tổ
quốc sau hơn 30 năm xa cách.
2. Ý chí, nghị lực phi thường của Nguyễn Ái Quốc để vượt qua những
khó khăn, thử thách trong hành trình tìm đường cứu nước
2.1. Ý chí và nghị lực được hình thành, phát triển trong môi trường sống và
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của đất nước, từ những tố chất cá nhân của Người và
thừa hưởng từ cha mẹ, gia đình, quê hương.
Nguyễn Ái Quốc là một người con xứ Nghệ, nơi từ lâu nổi tiếng với truyền
thống hiếu học đã sinh ra biết bao vị anh hùng trong lịch sử. Người xuất thân trong
một gia đình nhà Nho nề nếp, có cha là ông Nguyễn Sinh Sắc, người đã đỗ Phó

79
bảng trong kì thi Hội năm 1901 và mẹ là bà Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ
Việt Nam điển hình, bà làm nghề nông và dệt vải, tần tảo chăm sóc chồng và nuôi
con cái ăn học. Với đồng lương ít ỏi từ nghề dạy trẻ của cha và nghề dệt vải của
mẹ, cuộc sống của gia đình trở nên rất khó khăn cùng với việc ngay từ khi còn tấm
bé, cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã bộc lộ tố chất thông minh, ham học hỏi và thích
được khám phá những điều mới lạ, và sớm được cha gửi đến học chữ Hán cùng với
các thầy giáo mang tư tưởng yêu nước tiến bộ nên Người đã sớm thấm thía và thấu
hiểu được thời cuộc, nỗi khổ cực của người dân. Sau này khi lớn lên, càng được
tiếp cận với nền văn minh Pháp qua sách vở ở trường, Người càng muốn được tiếp
thu những tư tưởng tiến bộ của Tây Âu và mong muốn chuyến đi đến trời Tây để
học hỏi nền văn mình nước họ.
Bên cạnh đó, ý chí nghị lực của Người còn bắt nguồn từ những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, đó là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hoá của dân
tộc ta trong suốt ngàn năm lịch sử. Sống trong cảnh nước mất nhà tan, được nuôi
dưỡng trong gia đình nhà nho nề nếp, giàu lòng yêu nước đã hình thành tư tưởng
yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đó
là ý thức mạnh mẽ về chủ quyền quốc gia dân tộc, về ý chí tự lực, tự cường, yêu
nước,... Từ xưa tới nay, truyền thống nhân nghĩa, tương thân tương ái, đoàn kết
luôn được các thế hệ người Việt kế thừa và phát triển, nuôi dưỡng tâm hồn, tình
cảm, tư tưởng của mỗi người. Người sớm nhận thấy được nguyên nhân gây ra sự
thất bại của các cuộc đâu tranh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX là do chưa tìm được
con đường và phương pháp đấu tranh đúng đắn, chưa phát huy tối đa khối đại doàn
kết dân tộc. Người còn tiếp thu và phát huy truyền thống cần cù, thông minh, sáng
tạo, ham học hỏi, luôn sẵn lòng đón nhận tinh hoa văn hoá bên ngoài làm giàu cho
văn hoá nước nhà. Chính nhờ việc kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc đã tạo ra một nguồn động lực mạnh mẽ thôi thúc người thanh niên trẻ
yêu nước quyết chí bước chân lên con tàu Latouche Tréville, rời bến cảng nhà
Rồng, ra đi tìm đường cứu nước.
2.2. Ý chí và nghị lực được hình thành không chỉ ở sự khắc phục những khó
khăn, gian khổ mà còn vượt qua cả những cám dỗ để vững vàng, kiên định với lý
tưởng, mục đích của mình
2.2.1. Cuộc sống mưu sinh khó khăn, thiếu thốn khi lên đường ra đi tìm
đường cứu nước
Trong thời gian Nguyễn Tất Thành lựa chọn rời khỏi ngôi trường Dục Thanh
ở Phan Thiết để nam tiến vào Sài Gòn tiếp tục cuộc hành trình đi tìm con cứu nước,
80
chàng thanh niên đó chấp nhận làm đủ mọi nghề nhằm đủ tiền trang trải trên mảnh
đất Sài Gòn xa lạ và tìm cách đi ra nước ngoài, học hỏi cái hay của họ và đem về
giúp cho người dân Việt Nam. Nguyễn Tất Thành xin vào học tại trường dạy nghề
mở gần chợ Cũ, nơi đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho
xưởng Ba Son, sau đó làm nghề bốc vác ở cảng Sài Gòn nhằm tìm kiếm cơ hội đến
Pháp thông qua con đường hàng hải. Công việc ở cảng vô cùng nặng nhọc nhưng
với mục tiêu lớn lao là tìm ra con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Tất Thành
tiếp tục gắn bó với công việc này và ngày càng thêm thấu hiểu sự gian khổ mà
người dân phải đối mặt. Cũng tại đây, Nguyễn Tất Thành nhanh chóng làm quen
với một người Việt làm phụ bếp trên một con tàu viễn dương của Pháp, đó chính là
con tàu Đô đốc Latouche Tréville và quyết định theo con tàu đó đến Pháp. Trước
khi xuất phát, Nguyễn Tất Thành đã bàn bạc và rủ một người bạn quen ở trường
thợ về chuyến đi nước ngoài. Khi người bạn đó hỏi về số tiền trang trải cho chuyến
đi, Bác đã quả quyết rằng bản thân sẽ làm đủ mọi công việc dù vất vả, gian khổ,
vẫn sẽ tìm đủ được mọi cách để sống, để đi và để đến nước Pháp với mục tiêu, hoài
bão lớn lao. Vì vậy, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên
Văn Ba rời bến cảng nhà Rồng trên con tàu Latouche Tréville ra đi tìm đường cứu
nước. Đó tiếp tục là chuỗi những ngày tháng vất vả vô cùng khó khăn. Chàng thanh
niên phải làm việc từ sáng sớm đến tối muộn, bắt đầu với công việc rửa sạch nhà
bếp, phục vụ cho gần 800 hành khách và thủy thủ. Công việc hằng ngày mà
Nguyễn Tất Thành phải làm là lấy than, quạt bếp, mang rau, khoai tây, cá thịt từ
kho lên bếp,... và công việc khó khăn nhất là cọ rửa những chiếc chảo bằng đồng
lớn và những cái nồi quá cao so với vóc dáng nhỏ bé của mình. Tuy vất vả là vậy
nhưng người thanh niên trẻ vẫn thường hay thức đến tối muộn, chăm chỉ đọc sách
và viết lách, học tập tiếng Pháp từ những người thủy thủ. Văn Ba nhanh chóng kết
bạn được với các thủy thủ khác, được họ giúp đỡ trong công việc hằng ngày và
cũng được nghe từ họ những câu chuyện về nước Pháp và những người sống ở đó.
Qua đó, càng làm sâu đậm thêm khát khao được đến với nước Pháp, học hỏi từ nền
văn minh tiên tiến. Những sự khó khăn ấy đâu thể làm chùn bước chàng thanh niên
trẻ với hoài bão lớn lao ra đi tim đường cứu nước. Và có lẽ, cuộc sống gian khổ
trên con tàu đã góp phần không nhỏ rèn luyện thêm ý chí và nghị lực cho chàng
thanh niên Nguyễn Tất Thành trong chặng đường sau này.
Và đến ngày 15 tháng năm 1911, tàu cập bến Le Havre, một cảng ở miền
Bắc nước Pháp, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã chính thức đặt chân lên
nước Pháp. Sau đó Nguyễn Tất Thành đã viết đơn xin Tổng thống Pháp cho học ở

81
trường thuộc địa nhưng đã bị từ chối. Trong khoảng thời gian đó để trang trải cuộc
sống, từ một người phụ bếp Văn Ba đã xin làm vườn cho một gia đình quý tộc tại
Sainte Adresse. Sau khi nhận được thư từ chối, Người đã rời khỏi nước Pháp, tiếp
tục lên con tàu của một hãng vận tải hợp nhất Sácgiơ Rêuyni đi vòng quanh châu
Phi và châu Mĩ. Đến cuối năm 1912, người đã đặt chân lên nước Mỹ. Những ngày
đầu đến Mỹ, tại quận Brooklyn, thành phố New York, để vượt qua khó khăn, thiếu
thốn tiền bạc, Người tiếp tục đi làm thuê để trang trải cuộc sống, sau đó một thời
gian, Người rời New York đến thành phố Boston, vùng hải cảng thuộc bang
Massachuset. Đến cuối năm 1913, chàng thanh niên lên tàu rời Mỹ di chuyển sang
Anh. Tại đây, Nguyễn Tất Thành tìm được một công việc khác là đốt lò, nhưng đây
cũng là một công việc cực kỳ mệt nhọc. Anh phải thức dậy từ 5 giờ sáng, suốt ngày
phải nhóm lửa, đổ than, thay than. Sau 2 tuần nghỉ đốt lò vì bị cảm, anh chuyển
sang làm thuê ở khách sạn Drayton Court, đại lộ Drayton, khu West Ealing, Tây
London. Một thời gian sau, anh tiếp tục chuyển sang khách sạn Carlton và được
vua đầu bếp Escophier yêu quý. Cũng vì vậy, nên Nguyễn Tất Thành được người
đầu bếp chuyển sang khu vực làm bánh và truyền nghề cho. Tuy vất vả là vậy
nhưng Nguyễn Tất Thành vẫn miệt mài học Tiếng Anh vào trước và sau thời gian
lao động. Cuối tuần, anh còn tham gia học với một giáo sư người Italy. Cuối năm
1917, Nguyễn Tất Thành di chuyển từ nước Anh về Pháp. Tại đây, Người phải làm
nhiều việc để trang trải, song song với đó là hoạt động cách mạng. Theo một báo
cáo của mật thám vào 19/6/1922 thì buổi sáng phải làm thuê ở một cửa hàng ảnh,
buổi chiều bán rượu rum. Nhưng do thu nhập không cao nên Người còn làm nhiều
nghề khác như làm đồ giả cổ, vẽ quạt, lọ hoa, chao đèn. Để chống chọi vào mùa
đông khắc nghiệt ở Paris, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, người thanh niên đều để
một viên gạch vào bếp lò của bà chủ nhà. Đến chiều, lại lấy viên gạch ra, bọc trong
những tờ báo cũ rồi để trên giường cho đỡ rét. Ăn uống thiếu thốn cùng với công
việc lao động vất vả, sức khoẻ của Nguyễn Tất Thành giảm sút, nhưng với ý chí
nghị lực phi thường, Người đã vượt qua tất cả những khó khăn về sức khỏe để tiếp
tục tham gia vào những hoạt động cách mạng. Có lẽ những ngày sống gian khổ trên
tàu đã góp phần rèn luyện ý chí và nghị lực phi thường của chàng thanh niên
Nguyễn Tất Thành trong con đường tìm đường cứu nước.
2.2.2. Những thử thách khi Người hoạt động cách mạng làm tôi luyện ý chí,
nghị lực giúp Người vượt qua cả những cám dỗ để vững vàng, kiên định với lý
tưởng, mục đích của mình

82
Ngay từ khoảng thời gian đầu ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhận ra tầm quan
trọng của tiếng Pháp và sự thiếu sót ngôn ngữ là một nhược điểm lớn trong công
cuộc đấu tranh giành độc lập trên đất Pháp. Khi viết bản “Yêu sách của nhân dân
An Nam”, Nguyễn Ái Quốc đã phải nhờ luật sư Phan Văn Trường viết lại bằng
tiếng Pháp, điều đó khiến Người nhận ra chưa viết và nói được tiếng Pháp là một
nhược điểm lớn. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc tìm đến tờ báo Dân chúng tại Pháp và
thường xuyên lui tới đây để học viết báo bằng tiếng Pháp. Và chỉ một thời gian
ngắn sau đó, Nguyễn Ái Quốc trở thành một nhà báo sắc sảo và thường xuyên viết
bài phê phán thực dân Pháp và chế độ thuộc địa.
Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc phải đối mặt với sự lôi kéo, đe dọa của chính
quyền Pháp, tuy nhiên bằng lập trường kiên định và sự khéo léo của mình, Người
luôn vững vàng với con đường mình đã chọn và vượt qua được những lần đối diện
với quan chức cấp cao Pháp. Vào tháng 2 năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập
Đảng xã hội Pháp sau khi nhận thấy sự thành công vang dội của Cách mạng tháng
Mười Nga đã tác động mạnh mẽ đến nội bộ Đảng xã hội và có thể, công cuộc cách
mạng sẽ dần chiếm ưu thế đồng thời Đảng xã hội là tổ chức duy nhất có thái độ
thiện cảm với các nước thuộc địa và lên án chế độ thực dân. Vì vậy, đây không chỉ
là cơ hội lớn đối với chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành mà còn cho những người
thanh niên yêu nước, các nhà hoạt động cách mạng khác nhằm nói lên tiếng nói của
dân tộc họ với vấn đề dân tộc, vấn đề thuộc địa và đem những hành động tàn ác,
bóc lột của chế độ thực dân đối với người dân thuộc địa ra ánh sáng. Tháng 6 năm
1919, Hội nghị Hòa bình diễn ra ở Véc-xai gồm những nước thắng trận. Tổng
thống Mỹ Wilson đã phát biểu tại hội nghị rằng đề nghị thành lập liên minh các dân
tộc để đảm bảo độc lập các dân tộc dù lớn dù nhỏ trên thế giới. Lời phát biểu đó
khiến Nguyễn Tất Thành rất quan tâm và cùng Hội những người An Nam yêu nước
viết bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”. Và vào ngày 18 tháng 6 năm 1919, bản
Yêu sách đó được đăng lên tờ báo Nhân đạo với bút danh Nguyễn Ái Quốc gồm 8
điều đòi quyền tự do và bình đẳng và gửi tới Hội nghị Hòa bình ở Véc-xai. Bản yêu
sách đã gây tiếng vang lớn trong dư luận, từ đó chính phủ và cơ quan điều tra Pháp
bắt đầu điều tra về người đàn ông tên Nguyễn Ái Quốc này. Thực chất, Nguyễn Ái
Quốc là cái tên được ghi chung, đại diện cho Hội những người An Nam yêu nước
nhưng kể từ đây Nguyễn Tất Thành được biết đến dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc.
Với sự quan tâm đặc biệt của chính quyền Pháp bởi những bài viết phê phán thực
dân Pháp được đăng lên trên các tờ báo, đặc biệt là sau bản “Yêu sách của nhân dân

83
An Nam”, Nguyễn Ái Quốc nhận được rất nhiều lần thư mời gặp mặt Albert
Sarraut - Bộ trưởng bộ thuộc địa, đại diện tối cao của các thuộc địa, người có quyền
ra lệnh bắt giam bất kì người dân thuộc địa nào. Trong ba lần gặp mặt, trước những
lời dọa nạt, đôi khi dụ dỗ và rất nhiều quyền lợi để lôi kéo, tuy nhiên Nguyễn Ái
Quốc luôn cứng rắn, thể hiện quan điểm muốn trả lại tự do, độc lập cho đất nước
bởi Người hiểu rõ đây là nước Pháp, một nước luôn nêu cao khẩu hiệu “Tự do -
Bình đẳng - Bác Ái”. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đủ khôn khéo để đối phó với quan
chức Pháp tại đây và có thể ra về tự do sau những buổi phỏng vấn.
Trước sự theo dõi, giám sát chặt chẽ của mật thám Pháp, Nguyễn Ái Quốc
chọn cách rời đi trong bí mật khỏi mật thám, lên kế hoạch làm lơ lỏng cảnh giác
của chúng bằng cách tuân theo một lịch làm việc bất di bất dịch: sáng đi làm hoặc
làm việc tại nhà, chiều đến thư viện, tối dự meeting, khuya về ngủ khiến cho mật
thám quen với lịch trình này nên cứ hễ thấy Nguyễn Ái Quốc về nhà là bọn chúng
cũng âm thầm rút lui. Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc còn tung tin giả để làm nhiễu loạn
thông tin cho mật thám như câu chuyện Nguyễn Ái Quốc kể với bác gác cổng
muốn đi Thụy Sĩ nhưng vẫn đang vướng về hộ chiếu. Và vào ngày 13 tháng 6 năm
1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia meeting như thường lệ, tuy nhiên khoảng nửa giờ
sau khi họp, Người âm thầm rời đi và thành công lên một chuyến tàu đóng giả
thành người giàu có và đi đến Đức sau đó sang Liên Xô. Tại đây, Người tham dự
đại hội quốc tế lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và nhiều Đại hội nghị quốc tế khác.
Cuối năm 1924, Người về Quảng Châu, hoạt động và thành lập Hội Việt
Nam Cách mạng thanh niên và cho ra đời Báo Thanh niên nhằm tuyên truyền cách
mạng. Tuy nhiên một sự kiện bất ngờ xảy ra khi 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch
quay lưng và chống lại Cộng sản, tình hình chính trị tại Trung Quốc trở nên rối rắm
và đưa toàn bộ những người cộng sản trong đó có Nguyễn Ái Quốc vào tầm ngắm.
Trước nguy cơ bị bắt, Nguyễn Ái Quốc buộc phải rời Quảng Châu và tìm đường trở
về Liên Xô. Vào tháng 7 năm 1928, sau khi nguyện vọng về Đông Dương được
Quốc tế Cộng sản chấp thuận, Nguyễn Ái Quốc có mặt tại Xiêm và tổ chức, tuyên
truyền cách mạng cho bà con Việt Kiều. Hoạt động của Người đã được mật thám
Pháp đánh hơi thấy và phối hợp với cảnh sát Xiêm vây bắt tuy nhiên Nguyễn Ái
Quốc đã biết tin trước và thành công trốn thoát trong 1 căn hầm bí mật. Tuy nhiên,
khó khăn vẫn chưa dừng lại khi năm 1929, chính quyền Pháp tuyên bố tử hình vắng
mặt đối với Nguyễn Ái Quốc, điều này có nghĩa là chỉ cần bị bắt và đưa về Đông
Dương, Nguyễn Ái Quốc sẽ bị xử tử ngay lập tức.

84
Ngày 6 tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ (một bí danh khác của Nguyễn Ái
Quốc lúc hoạt động ở Hồng Kông) bị chính quyền thực dân Anh bắt giam ở nhà tù
Victoria. Tống Văn Sơ bị vu cáo là một người Bônsơvích cực kỳ nguy hiểm và có
âm mưu lật đổ chính quyền người Anh ở Hương Cảng, có thể bị tù đày, tra khảo và
thậm chí là bị giết, nếu có thoát khỏi “móng vuốt” của thực dân Anh thì cũng sẽ
nằm trong tay mật thám Pháp, còn may mắn được thả tự do khi chứng minh mình
vô tội, thoát ra khỏi Hương Cảng thì Người sẽ bị đặc vụ Quốc dân Đảng bắt theo
chính sách khủng bố trắng mà Tưởng Giới Thạch đưa ra đối với những người cộng
sản đang hoạt động tại Trung Quốc. Để cứu Tống Văn Sơ, tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc
tế, một cơ quan thuộc Quốc tế Cộng sản, đã thuê luật sư Francis Henry Loseby để
hỗ trợ pháp lý. Ngày 28 tháng 12 năm 1932, Nguyễn Ái Quốc được rời khỏi bệnh
viện nhà tù Bowden Road, chính thức được tự do sau 18 tháng bị giam giữ. Đến
ngày 19 tháng 1 năm 1933, cảnh sát Hồng Kông bắt Nguyễn Ái Quốc lần hai vì vi
phạm lệnh của tòa (tức là cấm trở lại Hồng Kông trong vòng 10 năm).
Trong thời gian bị bắt giam, Nguyễn Ái Quốc còn phải chịu đựng một cuộc
sống thiếu thốn, vất vả. Người bị giam trong những xà lim “bề cao 3 thước tây, mà
bề ngang chỉ hơn một thước, bề dọc không đầy hai thước, bề rộng chỉ vừa một
người nằm xiên xiên”, ánh sáng ban ngày chỉ lọt vào xà lim “một cách rụt rè, bỡ
ngỡ… qua một cái cửa sổ nhỏ hình nửa mặt trăng lờ mờ, bị song sắt và lưới sắt
bưng bít”, thức ăn của người tù mỗi ngày ăn “hai bữa cơm gạo xay, một phần tư là
thóc. Hôm nay, thức ăn buổi sáng có rau muống, bữa chiều có mắm thối hoặc cá
ươn. Hôm sau, thay đổi “khẩu vị”, bữa sáng có mắm thối hoặc cá ươn, bữa chiều
có rau muống”. Người đã trải qua cuộc sống thiếu thốn, khắc nghiệt thậm chí là có
thể mất cả tính mạng ròng rãi ba năm trời. Ngoài ra, trong giai đoạn 1930–1932,
Nguyễn Ái Quốc bị lao phổi rất nặng, cơ thể suy nhược. Nhưng trong ngần ấy thời
gian, Người vẫn kiên định một lòng hướng về đất nước, về nhân dân, về vận mệnh
của cách mạng.
Sau khi ra khỏi nhà tù, Hồ Chí Minh trở lại Liên Xô năm 1934, vào học
trường Quốc tế Lênin. Sau đó, Người làm nghiên cứu sinh tại Ban Sử của Viện
nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Trong khoảng
thời gian này, Nguyễn Ái Quốc không chỉ phải đối mặt với sự truy bắt của kẻ thù
mà còn bị ngay cả các nhà cách mạng khác ở Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản
hiểu lầm. Sau đại hội VI Quốc tế Cộng sản, lúc này đại hội nhấn mạnh đấu tranh
giai cấp, xác định nhiệm vụ chống đế quốc, phong kiến, chủ nghĩa dân chủ và cả

85
các thế lực tôn giáo, chỉ có công nông là cách mạng. Ngược lại với tư tưởng đó,
Bác Hồ đã có những tư tưởng tiến bộ về việc tập hợp lực lượng đấu tranh cách
mạng (không chỉ có công - nông mà còn có thêm các tầng lớp khác) hay kiên định
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì Đảng Cộng sản Đông Dương như Quốc
tế Cộng sản yêu cầu. Song song với đó, việc Bác Hồ được thả ra nhờ sự giúp đỡ vô
cùng có hiệu quả của vợ chồng luật sư Loseby (người Anh) đồng thời có sự giúp đỡ
của Cứu tế đỏ và sự giúp đỡ phần nào của V. Cutuyriê, Uỷ viên Trung ương Đảng
Cộng sản Pháp. Vốn đang bị hiểu lầm mà lại trắng án, ra tù của đế quốc, lại do
những người không cộng sản cứu thoát, thì việc trở về đại bản doanh Mátxcơva, Hồ
Chí Minh khó mà lấy lại ngay niềm tin của Quốc tế Cộng sản. Năm 1938, Người
viết thư cho một lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản xin về nước và may mắn thay đề
nghị được chấp thuận. Đến tháng 10/1938, Hồ Chí Minh rời Liên Xô, qua Trung
Quốc về Việt Nam. Tháng 1 năm 1941, Người về gần tới biên giới Việt Nam và
chính thức trở về vào cuối tháng tháng 1 năm 1941.
Vào ngày 13 tháng 8 năm 1942, từ Cao Bằng, với tên mới là Hồ Chí Minh,
Người lên đường đi Trung Quốc với mục đích gặp Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế đồng thời liên lạc với các lực
lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng minh tuy nhiên, trên
đường đi, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ vì nghi là gián điệp do giấy tờ
chứng minh đã quá hạn sử dụng. Kể từ đó, Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng
Giới Thạch giải qua 30 phòng giam thuộc 18 nhà lao của 13 huyện tỉnh Quảng Tây,
sống trong chế độ nhà tù ngột ngạt, ốm đau, bệnh tật. Dù “Hai tay bị trói, cổ mang
dây xiềng, trước và sau có một tiểu đội cảnh sát, súng lắp đạn sẵn, lưỡi lê sáng lòe.
Đến mỗi nhà tù mỗi huyện, nghỉ lại ít hôm rồi lại bị giải đi. Nhà tù thì chật hẹp bẩn
thỉu, người bị giam thì đông, không đủ chỗ ngủ cho mọi người” nhưng Người vẫn
không ngừng hoạt động cách mạng. Chính trong thời gian bị giam giữ, Người đã
sáng tác ra hơn 100 bài thơ viết bằng chữ Hán, đó là tập thơ “Ngục trung nhật ký”
(Nhật ký trong tù) phản ánh xã hội Trung Quốc, thể hiện khí phách kiên cường, cao
thượng của một người cộng sản kiên trung. Ngay sau khi được trả tự do vào ngày
13 tháng 9 năm 1943, Người ngay lập tức bắt liên lạc với Hội giải phóng Việt Nam,
một bộ phận của Việt Minh tại Vân Nam (Trung Quốc) và nhiều tổ chức chống
Nhật – Pháp tại đây để tiếp tục công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
KẾT LUẬN

86
Hồ Chí Minh là một vị anh hùng kiệt xuất, là biểu tượng và hình ảnh mẫu
mực về nhân cách của một người cách mạng luôn mang trong mình sự quyết tâm và
ý chí phả giành lại cho bằng được tự do cho dân tộc. Ý chí và nghị lực của Bác
được thể hiện xuyên suốt cả cuộc đời mình, đặc biệt rõ nét nhất chính là trong
khoảng 30 năm rời xa quê hương đi khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường giải
phóng dân tộc, đưa đất nước ra khỏi ách đô hộ của bọn thực dân Pháp. Bằng ý chí
và nghị lực của mình, Người đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng và to lớn
trong sự nghiệp đấu tranh chung của của các dân tộc vì hoà bình, vì độc lập dân tộc.
Những công lao đóng góp của Người được con cháu Việt Nam muôn đời sau ghi
nhớ và biết ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Vũ Kim Yến (2021), Ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành khi ra đi
tìm đường cứu nước, truy cập tại: https://www.qdnd.vn/, ngày 8 tháng 5 năm 2023
[2]. Hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1911-1941, truy cập
tại:https://vi.wikipedia.org, ngày 8 tháng 5 năm 2023
[3]. Chủ tịch Hồ Chí Minh với những công việc đã trải qua trong hành trình
cứu nước, truy cập tại:https://baothaibinh.com.vn/ , ngày 8 tháng 5 năm 2023
[4]. Một số mẩu chuyện cảm động về người phụ bếp trên con tàu Amiral la
Touche de Tréville, truy cập tại://tinhuyquangtri.vn/, ngày 8 tháng 5 năm 2023
[5]. Trinh Quang Phú (2021). Sài Gòn trong hành trang của Bác. Truy cập
tại: http://vannghequandoi.com.vn, ngày 8 tháng 5 năm 2023.
[6]. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử tập 1, truy cập tại:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/, ngày 8 tháng 5 năm 2023.
[7]. Nguyễn Bảo Tuấn (2021). Bối cảnh trong nước và thế giới thời điểm
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, truy cập tại:
http://khuditichkimlien.gov.vn,ngay 9 tháng 5 năm 2023.
[8]. GS, TS Tạ Quang Thắng. Tại sao Hồ Chí Minh bị hiểu lầm?
https://thehehochiminh.wordpress.com/-truy cập ngày 10/5/2023.
[9]. Bảo tàng lịch sử quốc gia. Cách đây 71 năm (29/8/1942- 29/8/2013) - Hồ
Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ. Tác phẩm “ Nhật ký trong tù”
ra đời, truy cập tại: https://baotanglichsu.vn/, ngày 10 tháng năm 2023.

87
Ý CHÍ, NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Lê Nguyễn Nhất Linh, Nguyễn Thuỷ Linh,
Hà Kiều Loan, Nguyễn Khải Minh,
Lê Đình Quang, Đặng Hoàng Quân,
Bùi Phương Thảo, Lê Thị Thuỳ Trang, Nguyễn Huyền Trang
K24CLC, Kế toán A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất đã về với cõi vĩnh hằng 54 năm. Hồ
Chí Minh ra đi, nhưng đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản tư tưởng vô giá,
mà Hồ Chí Minh còn để lại cho chúng ta một hình ảnh sống động về ý chí và nghị lực
của một người cách mạng: “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khổ không thể
chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về
ý chí, nghị lực phi thường được bắt nguồn từ truyền thống của dân tộc Việt Nam,
phẩm chất cao đẹp ấy đã được hình thành hàng ngàn năm suốt chiều dài lịch sử dân
tộc và kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân
loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Là một công dân Việt Nam, là một thanh niên trong thời đại mới, là chủ nhân
tương lai của đất nước cần phải cố gắng và tích cực xây dựng ý chí, nghị lực ngày
một vững mạnh hơn. và tấm gương tiêu biểu nhất cho việc ý chí và nghị lực giúp
bản thân mỗi người tu luyện bản lĩnh vượt qua những khó khăn thử thách đó chính
là hành trình bôn ba tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Trong tình hình cấp
thiết đó, nhóm chúng em đã quyết định chọn đề tài “Ý chí nghị lực phi thường của
Nguyễn Ái Quốc Để vượt qua những khó khăn thử thách trong hành trình tìm
đường cứu nước” để thực hiện bài tham luận của mình.
NỘI DUNG
1. Ý chí và nghị lực
“Ý" thường được dùng để chỉ ý nghĩa, suy nghĩ, tư tưởng, khát vọng, mục
đích hay ý định của một người. Nó có thể được hiểu như một khả năng trí tuệ, tư
duy của con người. "Chí" thường được hiểu là tinh thần, phẩm chất, tính cách hay
phẩm giá của một người. Nó ám chỉ đến sức mạnh, kiên trì, quyết tâm, can đảm, nỗ
lực không ngừng nghỉ trước những khó khăn, thách thức. Tóm lại, ý chí nói lên sự
nỗ lực, bền bỉ không mệt mỏi của một người để đạt được những khát vọng mà bản

88
thân mong muốn. Ngoài ra, ý chí cũng được thể hiện qua việc định hướng và hành
động theo đúng giá trị và nguyên tắc mà chúng ta tin tưởng. Một người làm việc bất
chấp, không có định hướng, chủ đích, mục tiêu rõ ràng thì không gọi là ý chí.
Nghị lực là khả năng của con người vượt qua những khó khăn, thử thách và
nghịch cảnh trong cuộc sống bằng sức mạnh tinh thần và ý chí kiên cường. Nghị
lực có thể được hiểu như một khả năng trong tâm hồn của con người, giúp họ vượt
qua những rào cản vật chất, tâm lý hay xã hội, tiếp tục đấu tranh và sống một cuộc
sống đầy ý nghĩa và thành công.
Để có thể hiểu rõ hơn về ý nghĩa của 2 khái niệm trên, chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu, đọc những mẩu chuyện về hành trình xa xứ của Hồ Chí Minh. Vì sao Hồ Chí
Minh với hai bàn tay trắng, dám vượt đại dương đi về phía kẻ thù của dân tộc để
tìm lấy một hi vọng cho đất nước? Vì sao những khó khăn, gian khổ trên hành trình
bôn ba tìm đường cứu nước vẫn không làm Hồ Chí Minh chùn bước, hay trước sự
xa hoa, tráng lệ của những đô thị hay cuộc sống phương Tây vẫn không thể cám dỗ
và làm lay chuyển được quyết tâm và lập trường kiên định của Hồ Chí Minh?
Đó là bởi chính ý chí và nghị lực đã giúp Hồ Chí Minh quyết tâm ra đi tìm
đường cứu nước và cũng chính ý chí, nghị lực ấy đã giúp Hồ Chí Minh vượt qua tất
cả những khó khăn, gian khổ trong hành trình suốt 30 năm bôn ba khắp các châu
lục trên thế giới để tìm con đường đi cho dân tộc Việt Nam.
2. Ý chí, nghị lực của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình tìm đường cứu nước
- Nỗ lực học ngoại ngữ
Ngày 5/6/1911, tại bến cảng nhà Rồng, Hồ Chí Minh sang Pháp để tìm ra
con đường cứu nước, cứu dân cần phải biết sử dụng thành thạo tiếng Pháp. Dù
trong hoàn cảnh khó khăn, Hồ Chí Minh vẫn tìm ra phương pháp học ngôn ngữ
nước ngoài này. Trên chuyến tàu đó, mỗi lúc rảnh rỗi, Hồ Chí Minh đều tìm đến
hai người lính trẻ được giải ngũ đi cùng chuyến tàu để học đọc và viết tiếng Pháp.
Ban đầu, Hồ Chí Minh tập ghép một vài từ, sau ghép thành đoạn, dần dần Hồ Chí
Minh tập viết thành bài dài.
Một bản Hồ Chí Minh lưu giữ lại, còn bản kia gửi cho Toà soạn. Bên cạnh
đó, Hồ Chí Minh lại cẩn thận xem lại từng câu từng chữ, xem bài viết của mình
đúng sai chỗ nào, Tòa soạn báo đã sửa lại cho mình như thế nào. Sau đó Hồ Chí
Minh tập viết những bài phóng sự. Năm 1922, Hồ Chí Minh đã trở thành chủ bút
của tờ báo “Người cùng khổ” viết bằng 3 thứ tiếng.
Phương tiện học duy nhất của Hồ Chí Minh cũng chỉ có vài quyển vở và một

89
cây bút chì. Dành dụm tất cả số tiền kiếm được Hồ Chí Minh cùng với vị Giáo sư
người Ý học thêm tiếng Anh vào buổi cuối tuần. Hồ Chí Minh thường tìm hiểu nền
văn hoá và lịch sử nước Anh, Mỹ. Liền sau đó, Hồ Chí Minh học tiếng Nga ngay
lập tức. Hồ Chí Minh vừa làm, vừa học. Tranh thủ mọi cơ hội để học, Hồ Chí Minh
đã tiến bộ không ngừng.
- Nỗ lực trong việc làm nhiều nghề khác nhau
Ngày 3/6/1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên
tàu Amiral Latouche Tréville, một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng
Năm Sao đang chuẩn bị rời cảng Sài Gòn đi Marseille, Pháp. Với chân phụ bếp trên
tàu, hằng ngày Văn Ba phải làm việc từ 4 giờ sáng, quét dọn nhà bếp lớn, sau đó đi
đốt lò khuân than, xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá. Văn Ba phải vác nặng từ dưới
trèo lên những bậc thang khi tàu luôn tròng trành vì sóng biển. Xong việc anh phải
dọn dẹp cho chủ bếp người Pháp ăn. Công việc vất vả bận rộn suốt ngày đến 9 giờ
tối mới xong.
Hết thời hạn làm việc, Văn Ba không muốn trở về. Chủ tàu đem anh về nhà
giúp ông công việc làm vườn ở Sainte–Adresse, ngoại ô của Havre năm 1912. Khi
đó một người bạn can ngăn nói rằng khí hậu ở châu Phi rất nóng, tàu chở hàng rất
tròng trành, dễ say sóng, đi một thân một mình, không có ai bầu bạn rất nguy hiểm,
nhưng Văn Ba vẫn quyết định đi với mục đích là đi xem các nước. Anh vừa đi làm
thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ.
Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Havre, sau
đó sang Anh. Công việc quá vất vả mệt nhọc, anh đành phải bỏ việc. Anh tìm được
một việc khác là đốt lò. Từ 5h sáng, anh đã phải chui xuống hầm để nhóm lửa, suốt
ngày đổ than, thay than trong lò, sống trong cảnh tranh tối tranh sáng, ngột ngạt,
nhưng anh vẫn không nản chí, tiếp tục công việc và thậm chí tự học tiếng Anh. Sau
hai tuần nghỉ việc đốt lò vì bị cảm, Nguyễn Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn
khách sạn Drayton Court, đại lộ Drayton, khu West Ealing, Tây London. Anh làm
việc dưới sự điều khiển của ‘vua đầu bếp’ người Pháp Escophier. Công việc của
anh là dọn dẹp bát đĩa và đồ đạc, đồng thời tranh thủ thời gian học tiếng Anh.
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại Pháp. "Buổi chiều
bán rượu rum ở các cửa hàng bán rượu vang, lợi dụng sự tự do này để tuyên truyền
cách mạng cho những người ở các nước thuộc địa, chủ yếu trong những người
Đông Dương và Madagascar". Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không mấy thành công
trong công việc này nên sống rất cơ cực. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến

90
Quảng Châu, Trung Quốc, với danh nghĩa công khai là cán bộ phiên dịch của phái
bộ cố vấn Borodin, bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên, vừa phụ trách mục tuyên
truyền trong tờ báo Canton Gazette - báo bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân
đảng.
Ngoài công việc cách mạng, Nguyễn Ái Quốc còn đi bán thuốc lá, bán báo
để đảm bảo cho sinh hoạt hằng ngày. Hoạt động ở Xiêm, với tên gọi Thầu Chín,
Nguyễn Ái Quốc đồng cam cộng khổ cùng kiều bào. Thầu Chín sống như mọi
người, cũng đào giếng, vỡ đất làm vườn, gánh gạch, đắp nền xây trường học cho
con em kiều bào. Một thời gian dài Thầu Chín ở ngay tại hiệu thuốc của Đặng Văn
Cáp và đã tranh thủ học nghề thuốc, nắm được những hiểu biết cơ bản về thuốc và
chữa bệnh.
Từ quyết tâm học ngoại ngữ và nỗ lực làm nhiều nghề khác nhau để kiếm
sống, nuôi giấc mơ tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, ta thấy một ý chí,
nghị lực kiên cường không ngừng nghỉ trong mọi hoàn cảnh, là một yếu tố rất
quan trọng và là nền tảng giúp Hồ Chí Minh vững chí trên con đường tìm đường
cứu nước.
- Đưa phong trào cách mạng đến quần chúng nhân dân
Tháng 6 năm 1928, Hồ Chí Minh lên tàu thủy tại Ý và đặt chân đến tỉnh
Phichit, Thái Lan. Việc đầu tiên là Hồ Chí Minh tập hợp tất cả bà con Việt kiều tại
đây gặp mặt, giới thiệu để tạo thiện cảm. Hồ Chí Minh giải thích: “đồng chí, hiểu
một cách thông thường, đơn giản là một người cùng chí hướng đấu tranh”.
Đối với các vấn đề khúc mắc tại địa phương, Hồ Chí Minh đề nghị thảo
luận công khai, để tất cả những người có mặt đều được đóng góp ý kiến, từ đó tìm
tiếng nói chung. Vào buổi tối, Hồ Chí Minh thường tổ chức các buổi nói chuyện,
điểm báo Trung Quốc, Anh và Pháp qua đó giảng giải, phân tích để bà con cùng
hiểu. Để thấu hiểu con người và mảnh đất Ban Dong, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
hòa mình vào cuộc sống thường nhật của cộng đồng Việt kiều một cách tự nhiên.
Chỉ trong một thời gian ngắn, từ già tới trẻ nơi đây đều rất kính trọng và coi Chủ
tịch Hồ Chí Minh như người nhà. Trong nước, nửa cuối năm 1929, đầu năm 1930,
phong trào cách mạng theo hướng chủ nghĩa xã hội đang trong tình trạng phân
tán, với ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau,
phân tán sức mạnh của phong trào cách mạng chung, gây ra những sự nghi ngờ
trong quần chúng.
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định

91
mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Hồ Chí Minh chủ
động triệu tập đại biểu của hai nhóm và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu
Long. Hội nghị đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương
Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn kết các tổ chức cộng sản sẽ khiến phong trào cách
mạng Việt Nam theo hướng chủ nghĩa xã hội chỉ có một tổ chức lãnh đạo duy nhất,
sẽ gia tăng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
- Nỗ lực vượt qua mọi khó khăn hiểm trở
Trong thời gian ở Hồng Kông, giấy tờ của Nguyễn Ái Quốc mang tên Tống
Văn Sơ - một viên chức Trung Quốc. Giữa tháng 6-1931, từ cảng Hải Phòng, một
chiếc tàu Pháp nhổ neo, đi làm nhiệm vụ đặc biệt và tuyệt mật là sang Hồng Kông
chở một kẻ "cực kỳ năng động và nguy hiểm" về Đông Dương, nơi mà ở đó
Nguyễn Ái Quốc sẽ nhận bản án tử hình được tuyên từ tháng 10-1929. Chính quyền
Hồng Kông dự định trục xuất ông về Đông Dương, điều này dẫn đến khả năng ông
sẽ bị chính quyền Pháp bắt giữ và xét xử ngay khi rời khỏi Hồng Kông.
Luật sư Francis Henry Loseby đã đệ đơn kiện Tổng đốc các trại giam Hồng
Kông lên Toà án Tối cao Hồng Kông. Cơ mật viện Vương quốc Anh tuyên bố trục
xuất Nguyễn Ái Quốc, ngay sau đó Nguyễn Ái Quốc bị bắt lại ở Singapore và trở
lại Hồng Kông. Nhờ sự giúp đỡ của Loseby và Thống đốc Hồng Kông, Hồ Chí
Minh chính thức rời khỏi Hồng Kông vào ngày 22 tháng 1 năm 1933 để đến Liên
Xô tiếp tục hoạt động.
- Bản lĩnh của người cộng sản kiên trung
Mùa xuân năm 1934, sau khi thoát khỏi nhà tù ở Hong Kong, Nguyễn Ái
Quốc về với Quốc tế Cộng sản sau 6 năm lênh đênh đầy trắc trở. Nhưng niềm vui
không được bao lâu, Hồ Chí Minh đã phải trải qua "những tháng năm gian khó" với
"nỗi khổ tâm nặng trĩu trong lòng Nguyễn Ái Quốc". Quốc tế Cộng sản đã thúc đẩy
phong trào cách mạng thế giới nhưng cũng không tránh khỏi những sai lầm như
Đại hội VI Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, chỉ thừa nhận công
nông, hạ thấp vai trò giai cấp tư sản dân tộc và các lực lượng khác. Trong khi đó,
tại các Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 do Nguyễn Ái Quốc
khởi thảo lại coi những lực lượng đó là "bầu bạn của cách mạng".
Khi Quốc tế Cộng sản chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương thì
Hồ Chí Minh lại thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và giữ quan điểm này một
cách kiên trì trên tinh thần thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Cho nên, đã từ lâu,

92
Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ của Đảng, là cán bộ của Quốc tế Cộng sản nhưng gặp
nhiều khó khăn trong công việc ở Việt Nam cũng như ở Quốc tế Cộng sản. Trước
muôn vàn trắc trở như vậy, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên trì, chờ thời cơ, tìm
được lối thoát, như đồng chí V. Đến đây và cả sau này khi đã rời khỏi Liên Xô,
những việc Nguyễn Ái Quốc đã làm, những vấn đề thuộc về tư tưởng và lý luận Hồ
Chí Minh nêu ra được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, thì những hoài nghi đều
được khép lại.
Vì lợi ích của Đảng, của cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đặt quyền lợi của
Đảng, của dân tộc lên trên hết và trước hết. Có thể nói rằng Nguyễn Ái Quốc luôn
sống và làm việc vì Đảng.
- Bồi dưỡng chính trị cho giai cấp công nhân
Nguyễn Ái Quốc tỏ ra lo lắng trước tình trạng nhận thức chính trị còn kém
cỏi của phần đông đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương, nên đã mở các lớp
bồi dưỡng cách mạng. Lớp đầu tiên mở vào khoảng cuối năm 1925, đầu năm 1926
với 10 học viên. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp huấn luyện 75 học viên. Tổng số học
viên cho đến tháng 4-1927 là 10 lớp với khoảng 250-300 học viên. Đại đa số học
viên học xong đã trở việt Nam, về Xiêm hoạt động cách mạng.
Nguyễn Ái Quốc đúc kết các bài giảng của mình trong cuốn “Đường Kách
Mệnh”. Cùng với việc truyền bá mạnh mẽ chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,
những người được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin đầu tiên đã lăn lộn vào phong
trào quần chúng, tổ chức, cổ vũ quần chúng đấu tranh với địch đòi quyền dân sinh,
dân chủ, từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị để giác ngộ quần chúng công
nông, chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập tổ chức tiền thân của Đảng. Nhờ những
hoạt động không mệt mỏi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và những cán bộ cách
mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng
chín muồi.
Qua thành công của việc đưa phong trào cách mạng gắn liền với nhân dân,
Hồ Chí Minh đã đưa ra những chiến lược phù hợp với tình hình thực tế, đề cao sự
đoàn kết và tập trung lực lượng để đánh bại kẻ thù. Vì vậy, Hồ Chí Minh được coi
là một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại và có ý chí nghị lực phi thường của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sự thành công của Đảng trong suốt hơn 90 năm qua là bằng
chứng rõ ràng cho tầm nhìn và sự quyết tâm của Hồ Chí Minh.
3. Bài học liên hệ cho sinh viên hiện nay
Những bài học về nghị lực và ý chí quyết tâm của Hồ Chí Minh trong hành

93
trình tìm đường cứu nước đã được các thế hệ trước kế thừa và phát huy, nhờ đó mà
giúp đất nước càng ngày càng phát triển được như ngày hôm nay. Ngày nay, thế hệ
trẻ sẽ càng cần phải cố gắng nhiều hơn nữa, kế thừa và phát huy nhiều hơn nữa mới
có thể giúp đất nước càng giàu mạnh và có thể “sánh vai với các cường quốc năm
châu”. Vậy nên, là sinh viên nói chung cũng như là sinh viên Học viện Ngân hàng
nói riêng, tuổi trẻ hôm nay cần phải phấn đấu vượt bật. Cụ thể, thanh niên cần:
Thứ nhất, có hoài bão, khát vọng và hiện thực hóa khát vọng.
Khát vọng làm giàu, đi đầu trong xã hội học tập và tình nguyện vì cộng
đồng, ý chí và lòng tin tuyệt đối với Đảng; trung thành với lý tưởng cách mạng của
Đảng, của dân tộc; có bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần khởi nghiệp, dám nghĩ, dám làm,
xung kích, tình nguyện; đoàn kết, xung kích, chú trọng phát triển thể lực, khỏe về thể
chất. Có khát vọng, hoài bão tuổi trẻ không thôi chưa đủ mà phải biết nuôi dưỡng,
hiện thực hóa khát vọng, hoài bão đó bằng tất cả nghị lực vượt khó và tinh thần trách
nhiệm trong từng “đầu việc” cụ thể, thiết thực để ngày một trưởng thành hơn, vững
vàng hơn. Tuổi trẻ Học viện Ngân hàng hôm nay cần xác định đúng vai trò trách
nhiệm của mình không chỉ phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của mình mà còn
phải chủ động tạo dựng “hành trang” cần thiết để làm tròn vai trò “Người chủ tương
lai của nước nhà”.
Thứ hai, tư duy độc lập, sáng tạo, kiên định với mục tiêu đề ra.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, với tư duy độc lập, sáng tạo đã giúp Hồ
Chí Minh tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, lãnh đạo
đất nước giành nhiều thắng lợi. Tư duy độc lập sáng tạo của Hồ Chí Minh là bài
học thiết thực cho mỗi thanh niên áp dụng vào các hoạt động thực tiễn cũng như
công việc chuyên môn của mình. Theo đó, ngày nay thanh niên phải luôn có tinh
thần sáng tạo, chủ động đề xuất các sáng kiến, ý tưởng mang hiệu quả cao, giải
pháp, ứng dụng khoa học - công nghệ trong thực hiện nhiệm vụ, tham gia phát triển
kinh tế - xã hội, lập nghiệp, khởi nghiệp, bảo đảm quốc phòng an ninh và kiên định
với mục tiêu, kế hoạch đề ra, rèn luyện, nâng cao nghị lực, khát vọng vươn tới
những tầm cao, kiên định lý tưởng. Ngoài ra, mục tiêu tầm nhìn 2030, khát vọng
2045 của dân tộc đòi hỏi mỗi thanh niên hôm nay không bao giờ thỏa mãn với
những gì đã đạt được, để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh vẻ vang của tuổi trẻ, đóng
góp xứng đáng vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Thứ ba, nghị lực và rèn luyện ý chí quyết tâm, bản lĩnh, nỗ lực, phấn đấu

94
không ngừng và không được tự mãn.
Sinh viên ngày nay phải luôn có ý thức tự rèn thái độ sống đúng đắn, ý chí,
nghị lực vươn lên, vượt khó sáng tạo. Bối cảnh hiện nay đòi hỏi mỗi thanh niên
phải luôn làm giàu cho bản thân tri thức, sức khỏe, kỹ năng, phải luôn có khát vọng
vươn tới những tầm cao, nếu thỏa mãn, thanh niên sẽ sớm bị tụt hậu. Để xây dựng
thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa sẽ còn phải
vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đòi hỏi thanh niên phải ra sức học tập, rèn
luyện, nêu cao tinh thần nghị lực và ý chí quyết tâm, không ngừng nâng cao giác
ngộ lý tưởng cách mạng, để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh vẻ vang của tuổi trẻ, đóng
góp xứng đáng vào sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, tinh thần tự học, học tập suốt đời.
Cuộc đời của Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học
tập, học tập suốt đời, vừa học tập vừa hoạt động cách mạng. Học tập để hoạt động
cách mạng, đạt được mục đích, lý tưởng của mình; qua hoạt động cách mạng,
không ngừng học tập, hoàn thiện tri thức và nhân cách của bản thân. Tấm gương tự
học, học tập suốt đời của Hồ Chí Minh đã để lại nhiều bài học và những chỉ dẫn
quý báu, trong đó có những nội dung rất cơ bản mà chúng ta cần học tập và noi
theo. Mỗi thanh niên ngày nay phải không ngừng tự học tập, tự rèn luyện để nâng
cao trình độ hiểu biết về mọi mặt và coi tự học là nhu cầu, thói quen, hành vi hằng
ngày, là một tiêu chuẩn, một giá trị tự thân cần đạt. Đặc biệt, trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra
yêu cầu đòi hỏi mỗi thanh niên phải tự nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ, năng
lực số để chủ động tham gia, nắm bắt và tận dụng tối đa cơ hội của chuyển đổi số,
hình thành những công dân toàn cầu, tạo nền tảng vững chắc cho những bước phát
triển nhảy vọt của đất nước.
Thứ năm, sống có nghị lực, vượt lên trên nghịch cảnh.
Năm 1911, từ bến cảng Sài Gòn, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với
hành trang là lòng yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc. Nhờ nghị lực kiên
cường đã giúp Hồ Chí Minh vượt qua mọi khó khăn thử thách trên hành trình tìm
đường cứu nước. Đây là bài học mà thế hệ trẻ luôn tự hào và noi theo. Học Hồ Chí
Minh, thanh niên phải không ngừng rèn luyện nghị lực, tránh tư tưởng ngại khó,
ngại khổ, thích hưởng thụ, tích cực học tập biến những thách thức thành cơ hội.
Hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh chính là những chỉ dẫn quý báu
về tinh thần nghị lực, vượt lên trên mọi nghịch cảnh. Thông qua đó, thể hiện sức

95
trẻ, năng lực tự thích ứng với những biến đổi của thực tiễn nếu không muốn mình
tụt lại phía sau.
Thứ sáu, chăm lo cho thế hệ tương lai.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, khi đã tìm thấy chân lý cách mạng và
con đường giải phóng cho dân tộc mình, Hồ Chí Minh đã lựa chọn đối tượng đầu
tiên để truyền bá tư tưởng cách mạng vào Việt Nam là thanh niên, thức tỉnh họ, làm
cho họ nhận ra con đường và đi trên con đường cách mạng, ý thức được bổn phận
và trách nhiệm của mình trước dân tộc. Và chính Hồ Chí Minh đã thức tỉnh được
lực lượng quan trọng này; sáng lập các tổ chức thanh niên yêu nước để giáo dục,
đoàn kết tập hợp thanh niên; sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh. Không chỉ với thanh niên, Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm chăm lo tới
thiếu niên, nhi đồng - lực lượng mầm non, tương lai của đất nước.
Bài học về nghị lực và ý chí quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hành
trình tìm đường cứu nước vẫn còn nguyên giá trị đối với tuổi trẻ Việt Nam hôm
nay. Bài học ấy nhắc nhở tuổi trẻ rằng, để xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, còn phải vượt qua nhiều khó khăn thử
thách, đòi hỏi thanh niên phải phát huy tốt vai trò xung kích, ra sức học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; có được nghị lực và ý chí quyết tâm, không
ngừng nâng cao giác ngộ lý tưởng cách mạng, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh vẻ
vang của tuổi trẻ, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước ta
ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuy vậy, trong bối cảnh thế giới ngày càng “phẳng”, nhân loại đang bước
những bước lớn, vĩ đại vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, bên cạnh những thời
cơ, thuận lợi mới là những nguy cơ, thách thức hết sức nghiệt ngã. Ngoài ra, cũng
còn một bộ phận không nhỏ thanh niên phai nhạt lý tưởng cách mạng, ngại khó
khăn gian khổ, thiếu nghị lực và ý chí phấn đấu vươn lên, bị tiêm nhiễm bởi văn
hoá độc hại của phương Tây, chạy theo vật chất tầm thường, sống ích kỷ hẹp hòi,
chỉ đòi hỏi được hưởng thụ mà quên đi trách nhiệm, nghĩa vụ của tuổi trẻ đối với
Tổ quốc, với non sông đất nước. Đứng trước tình hình đó, sinh viên Học viện Ngân
hàng nói riêng và thanh niên Việt Nam nói chung cần phải luôn kiên định lý tưởng
và một lòng theo Đảng, phải tự làm giàu cho bản thân về tri thức, sức khỏe, kỹ
năng, hun đúc khát vọng vươn tới những tầm cao, rèn luyện, nâng cao nghị lực, ý
chí quyết tâm, ý thức giác ngộ lý tưởng cách mạng, dám đột phá và tiên phong

96
trong hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh vẻ
vang của tuổi trẻ, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển bền vững của đất nước.
KẾT LUẬN
Trên hành trình tìm đường cứu nước đầy gian lao, Hồ Chí Minh đã trải qua
biết bao nhiêu khó khăn thử thách được kể qua những lời truyền miệng, ghi lại trên
những trang giấy nhuốm màu thời gian và cả những câu truyện mà có lẽ Hồ Chí
Minh đã âm thầm vượt qua mà không để ai biết đến. Nhưng, là một bậc vĩ nhân, là
Hồ Chí Minh đã mang đến ánh sáng cho những dân tộc bị áp bức bóc lột thì những
khó khăn trên có là gì mà Hồ Chí Minh không thể vượt qua? Ý chí của Hồ Chí
Minh chính là điều đã làm nên những kỳ tích không tưởng đó. Trong 30 năm bôn
ba qua từng quốc gia, ý chí của Hồ Chí Minh được tích lũy và không ngừng phát
triển qua từng thời kỳ, từ thuở ban đầu là ý chí sơ khai, là một niềm tin với con
đường cứu nước, những khó khăn cơ bản như không biết ngôn ngữ rồi trở thành
một người dùng thạo ngôn ngữ đó hơn cả người bản địa, không có tài sản thì Hồ
Chí Minh làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Sau khi biết được con đường cách mạng
hoàn chỉnh và hăng hái hoạt động, Hồ Chí Minh trở thành đối tượng bị truy nã gắt
gao, bị bỏ tù, bị trục xuất hoặc thậm chí là bị tuyên án tử nhưng Hồ Chí Minh
những năm tháng tù đày, Hồ Chí Minh còn thể hiện ra chất thơ, chất lãng mạn
trong những tập thơ.
Cuối cùng, trong thời gian Hồ Chí Minh triển khai Cách Mạng, Hồ Chí Minh
đã tích cực xây dựng đường lối, xây dựng con người, tích cực loại bỏ các khó khăn
để đi đến thắng lợi cuối cùng. Sinh viên là tương lai sáng lạn của đất nước, ý chí
của Hồ Chí Minh cần phải được kế thừa và phát huy. Chúng ta cần có mục tiêu, có
tư duy độc lập, sáng tạo và quyết tâm thực hiện đến cùng, rèn luyện một ý chí phấn
đấu và tinh thần học hỏi suốt đời. Hồ Chí Minh đã từng trải qua chông gai và vượt
qua, sinh viên chúng ta khi thực hiện ước vọng của bản thân cũng không được chùn
bước khi đối đầu với khó khăn. Nếu chúng ta thực hiện được điều này sẽ góp phần
phát triển cho chính bản thân và cho cả đất nước rất nhiều trong tương lai.

97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Quốc Huy, Báo điện tử Bộ Tư Pháp (2021), “Bác Hồ đối với
việc tự học ngoại ngữ”, truy cập ngày 03/05/2023 tại:
https://moj.gov.vn/qt/cacchuyenmuc/Pages/nganh-tp-lam-theo-dao-duc-hcm.aspx?
ItemID=137
[2]. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), “Hồ Chí Minh tìm đường
cứu nước”, truy cập ngày 03/05/2023.
tại: https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-
hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/ho-chi-
minh-tim-duong-cuu-nuoc-532715.html
[3]. Báo điện tử Quân đội nhân dân , “Kỳ 2: Người thanh niên “không tuổi”
trong ngôi nhà “bốn không” ”, truy cập ngày 04/05/2023.
tại:https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/ky-2-nguoi-thanh-nien-
khong-tuoi-trong-ngoi-nha-bon-khong-661330
[4]. Thuý Vân, Báo điện tử VOV (2015), “Mật thám Pháp đã theo dõi gắt
gao lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc”, truy cập ngày 04/05/2023.
tại:https://vov.vn/chinh-tri/mat-tham-phap-da-theo-doi-gat-gao-lanh-tu-
nguyen-ai-quoc-401996.vov
[5]. Nguyễn Thị Kim Dung, Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ
Chí Minh, “Bác Hồ với công tác tuyên truyền cách mạng thời kỳ hoạt động ở Thái
Lan 1928 – 1929”, truy cập ngày 05/05/2023 tại:
https://www.bqllang.gov.vn/danh-sach-khach-vieng.html?id=2892:bac-ho-
voi-cong-tac-tuyen-truyen-cach-mang-thoi-ky-hoat-dong-o-thai-lan-1928-1929
[6]. Ngọc Quang, Hữu Kiên, Báo điện tử Quân đội nhân dân (2021), “Mảnh
đất Thái Lan ghi dấu Chủ tịch Hồ Chí Minh”, truy cập ngày 05/05/2023.
tại: https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-
cuu-nuoc/chuyen-ve-nguoi/manh-dat-thai-lan-ghi-dau-chu-tich-ho-chi-minh-
661010
[7]. Báo điện tử Quân đội nhân dân, “Kỳ 4: Bông hoa “không thể hái” trên
đất Hồng Kông”, truy cập ngày 05/05/2023. tại: https://www.qdnd.vn/da-phuong-
tien/longform/ky-4-bong-hoa-khong-the-hai-tren-dat-hong-kong-661550

98
TỪ BẾN CẢNG NHÀ RỒNG NGƯỜI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Nguyễn Hà Trang, Vũ Khánh Linh,
Trần Ngọc Linh, Nguyễn Vũ Anh,
Nguyễn Việt Quân
Lớp: K24CLC, Quản trị A, Học viện Ngân hàng
Tóm tắt
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi đất nước đắm chìm trong đêm
trường bức nô lệ. Người đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mảnh đất truyền thống của
người dân xứ Nghệ, lòng yêu nước nồng nàn, ý chí ham học hỏi từ người cha, sự
chịu thương chịu khó của người mẹ… chiếc nôi ấy đã nuôi dưỡng trong Nguyễn
Tất Thành tình yêu nước, thương dân với thiên hướng đặc biệt mẫn cảm.
Ngày 5/6/1911, tại Bến cảng Nhà Rồng, Người đã ra đi tìm đường cứu nước
và đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc vào tháng 7 năm 1920. Sau
hơn 30 năm bôn ba hành trình cứu nước, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về
nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đưa cuộc Tổng khởi
nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đánh dấu một mốc son
chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
MỞ ĐẦU
112 năm đã trôi qua, nhưng những người con của dân tộc Việt Nam luôn luôn
nhớ đến ngày 05/06/1911, ngày chủ tịch Hồ Chí Minh, hay lúc bấy giờ với tên gọi
Văn Ba, ra đi tìm đường cứu nước tại bến cảng Nhà Rồng. Với quyết tâm tìm cho
nhân dân Việt Nam con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước khỏi ách đô
hộ tàn bạo của thực dân Pháp. Người đã mở đường, đưa dân tộc ta từ đói khổ lầm
than trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, có chủ quyền, lãnh thổ và tự tin
khẳng định tiếng nói của mình trên trường quốc tế. Hành trình của người thanh niên
Nguyễn Tất Thành khi ấy, nhận ra những người dân ta sẽ luôn đứng lên khi có cơ hội
dù có bao nhiêu phong trào đã bị dập tắt, đã quyết định rằng sẽ tìm ra con đường cứu
nước, với một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc
tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Hành trình của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hành trình vô cùng cùng sáng tạo và
vĩ đại trong công cuộc mở đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, chúng ta đã đi
hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, khai sinh một Nhà nước Việt Nam toàn vẹn
và độc lập. Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của sự kiện quyết định ấy vẫn còn

99
nguyên giá trị, trở thành động lực mạnh mẽ cho Đảng ta tiếp nối ngọn cờ vinh
quang “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” mà Người trao lại.
NỘI DUNG
1. Tiểu sử Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, sinh năm 1890
ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội.
Người sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, cha của người là
Nguyễn Sinh Sắc ông Sắc mồ côi cha mẹ từ nhỏ sau đó được một nhà nho là Hoàng
Xuân Đường nhận về nuôi cho ăn học tử tế. Đến tuổi trưởng thành cụ Hoàng Xuân
Đường gả con gái đầu của mình tên là Hoàng Thị Loan cho Nguyễn Sinh Sắc.
Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong nhà, trước người có một anh trai và một chị
gái. Nguồn thu nhập cho việc nuôi sống cả gia đình chỉ dựa vào nghề dệt thuê của
mẹ và nghề dạy trẻ của cha nên khá eo hẹp do đó từ nhỏ người đã hiểu và thấm thía
nỗi khổ của người nghèo.
Năm 1895, ông Nguyễn Sinh Sắc đưa cả nhà vào kinh đô Huế để học thi hội.
Năm 1898, Ông Sắc thi Hội lần thứ hai nhưng không đỗ và phải đợi thêm 3 năm
nữa cho kỳ thi tiếp theo. Cuối năm 1900, Ông Nguyễn Sinh Sắc được cử đi làm thư
ký trường thi ở Thanh Hóa, lúc này ông cho Nguyễn Sinh Khiêm đi cùng, còn
Nguyễn Sinh Cung thì sống cùng mẹ ở Huế. Trong khoảng thời gian ông Nguyễn
Sinh Sắc đi làm thư ký trường thi Thanh Hóa chưa về lại Huế, bà Hoàng Thị Loan
đã sinh hạ người con thứ tư, nhưng do gia cảnh khó khăn nên sau đó bà lâm bệnh
và qua đời. Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh Sắc cấp tốc trở lại Huế, ông cảm
tạ bà con dân làng sau đó đưa các con về quê. Kỳ thi Hội năm Tân Sửu (1901), ông
đã đậu Phó bảng.
Năm 1906, lúc này Nguyễn Tất Thành đã 16 tuổi và theo cha quay trở lại
Huế, được cha cho đi học Trường tiểu học Pháp – Việt tỉnh Thừa Thiên. Đến năm
1908 Người vào học trường Quốc Học Huế -Ngôi trường danh giá của cả Xứ Đông
Dương lúc bấy giờ, tại đây Nguyễn Tất Thành được nghe những câu chuyện của
nước Pháp xa xôi từ một người thầy từng học ở trường thuộc địa Paris, đặc biệt là
truyện và những thư viện ở Pháp có đủ loại sách vở nói về các cuộc cách mạng của
các nước trên thế giới có thể vào đọc mà chẳng mất tiền. Những điều đó đã hấp dẫn
tinh thần hiếu học của người và khiến người thêm tò mò về thế giới, cùng thời gian
này dân chúng khổ cực vì phải chịu xu thuế quá nặng nề đã nổi dậy biểu tình.
Nguyễn Tất Thành cũng tham gia và rồi bị cảnh cáo, ông Nguyễn Sinh Sắc bị khiển

100
trách về hành động của con trai và bị đẩy về làm chi huyện ở Bình Khê Bình Định.
Nguyễn Tất Thành cũng rời Trường Quốc Học theo cha. Đến năm 1910 vì thường
hay bênh vực dân nghèo Ông Nguyễn Sinh Sắc vị triều đình cách chức và Triệu hồi
về kinh, lần này Nguyễn Tất Thành sau khi đã nghe nhiều thấy nhiều những phong
trào yêu nước hết lần này lần khác rơi vào thất bại như phong trào Đông Du, phong
trào Duy Tân, khởi nghĩa Yên Thế, Đông Kinh Nghĩa Thục... đã nung nấu cho
mình một ý nghĩ riêng người quyết định không theo cha nữa mà Nam Tiến Về Sài
Gòn để tìm ra con đường cứu nước.
1. Hành trình Nam tiến – bước ngoặt lịch sử
Sau khi đã được chứng kiến thấy nhiều phong trào yêu nước tiến đến thất bại
như phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, khởi nghĩa Yên Thế, Đông Kinh
Nghĩa Thục… Người đã nhận ra rằng, những cuộc nổi dậy trong nước vẫn còn chịu
nhiều ảnh hưởng của tàn dư phong kiến, trong khi đó, với thời đại hiện tại, Người
nhận ra những cuộc đấu tranh mang hơi hướng phong kiến đã không còn phù hợp
nữa. Với những kiến thức đã được tiếp thu tại ngôi trường và người thầy cũ, Người
đã nung nấu cho mình một ý chí rằng phải nhìn xa rộng ra ngoài Thế Giới để có thể
tìm hiểu được cách mà các nước trên Thế Giới tìm kiếm độc lập như thế nào, khi
con người xưa cũ trong nước đã không còn phù hợp với thời đại.
Với những bước đầu làm quen với thời đại qua những trang sách “Tân thư”,
“Tân văn” bằng tiếng Hán, được nghe giảng về nền dân chủ và văn minh phương Tây,
Nguyễn Tất Thành đã được tiếp xúc với khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” nổi
tiếng của cách mạng tư sản Pháp năm 1789 – điều mà thôi thúc người muốn làm quen
với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước theo lập trường dân
chủ tư sản liên tiếp nổ ra và thất bại đã khiến cho cách mạng Việt Nam thời bấy giờ
khủng hoảng về đường lối cứu nước. Tuy khâm phục các vị lãnh tụ cách mạng tiến
bối nhưng Nguyễn Tất Thành không hoàn toàn tán thành với các đường lối chính
bởi: Cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác nào
xin giặc rủ lòng thương; Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đánh đuổi
thực dân Pháp khác nào “Đưa hổ vào trước, rước beo vào sau”, Cụ Hoàng Hoa
Thám khởi nghĩa vũ trang chống Pháp nhưng vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến.
Nguyễn Tất Thành hiểu rằng một thời đại mới, đòi hỏi một con đường đi mới, một
phương thức đấu tranh mới, khác hẳn con đường cách mạng cải lương từng diễn ra,
đó là làm cách mạng. Đây là một suy nghĩ đúng đắn, hợp quy luật và thời đại.

101
Trên thực tế, với sự hiểu biết, chí hướng yêu nước, hành động tham gia cuộc
biểu tình chống Thuế của nông dân Trung Kì năm 1908 là cơ sở, tiền đề vững chắc
chuẩn bị để Người hiểu cần phần phải tìm con đường mới với ý định xuất dương để
cứu nước. Bởi lẽ đó, khi cha Người bị cách chức và phải quay trở lại kinh đô,
Nguyễn Tất Thành đã quyết định không theo cha mà tự thân Nam tiến vào đầu năm
1911, nơi một phần quê hương đã bị Người Pháp chiếm đoạt, để chuẩn bị cho
chuyến viễn du đến trời Tây.
2. Hành trình hơn 30 năm bôn ba của Bác
Sinh ra, lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, nơi quê hương giàu
truyền thống cách mạng, chứng kiến bao cảnh đau thương nước mất, nhà tan,
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân khi mới 21 tuổi.
Từ lúc còn nhỏ, Người sớm được tiếp cận với các tư tưởng lớn của phương
Đông, hấp thụ vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, Hán học và bước đầu tiếp xúc
với văn hóa phương Tây. Vốn có tư chất thông minh, tinh thần ham học hỏi, khả
năng tư duy độc lập, tính ham hiểu biết và nhạy cảm với cái mới, Người bị lôi cuốn
bởi khẩu hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” và thôi thúc bởi ý định tìm hiểu “cái gì ẩn
dấu sau” những từ đẹp đẽ đó ở chính nơi đã sinh ra khẩu hiệu đó.
Những tư tưởng tiến bộ của cuộc cách mạng ở Pháp năm 1789, thành tựu văn
minh, tiến bộ của nhân loại ở Pháp và các nước châu Âu khác đã thúc đẩy Người
muốn đến tận nơi tìm hiểu.
Đó chính là những ý tưởng khởi nguồn để Nguyễn Tất Thành quyết định chọn
nước Pháp, chọn châu Âu làm điểm đến đầu tiên trong cuộc hành trình đi tìm đường
cứu nước năm 1911. Chính cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả ấy đã giúp Người
tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin như một lẽ tất yếu lịch sử và nhận ra ở đó con
đường đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Trong cuộc hành trình dài tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã vượt
qua nhiều quốc gia thuộc nhiều châu lục. Theo hành trình của tàu, ngày 6 tháng 7
năm 1911, tàu dừng chân ở cảng Mác Xây. Trong thời gian chờ tàu dỡ hàng, chàng
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành tranh thủ tìm hiểu đời sống nhân dân Pháp.
Năm 1912, Người chuyển qua làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Sácgiơ Rêuyni
(Pháp). Ở đây, Người có điều kiện vừa làm việc, vừa nghiên cứu học hỏi thêm từ
thực tế. Đi đến đâu Người cũng rất đau xót vì thấy cảnh khổ cực của người lao
động dưới sự áp bức, bóc lột dã man của giai cấp thống trị. Nguyễn Tất Thành theo
con tàu tiếp tục đi Mactinich (Martinique) (Trung Mĩ), Uruguay và Argentina (Nam
Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912.
102
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành sang Anh. Ở Anh, Người nhận cào tuyết
cho một trường học, rồi làm thợ đốt lò, làm phụ bếp…Công việc hết sức nặng nhọc
nhưng sau mỗi ngày Người đều tranh thủ thời gian học tiếng Anh và tiếp tục nghiên
cứu về lịch sử của nước Mỹ, nước Anh… Nhờ vậy Người đã có kiến thức sâu sắc
về lịch sử phương Tây và những giá trị của nền văn minh phương Tây như tự do,
dân chủ, bình đẳng, bác ái.
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp vào lúc cuộc cách
mạng tháng Mười Nga vừa bùng nổ thắng lợi, “giống như mặt trời chói lọi”, chiếu
sáng khắp năm châu, mở ra một thời đại mới trong lịch sử thế giới.
Qua 6 năm (1911-1917) bôn ba khắp năm châu bốn biển, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành một mặt tiếp cận tìm hiểu thực tế đời sống nhân dân
lao động của nhiều quốc gia trên đường Người đi qua ở các châu lục và nghiên cứu
học hỏi nên đã có hiểu biết về bản chất chung và màu sắc riêng của mỗi nước đế
quốc cũng như trình độ phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội khác nhau giữa các nước
thuộc địa.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Cùng năm
đó, ngày 18 tháng 6, Người đã thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại
Pháp gửi tới Hội nghị Véc xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Lần đầu tiên,
một người Việt Nam với tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã đưa vấn đề chính trị của một
nước thuộc địa ra quốc tế, đòi quyền bình đẳng về pháp lý và các quyền tự do, dân
chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách không được các đế quốc thắng
trận để mắt tới, Người rút ra kết luận: muốn giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông
cậy vào bản thân mình
Cùng năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, đến tháng
7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội lần thứ XVIII của
Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, sau đó tham
gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Từ năm 1921-6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động ở Pháp,
như: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, tham dự Đại hội lần thứ I và
lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp. Trong thời gian này Người không chỉ viết bài
cho các tờ báo như “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân”, mà còn
có thể chỉ ra được những sai lầm của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc địa.

103
Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp sang Liên Xô. Từ tháng 7/1923-
10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế,
bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa.
Tháng 11/1924, đây là lúc sau hơn 10 năm bôn ba thế giới Người đã luôn
tích lũy được tri thức nhân loại, kinh nghiệm hoạt động và tổ chức cách mạng để
vận dụng và hành động, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung
Quốc). Tại đây, vào tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên, trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, lập ra Báo Thanh niên, chuẩn
bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giữa năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi một số nước sau đó đến
miền Nam Thái Lan hoạt động từ giữa năm 1928. Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc
rời Thái Lan đến Trung Quốc. Từ ngày 6/1-3/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng,
Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý
nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng.
Trong khoảng thời gian tháng 6/1931, mạng lưới tình báo Pháp–Anh tăng
cường hoạt động nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản, tung tích
của Nguyễn Ái Quốc cũng bị bại lộ. Người bị cảnh sát thuộc địa tại Hồng Kông bắt
giam khi đang trú tại Cửu Long. Nhờ sự giúp đỡ của luật sư Loseby bào chữa,
Người đã được tuyên trắng án và thoát ra nhà tù của chính quyền thực dân Anh ở
Hồng Kông vào năm 1933. Sau đó, Người rời khỏi Hồng Kông vàđến Liên Xô tiếp
tục hoạt động và người được trả tự do.
Những năm 1934-1938, Nguyễn Ái Quốc hoạt động trong Ban Phương Đông
của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô. Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An
(Trung Quốc) làm việc tại Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức
Đảng, chuẩn bị về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 28/1/1941,
sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về nước (tại cột mốc 108 thuộc
xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và
thành lập Mặt trận Việt Minh.
Từ năm 1930-1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn
chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã
tổ chức xây dựng được đường dây liên lạc quốc tế, đặc biệt là các nước Đông Nam
Á với mục đích tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân, tổ chức các nước trên
thế giới, xây dựng lực lượng hậu thuẫn cho cách mạng Việt Nam thắng lợi.

104
Năm 1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh lên đường sang
Trung Quốc với tư cách là đại biểu của phong trào Việt Minh và đại diện của Phân
hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược. Trong cùng năm, Nguyễn Ái
Quốc bị bắt tại phố Túc Vinh với lý do giấy tờ tùy thân đã quá hạn sử dụng. Tháng
9 năm 1943, Hồ Chí Minh được trả tự do, Người trở về hoạt động tại Pác Bó, Cao
Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh gửi Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân cho Võ Nguyên Giáp.
Tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng ta lãnh đạo nhân
dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 2/9/1945, tại
quảng trường Ba Đình lịch sử thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố
nền độc lập của dân tộc Việt Nam trước đồng bào cả nước và nhân dân thế giới.
3. Ý nghĩa cuộc hành trình
Sự ra đi tại bến cảng Nhà Rồng là dấu ấn lịch sử trọng đại trên hành trình tìm
đường cứu nước, mở ra con đường xây dựng đất nước Việt Nam của Hồ Chí Minh.
Sự kiện mở ra quá trình Người tiếp thu chân lý thời đại - chủ nghĩa Mác - Lênin để
tìm ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, chấm dứt
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Việc này cũng
mở ra thời kỳ định hình của con đường xây dựng, phát triển đất nước: Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau khi tìm thấy con đường giải phóng dân tộc,
Người xác định: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh
giành tự do độc lập”.
Hành động ra đi tìm đường cứu nước của Văn Ba có ý nghĩa động viên, cổ
vũ, thúc đẩy cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng các dân tộc thuộc
địa trên thế giới. Trên những nơi đã đi qua, Người hòa mình vào các phong trào của
quần chúng lao động, tham gia sôi nổi và quyết liệt trong các hoạt động đấu tranh
yêu nước ngay chính trên đất nước của kẻ thù đang áp bức dân tộc mình. Hồ chủ
tịch đã thể hiện tấm gương lớn về quyết định chủ động, sáng tạo, độc lập, ý chí,
quyết tâm, nghị lực phi thường trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Nguyễn Tất
Thành ra đi trong bối cảnh đất nước bị xâm lược, nhân dân lầm than, hành trang là
hai bàn tay trắng, động cơ trong sáng, cao cả: tất cả vì nước, vì dân.
Hành trình lịch sử này còn mang tới cho sinh viên thời nay nói chung và sinh
viên Học viện Ngân hàng nói riêng không chỉ là truyền ý chí, cảm hứng, khát vọng,

105
mà còn giúp sinh viên rút ra nhiều bài học quý báu trong cuộc sống, học tập, công
tác, lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước hết, đó là bài học về
lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập dân tộc, phát triển đất nước. Chính
khát vọng, lòng yêu nước này của Người đã giúp dân tộc ta tiến tới độc lập và tạo
nên sức mạnh cho sinh viên thời nay sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì
khi Tổ quốc cần, chiến đấu, cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc, tô thắm truyền
thống yêu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng. Tình yêu quê hương đất nước,
khát vọng, hoài bão của mỗi thanh niên hôm nay phải được thể hiện, được bắt đầu
từ chính những công việc rất cụ thể hàng ngày trong học tập, lao động, công tác,
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; dấn thân làm những điều tốt đẹp, đột
phá để thay đổi hiện trạng, tiên phong hiện thực hóa tầm nhìn 2030, khát vọng 2045
mà Đại hội XIII của Đảng đã vạch ra.
Hành trình này cũng mang đến cho sinh viên thời nay bài học về sự đổi mới,
sáng tạo, phải biết tìm hướng đi mới, khác biệt. Học tập tinh thần của Hồ chủ tịch,
mỗi thanh niên phải thực sự chủ động và sáng tạo trong các hoạt động của mình,
luôn có tinh thần đổi mới sáng tạo, luôn trăn trở tìm hướng đi mới, cách tiếp cận
mới đối với mỗi vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra, dấn thân vào những nhiệm
vụ mới. Mỗi sinh viên cần chủ động đề xuất các ý tưởng, sáng kiến, giải pháp, ứng
dụng khoa học – công nghệ trong thực hiện nhiệm vụ, tham gia phát triển kinh tế –
xã hội, lập nghiệp, khởi nghiệp, bảo đảm quốc phòng an ninh.
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, với thế giới quan khoa học và cách mạng,
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng vào thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, thực tiễn
cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật, xu thế phát triển trong tiến trình đi lên
của lịch sử nhân loại. Sinh viên nói chung và sinh viên Ngân hàng nói riêng cần
phải học tập sự kết hợp tiến bộ của nhân loại với những giá trị truyền thống cốt lõi
của dân tộc này và trong sự kết hợp đó cần kiên định để tìm ra cái tốt và phù hợp
nhất cho mình.
Sự nghiệp tìm đường cứu nước của Bác là một ví dụ về tinh thần học, học
nữa, học mãi cho sinh viên. Theo gương Bác, sinh viên cần phải tích cực trau dồi,
đề cao việc học tập, tích cực nâng cao hiểu biết, tự giác sáng tạo. Trong giai đoạn
hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các thành tựu văn hoá, kinh tế, khoa học
kỹ thuật… bên cạnh thuận lợi cũng có rất nhiều thách thức, chính vì vậy, bước vào
nền kinh tế tri thức, đòi hỏi thanh niên phải năng động hơn, tích cực hơn để tiếp

106
nhận thông tin, tiếp thu các thành tựu của nhân loại, phải học tập rất nhiều để có thể
hội nhập và bắt kịp với trình độ chung của thế giới.
Cuộc đời của Bác là tấm gương soi chung của nhiều thế hệ. Bác từng là một
thanh niên sống hết mình vì lý tưởng, một thầy giáo hết lòng với học sinh, một
công nhân lao động chân chính, một chiến sĩ Cộng sản kiên cường và là một vị lãnh
tụ vô vàn kính yêu. Chính vì vậy, tuổi trẻ hôm nay nhất là sinh viên Ngân hàng cần
học tập theo gương Bác, trang bị cho mình kiến thức, bản lĩnh để có thể tiếp nối
trách nhiệm xây dựng và bảo vệ tổ quốc; xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ
cha anh và sự cống hiến suốt đời của Bác Hồ kính yêu.
KẾT LUẬN
Ngày 5-6-1911 không chỉ là sự kiện khởi đầu hành trình tìm đường cứu nước
của Nguyễn Tất Thành mà còn là một dấu ấn đặc biệt trong quá trình đấu tranh
giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Đây là sự kiện mang giá trị lịch sử, thể hiện
cống hiến của Người đối với công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam trong kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Mười một thập niên đã trôi qua, nhưng
sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân vẫn còn nguyên ý
nghĩa lịch sử và giá trị thời đại. Những bài học sâu sắc từ sự chủ động, quyết đoán,
sáng tạo, bản lĩnh, nghị lực của Nguyễn Ái Quốc có giá trị to lớn đối với các thế hệ,
đặc biệt là trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay.
Trong bối cảnh thế giới đang có những diễn biến phức tạp, đan xen những
thời cơ và thử thách, những tiêu cực và tích cực... thì ý nghĩa lịch sử và giá trị thời
đại của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu
nước nói riêng càng được tỏa sáng hơn bao giờ hết. Và trong hành trình hội nhập
cùng nhân loại đi đến tương lai sánh vai cùng các cường quốc 5 châu, chúng ta
càng tin tưởng và kiên trì phấn đấu trên con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã
chỉ ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1].
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[2]. Hiểu thêm về lựa chọn lịch sử của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí
Minh. (n.d.). Retrieved from
https://iatoi.iahdrai.kontum.gov.vn/tin-tuc-su-kien/hieu-them-ve-lua-chon-lich-su-
cua-lanh-tu-nguyen-ai-quoc-ho-chi-minh.html.

107
[3]. Phan Chu Trinh qua những tư liệu mới. (2003), Nhà xuất bản Đà Nẵng.
[4]. Trần Dân Tiên (2012). Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của
Hồ Chủ tịch, Nhà xuất bản Thanh Niên.
[5]. Song Thành (2005). Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
[6]. TS. Văn Thị Thanh Mai, & ThS. Văn Thị Thanh Hương. (2021). Ra đi
tìm đường cứu nước ngày 5/6/1911: Sự lựa chọn đúng đắn của Nguyễn Tất Thành -
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Retrieved from http://dukcqtw.dcs.vn/ra-di-tim-
duong-cuu-nuoc-ngay-561911-su-lua-chon-dung-dan-cua-nguyen-tat-thanh-
nguyen-ai-quoc-ho-chi-minh-duk14281.aspx.

108
PHẦN 2
CUỘC HÀNH TRÌNH VĨ ĐẠI THỰC HIỆN
KHÁT VỌNG ĐỘC LẬP, TỰ DO CHO DÂN TỘC

109
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 1911-1920
TS. Trần Thị Thu Hường
Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Hành trình tìm đường cứu nước của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành cách đây 112 năm (5/6/1911-5/6/2023) là sự kiện đặc biệt quan trọng trong
cuộc đời Người, đồng thời, cũng là một ngày có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc
Việt Nam, sự kiện đó là tiền đề dẫn đến những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Từ hành trình tìm đường cứu nước đầy gian khổ đã cho tất cả chúng ta thấy được ý
chí, nghị lực phi thường cũng như khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, giải
phóng nhân dân khỏi kiếp ngựa trâu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghiên cứu, tìm
hiểu về hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh giúp chúng ta
chân quý hơn những gì chúng ta có được ngày hôm nay và ra sức học tập, lao động
và công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc.
NỘI DUNG
1. Hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm
1911-1920
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước bị thực dân
Pháp xâm lược, đặt ách cai trị. Đất nước mất độc lập, đời sống nhân dân đói khổ
lầm than. Thực tiễn đất nước đã tác động mạnh đến nhận thức của Hồ Chí Minh,
thấu hiểu nỗi khổ cực của người dân của một đất nước mất độc lập, tự do. Bên canh
đó, sự thất bại của các phong trào đấu tranh yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi tác động đến trí hướng của Người.
Cách mạng Việt Nam lúc này khủng hoảng về con đường và phương pháp đấu
tranh, do đó, vấn đề đặt ra là tìm ra con đường đấu tranh mới khắc phục được sự
khủng hoảng về con đường và phương pháp đấu tranh. Chính bối cảnh đó đã thôi
thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, để rồi ngày 5/6/1911, Người lấy tên Văn Ba,
xin làm phụ bếp trên tàu Latútsơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường
cứu nước. Khi quyết định xuất dương, anh có rủ một người bạn đi cùng, người bạn
có hỏi: “lấy tiền đâu để đi?”. Anh Ba đã giơ hai bàn tay ra và nói: “Đây tiền đây,
chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”. Ngay từ những ngày đầu ra đi tìm
đường cứu nước, hướng tới mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh

110
phúc cho nhân dân, bằng ý chí và nghị lực phi thường, Người đã trải qua bao khó
khăn, thử thách và làm rất nghề khác nhau để kiếm sống, hoạt động.
Trong hành trình cứu nước, lúc đầu Người làm nghề phụ bếp, rồi sau đó là
công nhân trên tàu buôn Pháp. Nhờ đó, Người có dịp đi qua nhiều quốc gia như:
Xingapo, Côlômbô, Aicập, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi,
Cônggô, Đahômây, Mỹ. Cuối năm 1913, Người từ Mỹ sang Anh. Tại đây, Người
làm nghề đốt lò, quét tuyết, phục vụ khách sạn. Bất kỳ hoàn cảnh nào, Người
thường xuyên chú ý tìm hiểu đời sống và gần gũi với người lao động. Người rất xúc
động trước điều kiện sống cực khổ và bị đàn áp của người da đen. Sau những tháng
năm trải nghiệm cuộc sống người dân thuộc địa làm thuê, Người dần dần nhận ra
một điều: ở đâu cũng có người nghèo và sự giàu nghèo không phụ thuộc vào màu
da, chủng tộc. Người lao động ở đâu cũng khổ cực và biết thương yêu nhau.
Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp, vừa tiếp tục lao động kiếm sống,
vừa tích cực tham gia hoạt động chính trị, xã hội. Người liên hệ chặt chẽ với công
nhân Pháp, những đại biểu thuộc địa và những người Việt Nam yêu nước tại Pháp.
Đây là thời kỳ hoạt động sôi nổi và có hiệu quả trong hành trình tìm thấy con
đường cứu nước Việt Nam. Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, lý
giải cho việc tham gia Đảng Xã hội Pháp, Người cho rằng đây là tổ chức duy nhất ở
Pháp theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác
ái”1. Giữa năm 1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi
Bản yêu sách tám điểm của nhân dân An Nam tới Hội nghị các nước đế quốc họp
tại Vécxây (Versailles). Mặc dù Yêu sách chỉ nêu những yêu cầu tối thiểu trong
khuôn khổ cải cách, nhưng đã không nhận được câu trả lời. Từ thực tế ấy, Người
kết luận: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông
cậy vào lực lượng của bản thân mình" 2 . Thực tế trên đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu
thêm bối cảnh khách quan mà hành trình cứu nước không thể bỏ qua.
Sự kiện cực kỳ quan trọng làm chuyển biến cơ bản nhận thức về con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc của Người là khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo
Nhân đạo (L’Humanité) tháng 7-1920. Luận cương đã mang lại cho Người ánh
sáng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa. Khẳng
định ý nghĩa to lớn của Luận cương trong hành trình tìm ra con đường cứu nước,
1
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.41-42.
2
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.31.

111
Người viết: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta". Cho đến cuối đời, Hồ Chí Minh
càng trung thành với con đường độc lập dân tộc bao nhiêu, thì càng trung thành bấy
nhiêu với những lý luận Lênin viết trong Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Điều này thể hiện rất rõ khi Người trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô:
"Từ ngày Luận cương của Lênin đã hoàn toàn soi sáng cho tôi, tôi không còn chỉ dự
các cuộc họp của Đảng một cách thụ động nữa. Tôi lao vào cuộc chiến đấu, hăng hái
bàn cãi, tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lênin và Quốc tế thứ ba".
Sự kiện đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin cùng với những hoạt động sát cánh với công
nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa, đồng bào Việt Nam trên đất Pháp... đã
tạo tiền đề quan trọng để Người tích cực thảo luận và quyết định bỏ phiếu ủng hộ
Đảng gia nhập Quốc tế thứ ba tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp
tại thành phố Tua, tháng 12-1920. Sau đó, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên có nhiều đóng góp tích cực cho
vấn đề giải phóng thuộc địa. Từ đây, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc
tế III, đem chủ nghĩa Mác-Lênin về với Việt Nam. Trong vai trò của người chiến sĩ
cộng sản quốc tế, Người kiên trì đấu tranh, bảo vệ, vận dụng sáng tạo lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác- Lênin về nước dưới nhiều hình thức.
2. Ý nghĩa của hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam
Hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị to lớn
đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Hành trình đó đã truyền ý chí, nghị lực, khát
vọng cho nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát
triển đất nước hiện nay. Ý nghĩa, giá trị của hành trình tìm đường cứu nước của Hồ
Chí Minh trước hết bắt nguồn từ lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Lòng yêu
nước, thương dân quyết tâm giải phóng dân tộc của Người đã soi đường cho mỗi
người Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong
xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, mỗi người Việt Nam ra sức cống hiến,
lao động, học tập và công tác, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn 2030, khát vọng
2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã vạch ra.

112
Thứ hai, giá trị của hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh bắt nguồn từ lòng nhân ái bao la. Hành trình khảo sát thế giới, trải qua nhiều
quốc gia, nhiều châu lục: Âu, Á, Phi, Mỹ, hòa mình vào cuộc sống thực tiễn nơi
đây, đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ cội nguồn những khổ đau của nhân dân
lao động và có sự đồng cảm sâu sắc. Tấm lòng nhân ái, yêu thương con người của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học thiết thực với mỗi người Việt Nam. Mỗi người
Việt Nam hôm nay cần phát huy tốt truyền thống tương thân tương ái “lá lành đùm
lá rách” với nhiều việc làm, nghĩa cử cao đẹp.
Thứ ba, giá trị của hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn thể hiện ở tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, kiên định với mục đích, lý tưởng
của mình. Trên hành trình tìm đường cứu nước, với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo
đã giúp Người tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, lãnh
đạo đất nước giành nhiều thắng lợi. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Người có
ý nghĩa thiết thực đối với mỗi người Việt Nam trong hoạt động thực tiễn cũng như
công việc chuyên môn của mình. Theo đó, mỗi người phải luôn có tinh thần sáng
tạo, chủ động đề xuất các sáng kiến, ý tưởng mang hiệu quả cao và kiên định với
mục tiêu, kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, sáng tạo phải xuất phát từ những điều kiện
thực tế cụ thể của đất nước. Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam sẽ
còn nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi mỗi người phải ra sức học tập, tự làm giàu
cho bản thân về tri thức, rèn luyện, nâng cao nghị lực, khát vọng vươn tới những
tầm cao, kiên định mục đích, lý tưởng và không bao giờ thỏa mãn với những gì đã
đạt được, để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh vẻ vang góp phần vào sự phát triển bền
vững của đất nước.
KẾT LUẬN
Hơn một thế kỷ đã trôi qua, từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường
cứu nước, giải phóng dân tộc, mỗi chúng ta càng thấy tầm vóc lớn lao và ý nghĩa
lịch sử vĩ đại của sự kiện này. Chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc trên đất nước Việt
Nam thân yêu hôm nay đã được bắt đầu và quyết định từ những ngày tháng “Người
đi tìm hình của nước”. Một con người với lòng yêu nước nồng nàn, với khát vọng
cháy bỏng quyết ra đi tìm đường cứu nước, nay đã để lại một dấu ấn lịch sử huy
hoàng trong thế kỷ XX, đó là thời đại Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Dân Tiên (1994): Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113
NHỮNG LUẬN ĐIỂM SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC–CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN
TS. Nguyễn Văn Nguyên
Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Cách đây 112 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rời bến cảng Nhà Rồng ra đi
tìm con đường cứu nước (5/6/1911), sau gần 30 năm, Người mới có điều kiện trở
về Tổ quốc để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28/1/1941). Nhìn lại chặng
đường 30 năm ấy, Người đã mất gần 10 năm để tìm lời giải cho bài toán khó lúc
bấy giờ là làm thế nào để giành độc lập dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách nô
lệ, được tự do, hạnh phúc.
NỘI DUNG
Hành trình tìm đường cứu nước đầy gian khổ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cuối
cùng đã đưa đến kết quả mà nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam mong muốn đó là
đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, đời sống ngày càng sung túc. Kết quả đó
bắt nguồn từ sự kiện Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của V.I.Leenin và tìm thấy ở đó con đường cứu nước đi theo con
đường cách mạng vô sản. Tuy nhiên, khi vận dụng lý luận về con đường cách mạng
vô sản, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo trên cơ sở thực tiễn Việt Nam,
đưa đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vậy, những sáng tạo ấy là gì? Sau đây,
tác giả nêu mấy điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng vô sản.
1. Xác định mục tiêu của con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh
một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm
30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần chúng nhân
dân. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” 3. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, ở phương Đông và Việt Nam, mâu thuẫn chủ yếu trong
xã hội là mâu thuẫn dân tộc chứ không phải là mâu thuẫn giai cấp, đó là mâu thuẫn

3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, tập 3, Hà Nội, 2011, tr.3

114
giữa toàn thể dân tộc thuộc địa với bọn thực dân đế quốc xâm lược, nên tính chất
của cuộc cách mạng ở thuộc đia là dân tộc chứ không phải giai cấp (dân chủ). Do
đó, đối tượng của cách mạng thuộc địa là bọn thực dân, đế quốc xâm lược và tay
sai chứ không phải là giai cấp. Vì vậy, mục tiêu của cách mạng là giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc, thiết lập chế độ chính trị do nhân dân làm chủ, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Từ đó, Hồ Chí Minh khẳng định, đặt vấn đề dân tộc lên trên hết, trước hết,
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giá trị cốt lõi của con đường cách
mạng mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân
tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề đi
lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự
do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Chủ nghĩa xã hội là hạnh phúc, tự do. Vì
vậy, phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân
tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao
hơn của toàn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm
của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và cách
mạng xã hội chủ nghĩa, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành nào
ngăn cách.
2. Xác định tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng đinh: “Cách mệnh trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” 4. Đảng đó phải được xây
dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa
Mác-Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách
mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, tổ
chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống
nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do
và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội

4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.289.

115
nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định: “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp”5. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại Đại
hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai đoạn
hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là
một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc Việt Nam” 6. Năm 1961, khi nhân
dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần
nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc,
không thiên tư, thiên vị”7.
Đảng muốn vững và có thể hoàn thành vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình thì
Đảng phải là một tổ chức vừa đạo đức vừa văn minh, đứng vũng trên nền tảngchủ
nghĩa Mác-Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có
phẩm chất đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó phải
xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu dài, chân
thành, đoàn kết, trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc. Đảng đó còn biết tập
hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung
là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, Đảng lãnh đạo là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ đó, có thể khẳng định, ở
Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt
Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước
vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang,
hạnh phúc.
3. Xác định lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về con đường cách mạng vô sản,
nhưng Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận ấy. Nếu như Lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin chỉ đề cập đến liên minh công nông là gốc cách mạng, nền tảng của
cách mạng, thì Hồ Chí Minh khẳng định, lực lượng của cách mạng giải phóng dân
tộc bao gồm toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh công nông cho nên phải đoàn kết
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.3.
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.41
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.275.

116
toàn dân: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai
người”8, “dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền”9. Do vậy, phải tập hợp và đoàn kết toàn dân tộc
cách mạng mới thành công.
Trong khi xác định lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân, Hồ
Chí Minh xác định lực lượng nòng cốt là liên minh công nông: “Cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm
nòng cốt”. Trong đó, “thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự bảo đảm
chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”10
Xác định lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân tộc trên nền
tảng khối liên minh công nông là luận điểm rất mới, sáng tạo, có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân
tộc. Đồng thời, bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin về lực
lượng của cách mạng ở các nước thuộc địa. Có thể nói, đối với cách mạng Việt
Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo
trong tiến trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ tồn tại quan điểm cách mạng thuộc địa phụ
thuộc và sự thắng lợi của cách mạng chính quốc: Cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa chỉ có thể giành được thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc giành
được thắng lợi. Tuy nhiên, khi phân tích tình hình thuộc địa, Hồ Chí Minh không
đồng tình quan điểm đó, Người cho rằng: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một
cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp
vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu
của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” 11.
Lênin nói về tầm quan trọng của thuộc địa ở tầm khái quát, còn Hồ Chí Minh đi sâu
khai thác cấu trúc chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa ở thuộc địa. Bằng sự quan sát
tinh tường nhiều thuộc địa của các đế quốc khác nhau, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng các
thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy, là nơi cung cấp binh lính cho
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.283
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.287
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.391
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.320

117
quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng
phản cách mạng. Tóm lại, “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”. Trên diễn đàn Đại hội của
Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh lưu ý Quốc tế Cộng sản không chỉ là tương lai của
thuộc địa mà còn là nguy cơ của thuộc địa và nhắc nhở rằng không được khinh
thường thuộc địa. Người mạnh dạn tuyên bố: “Nếu các đồng chí không lên án chủ
nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với các dân tộc thuộc địa, thì các
đồng chí làm thứ cách mạng gì?”12.
Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng giải phóng thuộc địa có thể thành công
trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Năm 1921, Người đã viết: “Ngày mà hàng
trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê
tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng
khổng lồ và qua việc thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là chủ nghĩa đế quốc, sẽ có thể giúp cho những người anh em của họ ở phương
Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”13.
Người còn nêu rõ: Những người cách mạng ở thuộc địa cần chủ động tạo ra
thời cơ: “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến!” 14.
Luận điểm đó của Người xác định rõ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam không thể ngồi chờ, không ỷ lại vào cách mạng ở “chính quốc”.
Luận điểm này đến năm 1924 được nâng lên một tầm mới, trong tham luận trình
bày tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản: đó là cách mạng ở thuộc địa cần phải
tiến hành trước cách mạng giải phóng giai cấp ở chính quốc: “Vận mệnh của giai
cấp vô sản thế giới phụ thuộc phần lớn vào các thuộc địa, nơi cung cấp lương thực
và binh lính cho các nước lớn đế quốc chủ nghĩa. Nếu chúng ta muốn đánh bại các
nước này thì trước hết phải tước hết thuộc địa của chúng đi”15.
Cũng tại Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản khi nghe một số ý kiến coi
trọng cách mạng vô sản ở chính quốc hơn thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng
thắn nêu ý kiến của mình: “Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi
không thể không nói với các đồng chí rằng, sau khi nghe những lời phát biểu của
các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn
đằng đuôi. Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện nay nọc độc và sức sống của con

12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.585
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.48
14
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.40
15
Tạp chí La Correspondance internationnale, số 41, 1924.

118
rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các
thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính
cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực
lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng các đồng chí lại
khinh thường thuộc địa”16.
Những luận điểm trên đây của Nguyễn Ái Quốc nói lên tính chủ động, tích
cực của phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Luận điểm đó rõ ràng là khác
với quan điểm của một số đông lúc bấy giờ cho rằng cách mạng ở thuộc địa chỉ
được giải quyết sau khi giai cấp vô sản ở “chính quốc” giành được chính quyền. Đó
là luận điểm sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh.
KẾT LUẬN
Qua những gì đã trình bày ở trên, có thể thấy, những sáng tạo lý luận của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phản ánh đúng đắn thực tiễn Việt Nam
cũng như nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do hạnh phúc dân tộc Việt Nam
mà đó còn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”17. Có thể nói, giải phóng dân tộc là khát vọng cháy bỏng của nhân dân
các dân tộc bị áp bức, giải phóng dân tộc là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự
do, dân chủ của con người.
Chiến tranh đã lùi xa, cuộc đấu tranh cho độc lập, thống dân, toàn vẹn lãnh
thổ của nhân dân Việt Nam đã hoàn thành, nhưng những sáng tạo lý luận và
phương pháp Hồ Chí Minh vẫn là bài học không bao giờ cũ. Đất nước và thế giới
có nhiều đổi thay so với thời Hồ Chí Minh, nhưng công cuộc đổi mới muốn thắng
lợi vẫn phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tiến hành dưới ánh sáng cách mạng,
khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vì mục tiêu
xây dựng một đất nước Việt Nam phồn vinh, thịnh vượng, nhân dân được tự do, ấm
no, hạnh phúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2]. Tạp chí La Correspondance internationnale, số 41, 1924.

16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 1, tr.295-296.
17
Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 4, tr.1

119
HÀNH TRÌNH ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VĨ ĐẠI
CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH
TS Nguyễn Thị Chinh
Khoa Lý luận Chính trị - Học viện Ngân hàng

Cách đây 112 năm, với ý chí, khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc Việt
Nam khỏi ách nô lệ dưới chế độ thực dân, phong kiến, ngày 5/6/1911, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Hành
trình của Người đã mở ra những mốc son rực rỡ nhất trong lịch sử đấu tranh cách
mạng, giải phóng của dân tộc Việt Nam.
Người đi tìm hình của nước
Thật vậy, cả cuộc đời của Bác Hồ kính yêu là một cuộc hành trình không mệt
mỏi vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngày 05/6/1911 đã
trở thành một dấu mốc đặc biệt quan trọng, không chỉ trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Bác, mà còn đối với lịch sử của cả một dân tộc. Bác Hồ, lúc đó là người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, lấy tên là Văn Ba đã rời Sài Gòn (Thành
phố Hồ Chí Minh) ra đi với một hoài bão lớn, nung nấu một quyết tâm cháy bỏng đó
là giành “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều
tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Cuộc hành trình qua các châu lục Á, Âu,
Phi, Mỹ và gần 30 quốc gia, lớn, nhỏ, tiếp xúc với nhiều dân tộc, cảm nhận được
nhiều nền văn hóa đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra
con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản.
Như chúng ta biết, từ đầu thế kỉ XX, dưới ách thống trị của chế độ thực dân
phong kiến, chứng kiến nền độc lập của dân tộc bị xâm phạm, cảnh nhân dân ta
“Một cổ hai tròng” chịu nhiều lầm than, cực khổ, bị chà đạp, áp bức, bóc lột tàn
bạo, đã có rất nhiều phong trào yêu nước của các văn thân sĩ phu yêu nước nổ ra
như phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, phong trào
Duy Tân của Phan Chu Trinh, phong trào Đông kinh nghĩa thục của Phan Bội
Châu…. nhưng tất cả đều thất bại.
Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rất ngưỡng mộ và kính trọng
lòng yêu nước dũng cảm, kiên cường của các bậc tiền bối. Nhưng với tấm lòng yêu
nước sâu sắc, sự trăn trở về vận mệnh dân tộc, bằng sự hiểu biết của bản thân,
Nguyễn Tất Thành sớm nhận ra con đường do những người đi trước mở ra sẽ không
giải phóng được dân tộc mà cần thiết phải có con đường mới phù hợp hơn. Với quy

120
luật phát triển của lịch sử, để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, Người cho rằng
phải ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước độc lập phát triển như thế nào để trở
về giúp đồng bào ta, đất nước ta thoát khỏi cảnh áp bức, nô lệ. Nung nấu quyết tâm
đi tìm một con đường cứu nước mới, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đi bộ
từ Phan Thiết, vượt qua những khó khăn khắc nghiệt của thời tiết, nhiều khi lả đi vì
đói, vì mệt, vì khát để tới Sài Gòn, tìm cơ hội thực hiện ý định cháy bỏng đó. Đây
chính là bước ngoặt quan trọng, một sự lựa chọn lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng,
mở đầu cho quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.
Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã có ảnh hưởng rất lớn
đến tình cảm và nhận thức của Nguyễn Tất Thành. Đầu năm 1919, Nguyễn Tất
Thành tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngày 18-6-1919, với tên Nguyễn Ái Quốc,
chàng thanh niên thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi bản yêu
sách tới Hội nghị Vécxây yêu cầu về quyền tự do, dân chủ, bình đẳng dân tộc cho
nhân dân An Nam.
Tuy bản yêu sách không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền rộng rãi,
gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các
nước thuộc địa. Qua đây, Nguyễn Ái Quốc cũng nhận thức được rằng, các dân tộc
muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức của chính mình. Tháng 7-1920, sau
khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
Lênin đăng trên Báo L’Humanite (Báo Nhân đạo) của Đảng Xã hội Pháp), Nguyễn
Ái Quốc đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin. Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn
Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời
câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng
giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. Luận cương
của Lênin làm cho Người rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng! Người vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà Người nói to lên như
đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ. Đây là cái
cần thiết với chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Sau này, Người đã
viết như thế về thời điểm lịch sử đầy ý nghĩa này.
Cuối tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế
III, đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, đồng
thời cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu

121
quá trình kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã quyết
định đi theo con đường của Lênin vĩ đại. Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đầu
năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người bắt đầu
xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam như: Truyền bá Chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng lớp
nhân dân, của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, phát triển
lực lượng cách mạng, xây dựng các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Kách mệnh”, đặc
biệt là việc xuất bản tờ Báo Thanh Niên ra ngày 21-6-1925, Người đã chuẩn bị về
đường lối chính trị để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3-2-1930, dưới sự chủ trì
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3
tổ chức cộng sản đã nhất trí thành lập một đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đây chính là kết quả khẳng định tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ và sự cống hiến
của Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng Chủ nghĩa Mác Lênin vào việc thành lập
một đảng cách mạng chân chính để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, Người trở về
nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (tháng
5/1941), quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng phù hợp với sự thay đổi
mau lẹ của tình hình quốc tế và trong nước. Đặc biệt, Người đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tổ chức vận động, tập hợp lực lượng toàn dân tộc;
thành lập Mặt trận Việt Minh; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa,
tạo nên các cao trào cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ trên phạm vi cả nước.
Tháng 8/1945, với tư duy chính trị nhạy cảm và sắc bén, dự báo chính xác, phân
tích kịp thời và thấu đáo tình hình trong nước và quốc tế, nhận rõ thời cơ cách mạng
đã chín muồi, Người nêu quyết tâm "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc", "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã
vùng lên phá tan gông xiềng nô lệ hơn 80 năm của chế độ thực dân, xóa bỏ chế độ
phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây

122
là một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới
rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc - Thời đại Hồ Chí Minh. Đi theo con
đường cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lựa chọn, cách mạng
Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ Sài Gòn, Người đã ra đi “tìm
hình của nước” và để 64 năm sau, chính nơi đây chứng kiến thắng lợi lịch sử của
nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Bằng Đại thắng Mùa xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, nhân dân ta đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, thu non sông về một mối, như sinh thời Người hằng mong. Hành trình
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hành trình sáng tạo, vĩ đại trong tìm đường, mở
đường và dẫn đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Mỗi
bước đi của Người trong hành trình ấy đều gắn liền với những quyết định trọng đại,
những mốc son lịch sử trong các chặng đường của cách mạng Việt Nam.
Đi theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; trong bất
cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, vận dụng phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, không ngừng nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.
Từ một nước nghèo và lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước
đang phát triển, có thu nhập trung bình. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay; có thêm nhiều điều kiện, tiền đề
thuận lợi để vững bước trên con đường mà Đảng ta, nhân dân ta và Bác Hồ kính yêu
đã lựa chọn. Thành tựu của hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đổi mới
của Đảng ta dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Ngày nay, trong lòng các thế hệ người dân đất Việt, Người vẫn còn sống
mãi, tư tưởng, tấm gương đạo đức sáng ngời của Người luôn rọi sáng con đường
cách mạng trong mỗi bước đi lên của đất nước. Nhắc lại hành trình cứu nước 112
năm về trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi chúng ta đều khắc ghi sâu trong tim
lòng biết ơn vô hạn đối với những hi sinh lớn lao mà Bác đã trải qua trong suốt 30
năm bôn ba tìm đường cứu nước. Đó là dấu mốc lịch sử quan trọng và thiêng liêng
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hiện nay, đất nước ta bước vào một thời đại mới,
hội nhập và ngày càng phát triển, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta nguyện vững
bước trên con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn, xây dựng một nước
Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./

123
DẤU ẤN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ
TRÊN HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
TS. Nguyễn Thị Hạnh
Học viện Ngân hàng - Phân viện Bắc Ninh

Trong suốt hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đi qua 3 đại dương, 4 châu lục, qua
gần 30 quốc gia, hàng trăm thành phố, vượt qua muôn vàn gian khổ, chông gai và
làm rất nhiều nghề để kiếm sống, với quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào
tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những
điều tôi hiểu”. Trên những chuyến đi ấy, Người đã đồng sáng lập hoặc trực tiếp
thành lập một số tổ chức chính trị. Mỗi tổ chức đều đánh dấu sự hoàn thiện trong
nhận thức của Người về con đường giải phóng dân tộc. Thông qua những tổ chức
đó, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết về chính trị, tư
tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
1. Nguyễn Ái Quốc và Hội những người An Nam yêu nước
Những năm đầu thế kỷ XX, một số người Việt Nam xuất dương sang sống và
làm việc tại nước Pháp. Họ thuộc các thành phần thuỷ thủ, tiểu thương, thợ thủ
công, giúp việc trong gia đình người Pháp, sinh viên và một số trí thức... Họ sống
rải rác nhiều nơi trên đất Pháp, số lượng khoảng vài trăm người, đông nhất là ở các
hải cảng Marseille, Le Havre, Bordeaux hoặc những nơi có trường học như Paris,
Montpellier, Toulouse,... Phần đông trong số họ có tinh thần yêu nước, nhưng vẫn
chưa có sự liên hệ với nhau, chưa tập hợp thành một hội đoàn. Đến đầu năm 1912,
nhờ uy tín của nhà yêu nước Phan Châu Trinh, Hội những người An Nam yêu
nước được thành lập do ông Phan Văn Trường làm Hội trưởng. Những hoạt động
của Hội những người An Nam yêu nước đã tác động mạnh tới cả trong nước. Đến
năm 1917, người Việt Nam ở Pháp tăng lên với số lượng khoảng chín vạn người.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba, làm phụ bếp trên tàu
L’Amiral Latouche-Treville của hãng Chargeurs Reunis, tạm biệt Tổ quốc để ra
nước ngoài tìm đường cứu nước. Ngày 6-7-1911, tàu cập bến Mác xây- Pháp. Ngay
khi đến nước Pháp, Nguyễn Tất Thành đã có liên hệ với nhà yêu nước Phan Châu
Trinh. Trong thời gian sống và làm việc ở nước Mỹ và ở nước Anh, Nguyễn Tất
Thành vẫn thường xuyên liên hệ với nhà yêu nước Phan Châu Trinh qua thư từ.
Năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Khi được hỏi về lý do

124
gia nhập Đảng, Người trả lời: vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi,
là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do,
Bình đẳng, Bác ái”. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, đầu năm 1919, đại biểu chính
phủ các nước tham gia chiến tranh đến Véc xây - Pháp họp hội nghị hoà bình. Nhận
thấy đây là một dịp thuận lợi cho việc vận động dư luận thế giới và nhân dân Pháp
ủng hộ nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Tất Thành đã đề nghị
Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường cùng đứng ra thành lập một hội đoàn của
người Việt Nam để đưa nhũng yêu sách của nhân dân Việt Nam đến Hội nghị Véc
xây. Dưới bản yêu sách, Nguyễn Tất thành ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu
tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Nguyễn Tất Thành gửi bản Yêu sách tới
Hội nghị. Yêu sách còn được Nguyễn Tất Thành bỏ tiền ra thuê in 6.000 tờ dưới
dạng truyền đơn bằng tiếng Pháp, với ba khuôn in khác nhau. Hai khuôn in cùng
mang một đầu đề Những yêu sách của nhân dân An Nam, dưới viết “Thay mặt
Nhóm người yêu nước An Nam: Nguyễn Ái Quốc”. Một khuôn in mang đầu
đề Quyền của dân tộc An Nam, dưới viết: Thay mặt nhân dân An Nam: Nguyễn Ái
Quốc”. Sau khi bản Yêu sách bằng tiếng Pháp được in trên báo ngày 18-6-1919,
Nguyễn Tất Thành còn tự tay viết Yêu sách bằng hai thứ tiếng một bản bằng chữ
quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản chữ Hán nhan
đề An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư, chụp in thành truyền đơn. Nguyễn Tất
Thành đã cùng với một số kiều bào trong Nhóm người An Nam yêu nước đem phân
phát trong các cuộc hội họp, mít tinh, các buổi sinh hoạt câu lạc bộ. Từ thực tế hành
động và đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc, các nhân viên mật thám Pháp đã nhận định
Người thực sự là linh hồn của Hội những người An Nam yêu nước tại Pháp.
2. Nguyễn Ái Quốc và Hội liên hiệp thuộc địa
Được sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã
cùng với đại biểu các thuộc địa của Pháp có mặt ở Paris đứng ra vận động thành lập
Hội liên hiệp thuộc địa, một hình thức mặt trận của các dân tộc bị chủ nghĩa thực
dân Pháp thống trị, liên minh với giai cấp vô sản chính quốc cùng đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân. Đây là tổ chức liên minh của các dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc
áp bức xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh giải phóng của mình. Đây
cũng là một hiện tượng có một không hai trong lịch sử: một liên minh chống chủ
nghĩa thực dân ra đời ngay tại trung tâm chính trị của chính chủ nghĩa thực dân.
Nguyễn Ái Quốc đã góp phần rất quan trọng vào việc xây dựng củng cố và phát
triển của Hội.

125
Sau nhiều lần gặp gỡ trao đổi cuộc gặp ngày 26-6-1921 các chiến sĩ chống
chủ nghĩa thực dân Pháp ở nhiều nước đang sinh sống ở Paris đã bàn việc thành lập
Hội, xây dựng chương trình điều lệ và cử ban chấp hành. Hội những người An Nam
yêu nước là một đoàn thể trong Hội liên hiệp thuộc địa, cơ quan ngôn luận của Hội
là báo Le Paria (Người cùng khổ) viết bằng tiếng Pháp, báo ra hàng tháng và số đầu
tiên ra ngày mùng 1-4-1922. Nội dung của những tác phẩm chủ yếu tập trung vào
việc vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Đông Dương và các thuộc địa
khác, từ đó giúp người đọc nhận thức rõ hơn về sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân
nói chung và thực dân Pháp nói riêng, cũng như mâu thuẫn không thể điều hòa
được giữa nhân dân lao động các thuộc địa với chủ nghĩa thực dân, về mối quan hệ
giữa cách mạng thuộc địa và chính quốc. Những đoạn văn chính trị, các truyện kí
và tranh châm biếm của Nguyễn Ái Quốc trên Le Paria hợp thành những hoạt động
phong phú, đa dạng góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của những người bị áp
bức chống chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh nhân dân các thuộc địa, soi sáng cho họ
con đường đi tới giải phóng và xây dựng tương lai tốt đẹp hạnh phúc.
Hội liên hiệp thuộc địa thời gian đầu hội có khoảng 120 hội viên hoạt động
mạnh mẽ sôi nổi và có ảnh hưởng rộng rãi. Về sau do nhiều nguyên nhân tác động
làm cho hoạt động của Hội giảm sút dần. Trước hết là sự cản trở và phá hoại của
Bộ thuộc địa Pháp bằng nhiều thủ đoạn vừa trắng trợn, vừa nham hiểm bí mật. Sự
eo hẹp về tài chính thường xuyên cũng là một khó khăn lớn không có khả năng
vượt qua của Hội. Ngoài ra, phải kể đến một yếu tố quan trọng, người nhiệt tình
nhất có điều kiện tập trung thời gian, tâm trí cho mọi hoạt động của hội nhiều hơn
cả là Nguyễn Ái Quốc đã đi Liên Xô nhận nhiệm vụ mới, nên tháng 6-1926 Hội
Liên hiệp thuộc địa ngừng hoạt động hẳn.
3. Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời pháp đến Matxcơva. Với những cố gắng của
Người, từ năm 1921 đến năm 1923 chủ nghĩa Mác - Lênin đã bước đầu được truyền
bá vào Việt Nam với những “phương tiện truyền bá sống” - chính là những cán bộ
cách mạng trung kiên đã được đào tạo. Quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị điều
kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam,
Người đã gắn với tổ chức chính trị đó là Tâm tâm xã và Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên. Tâm tâm xã là một tổ chức của nhóm người Việt Nam yêu nước được
thành lập ở Quảng Châu, Trung Quốc, thành viên chủ yếu là những thanh niên yêu

126
nước xuất dương sang Trung Quốc theo ảnh hưởng của Phan Bội Châu. Tâm Tâm
Xã ra đời vào thời điểm Việt Nam quang phục hội đang dần dần tan rã và Tâm tâm
xã cũng chưa vượt qua được những hạn chế của những người yêu nước đương thời.
Họ vẫn rơi vào tình trạng mơ hồ về chính trị, lúng túng về chủ trương và hành
động. Ngay khi về đến Quảng Châu, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với
tổ chức Tâm tâm xã và hướng họ đi theo con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác
- Lênin, để từ đó ra đời một tổ chức mới là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
vào năm 1925.
Sau khi ra đời, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã công bố chương
trình, điều lệ của mình, nói rõ mục đích của Hội là làm cuộc cách mạng dân tộc,
đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở, sau đó làm cách mạng thế giới, lật
đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy tự phê bình và phê
bình là phương châm phát triển của mình, tất cả các hội viên phải hoạt động trong
quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của Hội. Hệ thống tổ chức của Hội gồm
5 cấp đồng bộ: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ, Huyện, Chi bộ. Rõ ràng qua tổ chức cách
mạng này, Nguyễn Ái Quốc muốn thí điểm về mặt tổ chức cho một đảng cộng sản
tương lai. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là một tổ chức cách mạng theo
khuynh hướng mac xít, Nguyễn Ái Quốc được bầu làm Bí thư kiêm ủy viên tài
chính của Hội, đồng thời trực tiếp phụ trách chi hội Việt Nam đó là Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên.
Việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã có một tổ chức, một
điểm tựa, Nguyễn Ái Quốc đã mở các lớp huấn luyện chính trị để chuẩn bị xây
dựng đội ngũ cán bộ làm nòng cốt. Từ đầu năm 1926 đến tháng 4-1927, Nguyễn Ái
Quốc đã mở được ba khóa huấn luyện cho khoảng 75 người. Người trực tiếp phụ
trách và là giảng viên chính, sau này những bài giảng của người được tập hợp hoàn
thiện trong cuốn Đường cách mệnh. Đại bộ phận học viên học xong đều trở về
nước và hoạt động trong phong trào vô sản hóa. Họ đã trở thành những hạt giống
nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cách mạng, vào các tổ
chức cách mạng trong nước và Việt kiều ở Xiêm.
Sau những biến cố chính trị lớn ở Quảng Châu năm 1927, sự liên lạc giữa
trong nước và Tổng bộ hội không còn thường xuyên thậm chí gián đoạn, Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên rơi vào tình trạng khó khăn như Lâm Đức Thục phản
bội, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn bị bắt... nhưng cơ sở của Hội không bị phá vỡ, mà

127
ngược lại các hội viên ngày càng dày dặn về kinh nghiệm, tổ chức ngày càng kiên
cố và bí mật. Từ sau năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên không ngăn
được sự chia rẽ trong phong trào và chính thức kết thúc vai trò lịch sử sau sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất các tổ
chức cộng sản thành một tổ chức duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đúng đắn của Đảng do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã quyết định
nội dung, phương pháp, bước đi của cách mạng Việt Nam trong những chặng
đường tiếp theo.
Như vậy, trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập,
tham gia thành lập và hoạt động trong nhiều tổ chức chính trị. Từ Hội những người
An Nam yêu nước tại Pháp đến Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là những bước
tiến dài trên con đường nhận thức của Người, từ một người yêu nước trở thành một
người cộng sản, đến việc tìm ra con đường cứu nước chân chính gắn liền với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Thông qua các tổ chức chính trị nói trên, Nguyễn Ái Quốc đã
tập hợp một thế hệ thanh niên Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết nhưng chưa tìm
được hướng đi, đến với chân lý của thời đại. Người đã trực tiếp tổ chức huấn luyện
đào tạo họ cả về lý luận, thực hành, chính trị và đạo đức, đưa họ vào tổ chức, thúc
giục họ đấu tranh để từng bước trưởng thành. Thông qua việc tìm hiểu các tổ chức
chính trị có dấu ấn của Nguyễn Ái Quốc trên hành trình tìm đường cứu nước năm
1911 đến năm 1930, có thể thấy nổi bật lên công lao của Người trong sứ mệnh đặt
cách mạng Việt Nam trong quỹ đạo của cách mạng thế giới, điều đó cũng đồng
nghĩa với việc Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền móng cho tinh thần hữu nghị cao đẹp
của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc và
giải phóng con người.

128
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
[2]. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
[3]. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
[4]. Hồ Chí Minh với con đường giải phóng dân tộc (2012), Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[5]. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
[6]. Thu Trang (1989), Nguyễn Ái Quốc tại Pari 1917-1923, Nxb Thông tin
lý luận, Hà Nội.

129
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, GIAI ĐOẠN 1928 – 1929: TẠI THÁI LAN
TS. Nguyễn Thị Giang
Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng

Trên hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đi qua nhiều quốc gia, nhiều vùng đất, mỗi nơi người đi qua đều góp phần định
hình rõ hơn con đường Người lựa chọn cho dân tộc ta. Đặc biệt là, ở bất cứ nơi nào,
Người cũng để lại cho người dân ở đó những ký ức đặc biệt, góp phần làm thay đổi
những vùng đất ấy theo hướng tốt đẹp hơn, mở ra con đường để họ tìm thấy cuộc
sống hạnh phúc hơn. Giai đoạn 1928 - 1929, sau 17 năm kể từ khi rời Bến cảng
Nhà Rồng, Người từ Châu Âu trở về để dẫn dắt phong trào cách mạng của dân tộc.
Dấu ấn đậm nét trong hoạt động cách mạng của Bác ở Thái Lan là ở Bản Đông, xã
Pamakhap, tỉnh Udonthani - tỉnh miền Bắc Vương quốc Thái Lan, là một vùng đất
nông nghiệp màu mỡ, được hai con sông Yom và sông Nan bồi đắp. Khi đó,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với bí danh là Thọ, biệt hiệu Nam Sơn, từ
Bangkok về bản Đông hòa mình vào cuộc sống với kiều bào, bắt đầu hành trình
truyền bá chủ nghĩa yêu nước trong cộng đồng người Việt.
Việc đầu tiên là Người tập hợp tất cả bà con Việt kiều tại đây gặp mặt, giới
thiệu để tạo thiện cảm. Trong dịp đó, “anh Chín” - một bí danh của Người tại đất nước
của những nụ cười - đã điểm lại khái quát những biến đổi chính trị quan trọng ở trong
nước cũng như trên thế giới, khơi dậy tình yêu đất nước, con người, lòng tự tôn dân
tộc và hướng về quê cha, đất tổ bấy giờ đang chịu ách thống trị của thực dân Pháp.
Quãng thời gian Người hoạt động đã thổi một luồng gió mới vào phong trào
yêu nước của cộng đồng kiều bào ở Đông Bắc Thái Lan với những hoạt động tuyên
truyền cơ bản sau:
Một là, vận động Việt kiều vào các tổ chức
Đến cuối năm 1927, đầu năm 1928, tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh
niên được mở rộng, ngoài Chi bộ Phichịt ra, còn có thêm các chi bộ ở Uđon Thani,
Sacôn Nakhon, Nakhôn Phanom. Ba chi bộ ở miền Đông Bắc nước Thái này được
tổ chức thành Tỉnh bộ Uđon. Nhờ vậy, mà tổ chức Việt kiều ở Thái được lãnh đạo
chặt chẽ, hoạt động có nề nếp, tích cực hơn.
Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Việt kiều
ở Xiêm được tổ chức theo hai hình thức chủ yếu đó là Hội Hợp tác và Hội Thân ái.

130
Ngoài hai tổ chức trên, ở các địa phương còn có Hội Phụ nữ, Hội Thiếu niên. Chỗ
nào có trường học là các em học sinh được tổ chức vào Hội Thiếu niên, để rèn
luyện các em thói quen sinh hoạt tập thể, nếp sống ngăn nắp; tự quản lý sinh hoạt
và học tập của mình.
Trong cuốn sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”,
tác giả Trần Dân Tiên viết: “Mỗi ngày, khi xong công việc, họ họp nhau trong sân
trường. Đàn ông, đàn bà, trẻ con ngồi thành vòng tròn, một người cán bộ gầy gò,
đứng dậy và nói giọng chậm rãi rõ ràng, đọc cho họ nghe một bài báo hoặc một
chương sách. Mọi người yên lặng nghe. Khi người này đọc xong, anh hỏi mọi
người đã hiểu chưa và giải thích những điểm chưa rõ. Buổi họp xong, họ hát
những bài ca yêu nước và các cụ già kể chuyện chiến tranh du kích”.
Dù rất bận rộn, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn dành thời gian đi thăm hỏi các
nhà sư Việt kiều trụ trì ở các chùa, họ là những người của phong trào Cần Vương,
Duy Tân còn sót lại, như chùa Oátphô (ở thị xã Uđon Thani), chùa Bản Chính
(Uđon Thani); chùa Xỉchômchưn (Noọngkhai); chùa Hội Khánh (chùa Mongkhol
Samalkhol) nằm trên đường Pleng Nam (Băng Cốc); chùa ông Năm (chùa
Somsanam (Borihara) ở phố Lan Luông (Băng Cốc); chùa ông Ba hay chùa Tư Tế
Tự (chùa Lacunụ Khọ) ở phố Rajawong (Băng Cốc), v.v.. Nguyễn Ái Quốc đã
được các nhà sư che chở, giúp đỡ “gặp khi nguy hiểm quá, ông Nguyễn đã tạm lánh
vào một ngôi chùa, tạm cắt tóc đi tu để tiếp tục hoạt động”.
Hai là, sử dụng báo chí để tuyên truyền trong Việt kiều
Để có điều kiện tuyên truyền cách mạng trong Việt kiều, dựa vào pháp luật
của Chính phủ Thái Lan lúc bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc đã dùng hình thức hợp pháp
và nửa hợp pháp để tiến hành tuyên truyền, giáo dục Việt kiều. Người đã đổi tên
báo Đồng Thanh thành Thân ái.
Báo Thân ái xuất bản ở Thái Lan nhưng sử dụng chữ Việt cải cách rất linh
hoạt (như dùng chữ Z thay cho chữ D, chữ K thay cho chữ C, chữ F thay cho chữ
Ph, chữ J, Z thay cho chữ Gi). Góc bên phải trên cùng của tờ báo thay vì măng sét
của tờ báo là các câu thơ động viên tinh thần yêu nước, như:
“Nhiễu điều phủ lấy zá gương
Người chung một nước thì thương nhau kùng".
Hay:
Thương nòi nên phải gắng kông,
Nào ai xương sắt za đồng khác ai”

131
Báo Thân ái, có các mục: Tin tức, Tự do diễn đàn, giúp đỡ học vấn, phụ nữ
đàm, văn uyển. Nội dung rất phong phú, cung cấp nhiều thông tin quý báu về lịch
sử đấu tranh của dân tộc, về phương pháp cách mạng, kinh nghiệm hoạt động bí
mật; vạch trần tội ác của đế quốc Pháp và phong kiến Việt Nam, phản ánh nỗi
thống khổ của đồng bào, khuyên nhủ đồng bào đoàn kết cứu nước, giúp đỡ lẫn
nhau; những hoạt động cách mạng ở trong nước, thông tin về sinh hoạt của kiều
bào; về tình hình thế giới v.v.. Cách viết theo kiểu kể chuyện, đơn giản, dễ hiểu,
hàm chứa nhiều ý nghĩa, vừa gợi mở, vừa giáo dục tuyên truyền cho đồng bào ta
đang sinh sống làm ăn ở Xiêm.
Với sự hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, phong trào yêu nước của
Việt kiều ở Thái Lan có nhiều chuyển biến mới, tích cực: Các tổ chức cách mạng
được củng cố và phát triển; tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước được tăng cường;
trình độ của cán bộ và bà con Việt Kiều được nâng lên... Những hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc đã có ảnh hưởng tốt về trong nước.
Với những tình cảm tốt đẹp về Người, tháng 12-2013, được sự đồng ý của
Chính phủ Thái Lan, chính quyền địa phương đã khởi công xây dựng Khu di tích
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, nằm trong khuôn viên Trung tâm
Hữu nghị Thái Lan-Việt Nam ở Ban Dong, tỉnh Phichit. Lễ khánh thành Bảo tàng,
gồm 9 gian trưng bày theo từng chủ đề, diễn ra ngày 1-9-2018, với sự tham gia
đông đảo của bà con Việt kiều toàn Thái, chính quyền sở tại, quan chức chính phủ
Việt Nam và Thái Lan. Các quan chức Thái Lan khẳng định “công trình này sẽ góp
phần thắt chặt hơn nữa quan hệ hữu nghị giữa Thái Lan và Việt Nam”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Thị Kim Dung (2023), Bác Hồ với công tác tuyên truyền cách
mạng thời kỳ hoạt động ở Thái Lan (1928-1929), tuyengiao.vn.
[2] Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.112.
[3]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nbx CTQG, H, 2011, tập 8, tr 13.
[4]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nbx CTQG, H, 2011, tập 15, tr 387.
[5]. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nbx CTQG, H, 2011, tập 12, tr 562

132
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA BÁC HỒ TRÊN ĐẤT PHÁP
Th.s. Kiều Thị Yến
Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng

MỞ ĐẦU
Bài viết này chúng ta cùng nhau nhìn lại hành trình của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong khoảng thời gian Bác ở pháp, nơi chứng kiến bước ngoặt trong hành
trình tìm đường cứu nước của Người, nơi Người tìm ra con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc.
Từ khóa: Bác Hồ, hành trình, nước Pháp
NỘI DUNG
1. Bác Hồ với nước Pháp
112 năm đã qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu đặt chân đến nước
Pháp, với mong muốn tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Sau một
tháng vượt biển, người phụ bếp trên tàu Amiral La Touche - Tréville đến Marseille
đặt chân đến nước Pháp.
Trong cuốn “Hồ Chí Minh”, tác giả Pierre Brocheux viết “Anh Ba đến cảng
Marseille chỉ có 10 francs trong túi và tìm thấy ở đây nhiều điều tốt đẹp về nước
Pháp, cho phép so sánh giữa nước Pháp bản địa với chủ nghĩa thực dân Pháp ở
Đông Dương… Nhưng trong thời gian chờ tàu dỡ hàng, anh đã quan sát và chứng
kiến ở nước Pháp cũng có những người nghèo như ở xứ sở mình, hay tình trạng
trộm cắp, gái bán hoa và đặt câu hỏi: “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng
bào của nước họ trước khi khai hóa chúng ta?”
Tác giả Pierre Brocheux nhận xét về Chủ tịch Hồ Chí Minh qua nhiều năm
nghiên cứu về Người: “Từ sâu thẳm trong lòng, nếu bạn hỏi tôi nghĩ gì về Chủ tịch
Hồ Chí Minh, câu trả lời thực sự rất đơn giản. Tôi có ấn tượng giống như tất cả
những ai từng may mắn được biết đến Người. Rằng đây là một con người nhân văn
nhưng cũng rất quyết đoán tìm ra những giải pháp và quyết tâm làm đến cùng với
mục tiêu đã đặt ra. Đặc biệt, đó là một con người rất chân thực và tình nghĩa, giản
dị. Một con người rất sáng suốt, tinh anh, một con người không bao giờ đánh mất
niềm tin và mục tiêu của mình. Người đã trải qua nhiều giai đoạn đau khổ và khó
khăn nhưng đã vượt qua được hết, nhìn rõ những gì đang xảy ra và rút ra được bài
học từ đó”.

133
Tiếp đến Marseille, anh Ba đã cùng con tàu tới cảng Le Havre, và ngày nay,
tại ngôi nhà số 1, phố Admiral Courbet, Le Havre - nơi Người từng sống, có đặt
một biển đồng lưu niệm ghi lại dấu chân Người. Theo các tư liệu, nhà cách mạng
Nguyễn Tất Thành đã gửi thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ cho biết tình hình và địa
chỉ của cha là Nguyễn Sinh Huy. Thư cho biết đã gửi cho ông Nguyễn Sinh Huy ba
ngân phiếu nhưng chỉ nhận được một lần trả lời. Thư ký tên Paul Tất Thành và kèm
theo địa chỉ hòm thư tại số 1, phố Admiral Courbet, Le Havre.
Theo một tư liệu mới có địa điểm tại thị trấn ven biển ngoại ô Le Havre có
tên là Saint Adresse - là nơi Bác từng làm vườn thuê cho một gia đình giàu có trong
thời gian đợi sửa tàu. Tại buổi lễ tôn vinh sự có mặt của Bác tại thành phố này , Thị
trưởng thành phố đã khẳng định: “Dấu vết của một giấc mơ cũng thực như dấu vết
của một bước chân”.
Dù chỉ trong khoảng một tháng ngắn ngủi lưu lại Sainte Adresse khi con tàu
La Touche - Tréville dừng chân để sửa chữa trong giai đoạn 1911-1912, người thợ
phụ bếp, sau đó là người thợ làm vườn “Anh Ba” - đã để lại một sợi dây kết nối
nhân văn đến kỳ lạ. Ngôi nhà ngày xưa Người từng làm vườn nay vẫn còn đó, khu
vườn vẫn còn nhưng thu hẹp lại và thay vào đó là hai tòa chung cư cao.
Tại Paris, có ít nhất 5 địa điểm Bác từng sống trong thời gian hoạt động cách
mạng tích cực. Thiêng liêng nhất và được nhắc tới nhiều nhất là tại địa điểm số 9
ngõ Compoint, nơi Người sống từ tháng 7/1921 đến 14/3/1923. Trong hoàn cảnh
điều kiện sống thiếu thốn, Nguyễn Ái Quốc đã cho ra đời nhiều tác phẩm bài báo,
truyện ngắn, kịch… tố cáo tội ác của chủ nghĩa tư bản nói chung và thực dân Pháp
tại Đông Dương. Ngày nay, ngôi nhà đã không còn như trước, trở thành một khu
chung cư cao tầng và bên dưới có gắn tấm biển đồng ghi lại dấu ấn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại đây. Căn phòng Người từng sống tại đây được chuyển về tái dựng tại
Bảo tàng Lịch sử sống tại công viên Montreau thuộc thành phố Montreuil ngoại ô
Paris. Cũng tại công viên, nhiều bà con người Việt và bạn bè Pháp thường xuyên
qua lại thăm và tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, tại Paris, phải kể đến các địa điểm như nhà số 56 phố Monsieur Le
Prince - nơi Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Tổng thống Mỹ dự Hội nghị hòa bình
Versaillé đề nghị ủng hộ bản Yêu sách của nhân dân An Nam, thư đề ngày
18/6/1919; hay ngôi nhà số 6 phố Villa De Gobellins ở quận 13 Paris - nay tấp nập
người châu Á- nơi Nguyễn Ái Quốc ở chung với hai ông Phan Văn Trường và Phan
Châu Trinh.

134
Các tài liệu của mật thám Pháp theo dõi Người được lưu trữ tại Trung tâm
lưu trữ hải ngoại Pháp cũng như nghiên cứu của các chuyên gia Pháp đều làm sáng
tỏ lý tưởng và mong mỏi tìm con đường cứu nước cho dân tộc của nhà cách mạng
Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc ngay từ những ngày đầu. Đồng thời, nhà cách
mạng Hồ Chí Minh có cái nhìn khách quan và nhân văn đối với nhân dân Pháp –
trong đó có không ít nhân dân yêu chuộng hòa bình – khác với bọn thực dân Pháp
tại Đông Dương.
2. Những dấu ấn của Người trên đất Pháp
Dấu ấn đầu tiên với Bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Nguyễn Ái
Quốc ký tên gửi tới Hội nghị Vécxây, đã làm chấn động dư luận nước Pháp và là
“phát pháo hiệu” thức tỉnh nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh giải phóng.
Thứ hai, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua lịch sử, Nguyễn
Ái Quốc đã bỏ phiếu để Đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đồng thời là người cộng sản Việt Nam
đầu tiên.
Thứ ba, Với việc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa và tờ báo “Người cùng
khổ” (Le Paria), Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình đã thổi một luồng gió
mới đến nhân dân các nước bị áp bức, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh chung
chống chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 6-1923, trước khi rời nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết bức thư gửi
lại cho các đồng chí của mình. Anh viết: Hội Liên hiệp thuộc địa và tờ báo “Người
cùng khổ” đã làm cho nước Pháp, nước Pháp chân chính hiểu rõ những việc đã xảy
ra trong các thuộc địa. Làm cho nước Pháp hiểu rõ bọn cá mập thực dân đã lợi dụng
tên tuổi và danh dự của nước Pháp để gây nên những tội ác không thể tưởng tượng
được. Nó đã thức tỉnh đồng bào chúng ta. Đồng thời nó cũng khiến cho đồng bào
chúng ta nhận rõ nước Pháp tự do bình đẳng và bác ái. Nhưng chúng ta còn phải
làm nhiều hơn.
Theo yêu cầu của Quốc tế Cộng sản đào tạo Nguyễn Ái Quốc trở thành lãnh
tụ tương lai cho cách mạng Đông Dương, Quốc tế Cộng sản cùng với Đảng Cộng
sản Pháp tổ chức cho Nguyễn Ái Quốc đến nước Nga. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái
Quốc tạm biệt Pari, tạm biệt nước Pháp, để lại hình ảnh đẹp về một chiến sỹ quốc
tế nhiệt thành đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người, thực hiện những
lý tưởng cao đẹp của đại cách mạng Pháp: Lý tưởng Tự do - Bình đẳng - Bác ái.

135
KẾT LUẬN
Trên hành trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh với nước Pháp giúp
chúng ta tìm hiểu ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn những quyết định đúng đắn
của người thanh niên Nguyễn Tất Thành trong hành trình tìm đường cứu nước.
Thời kỳ ở Pháp đó đã để lại những dấu ấn sâu đậm và rất quan trọng đối với cuộc
đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đối với cách mạng Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
[1] Giáo sư Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên): Phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
[2]. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
[3]. https://hochiminh.vn/

136
BÁC HỒ VỚI CHUYẾN ĐI LỊCH SỬ CHO DÂN TỘC VIỆT NAM
Ths. Trần Ngọc Hằng
Khoa Lý luận chính trị - Học viện Ngân hàng

Suốt cả cuộc đời vì nước, vì dân! Di sản vô giá mà Người để lại cho Tổ quốc ta,
dân tộc, cho non sông đất nước ta chính là tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh sáng ngời
luôn tỏa rạng, soi đường cùng lịch sử dân tộc. Cách đây 112 năm, ngày 5-6-1911 tại
Bến Nhà Rồng, Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành bắt đầu hải trình tìm đường cứu nước bằng
công việc phụ bếp. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp đến cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh; mà còn tạo nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đã làm
thay đổi hướng phát triển của lịch sử và thay đổi số phận của cả dân tộc Việt
Nam trong thế kỷ XX, mốc son vàng của lịch sử dân tộc.
Bước ngoặt quyết định.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta chuyển dần
sang xu hướng dân chủ tư sản, tiêu biểu như phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa
Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội… Những phong trào này chưa lôi cuốn
được các tầng lớp nhân dân, lại bị thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, nên tất cả đều thất
bại. Các phong trào yêu nước của nhân dân ta lúc bấy giờ với các khuynh hướng khác
nhau đều lâm vào ngõ cụt, bế tắc và bị khủng hoảng.
Chứng kiến cuộc khủng hoảng con đường cứu nước của dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc quyết định đi sang các nước phương Tây học hỏi kinh nghiệm để về giúp đồng
bào đòi lại quyền dân tộc độc lập.
Ngày 5-6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành với tên gọi khác là Văn Ba
đã rời Bến Nhà Rồng, trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville lên đường sang Pháp, với
quyết tâm tự lao động làm phương tiện đi tìm chân lý. Ngày 6-7-1911 tàu cập bến Mác-
xây (Pháp), đất nước đầu tiên mà Nguyễn Tất Thành đặt chân đến và phát hiện ra điều
ngạc nhiên nhất: Ở đây cũng có những người nghèo như ở Việt Nam. Câu hỏi day dứt
nhất đối với Nguyễn Tất Thành là tại sao ở nước Pháp cũng có sự phân hóa xã hội, có
giàu nghèo, tốt xấu, vậy thì ở các nước văn minh khác có như thế không. Nguyễn Tất
Thành lại lên đường đi các nước An-giê-ri, Tuy-ni-di, Công-gô, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha – những nơi có đủ màu da và sắc tộc, xứ sở của những kẻ được khai hóa và
thành tựu của những kẻ đi khai hóa. Ở những nơi này, Nguyễn Tất Thành được chứng
kiến điều kiện sống khủng khiếp của những người nghèo khổ, và nạn phân biệt chủng

137
tộc tàn nhẫn diễn ra hằng ngày. Năm 1913 Nguyễn Tất Thành đến nước Anh làm người
quét tuyết, thợ đốt lò, phụ bếp, rửa bát đĩa, cùng sống với nhiều người nghèo khổ, đói
khát. Ở những nơi đã đi qua, các cuộc cách mạng tư sản là một nội dung được Nguyễn
Tất Thành tập trung nghiên cứu, và Người đã tiếp thu được nhiều điều bổ ích. Đặc biệt
từ việc nghiên cứu cách mạng Mỹ 1776 và cách mạng Pháp 1789 và nhất là những gì đã
trực tiếp chứng kiến, Người đã rút ra kết luận: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã
hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ
hai”. “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Vậy là hai mục tiêu Nguyễn Tất Thành đang ấp ủ
là độc lập cho dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân mình thì kinh nghiệm cách
mạng Mỹ và Pháp không đáp ứng được.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp. Từ khi chính thức xuất hiện tại Pa-ri
trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp, Nguyễn Tất Thành đã trưởng
thành, có nhiều hoạt động và đến năm 1919, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, anh cùng nhóm
hoạt động đã ký tên gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Véc-xây. Đầu năm 1919
Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp chỉ vì “Đây là tổ chức duy nhất ở Pháp
bênh vực nước anh, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng
Pháp: Tự do - Bình đẳng - Bác ái!”.
Cuối năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Khi nghiên cứu Cách
mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc nhận xét: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do, bình đẳng giả dối như đế quốc chủ
nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”. Nguyễn Ái Quốc đọc “Luận cương của Lê-nin
về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, Người nhận rõ Luận cương của Lê-nin soi sáng con
đường giải phóng dân tộc mình. Và chính Luận cương của Lê-nin đã chính thức đánh
dấu việc Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin. Về sau, Người viết: “Luận
cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi
vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Nhận thức này đã dẫn tới quyết định
của Nguyễn Ái Quốc ở Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp (12-1920), Người bỏ
phiếu tán thành tham gia Quốc tế III và ngay sau đó Người tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp. Đây là bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách

138
mạng của Người, đánh dấu bước chuyển từ người yêu nước thành người cộng sản của
Nguyễn Ái Quốc.
Từ kinh nghiệm cách mạng vô sản trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
Việt Nam muốn có độc lập, tự do phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga.
Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải lấy
dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh,
phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo Chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê-nin”.
Năm 1921, Người sáng lập Hội Liên hiệp Thuộc địa; năm 1922, ra báo “Người
cùng khổ”; năm 1923, sang Liên Xô làm việc tại Quốc tế Cộng sản; năm 1924, về
Quảng Châu (Trung Quốc) chuẩn bị thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng
chí Hội (1925); năm 1925, xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh”.
Bước đường trưởng thành từ người yêu nước thành nhà cách mạng - Con đường
từ Nguyễn Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã được vun đắp bằng sự
ủng hộ của đồng bào và quốc tế. Hai lần ngồi tù, bao năm lận đận xứ người và dẫn dắt
cách mạng Việt Nam giành độc lập - Bắt đầu từ những ngày mà người Việt Nam ghi
nhớ khi anh thanh niên Văn Ba xuống tàu ngày 5-6-1911. Cuộc hành trình tìm đường
cứu nước của Bác Hồ đã tạo nên những bước ngoặt lớn trong cách mạng Việt Nam, đã
làm thay đổi hướng phát triển của lịch sử và thay đổi số phận của cả dân tộc Việt
Nam trong thế kỷ XX.
Vững niềm tin con đường Bác đã chọn
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc đã
trở về Tổ quốc. Sự kiện này đã đáp ứng những đòi hỏi khách quan của phong trào cách
mạng trong nước, sự phát triển của tiến trình lịch sử đấu tranh giành độc lập, giải phóng
dân tộc Việt Nam và cả đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và
cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh
nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới
có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho
các dân tộc. Vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần "Không có gì quý hơn độc
lập, tự do".
Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào

139
xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn,
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác
- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, Nhân dân ta
đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh
để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đặc biệt là những thành
tựu to lớn và toàn diện của gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, và uy tín quốc tế như ngày nay.

140
BÁC HỒ Ở UDON THANI – THÁI LAN
TS. Đào Thị Hữu
Khoa Lý luận chính trị - Học viện Ngân Hàng

Phong trào cách mạng bị đàn áp sau cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch ở
Quảng Ðông, Bác Hồ đã rời Trung Quốc, qua Liên Xô và một số nước châu Âu, rồi
từ đó xuống tàu trở về Ðông-Nam Á. Với tấm thẻ nhập cảnh mang tên một Hoa
kiều là Nguyễn Lai - đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã từ Ðức vào Băng-cốc rồi đã đi
Phi Chít - một tỉnh miền trung Thái-lan. Sau đó, Thầu Chín đã cùng một vài người,
đi bộ suốt hơn nửa tháng trời tới Udon Thani. Thầu Chín, Ông Thọ, Nam Sơn - tên
gọi của Người trong thời gian ở Thái-lan
Udon Thani là tỉnh lớn của Thái-lan, cách Băng-cốc khoảng 620 km, lúc đó
là một thị xã nhỏ, dân cư thưa thớt, rừng rậm vây bọc chung quanh. Ban đầu Người
ở trong nhà một gia đình cơ sở gần ga Noỏng Bua sau đó chuyển vào ở trong Trại
cưa Noỏng Ôn thuộc xã Chiêng Phin, huyện Mường, cách trung tâm thị xã Udon
Thani 12 km về phía tây. Nơi đây hẻo lánh, xa trung tâm, rừng rộng mênh mông. Ở
đây, đêm đêm Thầu Chín tập hợp anh em lại, hỏi han, trò chuyện, kể cho anh em
nghe về phong trào cách mạng đang diễn ra ở trong nước, về cách mạng Nga, cách
mạng Trung Quốc, phác thảo tương lai cách mạng Việt Nam. Thầu Chín cũng
khuyên bà con người Việt chăm chỉ làm ăn, luôn nhớ về Tổ quốc, tôn trọng phong
tục, tập quán, đoàn kết với người dân sở tại, nhắc nhở anh chị em học chữ Thái, nói
tiếng Thái, bản thân Người nêu gương, chỉ trong một thời gian ngắn đã nghe hiểu
và nói được ít nhiều tiếng Thái. Về đối ngoại, Bác chủ trương làm cho người Thái
có cảm tình hơn nữa đối với người Việt Nam và cách mạng Việt Nam.
Người còn vận động Chính phủ Thái-lan cho phép thành lập trường học cho
con em kiều bào. Khi trường được phép hoạt động, Người cũng tham gia gánh
gạch, đào móng, xây nền, làm nhà để con em có nơi học tập. Sau này, để ghi nhớ
công ơn của Bác, bà con Việt kiều đã đặt tên trường là Minh Lập (trường do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và xây dựng). Nhiều lớp thanh niên được Bác bồi
dưỡng đã trở về đất nước và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc.
Tuy chỉ ở đây một thời gian ngắn, nhưng người chiến sĩ cách mạng Nguyễn
Ái Quốc đã để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng bà con kiều bào ta nói riêng, nhân
dân Thái Lan nói chung. Không những thế, từ nhiều năm nay Udon Thani còn được

141
ví như "thủ đô của cộng đồng người Việt tại Thái Lan", bởi đây là tỉnh có số người
Việt sinh sống khá đông với trên 10.000 người.
Ngày nay, khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tại bản Noong On, xã
Chiang Phin, huyện Muong, tỉnh Udon Thani, Thái Lan. Nó trở thành địa chỉ đặc
biệt về tinh thần với với bà con kiều bào ở Thái Lan và cả với những người Việt
từng có dịp đặt chân đến mảnh đất lịch sử này. Công trình lịch sử được dựng lại
theo mô phỏng cảnh quan giống với ngôi nhà vườn ngày xưa Bác từng ở và làm
việc trong thời gian hoạt động cách mạng, trên diện tích gần 1ha gồm ba phần: Khu
nhà Bác Hồ, khuôn viên khu di tích, khu nhà đa năng. Trong đó điểm nhấn là ngôi
nhà tranh mô phỏng ngôi nhà của Bác Hồ từng ở và làm việc trong thời gian hoạt
động cách mạng. Gian chính là nơi hội họp có bàn ghế gỗ ở chính giữa. Buồng nơi
Bác nghỉ có kê một chiếc giường, một số đồ đạc đơn sơ, giản dị. Ngôi nhà còn có
khá nhiều hiện vật mà bà con Việt kiều đã lưu giữ, sưu tầm phỏng theo những đồ
dùng mà Bác Hồ đã sử dụng năm xưa. Khu nhà có gian bếp, giếng nước, vườn rau,
hàng rào râm bụt đỏ hoa, có kho thóc, chuồng lợn, chuồng gà. Tất cả đều mang
dáng dấp, hình bóng quê hương Việt Nam.
Hằng năm vào những ngày lễ lớn của dân tộc, bà con người Việt tại đây cùng
với chính quyền địa phương tổ chức lễ kỷ niệm với nhiều hoạt động văn hóa, nghệ
thuật dân gian của hai nước. Ngoài ý nghĩa văn hóa và lịch sử, KTN Chủ tịch Hồ
Chí Minh tại Udon Thani còn là biểu tượng sinh động của tình hữu nghị giữa nhân
dân hai nước. Càng ý nghĩa hơn khi KTN là một điểm đến trên bản đồ du lịch của
tỉnh Udon Thani.

142
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC- HỒI ỨC CHỐN NGỤC TÙ
Phạm Mạnh Cường, Nghiêm Minh Anh,
Ngô Phan Thục Anh, Phạm Thị Hồng Ngọc
Trần Bảo Sơn, Trần Ngọc Bách, Quách Trọng Phú,
K24CLC, Ngân Hàng A, Học viện Ngân hàng

MỞ ĐẦU
Thế hệ trẻ được sống trong một đất nước hòa bình, độc lập và đầy đủ điều
kiện phát triển cuộc sống của mỗi cá nhân như ngày hôm nay chính là nhờ công lao
to lớn và vô giá của vị lãnh tụ kính yêu Hồ Chí Minh. Để có thể đạt được thành quả
đó, phải trải qua con đường đầy rẫy những chông gai, trắc trở nhưng không mệt
mỏi vì mục tiêu đặt lên hàng đầu chính là lý tưởng cao cả giành lại độc lập, tự do
của cả dân tộc, hạnh phúc của nhân dân .
Ngày 5/6/1911, tại cảng Nhà Rồng đã đánh dấu một cột mốc quan trọng
không chỉ với hành trình đời Người mà còn là của lịch sử dân tộc, đất nước. Khi ấy,
Bác mới chỉ là người thanh niên yêu nước mang tên Nguyễn Tất Thành, mang
trong mình một hoài bão và nung nấu một quyết tâm phải giành được độc lập tự do
cho đồng bào, cho Tổ quốc.
Cùng với lòng ngưỡng mộ và kính trọng trước tinh thần yêu nước quật cường
của các bậc tiền bối nhưng với bằng sự nhạy cảm đặc biệt, Nguyễn Tất Thành đã
không đi sang Nhật, không tìm về Châu Á mà Bác chọn sang nước Pháp, đất nước
phát triển kinh tế, về văn hóa, đặc biệt là chính trị trong Châu Âu lúc bấy giờ. Nên
mặc cho sự thật rằng Pháp chính là nước đã gieo rắc những nỗi thống khổ cực độ
lên chính đồng bào của mình. Thế nhưng trong mắt Người đã sớm nhận thấy được
ở Pháp chính là có bình đẳng bác ái, là chìa khóa để tìm ra con đường giúp dân tộc
ta giành độc lập chủ quyền. tự do cho đất nước. Sử dụng quan niệm triết lý nhân
sinh của người phương Đông “Muốn bắt hổ phải vào tận hang”, Hồ Chí Minh đã
mạo hiểm nhưng khôn khéo lựa chọn sang Pháp để với mục tiêu: “Tôi muốn đi ra
nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi
sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Nếu như các bậc tiền bối đưa người sang phương Đông bằng tiền quyên góp
của các hào phú yêu nước, từ sự viện trợ; thì Bác sẵn sàng ra đi bằng đôi bàn tay
trắng, tự lao động, tự kiếm tiền để sống và để đi. Người quyết tâm ra đi tìm đường
cứu nước bằng cách tự chủ, tự lập không dựa dẫm vào người khác mà bước đầu

143
tiên chính là tự chủ về tài chính dù cho có vất vả đến đâu. Cùng với việc sớm nhìn
thấy được kết quả thất bại trong các cuộc khởi nghĩa của các bậc tiền bối khi sử
dụng chiến lược dựa vào các thế lực bên ngoài để giành độc lập cho dân tộc, như
Cụ Phan Chu Trinh yêu cầu thực dân Pháp thực hiện cải lương, việc này “chẳng
khác nào xin giặc rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp ta đuổi
Pháp cũng chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Nguyễn Tất Thành
luôn đề cao tinh thần tự lực, tự cường, tự lực cánh sinh và coi đó là phương châm
hành động của cách mạng Việt Nam. Nhờ đường lối đúng đắn đó, cách mạng Việt
Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại.
Trong 49 năm bôn ba nước ngoài đi tìm đường cứu nước độc lập cho dân
tộc, Hồ Chí Minh đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, vui buồn để đạt được thành
quả và công lao vĩ đại mà đời đời thế hệ sau luôn ghi nhận và ca tụng. Nhưng ít ai
nhận ra rằng cuộc hành trình ấy có cả những lúc dừng chân tại nơi những nơi tù đày
khắc nghiệt, thử thách lòng người nhất, lại chính là một trong những khoảnh khắc
quý giá làm nổi bật lên những vẻ đẹp vô giá và đáng trân trọng ở con người mang
nặng tình yêu quê hương, ý chí đấu tranh quật cường nhưng không giấu được tâm
hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ. Hành trình của Hồ Chí Minh trong tù là một phần
không thể thiếu trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Trong suốt thời gian đó, Hồ Chí
Minh đã viết nhiều bài thơ và bài viết chính trị. Những tác phẩm này không chỉ thể
hiện tài năng văn chương của Bác mà còn truyền cảm hứng cho những người cùng
cách mạng với ý chí kiên cường và tình yêu quê hương. Những năm tháng ấy còn
giúp Người hiểu rõ hơn về cuộc đời và nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ đó trở
thành nguồn động lực mạnh mẽ để Người có thể tiếp tục đấu tranh cho sự độc lập
và tự do của đất nước.
Chính vì thế, tầng lớp trẻ thanh niên chúng em quyết định nghiên cứu sâu
vào những hoạt động Cách mạng của Hồ Chí Minh khi Người ở trong tù. “Hành
trình tìm đường cứu nước – Hồi ức chốn ngục tù” là đề tài nghiên cứu mà em đã
chọn phục vụ nhu cầu mở rộng kiến thức và đó cũng là đề tài tiểu luận mà nhóm đã
chọn để hoàn thành nhiệm vụ học tập môn học này.
NỘI DUNG
Câu chuyện về 2 lần bị bắt giam tại Trung Quốc:
Vụ án Tống Văn Sơ (6/11/1931 - 21/1/1933)
Ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc với thẻ căn cước mang tên Tống Văn Sơ bị
một sĩ quan Anh và mấy cảnh sát Trung Quốc ập vào nơi ở số 168 đường Tam

144
Lung (Cửu Long) bắt giải về Sở Cảnh sát Hồng Kông. Chúng vu cáo cho Người tội
làm tay sai của Liên Xô, có âm mưu phá hoại chính quyền Hồng Kông. Người bị
giam trong nhà tù của đế quốc Anh ở Hồng Kông.
Đây là khoảng thời gian thể hiện rõ nhất trí tuệ, sự thông thái và sự dũng cảm
của Bác trong hành trình tìm đường cứu nước.
Gia đình luật sư Loseby và mối quan hệ với Bác.
Sau khi triệu tập và chủ trì thành công Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam vào mùa xuân năm 1930, chủ tịch Hồ Chí Minh - Tống Văn Sơ tiếp tục ở
lại Hồng Kông để hoạt động cách mạng. Người ở tại ngôi nhà 186 phố Tam Kung,
Cửu Long - Hương Cảng, thành lập trụ sở liên lạc bí mật giữa Người và một số
đồng chí khác.
Từ khi thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp ký tên vào
bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi hội nghị Vécxây - Pháp, cho đến khi
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một nhân
vật quan trọng trong kế hoạch truy nã của thực dân Pháp. Vì vậy, Người luôn cận
kề với những nguy hiểm và khó khăn khi hoạt động giữa vòng vây của nhiều kẻ
thù, kèm theo đó là án tử hình vắng mặt cùng lệnh truy nã của thực dân Pháp.
Trong bối cảnh đó, dù đã rất cẩn trọng nhưng thật không may, địa chỉ Người ở
Hồng Kông đã vô tình rơi vào tay mật thám Anh. Cái bắt tay giữa mật thám Pháp ở
Đông Dương và mật thám Anh ở Hồng Kông với điều khoản nhận đến 15.000 USD
đã dẫn đến cuộc truy lùng, bắt lén Hồ Chủ tịch - Tống Văn Sơ vào ngày 6/6/1931.
Luật sư Lô-dơ-bi, tên đầy đủ là Francis Henry Loseby, sinh năm 1883 tại
Anh, và đến năm 1926 ông sang Hồng Kông, làm việc tại Văn phòng luật sư mang
tên “Russ & Co.” Luật sư Lô-dơ-bi kể rằng: “Một hôm có một người Việt Nam tôi
không nhớ rõ tên là gì đến gặp tôi và báo tin rằng nhà cầm quyền Hồng Kông mới
bắt được một người Việt Nam. Họ yêu cầu tôi giúp bào chữa cho người Việt Nam
đó. Được tin này tôi đến nhà lao và gặp Tống Văn Sơ tức tên Hồ Chủ tịch lúc đó.
Tống Văn Sơ kể cho tôi nghe ông bị chính quyền Pháp ở Đông Dương kết án tử
hình vắng mặt và có nhận mặt được một sĩ quan Pháp ở Hồng Kông.
Thời gian Tống Văn Sơ bị giam giữ cũng đồng thời là khoảng thời gian nước
rút của cuộc đua giữa một bên là gia đình luật sư và những người bảo vệ Tống Văn
Sơ, một bên khác là sự cấu kết, gian xảo và lưu manh của mật thám Anh và thực
dân Pháp muốn hãm hại Tống Văn Sơ. Dưới sức ép của dư luận, của những phương
tiện thông tin báo chí, luật sư Lô-dơ-bi đã đưa vụ án Tống Văn Sơ ra xử trước Pháp

145
viện tối cao. Lần đầu tiên trong lịch sử thuộc địa, Toà án tối cao phải xét xử một
bản án chính trị. Với tính chất đặc biệt của vụ án, nhờ sự giúp đỡ cùng tài trí của
luật sư và người cộng sự, sự thông minh và nhất quán trong từng câu trả lời của
Tống Văn Sơ đã buộc toà án phải xét xử một cách công khai.
Từ ngày 31 tháng 7 năm 1931 đến ngày 12 tháng 9 cùng năm đó, Người đã
phải trải qua ba cuộc thẩm vấn của Thư ký Trung Hoa vụ Hồng Kông và 9 phiên
tòa xét xử tại Hồng Kông. Luật sư cùng người cộng sự đã quyết định chống án lên
Viện cơ mật Hoàng Gia Anh khi ông không thể giải quyết dứt điểm được vụ án
nhằm trả tự do cho Tống Văn Sơ. Kết quả của cuộc thoả thuận được trình và Tòa án
Viện Cơ mật Hoàng Gia Anh đã đồng ý trả tự do cho Tống Văn Sơ, bằng cách cho
Người được tự do lựa chọn nơi mình đến. Ngày 28/12/1932, Tống Văn Sơ được tự
do, song khi đi đến Singapore, Tống Văn Sơ lại bị buộc quay trở lại Hồng Kông và
ngày 19/1/1933, Người lại bị bắt giam.
Luật sư Lô-dơ-bi kể lại: “Lần thứ hai tôi gặp Tống Văn Sơ là ở tòa án. Tôi
cùng luật sư Jenkin đều cũng đã có mặt trong phiên tòa. Tống Văn Sơ - với cả hai
tay đều bị xích - đang đứng trước vành móng ngựa. Jenkin nói lại với chánh án xem
tay của Tống Văn Sơ. Tống Văn Sơ giơ hai tay đang bị xích lên cao. Lúc đó Jenkin
nói: luật pháp quy định mang bị cáo vào tòa án không được xích. Do đó chánh án
buộc phải ra lệnh tháo xích ở tay Tống Văn Sơ. Khi Tống Văn Sơ được tháo xích
rồi, Jenkin mới đọc trước tòa án những lời bào chữa do chúng tôi chuẩn bị”.
“Theo luật pháp của Anh hồi bấy giờ, khi bắt một người chỉ được hỏi người
đó bảy câu, bao gồm tên, tuổi, quê quán, nghề nghiệp, thời gian cư trú, quan hệ xã
hội, những người và vật làm chứng… Không được hỏi sang câu thứ tám dù câu đó
là câu gì. Nhưng khi bắt Tống Văn Sơ, nhà cầm quyền Hồng Kông lại hỏi câu thứ
tám là: “Anh sang Nga với mục đích gì?”. Nhà cầm quyền hỏi câu thứ tám đó là
trái pháp luật nên cuối cùng tòa án phải tuyên bố phóng thích Tống Văn Sơ”.
Nhưng khi Người chưa kịp mừng được tự do thì lại bị cảnh sát Hồng Kông
bắt giam lần thứ nhì với âm mưu nộp cho Pháp hoặc bí mật thủ tiêu đi. Lần này tòa
án nói lần bắt giam thứ hai là hợp pháp vì Tống Văn Sơ đã bị kết án tử hình ở Đông
Dương nên phải trả lại cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương. Sau khi luật sư
Lô-dơ-bi nghiên cứu nhiều tài liệu khác nhau thì thấy rằng một người bị kết án ở
Thượng Hải chẳng hạn đi sang Hồng Kông thì nhà cầm quyền Hồng Kông bắt lại
và trao cho nhà cầm quyền ở Thượng Hải, nhưng điều đó chỉ áp dụng cho những

146
người thuộc quốc tịch Anh. Do đó, ông quyết định phải đưa việc này lên tòa án
kháng án ở Luân Đôn.
Vụ án này là một biểu hiện rất xấu đối với chính quyền Hồng Kông và Bộ
Thuộc địa, nên họ đã tìm cách thoả thuận giữa luật sư đại diện Bộ Thuộc địa Anh
và luật sư của Tống Văn Sơ. Kết quả của cuộc thoả thuận được trình và Tòa án
Viện Cơ mật Hoàng Gia Anh đã đồng ý trả tự do cho Tống Văn Sơ, bằng cách cho
Người được tự do lựa chọn nơi mình đến. Ngày 28/12/1932, Tống Văn Sơ được tự
do, song khi đi đến Singapore, Tống Văn Sơ lại bị buộc quay trở lại Hồng Kông.
Người tiếp tục bị bắt giam vào ngày 19/1/1933.
Ngay khi ấy, Người đã kịp thời viết thư báo tin cho luật sư Lô-dơ-bi và nhờ
ông giúp đỡ. Luật sư đã đề nghị Thống đốc Hồng Kông can thiệp, và Thống đốc đã
buộc phải ra lệnh thả Tống Văn Sơ và hạn trong ba ngày Tống Văn Sơ phải rời
khỏi Hồng Kông. Một lần nữa gia đình luật sư Lô-dơ-bi lại đứng ra và cứu chủ tịch
Hồ Chí Minh ra khỏi nhà tù. Vào ngày 22/1/1933, Người đã cải trang thành một
thương gia Trung Quốc giàu có. Cùng với thư ký của luật sư Lô-dơ-bi, Người đi
xuồng ra khơi, rồi lên tàu Anhui tới Hạ Môn. Sau một thời gian lưu trú tại Hạ Môn,
Người lên Thượng Hải và tìm cách chạy sang Liên Xô và sinh sống, học tập ở đó từ
năm 1934 đến năm 1938.
Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2-1941 Bác Hồ
đã trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo các phong trào cách mạng ở trong nước. Tại
thời điểm đó, Bác sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ tuy nhiên
Người vẫn giữ một tinh thần lạc quan. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những
tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh cuộc sống của Bác ở Pác Bó:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
“Sáng ra - tối vào” là những hành động lặp đi lặp lại, thường xuyên liên tục
hằng ngày của Bác như một vòng tuần hoàn tự nhiên. Câu thơ cho ta thấy nơi ở gắn
với hành động ra vào hàng ngày của Bác là chiếc hang. Điều kiện sống vô cùng vất
vả, khó khăn, gian khổ, vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà mà Người phải ở

147
trong hang với nhiều mối đe dọa hiểm nguy. Vị lãnh tụ của chúng ta không ăn sơn
hào hải vị mà bữa hằng ngày của Bác gắn liền với cháo, măng. Đây là những món
ăn mộc mạc, giản dị gắn liền với miền quê cách mạng. Cuộc sống tuy gặp phải
nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng Người vẫn luôn lạc quan, vui vẻ đón nhận.
Cuộc sống tuy có khó khăn là thế nhưng không ảnh hưởng được đến sự
chuyên tâm của Bác dành cho cách mạng:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Giữa núi rừng Pác Bó có một vị lãnh tụ ngồi nghiên cứu con đường cứu nước
bên bàn đá chông chênh. Chúng ta thường biết đến các cuộc họp Đảng, bàn luận
chiến thuật ở nơi mặt trận hoặc ở trung tâm hội nghị, nghiêm trang, lộng lẫy.
Nhưng đối với Bác Hồ, việc nghiên cứu con đường cứu nước của Người lại được
diễn ra ở nơi rừng núi, vách đá cho thấy được sự khác biệt đáng trân trọng của vị
lãnh tụ này. Cả cuộc đời Bác gắn liền với cách mạng, với con đường cứu nước. Dù
cho điều kiện ngoại cảnh, điều kiện kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó khăn đến
nhường thế nào thì lý tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời
Bác trở nên cao đẹp và “sang” hơn bất cứ khi nào hết. Bài thơ cho ta cách nhìn rõ
nét hơn về cuộc đời, con người cũng như những khó khăn mà Bác phải trải qua để
thêm phần yêu thương, ngưỡng mộ Bác và trân trọng nền độc lập, tự do mà ta đang
được hưởng ngày nay.
Cuộc sống của Bác hiện lên vô cùng giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng tươi
đẹp, lạc quan. Trong những hoàn cảnh khó khăn, éo le nhất, Bác vẫn biết cách
khiến cho cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn.
Tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường
sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế cho cách mạng Việt Nam
nhưng không ngờ đến Quảng Tây, Người bị chính quyền tàu Tưởng bắt giam vô cớ
và giải qua 30 mươi nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đọa trong
hơn một năm trời.
Nhà tù của Tưởng Giới Thạch (27/8/1942)
Sáng sớm, Hồ Chí Minh lên đường đi Bình Mã, có Dương Đào đi cùng để
dẫn đường (Lê Quảng Ba ở lại nhà Từ Vĩ Tam), hai người đi đến Túc Vinh (một thị
trấn thuộc huyện Thiên Bảo, Quảng Tây, Trung Quốc) thì bị quân tuần cảnh ở trụ
sở của Quốc dân Đảng bắt giữ.

148
Sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc về nước trực tiếp cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng, có những
quyết sách quan trọng. Tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (khóa
I), quyết định thay đổi chiến lược, đặt “nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho
đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông
Dương”[0], quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh tập hợp sức mạnh đông đảo
các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, Mặt trận Việt Minh sau hơn một năm ra đời đã
có cơ sở ở nhiều vùng trong nước, nhưng vẫn chưa có quan hệ chính thức với một
nước nào trong phe Đồng minh chống phát xít và việc hợp tác với Trung Quốc để
cùng chống Nhật chưa được chính thức cam kết. Trong khi đó, Tưởng Giới Thạch
đang đẩy mạnh kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, quan hệ giữa nhà đương cục Trung
Quốc với bộ phận Việt Minh hải ngoại ở vùng Hoa Nam trở nên căng thẳng do bị
tổ chức Việt Quốc phá hoại. Vì thế, việc tranh thủ chính quyền Quốc dân Đảng về
một số vấn đề cho cuộc kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc và Việt Nam gặp
nhiều trở ngại.
Để giải quyết vấn đề quan trọng này, cuối tháng 8/1942, Người đi Trung
Quốc nhằm gây dựng, phát triển quan hệ và tìm sự ủng hộ của Đồng minh, tạo
thêm sức mạnh cho cách mạng nước nhà. Trong hành trang của Người “có tấm
danh thiếp, ở giữa in chữ Hồ Chí Minh, một bên in chữ Tân văn ký giả, bên kia in
chữ Việt Nam – Hoa kiều. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, tên gọi Hồ Chí Minh
xuất hiện từ thời điểm này.
Theo các tài liệu Trung Quốc mà chúng tôi tiếp cận được, ngày 23/8/1942,
Hồ Chí Minh được đồng chí Lê Quảng Ba dẫn đường từ vùng Lam Sơn thuộc tỉnh
Cao Bằng lên đường đi Trung Quốc. Sau khi qua vùng Vinh Lao, Long Lâm đi đến
thị trấn Ba Mông của huyện Tĩnh Tây ngày 25/8/1942 (ngày 14/7 Âm lịch), Hồ Chí
Minh ở lại nhà nông dân Từ Vĩ Tam ba ngày, ăn tết Trung nguyên (rằm tháng 7)
cùng với một số người Trung Quốc, trong số đó có Dương Đào, Vương Tích Cơ,
Hoàng Đạt Hán, Hoàng Đức Quyền… Thanh niên Dương Đào còn có tên là Dương
Thuần Cương, dân tộc Choang ở thôn Ba Mông, huyện Tĩnh Tây, lúc đó chưa tròn
20 tuổi xung phong cùng Hồ Chí Minh tiếp tục đi đến Bình Mã (nay là huyện lỵ
huyện Điền Đông) trong lộ trình tới Trùng Khánh (tới ngày 10/9/1943, Hồ Chí
Minh được trả tự do, sau đó Dương Đào cũng được thả và ra ở trọ tại thành phố
Liễu Châu, chưa kịp về nhà thì chết do bị bệnh lao. Nghe tin Dương Đào mất ở
Liễu Châu, Hồ Chí Minh rất đau xót, gửi thư báo tin và chia buồn với gia đình

149
Dương Đào, trong đó có câu: “Dương Đào là người anh em rất tốt với chúng tôi,
chúng tôi không bao giờ quên anh”. Tháng 9/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thư
hỏi thăm gia đình Dương Đào, trong đó khẳng định “Dương Đào là người đã hiến
thân cho cách mạng Việt Nam”. Tháng 8/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời 7 cán
bộ, quần chúng ở các huyện Tĩnh Tây, Nà Po, Long Châu sang thăm Việt Nam,
trong đoàn có Dương Thắng Cường – em trai Dương Đào. Người đã nhắc lại công
lao của Dương Dào cho Dương Thắng Cường nghe).
Vào ngày 13 tháng 8 năm 1942, từ Cao Bằng, với tên mới là Hồ Chí Minh,
Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc với mục đích gặp Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc, nhưng lấy danh nghĩa là đại biểu của Việt Minh và Phân hội
quốc tế phản xâm lược của Việt Nam đi gặp Tưởng Giới Thạch, để tranh thủ sự
viện trợ của quốc tế, đồng thời để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người
Việt Nam và lực lượng Đồng minh. Khi đó đi có anh Lê Quảng Ba dẫn đường.
Đến ngày 27 tháng 8 năm 1942, sáng sớm, Hồ Chí Minh lên đường đi Bình
Mã, có Dương Đào đi cùng để dẫn đường (Lê Quảng Ba ở lại nhà Từ Vĩ Tam), hai
người đi đến Túc Vinh (một thị trấn thuộc huyện Thiên Bảo, Quảng Tây, Trung
Quốc) thì bị quân tuần cảnh ở trụ sở của Quốc dân Đảng bắt giữ.
Về nguyên nhân bắt giữ, theo báo cáo của tướng Trương Phát Khuê – Tư
lệnh Đệ tứ chiến khu của Quốc dân Đảng lúc đó là: khi kiểm tra căn cước, tuần
cảnh phát hiện ra rằng ngoài chứng minh thư của “Quốc tế phản xâm lược hiệp hội
Việt Nam phân hội” ra, Hồ Chí Minh còn mang theo thẻ Hội viên đặc biệt của
“Quốc tế tân văn xã”, Giấy thông hành quân dụng của Văn phòng Tư lệnh Đệ tứ
chiến khu cấp… Tất cả giấy tờ đều cấp năm 1940, đã quá thời hạn sử dụng, chứng
nghi là gián điệp nên bắt giữ
Kể từ đó, Hồ Chí Minh bị giam giữ, đày ải, chúng giải Người qua 30 phòng
giam, 18 nhà tù của 13 huyện của tỉnh Quảng Tây (các nhà tù như: Thiên Bảo, Điền
Đông, Quảng Đức, Quế Lâm…). “Hai tay Người bị trói, cổ mang dây xiềng, trước
và sau có một tiểu đội cảnh sát, súng lắp đạn sẵn, lưỡi lê sáng lòe. Đến mỗi nhà tù
mỗi huyện, nghỉ lại ít hôm rồi lại bị giải đi. Nhà tù thì chật hẹp bẩn thỉu, người bị
giam thì đông, không đủ chỗ ngủ cho mọi người”. Chính trong thời gian bị giam
giữ, Người đã sáng tác ra hơn 100 bài thơ viết bằng chữ Hán, đó là tập thơ “Ngục
trung nhật ký” (Nhật ký trong tù) hiện nay được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc
gia.

150
Ngày 13 tháng 9 năm 1943, Người được thả tự do ở Liễu Châu và ngay lập tức
Người đã bắt liên lạc được với Hội giải phóng Việt Nam, một bộ phận của Việt Minh
tại Vân Nam (Trung Quốc) và nhiều tập thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được tập hợp
lại trong một cuốn sách đó là tác phẩm: “Nhật ký trong tù” gồm những những bài thơ
của Người viết trong cảnh lao tù từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm 1943
Tác phẩm “Nhật ký trong tù” là minh chứng gắn liền với cuộc đời hoạt động
cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây không những là tác phẩm văn học lớn
mà còn là một văn kiện lịch sử quan trọng, thể hiện tư tưởng tình cảm của người
anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới và có tác dụng giáo
dục sâu sắc đối với nhiều thế hệ của người Việt Nam.
Trong thời gian đó Bác đã sáng tác ra tập thơ “Nhật kí trong tù” nổi tiếng
với bài thơ Vọng Nguyệt:
"Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”
Dịch nghĩa:
"Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”
Bài thơ là minh chứng cho tâm thế:
" Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao"
Người viết tập thơ Nhật kí trong tù với mong muốn được giải thoát tâm trí, ta
thấy được trong đó vẫn có một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết. Tác phẩm Ngắm
trăng được Bác viết trong hoàn cảnh ngục tù nhưng trước vẻ đẹp của ánh trăng
đêm, Bác đã thoát khỏi xiềng xích gông cùm mà vượt ngục bằng tinh thần yêu
thiên nhiên. Bài thơ là minh chứng cho tâm thế:
" Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao"
Câu thơ mở đầu miêu tả cảnh trốn ngục tù và nỗi niềm băn khoăn của thi nhân
"Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?"

151
Khi đứng trước vẻ đẹp của trăng, không ai có thể kiềm được lòng mình. Khi
ngắm trăng thường người ta sẽ uống rượu để thưởng trăng. Nhưng trong câu mở
đầu của Bác điệp từ "vô" được nhắc lại hai lần nhằm nhấn mạnh tới những thứ
không có, những thứ cần thiết cho một buổi ngắm trăng đơn thuần lại không hề có:
"không rượu, không hoa". Đối lập với sự thiếu thốn bên trên là sự hiện diện của
cảnh vật khó hững hờ. Câu hỏi tu từ thể hiện sự băn khoăn, bồn chồn, bối rối của
một người nghệ sĩ khi đứng trước "cảnh đẹp": không có rượu cũng không hề có
hoa, lấy gì để thưởng thức cảnh đẹp đêm nay. Sự tiếc nuối, băn khoăn chính là sự
biểu hiện của một tấm lòng thành thực, của một tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm,
ngất ngây, khát khao được hoà mình với ánh trăng. Ta có thể thấy được tâm hồn
nghệ sĩ của Hồ Chí Minh vừa cho thấy một bản lĩnh thép của người chiến sĩ cộng
sản. Cho dù có đối diện với khó khăn, với gông cùm xiềng xích nơi ngục tù tăm tối,
Người vẫn mở lòng đón nhận tất cả những vẻ đẹp của thiên nhiên, của ánh trăng.
Lời thơ cho thấy một tâm hồn thanh cao, yêu cái đẹp vượt trên hoàn cảnh nghiệt
ngã của chính mình.
Lúng túng trước cảnh đẹp mà không thể thưởng thức một cách trọn vẹn, Bác
đã dùng tấm chân tình của mình để báo đáp người bạn tri kỉ của mình:
"Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia"
Vượt qua khỏi khung sắt nhà giam, vượt qua sự tăm tối chốn ngục tù, người
và trăng cùng hướng về nhau bằng một tấm lòng đối đãi của một người tri kỷ.
Người thì hướng ra ngoài sống để ngắm nhìn vẻ đẹp của trăng, còn trăng vượt qua
song sắt để đến bên người. Trong một không gian tĩnh mịch, tăm tối, người và trăng
giao hoà mãnh liệt. Nghệ thuật nhân hoá đã khiến vầng trăng trở nên có tâm hồn, có
ánh mắt, có dáng hình cụ thể và cũng có sự đồng cảm, sẻ chia để trở thành người
bạn tri kỷ. Một khoảnh khắc lãng mạn, đậm chất thơ, chất hoạ. Chính ánh trăng đã
xoá tan đi cái tăm tối, khổ đau chốn ngục tù làm cho tâm hồn con người trở nên
trong sáng, thanh bạch. Câu thơ dựng lên một bức tranh đêm với hình ảnh người tù
ngắm trăng thật đẹp. Đồng thời cũng là mình chứng cho thấy, nhà tù có thể giam
cầm thân xác thi nhân, nhưng không thể giam cầm tâm hồn thi nhân.
KẾT LUẬN
Ngày mùng 5 tháng 6 năm 1911, sự kiện Hồ Chí Minh với tên gọi Văn Ba
rời bến Nhà Rồng xuống tàu Đô đốc Latouche - Tréville để sang Pháp đã trở thành
một cột mốc quan trọng, góp phần tạo nên bước ngoặt lịch sử cho cách mạng và

152
dân tộc Việt Nam. Nguyễn Tất Thành không đi theo lối cũ của các bậc tiền bối,
không tìm về châu Á mà Người sáng tạo một lối đi riêng cho bản thân mình - đến
nước Pháp, đến với đất nước mà đang đô hộ mình, đến tận châu Âu để xem người ta
xây dựng và phát triển quốc gia như thế nào rồi mới trở về cứu giúp đồng bào. Người
đã lựa chọn Tây du - nơi có các cuộc cách mạng tiêu biểu và có trình độ khoa học kỹ
thuật tiên tiến nhất để học tập những điều được Người coi là "tinh hoa và tiến bộ" để
phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc từ ách thuộc địa của đế quốc Pháp, chính
những điều này là minh chứng rõ nét về lòng yêu nước mãnh liệt của Người cũng
như thể hiện rõ tinh thần quyết tâm giành "độc lập cho nhân dân tôi, tự do cho Đất
nước tôi". Suốt chặng đường bôn ba, cuộc sống đầy gian khổ, đối diện với cảnh tù
đày thế nhưng Người không hề chùn bước trái lại còn càng hun đúc, tôi luyện một
tinh thần cứu nước kiên định qua đó càng làm sáng lên tấm gương của Người về ý
chí nghị lực, ham học hỏi, sự hy sinh cao cả cho thế hệ mai sau.
Gần 112 năm tính từ thời khắc lịch sử ấy, con đường độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội do Người vạch ra đã biến dân tộc Việt Nam vốn nghèo khổ và lạc hậu
đã thành nước Việt Nam độc lập - tự chủ - giàu mạnh; một đất nước có chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ đang ngày một phát triển. Trên cơ sở chủ nghĩa xã hội và tư tưởng
Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam bước sang một thời đại mới, một kỷ nguyên mới,
mang trên mình sức sống mới, năng động, hoà nhập và không ngừng thay đổi, tiến
lên đỉnh vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu. Mãi từ đó cho đến
tận ngày hôm nay, ý nghĩa lịch sử cùng giá trị thời đại của hành trình ra đi tìm đường
cứu nước vẫn còn vẹn nguyên và đã trở thành động lực to lớn giúp Đảng ta kế thừa
ngọn cờ vinh quang "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội" mà Người trao cho.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Kiên, V. T. (2020). Nguyễn Tất Thành và hành trình ra đi tìm đường cứu
nước.
[2]. Nguyen, T. L. H., Park, S. H., & Yeo, G. T. (2020). An analysis of port
networks and improvement strategies for port connections in the Ho Chi Minh area.
The Asian Journal of Shipping and Logistics, 36(4), 223-231.
[3]. Son, N. H. (2015). Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những
giá trị vượt thời gian. 13, 87-105.
[4]. Dương, N. Đ. (2021). Quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Bác Hồ-
Hình mẫu sáng ngời để thế hệ thanh niên học tập và noi theo.
[5]. Lê, T. S. (1977). Bác Hồ ở Trung Quốc.

153
NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ
TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Nguyễn Đức Hiếu, Đinh Thuý Huyền,
Lê Nguyễn Phương Anh, Nguyễn Bảo Ngân,
Nguyễn Thị Phương Giang, Nguyễn Trần Trung Nguyên,
Nguyễn Cẩm Tú, Phạm Mai Phuơng, Đinh Quỳnh Phương
K24CLC, Kế toán A, Học viện Ngân hàng

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã dành tất cả trí tuệ, sức lực để cống hiến,
sáng tạo hết mình trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc
đời và sự nghiệp của Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, vì độc
lập và tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trước cảnh nước mất nhà
tan, Người luôn sục sôi ý chí và khát vọng giải phóng đất nước, mang lại cuộc sống
hòa bình cho nhân dân Việt Nam. Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại, Người đã bắt
gặp những tư tưởng tiến bộ, những học thuyết tinh hoa làm tiền đề xây dựng con
đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Như một hệ quả tất yếu của tài năng, nỗ lực và phấn đấu không ngừng nghỉ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đóng góp vô cùng lớn lao đối với cách mạng
dân tộc. Người đã hiến dâng trọn vẹn sức mình trong việc tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc; truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, sáng lập Đảng Cộng
sản Việt Nam; lãnh đạo toàn dân kháng chiến và sáng lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Với những tinh hoa được tiếp cận trong hành trình xa xứ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xây dựng một con đường giải phóng dân tộc đúng đắn nhờ sự đúc rút một
cách chọn lọc và phù hợp với thực tiễn Cách mạng Việt Nam. Bằng nhãn quan
chính trị nhạy bén, Người đã có sự sáng tạo trong tư tưởng và cách thức ra đi tìm
đường cứu nước, giúp Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc.
Dựa trên sự nghiệp Cách mạng đầy hy sinh nhưng vô cùng sôi nổi của
Người, bài viết này là sự tìm hiểu về những cống hiến và sáng tạo của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Những đóng
góp và sáng tạo của Người đã để lại dấu ấn quan trọng, trở thành ngọn hải đăng soi
đường, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh
và cả trong sự nghiệp đổi mới. Tất cả vẫn còn vẹn nguyên giá trị và trở thành bài

154
học sâu sắc đối với thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam
nói chung.
NỘI DUNG
1. Khái quát quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Vào giữa thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ
và lan rộng ra cả nước. Động cơ của các cuộc bạo động là lòng yêu nước nồng nàn và
lòng căm thù thực dân Pháp mãnh liệt. Tuy nhiên, họ đã bị đánh bại qua lại vì không
có đường kháng cự rõ ràng. Đứng trước tình hình đó, người thanh niên Nguyễn Tất
Thành, lúc đó mới 21 tuổi, đã quyết chí tiếp nối truyền thống quật cường đánh giặc
ngoại xâm của dân tộc, quyết chí tìm đường cứu nước. Đồng bào của tôi, độc lập của
đất nước tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu.
Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành tranh thủ mọi cơ hội đi thăm
nhiều nước châu Âu, châu Á, thăm châu Phi và Mỹ. Đặc biệt, Người đã dừng lại để
tiến hành nghiên cứu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời bấy giờ: Hoa Kỳ, Anh và Pháp.
Người tranh thủ mọi điều kiện để học tập, nghiên cứu lý luận cách mạng, đi sâu tìm
hiểu thực tế các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và người lao động ở các nước
tư bản và thuộc địa. Tháng 7-1920, những trăn trở của Nguyễn Ái Quốc về con đường
giành độc lập, tự do của dân tộc đã được giải đáp sau khi Người đọc “Sơ thảo lần thứ
nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin. Người đã nhìn
thấy khả năng thực hiện ba mục tiêu lớn: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người.
Từ đó, Nguyễn Ái Quốc bám sát các sự kiện chính trị thế giới, đặc biệt là Đại
hội II Quốc tế Cộng sản Đảng và Đại hội I các dân tộc phương Đông đang diễn ra
nhanh chóng và tác động mạnh mẽ đến chính trường Pháp. Vào tháng 9-1920,
Người đã bám sát tiến trình của Đại hội đại biểu nhân dân phương Đông lần thứ
nhất, và hiện thực hóa các chủ trương, chính sách của Đại hội Đảng cộng sản lần
thứ hai, đặc biệt là tư tưởng “đoàn kết phương Tây vô sản và phương Đông bị áp
bức”. Ý tưởng này thể hiện rõ trong các khẩu hiệu đấu tranh được đưa ra tại Thế
vận hội “Công nhân của tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, hãy đoàn kết lại!”
2. Những cống hiến và sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc
- Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
Ngày 5/6/1911 chính là dấu mốc khởi đầu cho hành trình vĩ đại của Người.
Tại Bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước và bản lĩnh chính trị

155
kiệt xuất đã cùng con tàu Latouche-Tréville mở cánh cửa cho “cuộc quẫy mình”
của một dân tộc. Người đã được tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng
Tháng Mười Nga. Trước sự thành công cuộc cách mạng vĩ đại đó và một lòng kính
phục V.I.Lênin, Người hoàn toàn tin theo V.I.Lênin và đi theo con đường của Cách
mạng Tháng Mười.
Những năm bôn ba hải ngoại đã vun đắp trong Người một hệ tư tưởng giá trị,
bồi đắp nên một vị lãnh tụ với tài, trí và đức. Chính điều này đã trở thành chìa khóa
quan trọng lãnh đạo Cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, hướng nhân dân Việt
Nam đến con đường hòa bình và độc lập.
- Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Qua nhiều lần thất bại trong việc tìm kiếm con đường đấu tranh, tháng 7-
1920 Nguyễn Ái Quốc đã được đọc nội dung bản của “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê-nin đăng trên Báo Nhân Đạo, cơ
quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã mở ra trong Người một
nhận thức mới về con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta”. Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu và áp dụng luận cương của Lê-nin vào
điều kiện thực tế ở Việt Nam và khẳng định dứt khoát cách để dân tộc Việt Nam
thoát khỏi cuộc đời nô lệ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã mang
tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin truyền bá đến phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Người đã đào tạo cho cách mạng Việt Nam một thế hệ
cán bộ cách mạng được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Xuân Canh Ngọ năm 1930, trong bối cảnh Việt Nam đang bị xâm lược, với
tinh thần chủ động, sáng tạo và bản lĩnh chính trị kiên cường, Nguyễn Ái Quốc đã
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam – đánh dấu thành công bước đầu của thắng lợi
cách mạng Việt Nam sau này. Cuối năm 1929, Đông Dương Cộng sản Đảng và An
Nam Cộng sản Đảng xảy ra tranh chấp gây ảnh hưởng trong quần chúng. Trước tình
hình này, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến
Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một chính đảng duy nhất ở Việt Nam. Dưới sự chủ trì của vị lãnh tụ uyên bác, Hội
nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Người
soạn thảo. Với đường hướng chiến lược, nhiệm vụ và lực lượng được xác định,
Người đã vạch ra một chặng đường cụ thể cho cách mạng Việt Nam tiến bước và

156
thắng lợi. Nói về cống hiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập
Đảng, Hà Huy Tập đã viết: “Công lao to lớn của đồng chí là đã tập hợp được các lực
lượng cộng sản phân tán lại thành một khối, nhờ đó mà đã đưa lại cho những người
lao động Đông Dương một đội tiền phong chiến đấu và kiên quyết cách mạng”.
- Lãnh đạo toàn dân kháng chiến
Trong Cách mạng tháng Tám (1945), Người đã tập hợp, tổ chức và lãnh đạo
dân tộc ta đứng dậy đấu tranh tiến tới thành công giành độc lập, chính quyền trong
cả nước. Khoảng thời gian sau đó, nước ta phải đối mặt với muôn vàn thách thức:
tài chính cạn kiệt, thù trong giặc ngoài, rơi vào tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” và
các thế lực đế quốc không ngừng âm mưu bao vây và chống phá thành quả cách
mạng nhằm tái thống trị nước ta. Trước tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra
vấn đề cấp bách cần phải giải quyết là huy động toàn bộ người dân chống giặc đói,
giặc dốt, giặc ngoại xâm. Vào ngày 06/01/1946, Người chính thức được bầu làm
Chủ tịch nước, tiếp tục lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Sự lãnh
đạo tài tình của vĩ lãnh tụ vĩ đại đã giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng
bằng những chủ trương sáng suốt, giúp nhân dân ta liên tiếp giành thắng lợi mà
đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954).
- Sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp
thu những tư tưởng tiến bộ từ các nước phương Tây để từ đó tìm và tận dụng thời
cơ tạo nên thể chế chính trị tương lai cho đất nước nhằm thay đổi vận mệnh của cả
dân tộc, đó là mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quyền lực thuộc về
nhân dân, xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn con đường phát triển của dân tộc Việt Nam với
xu thế thời đại, theo lý tưởng và mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước của Người, độc
lập dân tộc phải đi đôi với tự do, hạnh phúc của nhân dân và gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, đáp ứng toàn diện mọi nhu cầu chính đáng của người dân, là xã hội do quần
chúng nhân dân xây dựng nên, vì vậy nên nó mang tính cộng đồng sâu sắc. Ngày
02/09/1945, trước toàn thể nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ
đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử Việt Nam trong công cuộc đưa nhân dân
ta từ thân phận nô lệ trở thành công dân của nước Việt Nam độc lập, làm chủ được
vận mệnh của mình và mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: độc lập, tự
do và đi lên Chủ nghĩa xã hội. Có thể thấy rằng, với những đường lối, chủ trương

157
cùng khả năng lãnh đạo kiệt xuất của Người đã giúp nước ta giữ vững độc lập chủ
quyền, tiến tới xây dựng đất nước.
* Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc
- Về tư tưởng, vận dụng sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa
Mác – Lênin trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Trước hết, Người cho rằng giải phóng dân tộc là trước hết, trên hết. Nếu
theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con đường cách mạng vô sản phải lần lượt bắt đầu từ
giải phónggiai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người
thì theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Người cho rằng con đường cách mạng vô sản
tại Việt Nam phải bắt đầu từ giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người.
Bên cạnh đó, sự sáng tạo của Người một lần nữa được thể hiện khi quan
niệm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng (1930), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Khác với khái niệm “Cách mạng tư
sản dân quyền” trong Văn kiện Đại hội VI Quốc tế Cộng sản “không bao hàm đầy
đủ nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc”, Chánh cương vắn tắt của Đảng do
Hồ Chí Minh soạn thảo đã nêu rõ: “Cách mạng tư sản dân quyền trước hết là phải
đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến”. Đồng thời, sự khác biệt còn nằm ở mối quan
hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Nếu Quốc tế Cộng sản cho
rằng hai nhiệm vụ này cần phải được thực hiện song song thì Hồ Chí Minh đã đặt nhiệm
vụ chống đế quốc hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến, chia lại ruộng đất cho các
nông hộ thì sẽ từng bước triển khai và thực hiện.
- Về liên minh công – nông của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh sau khi trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam thì
người đã xác định rằng giai cấp công nhân (GCCN) chính là giai cấp tiến bộ nhất
trong xã hội và là giai cấp lãnh đạo của khối liên minh công - nông - trí. Để lý giải
vì sao giai cấp cách mạng phải là giai cấp công nhân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
những phân tích một cách toàn diện rằng giai cấp công nhân đều phải giữ vai trò
lãnh đạo cả về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức hành động. Song song với đó,
GCCN phải được trang bị và thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin từ đó
xây dựng nên Đảng cách mạng.

158
Bên cạnh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân chính là giai cấp đóng góp
số lượng lớn nhất trong xã hội của Việt Nam vào thời điểm đó và được chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định là “đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân” và là “quân
chủ lực của cách mạng”. Người chỉ rõ: “Giai cấp nông dân, trong đó bần nông và
trung nông là đội quân chủ lực của kháng chiến và của cách mạng dân chủ mới. Cho
nên họ cũng hăng hái kháng chiến, hăng hái cách mạng. Vì vậy, họ là đồng minh chắc
chắn nhất của giai
Trí thức Việt Nam có tinh thần dân tộc và cách mạng, có học thức nên xem
được sách, biết được dân chủ, biết được lịch sử cách mạng, nhất là lịch sử cách
mạng Pháp, nên dễ hấp thụ được tinh thần cách mạng. Lúc đã hiểu biết, trí thức ta
dễ theo cách mạng”. Từ đó có thể thấy được đây là đồng minh ngày càng quan
trọng của giai cấp công nhân trong tiến trình đi lên CNXH.
- Về lý luận xây dựng đảng cầm quyền của chủ nghĩa Mác – Lênin vào việc
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Kế thừa những tư tưởng về vấn đề xây dựng đảng cầm quyền của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết đó vào trong
quá trình giành độc lập về cho nước ta.
Thứ nhất, theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời
là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân.
Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng,
tính chất Đảng Cộng sản không chỉ ở thành phần xuất thân từ công nhân, mà là ý
thức tư tưởng chính trị và theo đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh
đã sáng tạo trong việc kết hợp nhân tố dân tộc và nhân tố giai cấp để thành lập
Đảng Cộng sản. Trong đó, nhân tố dân tộc là chủ nghĩa yêu nước, nhân tố giai cấp
là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân.
Thứ hai, dựa vào quan điểm của V.I. Lê-nin là đặc biệt quan tâm đến việc
tăng cường xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa đảng và nhân dân, tư
tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong bản Di chúc: “Đảng ta là một đảng cầm
quyền”. Sự sáng tạo của Bác được thể hiện rõ qua cách dùng từ. Từ “một” được sử
dụng thể hiện tính duy nhất, hàm ý cả tính tuyệt đối. Bác nhận thức rõ Đảng ta
không được chia sẻ quyền lực với đảng khác trong vai trò cầm quyền của mình.
Đây không phải là sự độc chiếm quyền lực mà đó là kết quả tất yếu của lịch sử. Là
đảng duy nhất cầm quyền, nội bộ có thể sẽ nảy sinh những trì trệ, thậm chí sai lầm,

159
nếu đảng giáo điều, không phát huy và mở rộng dân chủ thì sẽ dẫn đến việc đảng tự
xây cho mình một “tháp ngà” và tự cách biệt mình với quần chúng nhân dân.
Về cách thức và lựa chọn hướng đi
Người thanh niên xứ Nghệ lúc bấy giờ đã đưa ra một quyết định lịch sử: quyết
định sang nước Pháp - trung tâm của Châu Âu lúc bấy giờ. Thực chất, người muốn
trực tiếp đặt chân đến quốc gia đang cai trị nước mình, nơi có nền văn minh tiên tiến,
có sự tiến bộ vượt bậc về chính trị, kinh tế và văn hóa, để tìm hiểu bản chất của những
giá trị đạo đức mà xã hội tư bản luôn rao giảng “tự do, bình đảng, bác ái”, nhưng lại
bộc lộ hoàn toàn trái ngược khi thực thi chế độ cai trị tàn tạo, dã man ở xứ thuộc địa.
Vì thế, với tư duy “Muốn bắt được cọp phải vào tận hang”, Người đã chọn hướng đi
sang Pháp, sang các nước phương Tây - cái nôi của những tư tưởng lớn, của những
cuộc cách mạng lớn. Đối với Hồ Chí Minh, Người luôn tìm cách dung hòa những sự
khác biệt giữa Đông và Tây, Người biết chắt lọc những tinh tú của hai nền tư tưởng để
chúng giao thoa và biến nó trở thành công cụ, thành đòn bẩy vững chắc cho bệ phóng
độc lập dân tộc sau này.
Với hướng đi khác biệt vào năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã không những thể
hiện tư duy thông tuệ mà còn cho thấy sự sáng tạo, sự kế thừa nhưng có chọn lọc tư
tưởng của các bậc tiền nhân và tính độc lập, vững vàng với lối đi riêng của mình.
Chính vì vậy, Bác đã có một sự lựa chọn đúng đắn, là tiền đề quan trọng cho những
bước đi về sau trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước và giải phóng dân tộc.
Trước khi đặt chân đến Châu Âu, hành trang duy nhất mà Nguyễn Tất Thành
có trong tay vào thời điểm đó không gì khác chính là tinh thần yêu nước cháy bỏng
với nền tảng tư tưởng của phương Đông, qua nhiều thế kỉ đã hội nhập vào văn hoá
Việt Nam cùng những khát khao tìm hiểu văn hoá phương Tây. Đây chính là nguồn
động lực và khích lệ tinh thần to lớn thôi thúc sự lựa chọn của người thanh niên trẻ
tuổi giàu lòng yêu nước. Lần lượt tới Pháp, Mỹ, Người được tận mắt quan sát hình
ảnh những người sống vật vờ đằng sau những tòa nhà chọc trời ở New York và
cuộc sống thảm hại của những người da màu sinh sống tại đây. Tất cả đều thể hiện
sự hai mặt của cuộc sống tại các nước tư bản.
Dựa vào chính sức lực của mình, người thanh niên xứ Nghệ - Nguyễn Tất
Thành với hoài bão lớn lao đã có cơ hội được hiểu rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn về
chủ nghĩa đế quốc và ngày càng đề cao những giá trị của sự độc lập, tự do. Đây
được coi là cơ sở để đánh giá chủ nghĩa đế quốc và là cơ sở để đề ra đường lối đúng
đắn cho cách mạng Việt Nam sau này.

160
3. Liên hệ sinh viên
Sự kiện ra đi tìm đường cứu nước của Bác không chỉ truyền ý chí, cảm hứng,
khát vọng mà còn giúp thanh niên Việt Nam rút ra nhiều bài học quý báu trong học
tập, lao động sản xuất và trong hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất là bài học về lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập dân
tộc, phát triển đất nước của Người. Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, các thế hệ thanh niên Việt Nam luôn sẵn sàng đi bất cứ đâu,
làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần. Tình yêu quê hương đất nước và khát vọng,
hoài bão của mỗi thanh niên hôm nay phải được thể hiện, được bắt đầu từ chính
những công việc nhỏ nhất, từ học tập, lao động cho đến chiến đấu.
Thứ hai là tìm hướng đi mới, đột phá và khác biệt. Ngày nay, mỗi thanh niên
phải thực sự chủ động sáng tạo các hoạt động của mình, luôn trăn trở tìm hướng đi
mới, tìm cách tiếp cận mới đối với mỗi vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra, dấn
thân vào những nhiệm vụ mới. Bên cạnh đó, các tổ chức của thanh niên cũng cần
phải đổi mới không ngừng về nội dung, phương thức hoạt động để thực hiện tốt các
yêu cầu, nhiệm vụ trên con đường hội nhập quốc tế.
Thứ ba là bài học về tính nghị lực, rèn luyện ý chí quyết tâm, bản lĩnh, không
ngừng phấn đấu và không tự mãn. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là tấm
gương sáng ngời về nghị lực và ý chí vươn lên. Thanh niên ngày nay cần có ý thức
rèn luyện thái độ sống đúng đắn, vượt qua khó khăn thử thách, luôn làm giàu tri
thức, sức khỏe, kỹ năng cho bản thân, có khát vọng vươn tới những tầm cao mới để
hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của tuổi trẻ, đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
KẾT LUẬN
Cuối thế kỷ XIX, nhiều phong trào đấu tranh cách mạng kháng Pháp bị trấn
áp đẫm máu và con đường giải phóng nhân dân dưới ách đô hộ của Pháp gặp thất
bại, công cuộc giải phóng nhân dân rơi vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng về
đường lối. Với lòng yêu nước nồng nàn, Nguyễn Tất Thành đã sớm có hoài bão tìm
kiếm con đường cứu nước mới để giành lại hòa bình cho dân tộc. Đối với Nguyễn
Tất Thành, quyết định ra đi tìm đường cứu nước không phải một sự lựa chọn tình
cờ và ngẫu nhiên, nó là sự kết tinh của một sự nghiên cứu và giải thích thấu đáo các
yếu tố thuận - nghịch của hoàn cảnh trong nước và thế giới tác động đến cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc, để lựa chọn đúng hướng đi và xác định con đường cứu
nước thành công.

161
Hồ Chí Minh đã bộc lộ sự uyên bác qua việc thể hiện sự sáng trong việc vận
dụng các học thuyết có sẵn trên nền tảng lý luận của Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng. Người hùng dân tộc Hồ Chí Minh đã đem tới cho dân tộc Việt Nam con
đường hòa bình, độc lập và tự do nhờ với sự sáng tạo và trí tuệ của Người. Những
cống hiến to lớn của Người trong công cuộc tìm đường cứu nước sẽ mãi vẹn nguyên
giá trị và trở thành nguồn động lực vô giá đồng hành cùng toàn dân tộc Việt Nam
trong tương lai. Tư tưởng và nhân cách của vị lãnh tụ vĩ đại đã trở thành một di sản
văn hoá vô giá đối với dân tộc Việt Nam và trở thành hệ giá trị sâu sắc dẫn dắt toàn
dân tộc học tập và làm theo tư tưởng của Người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2021), NXB Chính trị quốc gia Sự
Thật, Hà Nội.
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập (2011), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3]. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử (2016), NXB Chính trị quốc gia Sự Thật,
Hà Nội.
[4]. Hoàng Quân (2021), Cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cách
mạng Việt Nam, Học viện phòng không-không quân, truy cập lần cuối ngày 05 tháng
05 năm 2023, từ <http://hocvienpkkq.com/tin/index.php/vi/news/Quan-doi/Cong-
hien-vi-dai-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh-voi-Cach-mang-Viet-Nam-2267/>.
[5]. Nguyễn Khánh Toàn (1999), Tuyển tập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[6]. Phương Thảo (2022), Hồ Chí Minh - Trọn cuộc đời vì dân, vì nước, Cổng
thông tin điện tử tỉnh Bình Thuận, truy cập lần cuối ngày 05 tháng 05 năm 2023, từ
<https://binhthuan.gov.vn/mDefault.aspx?
sid=1328&pageid=3641&catid=67195&id=616824&catname=hoc-tap-va-lam-
theo-tam-guong-ho-chi-minh&title=ho-chi-minh-tron-cuoc-doi-vi-dan-vi-nuoc>.
[7]. Phạm Văn Linh (2020), Tư tưởng của Lênin về xây dựng chính đảng
kiểu mới và sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 05 tháng 05
năm 2023, từ <https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/tu-tuong-cua-lenin-ve-xay-
dung-chinh-dang-kieu-moi-va-su-van-dung-vao-thuc-tien-viet-nam.html>.
[8]. Sự kiện Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước - ý
nghĩa lịch sử và giá trị thời đại (2021), NXB Chính trị quốc gia Sự thật , Hà Nội
[9]. Thu Thanh & Ngọc Trạng (2021), Tầm nhìn thời đại và tư duy độc lập,
sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, Tạp chí cộng sản, truy cập lần cuối ngày 05 tháng 05 năm 2023.

162
NGUYỄN ÁI QUỐC – BÔNG HOA
KHÔNG THỂ HÁI TRÊN ĐẤT HỒNG KÔNG (1930-1931)
Hoàng Thùy Linh, Nguyễn Linh Nga,
Vũ Thị Thu Hằng, Lương Trần Thiên Hoa,
Đặng Thế Vinh, Phạm Văn Bình An,
K24CLC, Ngân Hàng A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Nằm ở Đông Nam lục địa châu Á, Việt Nam không chỉ có địa lý chính trị
quan trọng với khu vực và thế giới mà còn có tài nguyên phong phú, đa dạng. Do
vậy, Việt Nam luôn là mục tiêu nhòm ngó của các kẻ thù bên ngoài; dân tộc ta phải
chịu sự áp bức, bóc lột đến vô cùng. Là một người yêu nước nồng nàn, một người
dành cả cuộc đời mình với hành trình ra đi tìm đường cứu nước; Hồ Chí Minh luôn
mang trong mình tinh thần chiến đấu bất khuất và đặt mình với sứ mệnh giải phóng
dân tộc, đem tới cuộc sống độc lập, tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Chính vì vậy, nhóm chúng em lựa chọn chủ đề “Cuộc đấu tranh nhằm giải
phóng đồng chí Nguyễn Ái Quốc ra khỏi trốn tù ngục tại Hong Kong và tinh thần
chiến đấu bất khuất để giải phóng dân tộc của Người những năm 1930-1931”,
nhằm nổi bật lên tinh thần chiến đấu bất khuất, quả cảm của nhân dân Việt Nam nói
chung- một dân tộc nhỏ bé nhưng luôn ngẩng cao đầu, không chịu khuất phục trước
thế lực thù địch nào. Bên cạnh đó, chủ đề hướng tới cuộc đấu tranh giải phóng
Nguyễn Ái Quốc tại Hồng Kông (Trung Quốc) và tinh thần tương hỗ, đoàn kết của
những người bạn trong nước, quốc tế đã giúp đỡ Hồ Chủ tịch
NỘI DUNG
Trong suốt con đường ra đi tìm đường cứu nước của Bác không thể không
nói đến giai đoạn Người hoạt động tại Trung Quốc. Sau 13 năm ra đi tìm đường
cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đặt chân tới Quảng Châu, Trung Quốc - đây là một
sự kiện quan trọng. Theo Bác, trước và sau năm 1924, hình thức cách mạng Trung
Quốc có nhiều thay đổi lớn; thời điểm này Quảng Châu được coi là “Matxcova
phương Đông”, thu hút rất nhiều nhà cách mạng từ các quốc gia bị áp bức. Hơn
nữa, Quảng Châu lúc bấy giờ là nơi tập trung một số nhà hoạt động cách mạng đến
từ Việt Nam. Họ là những người đến theo tiếng gọi của tiền bối cách mạng Phan
Bội Châu. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin rằng, Người ở Quảng Châu lúc này
kết hợp tham gia hoạt động cách mạng thực tiễn ở Trung Quốc với mục tiêu vận
động cách mạng Việt Nam, nhất định sẽ có hiệu quả.

163
Mùa xuân năm 1930, sau khi chủ trì thành công Hội nghị hợp thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam; Nguyễn Ái Quốc (Tống Văn Sơ - tên Bác lấy khi hoạt động tại
Hồng Kông) tiếp tục ở lại Hong Kong để hoạt động cách mạng. Bác ở tại ngôi nhà
186 phố Tam Kung, Cửu Long - Hương Cảng; nơi đó là trụ sở liên lạc bí mật giữa
Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí khác.
Kể từ khi thay mặt “Hội những người Việt Nam yêu nước” tại Pháp ký tên
vào bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi tới Hội nghị Vécxây- Pháp, cho đến
khi sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ chủ tịch đã trở thành nhân vật quan
trọng trong kế hoạch lùng bắt của thực dân Pháp. Bên cạnh hoạt động giữa vòng
vây của nhiều kẻ thù, kèm theo một án tử hình vắng mặt của tòa Đại hình Vinh theo
phán quyết số 115 (10-10-1929) cùng lệnh truy nã của thực dân Pháp; đó là những
khó khăn và hết sức nguy hiểm với Nguyễn Ái Quốc. Trong bối cảnh đó, dù đã hết
sức cẩn trọng nhưng địa chỉ mà Người ở tại Hong Kong đã rơi vào tay mật thám
Anh (khi cảnh sát Singapore bắt Serge Lefranc). Cuộc gặp mặt giữa mật thám Pháp
ở Đông Dương và mật thám Anh ở Hong Kong, kèm theo những điều kiện có lợi
cho cả hai bên đã dẫn đến cuộc vây ráp, bắt lén Tống Văn Sơ- Hồ Chí Minh ở số
nhà 186 Tam Kung - Hương Cảng (6-6-1931).
Khoảng thời gian đầu của năm 1930, Nguyễn Ái Quốc sang Hồng Kong sau
khi đã trải qua công tác tại các nước Đông Nam Á như (Indomesia, Malaysia,..),
cho hoạt động xây dựng đường dây liên lạc quốc tế để hỗ trợ cách mạng Việt Nam.
Lúc bấy giờ, Hồng Kông được coi là một thành phố “bỏ ngỏ”, do những thủ tục
nhập cảnh không quá phức tạp. Tiếp đến, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị hợp
nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng Sản Việt Nam, hội nghị được coi
như một trong những Đại hội thành lập Đảng đầu tiên.
Ở Hồng Kong, giấy căn cước của người được đặt tên là Tống Văn Sơ. Người
trú tại số nhà 186 Tam Kung, một cơ sở bí mật để bảo vệ người, với những biện
pháp để cảnh báo người khỏi bị bắt. Quãng thời gian ở Hông Kong, Người tiếp tục
chỉ dẫn phong trào cách mạng trong nước sát sao, cùng với những hoạt động giảng
dạy những cán bộ cách mạng bí mật của mình. Nắm bắt được những thông tin mật
thám Pháp có về mình, dự đoán được điều chẳng lành sắp diễn ra, Người đã yêu
cầu Quốc tế Cộng sản chuẩn bị vé để thoát khỏi Hồng Kong, nhưng người đã bị bắt
trước khi kịp rời đi.
Sau cuộc cách mạng tháng mười Nga năm 1917, các nước đế quốc dần trờ
nên dề phòng với phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Chúng đã

164
đưa ra nhiều biện pháp vô cùng tàn bạo để ngăn cản quá trình nắm quyền của giai
cấp vô sản. Với Việt Nam, đó là việc thi hành các biện pháp bắt các cán bộ cách
mạng, đại biểu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Từ những hoạt động đầu của Nguyễn Ái Quốc những năm 1919, và tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp những năm 1920, đồng chí đã luôn trong tầm ngắm
của thực dân Pháp trong quá trình loại bỏ cán bộ Cộng Sản ở các nước Đông
Dương. Và vào năm 1931, thực dân Pháp đã bí mật cấu kết với chính quyền Anh ở
Hồng Koong để đưa ra chiến dịch vây bắt các chiến sĩ Cộng Sản, trong đó có cả
Đồng Chí Tống Văn Sơ - Nguyễn Ái Quốc.
Vào ngày 6-6-1931, cảnh sắt Hồng Kong đã vây bắt Nguyễn Ái Quốc mà
không có lẹnh tại số nhà 186 phố Tam Lung. Chính quyền thực dân Pháp vô cùng
mừng rỡ với việc bắt được đồng chí, đã tiến hành vận động chính quyền Hồng Kong
nhằm giành lại Nguyễn Ái Quốc. Chúng đã dùng tất cả các biện pháp bỉ ổi nhằm tạo
thuận lợi cho việc trục xuất Nguyễn Ái Quốc. Biết rằng luật nước Anh không cho
phép người tội chính trị được dẫn độ, và không có hiệp định nào giữa Anh và Pháp
phản đối điều đó: “...không có thủ tục nào được quy định để dẫn độ ông ấy” (điện
của Thống đốc Hồng Kông gửi Bộ trưởng Bộ thuộc địa ngày 1-7-1931). Chúng vẫn
ký lệnh trục xuất Nguyễn Ái Quốc khỏi Hồng Kông, sau sáu ngày bắt giam.
Quá trình hoạt động cách mạng của người đã đem nhiều giá trị thực tiễn và
lý luận cho quá trình cách mạng của Việt Nam. Đầu tiên, sự ra đời của Đảng Cộng
sản, vào tháng 2 năm 1930, là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác- lê nin, phong trào
yêu nước, và phong trào công nhân, thể hiện định hướng đúng đắni của cách mạng
Việt Nam dưới sự dẫn dắt của Người. Tiếp theo, trong khoảng thời gian người qua
những khu vực Đông Nam Á tới Hồng Kong, tinh thần đoàn kết giữa các cán bộ
cộng sản trong nước với quốc tế cộng sản luôn được người đề cao và là một trong
những quan tâm hàng đầu của người, thể hiện tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế
trong giải phóng dân tộc.
Từ cuộc thẩm vấn đầu ngày 10-7-1931, Tống Văn Sơ đã phải trải qua 3 cuộc
thẩm vấn vụ Hồng Kong. Những nhân viên thẩm vấn liên tục bức cung bất hợp
pháp nhầm khẳng định Người là Nguyễn Ái Quốc và ép người phải thú nhận những
tội danh vô lý của chúng. Tuy nhiên, tất cả mọi lập luận của người đều muốn khẳng
định mình là người Trung Hoa tên gọi Tống Văn Sơ, chứ không phải người Việt.
Trong tình cảnh vô cùng khó khắn, người đã gặp được luật sư Lodoby qua sự can
thiệp của những cán bộ Đảng viên giới thiệu. Dù biết không được có lợi về tài
chính nhưng Loseby vẫn nói: “Tôi cãi hộ ông vì danh dự chứ không phải vì tiền”.

165
Đến nay, với việc các báo quốc tế đưa ra cho quần chúng vụ bắt giam bất
hợp pháp của Nguyễn Ái Quốc, Chính phủ Anh và chính phủ Pháp tại Đông Dương
đã đưa ra thỏa thuận trục xuất Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương. Thấy được sự
nguy hiểm của hành vi này, luật sự Lodoby đã khởi kiện Tòa án tối cao Hồng Kong
nhằm giải thoát Nguyễn Ái Quốc.
Từ 31-7-1931 đến 12-9-1931, Tống Văn Sơ đã phải trải qua 9 phiên tòa xét
xử với luật sư Gienkin và luật sư Lodoby bào chữa. Các công tố viên được chính
phủ Pháp và Anh dựng lên liên tục tìm cách cáo buộc Tống Văn Sơ là cộng sản, là
gián điệp của Matxcova đến phá hoại trật tự, an ninh Hồng Kong, và yêu cầu hội
đồng phải trục xuất Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương. Trong khi đó, luật sư bào
chữa đã đưa ra ba điểm pháp lý cơ bản để chứng minh Tống Văn Sơ bị bắt là bất
hợp pháp: Đầu tiên, Tống Văn Sơ bị bắt là bất hợp pháp do, Thống đốc Hồng Kong
ký lệnh bắt sau 6 ngày bị bắt thực tế (bắt ngày 6-6, thực tế bắt ngày 12-6). Thứ hai,
việc hỏi cung của nhân viên thẩm vấn đã vượt quá nội dung được hỏi, cùng việc tạo
lên một tờ khai giả mạo trong hồ sơ. Cuối cùng, việc yêu cầu trục xuất Tống Văn
Sơ là bất hợp pháp, do yêu cầu trục xuất chỉ có thể áp dụng đối với thần dân của
chính quốc Anh, nên không thể áp dụng với người nước khác.
Tuy đã thừa nhận sai trái, nhưng đến phiên tòa thứ 8 (11-9-1931) tòa án vẫn
tán thành lệnh trục xuất mà Thống đốc Hồng Koong ký. Ngay ngày hôm sau, 12-9,
luật sự Gienkin đã nộp đơn kháng án lên Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh. Sớm
nhận thấy vụ kiện này sẽ làm mất thanh danh cho chính phủ Hồng Kong, luật sư
biện hộ của Tống Văn Sơ đã đề nghị đưa ra giải quyết bằng cách cho Nguyễn Ái
Quốc rút khỏi Hồng Kong “với phương tiện của riêng mình”. Nhờ vào đó, Nguyễn
Ái Quốc thay vì bị trục xuất đến Đông Dương - nơi ông bị án tử hình, đã có thể
được sang nước khác với sự bảo hộ của chính phủ Anh.
Ngày 28-12-1932, Nguyễn Ái Quốc được thả tự do. Tuy nhiên, trong quá
trình rời khỏi Hồng Kong đến Singapore, Người đã một lần nữa bị bắt quay trở lại
Hồng Koong. Sau nửa tháng, vào ngày 19-1-1933, Người bị giam giữ bởi cảnh sát
Hồng Koong, nhưng đã kịp báo cho luật sư Lodoby nhờ can thiệp. Từ đây, ông đã
báo Thống đốc Hồng Kong để thả tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Một lần nữa, nhờ
vào sự giúp đỡ của gia đình luật sư Lodoby, bằng việc cải trang bằng trang phục mà
vợ ngài luật sư mua về. Người đã có thể bình an lên con tàu tới Hạ Môn vào ngày
21-1-1933, thoát khỏi vòng vây của bè lũ thực dân Pháp

166
Nguyễn Ái Quốc rời Hồng Kông đi Hạ Môn rồi Thượng Hải, rồi về
Maxtcova (1934). Sau hơn hai năm bị giam giữ, Nguyễn Ái Quốc lại trở về với
những đồng chí cộng sản, tiếp tục sự nghiệp cách mạng của người.
Trong quá trình người bị bắt giam và thẩm vấn, các bài báo quốc tế Cộng sản
và các chi nhánh Quốc tế Cộng sản đã liên tục đưa ra các bác bỏ về việc giam cầm
Nguyễn Ái Quốc. Không chỉ vậy, Trong suốt 9 phiên tòa xét xử, tại mỗi phiên toà
tờ báo của Hồng Kông đã đăng tải toàn bộ diễn biến phiên toà cùng lời khai của
Nguyễn Ái Quốc (đặc biệt là tờ “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng”) với các lời bình
luận bảo về cho Tống Văn Sơ và phê phán luật pháp Hồng Kông. Kết thúc vụ án,
báo chí Hồng Kong đã đưa ra những bình luận: “Toàn bộ câu chuyện về vụ án này
sẽ để lại những dư vị thật chua chát. Có thể đó là một bài học cho những ai nắm
quyền cai trị thuộc địa này” (“Bưu diện Hoa Nam buổi sáng” ngày 10/8/1931)
Sau quá trình bắt giữ và xét xử Nguyễn Ái Quốc tại Hồng Kông, từ cách đối
xử bất công của những chế độ thực dân đối với các đảng viên Cộng sản nước thuộc
địa, ta thấy được ý nghĩa thực tiễn và lý luận trong chiến thắng của Người trước
chủ nghĩa áp bức .Đầu tiên, về mặt thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã có thể kết nối
được bản thân với những người bạn coi trọng chính nghĩa của thế giới như gia đình
luật sư Lodoby, vànhững bạn bè quốc tế cộng sản... Cùng với đó, khẳng định được
tầm quan trọng của lòng nhân đạo, tinh thần đoàn kết cùng truyền thống yêu nước
mãnh liệt là động lực quyết định để giúp Người vượt qua giai đoạn khó khắn,
không chùn bước trước lời đe dọa của chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, về mặt lý
luận người cũng thấy được sự chú trọng của chủ nghĩa tự do, bình đẳng bắc ái trong
luật pháp của Anh là cơ sở cho đất nước hòa bình mà Việt Nam hướng tới.
Với tài năng và ý chí nghị lực, Tống Văn Sơ đã có thời gian hoạt động ở
Hồng Kông, xong, dưới sự phối hợp giữa mật thám Pháp tại Đông Dương và cảnh
sát Hồng Kông, Tống Văn Sơ đã bị bắt. Nhờ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, Tống
Văn Sơ đã an toàn rời khỏi Hồng Kông. Thật thiếu sót khi không nhắc đến sự giúp
đỡ của những người đồng chí cũng như những người bạn quốc tế và đặc biệt là vị
luật sư người Anh - Francis Henry Loseby. Sự thông minh, sắc sảo, cương nghị
trong từng lời nói cùng với ý chí của chàng thanh niên Việt Nam đã làm vị luật sư
xúc động, sẵn sàng giúp đỡ vì cảm thán trước Người. Cùng với đó, lòng thiện chí
của Tống Văn Sơ gây được ấn tượng sâu sắc với gia đình luật sư Loseby và những
người cộng sự trong văn phòng luật của ông. Vốn không có chung màu da hay sắc
tộc, 2 ý chí tư tưởng lớn gặp được nhau, không ngại giúp đỡ khi gặp khó khăn.

167
Tống Văn Sơ có thêm một người bạn, dân tộc Việt Nam có thêm một ân nhân cứu
mạng mà sau này khi về nước, chủ tịch Hồ Chí Minh không quên viết thư cảm ơn,
gửi quà mỗi dịp lễ tết, thay lời người dân Việt Nam biết ơn vô cùng đến vị luật sư
chân chính Loseby.
Dù thời gian có trôi đi, nhưng lòng chân thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh với
luật sư Loseby và tình yêu thủy chung của nhân dân Việt Nam dành cho gia đình
luật sư Loseby và những người cộng sự vẫn còn mãi. Đâu đó trong bức tranh thêu
Chùa Một Cột Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng luật sư, trong quần áo, mũ, giày và kính
được tặng hàng năm bởi những người ủng hộ gia đình và Người sử dụng năm đó
hay trong những bức ảnh gia đình của luật sư Loseby. Những kỷ vật, tài liệu liên
quan đến sự sụp đổ của Hồng Kông 1931-1933 được lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí
Minh, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại
Phủ Chủ tịch và ở những nơi khác trên đất nước Việt Nam, tình bạn cao đẹp và tình
cảm sâu sắc dành cho Hồ Chí Minh vẫn còn được lưu giữ trong gia đình luật sư,
được các thế hệ mai sau mãi mãi tôn kính và yêu mến.
Hành trình 30 năm tìm đường cứu nước đã để lại dấu ấn sâu sắc trên chặng
đường cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như cách mạng Việt Nam. Trên
hành trình gian nan ấy không thể tách rời sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Người đã đi qua nhiều quốc gia, gặp gỡ nhiều bạn bè quốc tế, dù là những chính
khách tên tuổi, những nhân vật lãnh đạo của Đảng Cộng sản Quốc tế hay Đảng Lao
động, những nhà văn, nhà báo vĩ đại, hay chỉ là những người dân bình thường…
Tất cả họ đều có điểm chung là mến mộ tinh thần, ý chí nghị lực của chàng thanh
niên cách mạng Việt Nam. Tiêu biểu là vụ án ở Hong Kong, tình bạn hữu quốc tế
đã đưa Tống Văn Sơ thoát khỏi cửa tử. Không chỉ vậy, tình bạn khăng khít được
giữ gìn và lưu truyền cho các thế hệ mai sau.
Việc vây bắt Nguyễn Ái Quốc chính là âm mưu khởi đầu cho chiến dịch tiêu
diệt các chiến sĩ cộng sản của chủ nghĩa thực dân bắt đầu từ tháng 6 năm 1931. Lúc
bấy giờ, do vô tình bị lộ thông tin vào tay mật thám, cảnh sát địa phương đã điện
tin ngay lập tức cho cảnh sát Anh. Không lâu sau đó, cảnh sát Anh bắt ngờ vây bắt
Tống Văn Sơ khi chưa có lệnh tại số nhà 186 Tam Kung, Hồng Kông một cách đơn
giản như hái một bông hoa, chính quyền Pháp hết sức vui mừng mở cuộc vận động
nhằm dẫn độ Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương. Tuy nhiên, do quy định luật pháp
của Anh không cho phép dẫn độ người phạm tội liên quan đến chính trị nên chính
phủ Hồng Kông đã ra quyết định trục xuất Người. Không muốn rời đi khi nhiệm vụ

168
chưa hoàn thành, Người kiên quyết với tên gọi Tống Văn Sơ, khẳng định mình là
người Trung Hoa chứ không có quốc tịch Việt Nam.
Gần 20 năm đầy sóng gió bị giam giữ trong nhà tù, trải qua 3 cuộc thẩm vấn
cùng 9 phiên tòa xét xử, người đã từ chối mình là Nguyễn Ái Quốc, sinh ra ở Đông
Hưng- Quảng Đông-Trung Quốc và không có mối liên hệ nào với quốc tế cộng sản,
đồng thời khẳng định chưa hề nghe qua cái tên Lefranc. Điều này cũng thể hiện
đúng phương châm mà sau này Người viết: “Hoạt động cách mạng bí mật phải hết
sức cẩn thận để tránh bị bắt. Nhưng đồng thời phải luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng đối
phó nếu không may bị bắt. Nếu bị bắt thì nguyên tắc bất di bất dịch là: Thà chết
chứ không nói gì có hại cho cách mạng” (Hồ Chí Minh “Vừa đi đường vừa kể
chuyện”- 1961).
Thông qua các tư liệu về vụ án, có thể thấy được Nguyễn Ái Quốc hiện lên là
một người cách mạng cộng sản kiên trung, bất khuất với bản lĩnh vững vàng cũng
như ứng xử một cách thông minh, khéo léo để bảo vệ chính mình và các đồng chí,
đồng đội khác, từ đó hoàn thành mục tiêu cách mạng được giao phó, chứng minh
bản thân là “bông hoa không thể hái”.
Ngay sau khi biết tin Hồ chủ tịch bị bắt, ông Hồ Tùng Mậu- người được thả
trước đó vài ngày đã thông qua liên đoàn quốc tế đến gặp luật sư Loseby nhờ giúp
đỡ. Khi đó, Loseby nổi tiếng là người cương trực, thẳng thắn, là vị luật sư Anh có
tư tưởng tiến bộ, yêu lẽ phải và ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Luật sư cùng với vợ và
cộng sự của mình đã cố gắng bào chữa và tìm cách cứu Nguyễn Ái Quốc khỏi nơi
tù đày khắc nghiệt. Khi đòi thả tự do Tống Văn Sơ không được phê duyệt, luật sư
cùng người cộng sự đã lên kế hoạch chống án lên Viện cơ mật Hoàng Gia Anh.
Tiền án phí và những thủ tục cần thiết khi ra tòa đã được luật sư chi trả toàn bộ và
hai người bạn của luật sư đã nhận lời hỗ trợ bào chữa cho Tống Văn Sơ. Kết quả là
Tòa án Viện Cơ mật Hoàng Gia Anh đã đồng ý trả tự do cho Tống Văn Sơ, bằng
cách cho Người được tự do lựa chọn nơi mình đến.
Ngày 28-12-1932, Tống Văn Sơ chính thức được trả tự do. Sau khi rời khỏi
Hồng Kông, Người lên kế hoạch định đi Anh, nhưng vừa đến Singapore thì chính
quyền ở đây đã nhận được điện báo trước nên không cho phép Tống Văn Sơ lên bờ,
kết quả là Người bị bắt quay trở lại Hồng Kông. Trong lúc đó Tống Văn Sơ đã kịp
viết thư gửi cho luật sư Loseby với mục đích nhờ giải quyết vụ việc này. Luật sư
ngay lập tức thông báo cho Thống đốc Hồng Kông. Cuối cùng, Nguyễn Ái Quốc

169
một lần nữa được trả tự do bởi Thống đốc vào ngày 22-1-1933 kèm lệnh phải rời
khỏi Hồng Kông trong vòng 3 ngày.
Không lâu sau đó, hành trình di chuyển bí mật cho Tống Văn Sơ trốn đã
được tổ chức và vạch ra một cách kỹ lưỡng. Vợ chồng luật sư Loseby đã tìm kiếm
cho Nguyễn Ái Quốc một nơi ở. Cuối cùng ngày 22-1-1933, Người rời Hồng Kông
với bộ trang phục mà vợ Luật sư Loseby đã mua cho để cải trang, bí mật đi xuồng
ra khơi, rồi lên tàu đi Hạ Môn.
Tóm lại, để tiếp tục hành trình đưa Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, Nguyễn Ái Quốc đã nhận được những sự giúp đỡ vô cùng quý giá và to lớn từ
bạn bè trong nước và quốc tế. Đây chính là nền tảng vững chắc giúp Người vững
bước trên hành trình tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam sau này.
Chặng đường Nguyễn Ái Quốc được trả tự do và tiếp tục hành trình cứu
nước đóng vai trò như tia lửa châm ngòi cho các phong trào cách mạng vô sản trên
phạm vi trên toàn thế giới. Sau khi ra tù, Người tiếp tục sang Nga tìm con đường
đấu tranh giải phóng Việt Nam khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
Không chỉ vậy, hành trình kiên trung và dũng cảm của Người đã trở thành
nguồn cảm hứng cho nhiều nhà cách mạng trên thế giới và thúc đẩy họ tham gia
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Thêm vào đó, Người cũng đã truyền
động lực cho mọi người từ mọi tầng lớp xã hội đứng lên đòi quyền lợi và đấu tranh
cho công lý và bình đẳng.
Như vậy, hành trình đầy cảm hứng của Nguyễn Ái Quốc cho thấy ngay cả
khi đối mặt với những khó khăn, thử thách chông gai tưởng chừng như không thể
vượt qua, mỗi người vẫn có thể tạo ra sự khác biệt bằng cách đứng lên vì lẽ phải và
quyết tâm giải phóng đất nước khỏi ách thống trị ngoại bang.
Khoảng hơn 3 thế kỉ trước, đạo luật Hapeas Corpus đã được chính quyền
Anh xem xét và thông qua vào năm 1679 với điều lệ mọi người phải được đưa ra
phán quyết có tội hay không thì sau đó chính quyền nhà nước mới có quyền bắt và
giam giữ người đó. Đây là một trong số những văn kiện vô cùng quan trọng, đánh
dấu bước ngoặt về sự tiên tiến của luật pháp lúc bấy giờ cũng như hạn chế việc bắt
và giam giữ người trái phép.
Việc vây bắt Tống Văn Sơ ban đầu được diễn ra một cách bí mật nhưng sau
đó do bị báo chí nước ngoài phanh phui nên tòa án đã xét xử công khai. Đây cũng
là lần đầu Tòa án phải xét xử một bản án chính trị lần đầu tiên trong lịch sử thuộc
địa. Qua các buổi xét xử, luật sư bào chữa đã tập trung vào ba điểm chính: việc bắt

170
Tống Văn Sơ là bất hợp pháp, việc lấy cung cũng không hợp lệ do đặt câu hỏi vượt
quá phạm vi quy định, trục xuất bị cáo về Đông Dương nơi bị cáo lãnh án tử hình
cũng là trái luật.
Sau 9 ngày xét xử, Tòa án tối cao đã hủy bỏ mọi cáo buộc trước đó cho Tống
Văn Sơ nhưng vẫn bị trục xuất về nước. Tuy nhiên, do nộp được bản kháng cáo,
theo luật Hapeas Corpus thì bị cáo đã được thả tự do do cơ quan hành pháp có hành
vi lạm quyền, ban hành lệnh trục xuất dựa trên những chứng cớ giả.
Như vậy, nhờ sự tận tình giúp đỡ của luật sư và tính ưu việt của pháp luật lúc
bấy giờ, Tòa án dù muốn nhưng không thể kết tội được Tống Văn Sơ. Sau này, sau
khi rời khỏi Hồng Kông, vợ chồng luật sư Loseby còn tiếp tục giúp đỡ Người vượt
qua nhiều khó khăn “hậu vụ án” mà cảnh sát cũng như mật thám Anh cố ý gây trở
ngại cản trở Người.
Trong thời gian ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc phải đổi căn cước mang tên
Trung Quốc là Tống Văn Sơ để tránh sự chú ý ở những nơi mình đã từng đến.
Người phải ở căn cứ bí mật, không được sống ở nơi tự do, thoải mái vì phải trốn
tránh ảnh sự chú ý của mật thám Anh, âm thầm hỗ trợ cách mạng, nơi đây còn phải
có mật hiệu an toàn cho các đồng chí đến liên lạc cảnh báo. Người luôn cho rằng
hoạt động cách mạng bí mật phải hết sức cẩn thận để tránh bị bắt. Vậy nên, Người
thà sống chui lủi chứ không muốn cách mạng bị phát hiện và ngăn chặn.
Tuy nhiên, qua việc tổng hợp các tài liệu tịch thu được ở Sài Gòn và
Singapore, cùng với sự phối hợp của mật thám Pháp và mật thám Anh, chúng đã
lần ra được địa chỉ của Bác và Người khi đã bị bắt giam gần 2 năm ở nhà tù
Victoria, nơi mà cảnh tù đầy vô cùng gian khổ, phòng giam chật hẹp, bẩn thỉu,
không có đủ điều kiện về vật chất để đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của con
người như nghỉ ngơi, ăn uống,... Có lẽ vì biết Nguyễn Ái Quốc là người của cách
mạng nên kẻ thù càng đối xử với Bác cay nghiệt hơn.
Khó khăn về vật chất là vậy nhưng Nguyễn Ái Quốc không chùn bước,
Người nhất quyết khẳng định rằng mình là người Trung Quốc, không phải người
cách mạng, không liên quan đến quốc tế cộng sản ở Việt Nam. Có thể thấy, Người
thà chịu cảnh tù đày khốn khổ, thiếu thốn, khó khăn không chỉ về vật chất mà còn
về nhiều mặt khác chứ nhất quyết bảo vệ cách mạng.
Lúc bấy giờ, Việt Nam vẫn còn nghèo nàn, tổ chức cách mạng chưa được hỗ
trợ nhiều về mặt tài chính cả ở trong nước và quốc tế vì nhiều người, nhiều quốc
gia còn e dè, lo sợ các nước đế quốc nên Nguyễn Ái Quốc cũng phải rất vất vả làm

171
việc để có tiền mưu sinh ở nơi đất khách quê người. Dù không có tài liệu nào cho
biết chính xác tất cả những công việc Người đã từng làm là gì nhưng chắc hẳn đó
đều là những công việc vất vả ở những nơi ít người dám làm để tránh sự truy bắt
của mật thám Anh và để tiện cho việc liên lạc, hoạt động cho cách mạng.
Cũng chính vì khó khăn ấy, Nguyễn Ái Quốc rất lo lắng, trăn trở về việc
không có tiền để chi trả cho luật sư bào chữa. Nhưng Loseby nói: “Tôi biết ngài là
nhà lãnh đạo của phong trào cách mạng Việt Nam. Tôi sẽ bào chữa cho ngài vì
niềm vinh dự, chứ không phải vì tiền”. Và Loseby không hề nói xuông, tiền án phí
và những thủ tục cần thiết khi ra tòa đã được luật sư chi trả toàn bộ.
Nhờ đó, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua được khó khăn này, trước hết là nhờ
sự cố gắng của chính bản thân Người, xong không thể không kể đến sự giúp đỡ tận
tình, không màng lợi ích của luật sư Loseby. Điều này góp phần tạo nên tình bạn
đẹp, đáng lưu giữ vào sử sách giữa Nguyễn Ái Quốc và người bạn không cùng
quốc tịch nhưng cùng chí hướng của mình, đó là luật sư Loseby.
Tưởng chừng chỉ có những khó khăn do yếu tố bên ngoài nhưng cuối tháng
9/1931, Nguyễn Ái Quốc đã bị tái phát bệnh lao phổi. Phải nói rằng đây là một khó
khăn rất nguy hiểm bởi cho dù có bao trở ngại, thử thách nhưng bản thân có sức
khỏe là có thể vùng lên, có thể vượt qua, nhưng lúc bấy giờ, Bác lại trở bệnh mà
còn là một căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng nếu không được chữa trị kịp thời.
Nếu như ở Việt Nam, chắc hẳn Nguyễn Ái Quốc sẽ được các đồng bào, đồng
chí quan tâm chăm sóc, được các bác sĩ tận tình chữa trị thì giờ đây ở nơi đất khách
quê người và còn bị giam giữ nơi ngục tù, Người rơi vào thế khó hơn bao giờ hết.
Nhưng may mắn thay, trong thời gian ở tù, Người thường được ông bà Loseby và
con gái đến thăm và nhờ sự can thiệp, giúp đỡ tận tình của Luật sư Loseby, Người
đã được chuyển đến chữa trị tại bệnh viện của nhà tù.
Như vậy, lại một lần nữa, luật sư Loseby đã giúp Nguyễn Ái Quốc vượt qua
được khó khăn, thử thách. Có thể thấy, giữa nơi ngục tù tối tăm, lạnh lẽo, vẫn còn
tồn tại lòng người ấm áp, quan tâm, đùm bọc lẫn nhau, điều này đã để lại biết bao
bài học, hình ảnh ý nghĩa cho con người đến mãi về sau.
Nguyễn Ái Quốc đã phải đối mặt với sự cô đơn và nỗi tuyệt vọng bằng cách
đắm mình trong văn thơ thay vì bóng tối nơi ngục tù. Những lời văn, lời thơ như trút
đi những trăn trở, nói lên nỗi lòng, khát vọng của Người. Vậy nên, Người đã dành
thời gian để viết một cuốn sách đầy những trang viết đầy triết lý về những thách thức
lớn trong cuộc sống và những đau khổ của Người, tất cả đều bằng tiếng Anh.

172
Không chỉ vậy, 2 năm không phải là một khoảng thời gian ngắn mà ngày ngày
ở trong căn phòng chật hẹp, phải đối mặt với bốn bức tường giam, không được tiếp
xúc với các đồng chí Việt Nam, không được tham gia hoạt động cách mạng, Nguyễn
Ái Quốc không khỏi nhớ quê hương, đất nước, khao khát được tự do.
Khó khăn này tuy không hiện hữu, không phải ai cũng cảm nhận được nhưng
nó lại có khả năng ăn mòn ý chí con người. Nếu không phải Nguyễn Ái Quốc thì
liệu người khác có thể bình tĩnh mà ngồi viết những bài thơ, bài văn được hay
không, hay sẽ chết dần chết mòn trong sự cô đơn, tuyệt vọng và nỗi nhớ da diết
khôn nguôi những ngày tháng bên ngoài bức tường giam. Từ đó, ta có thể thấy
được Nguyễn Ái Quốc có một tinh thần thép, xuất phát từ ý chí, quyết tâm giải
phóng dân tộc.
Cuộc đời đấu tranh cách mạng của Hồ Chí Minh là “tấm gương sáng ngời về
lòng nhiệt thành cách mạng, ý chí cách mạng, thắng không kiêu, bại không nản,
kiên trì đấu tranh cách mạng gian khổ, lâu dài đến thắng lợi cuối cùng. Khát vọng,
nghị lực của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành trên hành trình tìm
đường cứu nước là điểm tựa cho hành trình học tập và rèn luyện của tuổi trẻ trong
thời đại công nghiệp, hiện đại hóa đất nước. Tuổi trẻ Việt Nam đã không khuất
phục được khó khăn, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc, họ đã cùng các thế hệ cha anh gánh chịu gian khổ, gian khổ. Trong xã hội ta có
những thanh niên có lòng dũng cảm, có ý chí, hoài bão và nghị lực phi thường,
không khuất phục trước khó khăn, nghèo đói, số phận, không từ bỏ cuộc sống, phấn
đấu vươn lên trước thử thách, khó khăn, thất bại. Học tập ý chí, nguyện vọng, nghị
lực của Bác Hồ và noi gương Người, tuổi trẻ Việt Nam sẽ vững tin vào cuộc sống
tương lai, vào những hành động, sự nghiệp có ích cho xã hội, có bản lĩnh, bản lĩnh
chính trị vững vàng, không nản chí, nhụt chí. Khi gặp khó khăn hay thất bại trong
công việc hay cuộc sống. Sức mạnh của tấm gương vĩ đại vượt thời gian và không
gian, soi sáng con đường cần cù của mỗi người dân Việt Nam và của nhân loại
Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kong không chỉ là cuộc đấu tranh riêng
Nguyễn Ái Quốc, đó là hành trình công lý của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới
với tiền tuyến là luật sư Loseby cùng Nguyễn Ái Quốc và các cộng sự.
Có thể thấy việc tìm bắt Nguyễn Ái Quốc - một thành viên tài năng, đang
hoạt động mạnh mẽ cho chủ nghĩa cộng sản, hòng dập tắt, làm nhụt ý chí của các
nước thuộc địa đang nhen nhóm phong trào giải phóng dân tộc. Sau nhiều năm đấu
tranh, cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã được trả tự do. Việc Nguyễn Ái Quốc được

173
thả như một gáo nước lạnh của chủ nghĩa cộng sản dành cho chủ nghĩa đế quốc thời
bấy giờ. Thất bại trong việc kết án Nguyễn Ái Quốc của Pháp và thắng lợi cho
Nguyễn Ái Quốc cùng các cộng sự trong hành trình tìm lại công lý như cú hích tinh
thần cho các dân tộc thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc thành công thoát bẫy của đế quốc
như một hoạt động tiếp thêm lửa, truyền thêm nhiệt, khơi dậy lòng đấu tranh mạnh
mẽ của các dân tộc bị áp bức.
Trong suốt quá trình đấu tranh, sát cánh bên Nguyễn Ái Quốc luôn có luật sư
Loseby và các thành viên cộng sản. Điều đó như một minh chứng khẳng định cho
tình đoàn kết, sức mạnh của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Bên cạnh đó
cũng thể hiện ý chí, sức mạnh, trung kiên của các cộng sản viên với chủ nghĩa cộng
sản thế giới. Dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách, cám dỗ của thế lực
thù địch, họ vẫn không lung lay, một lòng một dạ với chủ nghĩa cộng sản, cảm
nhận được sự đúng đắn với con đường mình đã chọn. Để rồi đích đến của con
đường đó là sự độc lập, tự do của dân tộc.
Ngoài tác động to lớn với chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc được thả tự do cũng đóng một vai trò vô cùng
quan trọng đối với công cuộc cách mạng trong nước. Dễ thấy nhất là việc thu hút
được sự quan tâm, ủng hộ của quốc tế cộng sản với cách mạng trong nước. Luật sư
Loseby cùng các thành viên cộng sản đang hoạt động khác đã tìm mọi cách để có
thể tìm lại công lý cho Nguyễn Ái Quốc - người sau đó trở thành lãnh tụ dẫn đường
mở lối cho dân tộc Việt Nam đến với độc lập tự do. Việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở
Hồng Kong như tiếp thêm lửa cho khí thế của các đang phong trào đấu tranh trong
nước, các thành viên cộng sản hoạt động mạnh mẽ, quyết liệt hơn.
Hành trình tìm lại công lý cho Nguyễn Ái Quốc cho thấy được tinh thần đoàn
kết, lăn xả của các đồng chí hoạt động cách mạng ở Việt Nam. Nghe tin Nguyễn Ái
Quốc bị bắt tại Hương Cảng, Hồ Tùng Mậu cùng các cộng sự đã tìm mọi cách để
gặp gỡ, vận động, thuyết phục luật sư Loseby giúp đỡ cho người đồng chí của mình.
Bác được thả tự do là một bước ngoặt quan trọng cho công cuộc cách mạng trong
nước khi mà sau đó Người đã có thể tiếp tục sang Liên Xô học tập, làm việc, hoạt
động để mang những tinh túy, kiến thức về để giải phóng dân tộc nước nhà. Việc bị
bắt mang tại Hương Cảng mang lại cho Nguyễn Ái Quốc rất nhiều kinh nghiệm,
giúp Người cẩn trọng hơn trong khi hoạt động bí mật. Suốt quá trình bị tạm giam, dù
đối mặt với nhiều cách thẩm vấn, dụ dỗ của đế quốc, Nguyễn Ái Quốc vẫn không hề

174
dao động, thể hiện ý chí đấu tranh, trung thành với cách mạng nước nhà. Con đường
đúng đắn nhất là con đường cách mạng, tình yêu bền vững nhất là tình yêu nước.
KẾT LUẬN
Tóm lại, trong suốt cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Bác; không thể
không kể đến vụ án Bác bị bắt tại Hồng Kong (Trung Quốc). Vụ án này không chỉ
cho thấy được sự tiến bộ của luật pháp bấy giờ, mà còn thấy được tình cảm của
những người bạn quốc tế đã giúp đỡ Người lúc khó khăn nhất. Tiến bộ là bởi, khi
Bác bị bắt ở nơi đất khách quê người, nhưng với sự trong sạch của mình mà luật
pháp Hồng Kông đã trả lại tự do cho Bác. Chính vì vậy, sau khi được trả tự do; Bác
lại cẩn thận hơn bao giờ hết trong công cuộc tìm đường cứu nước của mình. Đồng
thời, càng thôi thúc trong Người ý chí kiên cường, quyết tâm giành lấy độc lập, tự do
cho nhân dân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kong (1930-1931), NXB Chính trị quốc
gia Bảo tàng Hồ Chí Minh
[2]. Nguyễn Ái Quốc & Vụ án Hồng Kong năm 1931, NXB Trẻ, Nguyễn Văn
Khoan
[3]. Hoạt động Quốc tế của Nguyễn Ái Quốc (1911-1941), NXB Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh, T.S Trần Nam Tiến.
[4]. Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh hành trình tìm đường cứu nước; Đỗ
Hoàng Linh, Nguyễn Văn Dương, Nguyễn Thị Bình.

175
NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG
QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Nguyễn Hà Vy Anh, Hoàng Nhật Dương,
Nguyễn Tuấn Hiệp, Trần Thanh Sơn,
Nguyễn Đặng Đức Trung
K24CLC, Ngân Hàng B, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã gắn bó mãi mãi với tên gọi "Bác", là một
trong những nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Với lòng yêu nước cháy
bỏng và tâm huyết vô bờ, Bác đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam trên con đường cứu
nước và giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ cùng những cơn ác mộng của chiến tranh.
Cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở việc lãnh đạo
chính trị, mà còn bao gồm cả mặt kinh tế và văn hóa. Người đã xây dựng những
chiến lược kinh tế mang tính chiến lược như Đổi mới, tập trung vào việc phát triển
nền kinh tế quốc gia và cải thiện đời sống nhân dân. Bác cũng coi trọng sự phát
triển văn hóa và giáo dục, nhằm nâng cao nhận thức và trình độ dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản vô cùng to lớn. Từ những nguyên
tắc tư tưởng, đạo đức và phương pháp lãnh đạo của Bác, người dân Việt Nam đã hình
thành lòng yêu nước, đoàn kết và trí tuệ phát triển. Các nguyên tắc của Bác về công
bằng, tự do và độc lập đã trở thành cột mốc cho con đường phát triển của đất nước.
Với những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khắc sâu vào lòng người dân Việt Nam và trở thành biểu tượng vĩ đại của lòng yêu
nước và tinh thần đấu tranh không ngừng. Người là nguồn cảm hứng vĩnh viễn cho
chúng ta, kêu gọi chúng ta tiếp tục bước đi trên con đường mà Bác đã khởi xướng,
để xây dựng một Việt Nam phồn thịnh, công bằng và phát triển.
NỘI DUNG
1. Giới thiệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình
nhà nho, nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của
thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng
sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn,
thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những
nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi

176
tìm con đường để cứu dân, cứu nước. Cuộc đời của Bác được biết đến không chỉ
bằng những công lao to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vẻ đẹp trong phong
cách Hồ Chí Minh đến từ sự giản dị trong cuộc sống hằng ngày.
2. Sơ lược về hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tháng 6 năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt ba mươi năm hoạt động,
Người đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ.
Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc
thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên
cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười
Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong
trào công nhân Pháp. Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân
An Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng
của dân tộc Việt Nam. Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội
Pháp tại thành phố Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và
tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân
chính đến chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, sử
dụng “Người cùng khổ”, “Đời sống thợ thuyền” ,... làm cơ quan ngôn luận, viết
“Bản án chế độ thực dân Pháp” .
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản
Việt Nam. Từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng
sản ở nước ngoài, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có
những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh
Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ
trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

177
3. Những cống hiến và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
3.1. Những cống hiến
Thứ nhất, Người ra đi tìm đường cứu nước và thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mỗi người chúng ta không thể nào quên giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con
đường cứu nước theo lối cũ đã không thành công thì ngày 05/6/1911 người thanh
niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm
đường cứu nước theo phương hướng mới với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự
do cho nhân dân, cho đất nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm,
gian khổ, đi qua nhiều nước châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân
và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa. Người đã bắt
gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra con đường cứu nước.
Sau những năm tháng bôn ba, Nguyễn Ái Quốc đã xác định con đường cứu
nước muốn thành công phải kết hợp phong trào giải phóng dân tộc và phong trào
công nhân quốc tế. Ngày 03/02/1930, thay mặt Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc
đã chủ trì hội nghị tại Hồng Kông để hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng
Cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt
của Đảng cũng được thông qua tại hội nghị này. Ngày 03/02/1930 mãi mãi là mốc
son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì thành lập. Từ mốc son ấy, cả dân tộc đoàn kết,
bền lòng phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng lập nên những kỳ tích vang dội trong
90 năm qua đã chứng minh: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là đường lối
đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã
giành thắng lợi vang dội trong cuộc Cách mạng tháng Tám, thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đưa
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng
minh Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng với niềm tin của dân tộc và sự giao phó
của lịch sử. Từ ngày 03/02/1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cách mạng nước ta đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên
những kỳ tích vang dội trong thế kỷ XX và gần hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Đó là
thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan ách thống trị của thực

178
dân Pháp và phát xít Nhật, lật đổ chế độ quân chủ hàng nghìn năm, lập nên Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Từ đây dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa
xã hội, mở ra thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. Hai là, chiến thắng
Điện Biên Phủ 1954: Sau cách mạng tháng 8/1945, thực dân Pháp quay lại xâm
lược nước ta, nền độc lập của dân tộc chưa thực sự được bảo vệ vững chắc. Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”,
xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam, với phương châm
“toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính” Đảng đã lãnh đạo đưa
cuộc kháng chiến từng bước thắng lợi, từ chiến dịch Thu Đông 1947, chiến dịch
Biên giới 1950, đến chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và đỉnh cao là chiến thắng
Điện Biên Phủ 1954. Thắng lợi Điện biên Phủ (1954) giải phóng hoàn toàn miền
Bắc, đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi Điện Biên Phủ đã báo
hiệu sự sụp đổ chế độ thực dân kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn
thế giới.
Thứ ba, ngày 02/9/1969, Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta và để lại cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc mang tầm tư tưởng và trí tuệ của thời đại.
Thực hiện bản Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, 50 năm qua cách mạng Việt Nam đã không ngừng tiến lên giành được
nhiều thắng lợi vẻ vang.
3.2. Những sáng tạo
Năm 2021, tròn 110 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm con đường cứu nước
(5/6/1911- 5/6/2021). Qua một thế kỷ vinh quang và chiến thắng của dân tộc Việt
Nam, mới thấy hết ý nghĩa lịch sử và thời đại của ngày Bác ra đi tìm con đường
giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh - Người cộng sản sáng tạo, được thể hiện ở hệ
thống tư tưởng có tính vượt gộp các tri thức của nhân loại, ở năng lực ứng dụng tư
tưởng đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà trong đó là lòng yêu nước, ý chí
giải phóng dân tộc là động cơ thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước.
Sự sáng tạo của Người thể hiện trong hành trình tìm đường cứu nước đầu thế kỷ
XX như sau:
- Trước hết là tự ra đi tìm đường cứu nước, không dựa dẫm vào nước nào;
không nhờ vả, kêu gọi người khác giúp mình. Những năm cuối thế kỷ XIX và đầu
thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt
Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hóa. Sự xâm nhập của chủ nghĩa tư

179
bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp mới, giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản. Cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu
ở Trung Quốc cũng có ảnh hưởng đến Việt Nam. Trong khi các phong trào yêu
nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra đa dạng, sôi nổi phong trào có khuynh
hướng dân chủ tư sản như: Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam
Quang Phục Hội; phong trào chống sưu thuế của nông dân ở Trung kỳ, phong trào
đánh Pháp như vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, cuộc khởi nghĩa của nghĩa
quân Yên Thế…
Các phong trào yêu nước chống Pháp trên đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa
là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai
cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở
thành giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời,
còn non yếu với lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương,
không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành
độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái
chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải phóng đúng
đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam đứng
trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.
Thực tế thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: Sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân
chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về
đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận cách mạng tiên tiến của giai cấp công nhân
có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam thành công. Câu
hỏi của "bài toán thế kỷ" đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh đạo thành công
nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam? đến lúc này vẫn chưa có lời giải.
Nguyễn Tất Thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu, văn
thân, chí sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của
các bậc tiền bối. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành tuy lúc đó chưa gặp
chủ nghĩa xã hội, nhưng đã thể hiện tầm vóc vượt trước quan điểm cứu nước đương
thời là tự ra đi tìm đường cứu nước, không dựa dẫm vào nước nào; không nhờ vả,
kêu gọi người khác giúp mình. Người cho rằng, chủ trương của cụ Phan Chu Trinh
yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì “đến xin giặc rủ lòng
thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng
khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa

180
Thám tuy thực tế hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt
cách phong kiến”(1).
Thất bại của các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…
nói lên một sự thật lịch sử là: không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay
lập trường của giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều
không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc
đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đang
đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.
Thứ hai, cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với
nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Cách mạng giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc
là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc
sẽ không có gì hết. Độc lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân
chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là
hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải xây dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của
độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một
trình độ cao hơn của toàn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng
tạo luận điểm của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân
chủ và cách mạng XHCN, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành
nào ngăn cách cả.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt
lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô sản, nhân dân Việt
Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945). Trong Tuyên ngôn độc lập
đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên
bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập”(4). Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với
toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và
quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ
dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con người.

181
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách
mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”(5). Đảng đó phải được xây
dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa
Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của
cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương
lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân
tộc thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem
lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được thông qua
tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định: “Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp”(6). Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại
Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai
đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân
tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Thứ tư, Bác cũng xác định cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành
bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với
đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành
thắng lợi hoàn toàn Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con
đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh
vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi
hoàn toàn.Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí
Minh xác định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được
tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần
chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản
thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”,“lũ giặc cướp
nước, chết thì chết, nết không chừa. Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác”.
Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy, để thực
hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo vệ độc

182
lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Quan điểm bạo
lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần yêu chuộng hòa
bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống
nhân nghĩa của cha ông ta.
Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình:
“Dụng việc binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nước”. Theo Người, hòa
bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự
do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không được đáp ứng, phương thức tiến
hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ thuật khéo léo
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.
Thứ năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát triển các truyền thống
văn hóa dân tộc để xây dựng tư tưởng của mình.
Thời kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung quân ái quốc, lợi ích giai
cấp thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động trong sự nghiệp chống xâm
lược, bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh đã làm phong phú nội dung của chủ nghĩa yêu
nước. Yêu nước đối với Người là gắn liền với yêu nhân dân. Người nói, lòng
thương yêu nhân dân và nhân loại của Người không bao giờ thay đổi…Người có
một ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc
và được học hành.
Người đã nêu ra chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân” và phát triển
những nội dung mới của chủ nghĩa yêu nước. Đó là yêu nước dựa trên quan điểm
giai cấp công nhân, yêu nước mở rộng ra thành tình yêu vô cùng rộng lớn đối với
nhân dân lao động, những người cùng khổ, đối với giai cấp công nhân các nước
trên thế giới. Trên cơ sở tư tưởng của giai cấp công nhân, Người đã nêu ra nội dung
mới: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ
nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày một ấm no thêm, Tổ quốc ngày một giàu
mạnh thêm.
Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống
đoàn kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Tình nghĩa ấy được
Người nâng lên cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa
năm châu bốn biển một nhà. Ngay cả khi tiếp thu lý luận Mác-Lênin-đỉnh cao của
trí tuệ nhân loại-cũng phải trên nền tảng của giá trị truyền thống. Người nhấn

183
mạnh: Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu
thuộc bao nhiêu kinh sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ
nghĩa Mác-Lênin được…Tư tưởng đại nhân, đại nghĩa ở Hồ Chí Minh là phấn đấu
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của con người, là cứu nước,
độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện cho con người phát triển.
4. Liên hệ với sinh viên
- Sinh viên cần nhận thức về vai trò và trách nhiệm của mình trong quá trình
học tập và rèn luyện. Họ nên thấu hiểu rằng họ là người chịu trách nhiệm cho việc
tiếp thu kiến thức, phân tích thông tin và tư duy logic. Sinh viên nên hiểu rằng việc
học không chỉ đơn thuần là việc nhận thông tin từ giảng viên hay sách vở, mà còn
là quá trình tìm hiểu, thảo luận và áp dụng kiến thức vào thực tế.
- Sinh viên nên khám phá nhiều nguồn thông tin khác nhau và không chỉ dựa
vào những gì được cung cấp trong giảng đường. Tìm hiểu bằng cách đọc sách,
tham khảo tài liệu trực tuyến, tham gia vào các nhóm thảo luận, hoặc tìm kiếm
hướng dẫn từ người có kinh nghiệm. Sinh viên cần học cách tổ chức, xử lý và đánh
giá thông tin để đưa ra quyết định và ý kiến cá nhân dựa trên cơ sở lý luận và
chứng minh.
- Sinh viên cần khuyến khích tư duy sáng tạo bằng cách tạo ra môi trường
học tập thích hợp và đa dạng. Họ có thể tìm cách áp dụng kiến thức vào những bài
toán thực tế, tham gia vào dự án nghiên cứu, thảo luận và trao đổi ý kiến với các
bạn cùng lứa. Sinh viên cũng nên tìm kiếm nguồn cảm hứng từ nhiều nguồn thông
tin khác nhau, bao gồm sách, bài viết, tạp chí, hoặc thậm chí các diễn đàn trực
tuyến để mở rộng kiến thức và ý tưởng.
KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã có nhiều cống hiến và sáng tạo trong quá
trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Lãnh đạo chiến tranh toàn
dân: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cuộc chiến tranh toàn dân để giành độc lập,
tự do và thống nhất cho dân tộc Việt Nam. Ông đã đưa ra các chiến lược chiến
tranh thông minh và hiệu quả, đồng thời khuyến khích dân chúng tham gia đấu
tranh. Lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết nối với các nước bạn và các tổ chức quốc tế để
giúp đỡ đấu tranh của Việt Nam. Đưa ra tư tưởng mới: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra tư tưởng mới về cách đấu tranh của dân tộc Việt Nam, bao gồm tổ chức độc

184
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng của ông đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc
đấu tranh của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân vật có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với
lịch sử Việt Nam. Ông đã góp phần quan trọng trong việc giải phóng dân tộc Việt
Nam khỏi ách đô hộ và thực dân, đồng thời còn giúp đất nước đạt được độc lập,
thống nhất và phát triển. Với tầm quan trọng lớn như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trở thành một biểu tượng lịch sử và văn hoá của Việt Nam. Tên ông được đặt cho
rất nhiều tòa nhà, đường phố, cơ quan, tổ chức tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác
trên thế giới. Ngoài ra, triết lý và tư tưởng của ông về độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã
hội và tình yêu cho dân tộc đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá, tâm hồn và tương lai
của người Việt Nam. Tóm lại, chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử vô
cùng quan trọng đối với Việt Nam và thế giới. Tầm quan trọng của ông không chỉ
nằm ở những cống hiến lớn mà ông đã đưa ra trong quá khứ, mà còn là sự tác động
sâu sắc đến văn hoá và tương lai của người Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1996,T1,tr.314
[2].Dẫn theo báo Nhân Dân, ngày 18 tháng 5 năm 1965
[3]. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb.CTQG-Nxb.TN,H.1994, Tập 1; tr.12; 31; 41-42; 273-289.
[4] . Hồ Chí Minh, Toàn tập,Nxb. CTQG, H.1995,t.1,tr. 192; 477; Tập 10: tr
127; t 12, tr.471.
[5]. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tr. 40-50
[6]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 8. Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.1 tr. 13.
Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd ,t.1, tr.266
[7]. Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, xuất bản lần thứ 2, Nxb.CTQG, H, 2006
,t.2, tr.63.

185
TỪ BẾN CẢNG NHÀ RỒNG ĐẾN BA ĐÌNH LỊCH SỬ
Võ Lam My, Nguyễn Thuỳ Giang,
Hoàng Minh Ngọc, Phạm Thị Khánh Huyền,
Nguyễn Giang Phương Vy, Phạm Ngọc Khuê,
K24CLC, Ngân hàng A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Cách đây hơn một thế kỷ, 5/6/1911, khi công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc đang bế tắc về đường lối “như trong đêm trường tăm tối không có đường ra".
Ngay tại thời điểm đó, người thanh niên mang tên Nguyễn Tất Thành, với sự dũng
cảm đã khiến tất cả phải thán phục, với lòng yêu nước vô biên, với tình thương dân
sâu sắc, đã không ngần ngại bao gian truân vất vả quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước tại bến cảng Sài Gòn “Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi”. Để rồi,
chính thực tiễn đã khẳng định, đó là sự mở đầu cho một hành trình viết lại lịch sử
vẻ vang của cả một dân tộc đã từng bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới sự soi đường
chỉ lối của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo chân Bác trong cuộc hành trình lịch sử 30 năm bôn ba khắp các châu
lục để tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi lớn nhất đối với dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ
là tìm ra con đường cứu nước và kiên quyết bảo vệ con đường giải phóng dân tộc
Việt Nam, sau đó là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh. Nhận thấy rõ
những giá trị lịch sử mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua và đúc kết được, nhóm
chúng em mang đến Hội thảo bài nghiên cứu khoa học nhằm nêu rõ những hy sinh,
cống hiến và sáng tạo của Người trong quá trình tìm đường cứu nước, mang “mùa
xuân” về tới mảnh đất hình chữ S này, từ đó luôn ghi lòng tạc dạ công lao trời biển
của vị cha già dân tộc. Bên cạnh đó, cũng thể hiện sự quyết tâm, trách nhiệm của
thế hệ trẻ hiện nay, trong đó có sinh viên Học viện Ngân Hàng, “vững bước theo
con đường Bác Hồ đã chọn".
NỘI DUNG
1. Từ Thành phố này Người đã ra đi
“… Tôi đến Bến Nhà Rồng một chiều xuân nắng tỏa. Qua hàng dừa tóc xõa
nhìn sóng nước xôn xao. Tiếng còi tầm ôi da diết làm sao. Tưởng con tàu rời xa
bến năm nào…”.
Mỗi khi tháng 6 về, những câu hát trong ca khúc Bến Nhà Rồng của nhạc sĩ
Trần Hoàn lại vang lên nhắc nhớ đến một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, gắn
liền với địa danh Bến cảng Nhà Rồng - nơi cách đây 111 năm, ngày 5/6/1911,

186
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lên con tàu Amiral Latouche
Tréville, bắt đầu chuyến hành trình tìm đường cứu nước kéo dài suốt 30 năm, để rồi
sau đó đã mang về ánh sáng tự do cho dân tộc.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau khi hoàn thành
bình định về quân sự, chúng thi hành chính sách “khai thác thuộc địa” hết sức tàn
bạo đối với nước ta, gây ra sự biến động to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội Việt
Nam, làm thay đổi kết cấu giai cấp, đảo lộn cuộc sống mọi tầng lớp nhân dân. Việt
Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
Đứng trước những mâu thuẫn dân tộc và giai cấp ngày càng gay gắt, nhiều
phong trào đấu tranh chống Pháp và phong kiến tay sai nổ ra khắp nơi với nhiều xu
hướng cứu nước khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống Pháp dưới ngọn cờ
Cần vương; nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra, điển hình là cuộc khởi nghĩa
nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30 năm;
phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục... do các sỹ phu yêu nước chịu ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo.
Mặc dù diễn ra rộng khắp cả nước, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Thực tế thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân
chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về
đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận cách mạng tiên tiến của giai cấp công nhân
có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam thành công. Câu
hỏi của "bài toán thế kỷ" đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh đạo thành công
nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam?" đến lúc này vẫn chưa có lời giải.
2. Những dấu chân quả cảm
Giữa hoàn cảnh tối tăm, đau thương của dân tộc, ngày 5/6/1911, trên con tàu
“Đô đốc Latouche Tréville”, từ bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành đã lên
đường sang Pháp, bắt đầu cuộc hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc. Vào
thời điểm đó, không ai biết rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với
quyết định ra đi của một con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt, phi thường.
Từ cảng Nhà Rồng, Người đã đi qua nhiều nước trên thế giới như Singapore,
Colombo, Pháp, rồi đi vòng quanh châu Phi, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Algérie,
Tunisie,… vượt Đại Tây Dương tới Hoa Kỳ, vòng xuống Nam Mỹ, tới Arhentina,
…Sau đó, trở lại Anh, Pháp, Đức, Liên Xô, về Trung Quốc, sang Thái Lan…, tất
cả hơn 30 nước.

187
Trong hành trình cứu nước, Người đã phải lao động vất vả bằng nhiều công
việc khác nhau để kiếm sống: Phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Tréville, Làm
vườn ở Saint–Adresse, ngoại ô của Havre (năm 1912), Làm thủy thủ, bồi trên tàu
biển đi vòng quanh châu Phi (năm 1912), làm bồi bàn ở nước Mỹ (từ năm 1912 đến
năm 1913), Thợ đốt lò, cào tuyết ở nước Anh (năm 1913), Làm phụ bếp ở khách
sạn Drayton Court, Tây London. Thợ làm bánh ở khách sạn Carlton, London
(cuối năm 1913)…
Khi bắt đầu với công việc “phụ bếp trên tàu, hằng ngày Văn Ba phải làm
việc từ 4h sáng, quét dọn nhà bếp lớn, sau đó đi đốt lò khuân than, xuống hầm lấy
rau, thịt cá, nước đá. Trong bếp thì rất nóng, dưới hầm thì rất lạnh.
Trong cuốn sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” cho
biết trong thời gian từ tháng 7/1921 đến tháng 3/1923, Nguyễn Ái Quốc ở trọ tại nhà
số 9 ngõ Compoint, Quận 17, Thủ đô Paris. Cuộc sống của người thanh niên Việt
Nam trên đất Pháp được mô tả: “Người trọ ở một phòng nhỏ trong một khách sạn rẻ
tiền ở xóm lao động. Phòng chỉ vừa kê một cái giường sắt chật, một cái bàn nhỏ và
một cái ghế. Chỉ thế thôi, không có gì khác. Về mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước
khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn. Chiều về, Người lấy viên
gạch ra, bọc nó vào những tờ báo cũ rồi để xuống nệm cho đỡ rét”. Xúc động trước
những câu chuyện đó, nhà thơ Chế Lan Viên với hai câu thơ nổi tiếng
"Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê.
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả mùa băng giá"
3. Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn
Trên con đường tìm chân lý của mình, Nguyễn Tất Thành đã đi đến “những
đất tự do, những trời nô lệ” Người đã nghiên cứu những cuộc cách mạng đã giành
thắng lợi tại những nước tư bản phát triển nhất. Đó là cách mạng Mỹ (năm 1776),
cách mạng tư sản Pháp (năm 1789) và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Người rất khâm phục tinh thần cách mạng ở
những nước này, nhưng không thể đi theo con đường cách mạng của họ được. Vì
như Người đã nói: “Cách mệnh Mỹ cũng như cách mệnh Pháp nghĩa là cách mệnh
tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực thì nó tước
đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”.
Từ trải nghiệm thực tiễn giúp Người hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân,
đế quốc và rút ra những nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác

188
vô nhân đạo, ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã
man. Vì thế, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động ở đâu cũng là bạn. Người viết: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ
có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có
một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”. Từ kết luận này đã đặt cơ
sở cho phát triển quan điểm đúng đắn của Người về bạn, thù và sớm hình thành tư
tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, về sự đoàn kết
cách mạng ở chính quốc với cách mạng thuộc địa.
Gửi đến Hội nghị Versailles bản Yêu sách tám điểm: Cuối năm 1917,
Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp vào lúc cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga vừa bùng nổ thắng lợi, mở ra một hướng phát triển mới trong lịch
sử loài người. Nhân Hội nghị Hòa bình Versailles, cùng với Phan Châu Trinh và
Phan Văn Trường, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, dưới tên ký Nguyễn
Ái Quốc, Người thử nghiệm sử dụng pháp lý tư sản và hình thức đấu tranh bằng
phương pháp hòa bình, đưa ra bản Yêu sách tám điểm, đòi quyền bình đẳng về pháp
lý và các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách
không được các đế quốc thắng trận để mắt tới, Người rút ra kết luận: Chương trình
14 điểm của Tổng thống Mỹ W. Wilson chỉ là một trò bịp lớn, “muốn giải phóng,
các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình”.
Gia nhập Đảng Xã hội Pháp: Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã
hội Pháp, một chính đảng duy nhất ở Pháp tỏ ý quan tâm đến số phận các dân tộc
thuộc địa. Tuy nhiên, Người đã thất vọng, vì họ nói rất hay, “thông qua những nghị
quyết rất kêu, để sau đại hội đưa vào viện bảo tàng”.
Tiếp xúc với Luận cương của Lênin, tìm ra con đường cứu nước: Năm 1920
khi tiếp xúc với “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường chân chính cho
sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Sau này Người đã viết: “Luận cương của
Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao. Tôi vui
mừng đến phát khóc lên, ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to như đang nói
trước quần chúng đông đảo, hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ đây là cái cần thiết
cho chúng ta”.
Như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin”

189
Và, “Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”
Quyết định ra nhập đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế thứ ba: 12/1920 Người
đã ra nhập đảng cộng sản Pháp và Quốc tế thứ ba do Lênin sáng lập. Sự kiện này
đánh dấu bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục lao động kiếm
sống và hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc các thuộc địa, phong trào
công nhân, học tập, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, nghiên cứu kinh
nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới. Đặc biệt là Cách mạng tháng Mười Nga,
Người đã nhận thấy “chỉ có cách mạng Nga là thành công đến nơi “ vì đem lại
quyền lợi cho đông đảo quần chúng công nông.
Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam: Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc về Quảng
Châu (Trung Quốc) liên hệ với các tổ chức yêu nước Việt Nam và thành lập Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên, sáng lập báo Thanh niên nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác
– Lênin, lý luận cách mạng và huấn luyện, đào tạo cán bộ, tuyển chọn những người
ưu tú để đưa sang Liên Xô đào tạo. Người tích cực tuyên truyền, truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin vào Việt nam, chuẩn bị các điều kiện, nhất là mở các lớp huấn luyện
cán bộ từ trong nước sang để tiến tới thành lập Đảng. Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc
tập hợp các bài giảng trong các lớp huấn luyện cán bộ xuất bản cuốn sách “Đường
Cách mệnh” làm tài liệu đào tạo cán bộ để tiến tới thành lập Đảng.
Trong cuốn sách quan trọng này, Người đã chỉ rõ: Cách mạng trước tiên cần
có Đảng Cách mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công. Cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy. Do đó, cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng
lợi trước tiên phải xây dựng được một Đảng cách mạng vững mạnh. Đảng phải lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt, trong Đảng ai cũng phải học, ai cũng phải theo.
Nguyễn Ái Quốc còn phát hiện ra rằng, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc là
động lực lớn của phong trào giải phóng dân tộc và Đảng Cộng sản là đội tiền phong
cách mạng của giai cấp và dân tộc.
Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại diện của Quốc tế cộng
sản đã tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt và Sách lược văn tắt của Đảng do
Nguyễn Ái Quốc đề ra đã được các đại biểu nhất trí thông qua, trở thành ngọn cờ
tập hợp toàn dân, đoàn kết đứng lên đấu tranh giành độc lập tự do.

190
Với việc thống nhất các tổ chức cộng sản và đề đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam, Người đã đưa
cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới, chấm dứt sự
khủng hoảng đường lối và vai trò lãnh đạo của giai cấp tư sản, đưa giai cấp công
nhân lên vũ đài chính trị, thực hiện sứ mạng thiêng liêng là giải phóng dân tộc và đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
4. Người về mang tới mùa Xuân
“Bác đã về đây Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người.
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!”
(Tố Hữu)
Ngày 28-1-1941, Người đã vượt qua biên giới Việt - Trung, đặt chân lên
mảnh đất của Tổ quốc thân yêu sau mấy chục năm xa cách. Đây là một sự kiện lịch
sử quan trọng, làm thay đổi vận mệnh lịch sử dân tộc, mở ra thời kỳ phát triển mới
của cách mạng Việt Nam, từng bước đưa dân tộc Việt Nam đi tới những mùa Xuân
thắng lợi, mùa Xuân của độc lập, tự do và hạnh phúc.
Ba mươi năm trước, khi Người bước chân ra đi, con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc vẫn còn mù mịt, chưa thấy đường ra. Ba mươi năm sau, Người trở về
đã mang lại niềm tin, niềm hy vọng và tinh thần chiến đấu cho nhân dân Việt Nam.
Kết thúc chuyến hành trình 30 năm bôn ba khắp thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã tìm
ra con đường đúng dẫn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Người nóng
lòng trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo cách mạng, “đi vào quần chúng, thức tỉnh
họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc
lập". Sau nhiều năm dày công chuẩn bị về chính trị và tổ chức cho việc thành lập
Đảng, đào tạo và huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam để chủ động dồn thời
cơ giải phóng dân tộc đang đến gần.
Trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với khát vọng
cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về nước với những hoạt
động khẩn trương, tích cực và đầy sáng tạo cùng với Trung ương Đảng đưa ra
những quyết sách nhằm thúc đẩy bánh xe của cách mạng Việt Nam phù hợp với xu
thế tiến bộ của lịch sử. Sau 4 tháng trở về Tổ quốc, Người chủ trì Hội nghị BCH
Trung ương Đảng VIII (5-1941) chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, xử
lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Hội nghị xác định

191
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết, hàng đầu của cách mạng Việt
Nam lúc này. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa to
lớn trong tiến trình hoạch định đường lối và quá trình thực hiện cuộc vận động khởi
nghĩa vũ trang. Nghị quyết của Hội nghị đã thể hiện sự thay đổi căn bản nhận thức
về nhiệm vụ hiện thời của cách mạng Đông Dương. Đây chính là nền tảng để Đảng
đặt ra những quyết sách lớn nhằm đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong
Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng cách mạng ở cả nông thôn và
thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, tích cực chuẩn bị
lực lượng đón thời cơ khởi nghĩa. Nghị quyết đúng đắn của Hội nghị đã được toàn
Đảng và toàn dân thực hiện, dấy lên cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật, đạt thắng lợi
vang dội.
Cao trào cách mạng của cả nước đã dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh
đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay
nhân dân, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á, kết thúc hơn 80 năm chịu đựng ách đô hộ của thực
dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước
độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công đã tiếp tục mở đường đi tới những thắng lợi huy hoàng cho
cách mạng Việt Nam, với mùa Xuân 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng đất
nước, thống nhất Tổ quốc và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ngày 2-9-1945, tại
Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập của nước Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc -
kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
5. Sinh viên Học viện Ngân hàng tiếp bước theo con đường người đã
chọn
Dù thời gian đã lùi xa hơn một thế kỷ, nhưng sự kiện Người ra đi tìm đường
cứu nước 112 năm trước vẫn mãi là tấm gương sáng ngời tinh thần yêu nước, ý chí
cách mạng, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho đất nước, cho nhân dân. Đó còn
là bài học về nghĩa vụ, trách nhiệm với quê hương đất nước, tinh thần học tập sáng
tạo, độc lập tự chủ, tận trung với nước, tận hiếu với dân đối với các thế hệ thanh
niên Việt Nam nói chung và sinh viên Học viện Ngân hàng nói riêng. Những bài
học đó là:

192
Bài học về lòng yêu nước thương dân: Lòng yêu nước, thương dân quyết tâm
giải phóng dân tộc của Người là bài học soi đường cho sinh viên Học viện Ngân
hàng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và góp phần xây dựng đất nước.
Noi theo tấm gương yêu nước của Bác, sinh viên Học viện Ngân hàng luôn sẵn
sàng học tập phấn đấu vì tương lai nước nhà, cống hiến hết mình cho tổ quốc để
xứng đáng với công lao dựng nước giữ nước của cha ông và biết sẻ chia quan tâm
đến đồng bào - máu thịt của đất nước. Hơn thế nữa, sinh viên Học viện Ngân hàng
sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần, chiến đấu, cống hiến
và hy sinh cho Tổ quốc, tô thắm truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam anh
hùng. Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, những bài học đó càng trở nên
thiết thực. Yêu nước, thương dân của sinh viên Học viện Ngân hàng được biểu hiện
bằng những hành động cụ thể: đó là sự kiên định lý tưởng của Đảng, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là sự nỗ lực, tiên phong trong
chính những công việc rất cụ thể, hằng ngày, trong học tập, lao động, công tác,
chiến đấu…góp phần hiện thực hóa tầm nhìn 2030, khát vọng 2045 mà Đại hội
XIII của Đảng đã vạch ra.
Bài học về rèn luyện nghị lực kiên cường vượt qua khó khăn thử thách: Tinh
thần tự học tập không ngừng: Năm 1911, từ bến cảng Sài Gòn, Người ra đi tìm
đường cứu nước với hành trang là lòng yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc.
Nhờ nghị lực kiên cường đã giúp Người vượt qua mọi khó khăn thử thách trên hành
trình tìm đường cứu nước. Đây là bài học mà sinh viên Học viện Ngân hàng cần
học hỏi và noi theo. Học Bác, sinh viên Học viện Ngân hàng phải không ngừng rèn
luyện nghị lực, tránh tư tưởng ngại khó, ngại khổ, thích hưởng thụ, tích cực học tập
biến những thách thức thành cơ hội. Hành trình tìm đường cứu nước của Người
chính là những chỉ dẫn quý báu về tinh thần tự học. Đối với Người, tự học có vai
trò đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định tạo nên tri thức, làm
nên sự thành công của mỗi cá nhân. sinh viên Học viện Ngân hàng coi tự học là
nhu cầu, thói quen hằng ngày, là một tiêu chuẩn, một giá trị tự thân cần đạt được.
Thông qua đó, thể hiện sức trẻ, năng lực tự thích ứng với những biến đổi của thực
tiễn nếu không muốn mình tụt lại phía sau. sinh viên Học viện Ngân hàng phát huy
tối đa khả năng tự học để mở rộng kiến thức, tự đặt ra những mục tiêu cho bản thân
và dám làm dám chịu vượt qua mọi khó khăn thử thách.
Bài học về lòng nhân ái: Tấm lòng nhân ái, yêu thương con người ở Hồ Chí
Minh là bài học thiết thực với thế hệ trẻ chúng ta. Học và làm theo Bác, sinh viên

193
Học viện Ngân hàng luôn phát huy tốt truyền thống tương thân tương ái “lá lành
đùm lá rách” với nhiều việc làm, nghĩa cử cao đẹp. Đó là câu chuyện xúc động về
những sinh viên Học viện Ngân hàng tình nguyện đi khắp nẻo đường thực hiện
những chuyến thiện nguyện giúp đỡ đồng bào có hoàn cảnh khó khăn; sẵn sàng tình
nguyện vào nơi tâm dịch chung tay cùng cả nước trong cuộc chiến chống dịch
Covid- 19,…Trong cuộc sống hiện nay cùng với sự phát triển của xã hội, chắc chắn
đâu đó còn có những toan tính, vị kỷ nhưng lòng nhân ái vẫn còn tiếp nối như một
truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc; là bài học quý báu cho sinh viên Học
viện Ngân hàng vững thêm niềm tin vào cuộc sống, hun đúc ý chí trở thành người
hữu dụng. sinh viên Học viện Ngân hàng biết quan tâm giúp đỡ người khác khi họ
gặp khó khăn, cảm thông chia sẻ với những những người kém may mắn hơn và biết
đoàn kết yêu thương những người xung quanh.
Bài học về tư duy độc lập, sáng tạo, kiên định với mục tiêu đề ra: Trên hành
trình tìm đường cứu nước, với tư duy độc lập, sáng tạo đã giúp Người tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, lãnh đạo đất nước giành nhiều
thắng lợi. Tư duy độc lập sáng tạo của Người là bài học thiết thực cho sinh viên
Học viện Ngân hàng áp dụng vào các hoạt động thực tiễn cũng như công việc
chuyên môn của mình. Theo đó, sinh viên Học viện Ngân hàng phải luôn có tinh
thần sáng tạo, chủ động đề xuất các sáng kiến, ý tưởng mang hiệu quả cao và kiên
định với mục tiêu, kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, sáng tạo phải xuất phát từ những điều
kiện thực tế cụ thể của đất nước, của cơ quan, đơn vị mình công tác. Sinh viên Học
viện Ngân hàng đặt ra mục tiêu cho bản thân, luôn kiên định với mục tiêu mà bản
thân đã đề ra, độc lập tự chủ không dựa dẫm vào người khác trong các công việc
của bản thân và luôn có tinh thần sáng tạo trong học tập làm việc.
Dưới mái trường Học viện Ngân hàng hiện nay, cụ thể hơn với hệ đào tạo
Chất lượng cao, đã và đang có rất nhiều sinh viên với nỗ lực học tập không ngừng
và họ đã đạt được những thành tựu vô cùng đáng ngưỡng mộ. Hồ Chí Minh cho
rằng: việc tu dưỡng đạo đức mỗi cá nhân mỗi con người có vai trò vô cùng quan
trọng. Riêng với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn rất nhiều, vì họ là
những chủ nhân chủ tương lai của nước nhà, là cầu nối giữa các thế hệ, người tiếp
sức Cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dẫn dắt cho
thế hệ thanh niên tương lai. Người cũng khẳng định: “Thanh niên phải có đức, có
tài. Có tài mà không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại
đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ít lợi cho xã hội mà còn có hại

194
cho xã hội nữa. Lúc có đức mà không có tài thì những bột không làm hại gì, nhưng
cũng không lợi lộc gì cho con người.”
Trong thời gian qua, với sự quan tâm của Học viện, của Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, của Hội sinh viên Học viện Ngân hàng, có nhiều sinh viên
đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần đào tạo ra một thế hệ thanh niên
đủ sức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nói theo tấm gương chủ tịch Hồ Chí
Minh. Thế hệ trẻ ngày nay ngày càng năng động, hội nhập quốc tế, thông minh, tự
tin, tự chủ, nhiều bạn trẻ có những thành tựu từ khi còn rất sớm. Ví như, Nguyễn
Lan Phương, sinh viên lớp K22CLCA, đã đạt nhiều học bổng, như: Học bổng
khuyến khích học tập, Học bổng hệ chất lượng cao, Học bổng thống đốc. Xác định
rõ mục tiêu và phương pháp học tập, chị chưa trượt bất kỳ học bổng nào của Học
viện cũng như Thống đốc Ngân hàng trao tặng. Ngoài ra, chị Phạm Vân Khanh
K22CLCA, bằng sự nỗ lực của bản thân, tinh thần dám nghĩ dám làm, bạn đã đặt Á
quần cuộc thi khởi nghiệp của Học viện Ngân hàng, Quán quân tại Light on the
Mic: The Debut 2021 Không chỉ sinh viên K22, các bạn K24 bây giờ cũng rất tích
cực trong quá trình học tập. Đoàn Viết Thắng sinh viên K24 khoa tài chính chất
lượng cao, lớp TCD. Hiện tại anh học song song 2 trường, ngoài là sinh viên Học
viện Ngân hàng, anh còn đang là sinh viên năm tư Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tuy
học song bằng nhưng anh vẫn cân bằng được thời gian và sắp xếp 1 cách khoa học.
Tại Học viện Ngân hàng, anh luôn đạt học bổng của khoa CLC và KKHT của mỗi
kì. Ngoài ra, anh tham gia rất cuộc thi nghiên cứu khoa học và giành được rất nhiều
giải thưởng, nổi bật nhất là team của anh đã đạt được giải quán quân cuộc thi
Econometrics Competition vào tháng 2 năm nay.
Sinh viên học viện ngân hàng luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng, sống
có trách nhiệm với gia đình, tập thể, đất nước, dám nghĩ, dám làm, dám thành công.
“Lời nói phải đi đôi với việc làm", không chỉ về học tập, tại Học viện Ngân hàng,
còn có rất nhiều gương mặt tiêu biểu luôn năng động, không ngừng cố gắng,
thường xuyên tổ chức những hoạt động tình nguyện nhằm làm tỏa tình yêu thương,
tình đoàn kết vốn có của dân tộc. Đồng thời, gắn kết mọi người lại gần nhau hơn
bất chấp khoảng cách về địa lý, cũng như tạo điều kiện để các em nhỏ, những
người gặp hoàn cảnh khó khăn tin tưởng và ủng hộ những chính sách, việc làm của
Đoàn, của Đảng, đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra. Cụ thể,
đó là những thành viên trong câu lạc bộ tình nguyện BAVT. Các bạn, bằng sự kiện:
“Đông ấm no - Vẹn tròn hạnh phúc” được tổ chức thường niên, đã phần nào giúp

195
đỡ, trao cơ hội, mang lại hơi ấm giữa trời đông giá rét, đem lại một những ngày Tết
ấm áp cho các bạn nhỏ và những người kém may mắn hơn.
KẾT LUẬN
Khép lại cuộc hành trình 30 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước, cùng nhân
dân ta viết ra trang lịch sử mới của dân tộc. Từ chủ nghĩa yêu nước, người đã đến
với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường giải phóng dân tộc rất đúng đắn và
sáng tạo, đúng với thực tiễn của Cách Mạng Việt Nam, đưa cách mạng nước ta đến
thành công, xây dựng nên chính thể cộng hòa dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội trở thành mục tiêu, lý tưởng, thành ngọn cờ chiến đấu
và chiến thắng của Đảng ta, nhân dân ta trong hơn chín thập kỷ qua và mãi mãi đến
mai sau. Bác đã đi một hành trình dài, từ đó, mở ra cho Việt Nam một con đường
mới. Đó là con đường từ nô lệ và thuộc địa trở thành độc lập, tự chủ; con đường từ
“rũ bùn đứng dậy” đi đến hào hùng và tỏa sáng Việt Nam; con đường từ chậm tiến,
chưa phát triển đến bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới và “sánh vai với các
cường quốc năm châu”.
Không chỉ cần phát huy hơn nữa những giá trị lịch sử và thực tiễn của con
đường Người đã vạch ra, mỗi bản thân chúng ta, là một sinh viên, cụ thể là sinh
viên của Học viện Ngân hàng, cũng là công dân của nước Việt Nam, cần luôn tự
vấn bản thân về trách nhiệm, cũng như hành động phải làm để xây dựng ngôi nhà
lớn này vững chãi hơn nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2021), Hành trình Người đi tìm hình của Nước
và những bài học cho thế hệ trẻ Việt Nam
[2]. Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng (2022), Nguyễn Ái Quốc với hành trình
tìm đường cứu nước từ năm 1911 đến năm 1930 (5/6/1911- 5/6/2021)
[3].Ban Tuyên giáo huyện uỷ (2023), Kỷ niệm 110 năm ngày Bác Hồ ra đi
tìm đường cứu nước (05/6/1911- 05/6/2021)
[4]. Báo Nghệ An (2019), Hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác
Hồ
[5]. Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hành
trình tìm đường cứu nước

196
CUỘC HÀNH TRÌNH VĨ ĐẠI THỰC HIỆN KHÁT VỌNG
ĐỘC LẬP DÂN TỘC TỰ DO CỦA HỒ CHÍ MINH
Vũ Quang Tùng, Nguyễn Viết Duy,
Phạm Minh Hoàng, Nguyễn Đức Thành,
K24CLC, Ngân hàng B, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Cuộc hành trình của Hồ Chí Minh trong thực hiện khát vọng độc lập dân tộc
tự do là một câu chuyện lịch sử vô cùng đáng quý. Nghiên cứu về cuộc đời và sự
nghiệp của Người không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm quan trọng và tầm
ảnh hưởng của Người đối với lịch sử và văn hóa Việt Nam mà còn giúp chúng ta
học hỏi được những giá trị về lãnh đạo, hy sinh và tình yêu đất nước từ một nhân
vật vĩ đại của lịch sử.
Từ cuộc đời và sự nghiệp của Người, chúng ta có thể học hỏi được nhiều
kinh nghiệm về lãnh đạo, sự gan dạ và hy sinh cho đất nước. Hồ Chí Minh là một
nhà văn, một nhà hoạt động chính trị, một nhà lãnh đạo quân sự, một nhà ngoại
giao, một người có triết lý tư tưởng rất sáng suốt, Người đã để lại nhiều tác phẩm
văn học và tư tưởng đáng giá để chúng ta học hỏi.
NỘI DUNG
1. Sự hình thành ý chí, khát vọng cứu nước, cứu dân của người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
Nguyễn Sinh Cung (tên khai sinh của Nguyễn Tất Thành) sinh ra trong 1 gia
đình có truyền thống nho giáo. Người là con thứ 3 trong nhà. Nguồn thu nhập của
gia đình dựa vào nghề dệt thuê của mẹ và nghề dạy trẻ của cha nên khá eo hẹp.
Chính vì thế, từ nhỏ, Người đã hiểu và thấm thìa nỗi khổ của người nghèo.
Tại Huế, Người đã nhận ra và thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân khi thấy
rằng bên cạnh nhiều nhà to cửa đẹp và cung điện uy nghiêm còn có cả những người
Pháp thống trị tàn ác. Cùng với đó là những ông quan ăn sang mặc đẹp nhưng lại
phải khúm núm trước người Pháp. Còn phần đông người lao động phải sống cực
khổ và tủi nhục.
Đầu năm 1911, Nguyễn Tất Thành đặt chân tới Sài Gòn, nơi mà một phần
quê hương đã bị người Pháp chiếm đoạt với mục tiêu đầu tiên là quan sát xã hội
thuộc địa, chế độ cai trị của nhà nước thực dân để chuẩn bị cho chuyến viễn du đến
trời Tây nhằm tìm hiểu thế giới. Ban đầu, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở 1
trường thợ. Sau đó thì đi làm nghề bốc vác ở cảng Sài Gòn. Công việc ở cảng ngày

197
càng nặng nhọc, Nguyễn Tất Thành lại càng thêm thấu hiểu sự gian khổ và nỗi
nhục nhã của người dân.
Sau chuyến hành trình đi qua Pháp, đi quanh châu Phi và ở trên đất Mĩ,
chứng kiến những người da đen bị bóc lột, những khu ổ chuột,… Nguyễn Tất
Thành nhận ra ở đâu thì cũng chỉ có 2 hạng người là hạng người áp bức bóc lột và
hạng người bị áp bức bóc lột.
Nguyễn Tất Thành cũng nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của Cách mạng
tháng Mười Nga năm 1917. Người nhìn thấy những thành công và khả năng của
cuộc cách mạng này trong việc giải phóng dân tộc và thiết lập một chính quyền
công nhân. Khi tiếp xúc với tư tưởng cách mạng, Nguyễn Tất Thành nghiên cứu và
hấp thụ các luận cương của Lenin. Từ đó, Người đã nhìn thấy một tầm nhìn cho
Việt Nam, nơi mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động được giải phóng và xây
dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.
Nguyễn Tất Thành đã trải qua những năm tháng tuổi trẻ khó khăn và chứng
kiến sự bất công và áp bức của chế độ thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam.
Qua những trải nghiệm này, Người nhận thức được sự cần thiết của cuộc cách
mạng để đưa đất nước ra khỏi sự chiếm đóng và bóc lột.
2. Ý chí, nghị lực phi thường của Nguyễn Ái Quốc để vượt qua những
khó khăn, thử thách trong hành trình tìm đường cứu nước.
Ngay từ khi còn trẻ, Nguyễn Ái Quốc đã bộc lộ ý chí và nghị lực mạnh mẽ
trong việc tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách đô hộ của
thực dân Pháp. Người đã đến nhiều nước khác nhau trên thế giới để tìm kiếm
những bài học và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trong lịch sử nhân loại.
Trên hành trình này, Nguyễn Ái Quốc đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, từ
những trở ngại về tiền bạc, tài nguyên, đến những vấn đề về an ninh và sức khỏe.
Nguyễn Tất Thành đã lên con tàu với cái tên mới là Văn Ba và được nhận
một chân phụ bếp trên con tàu. Công việc của Văn Ba trên con tàu bắt đầu từ 4 giờ
sáng đến 9 giờ tối với đủ công việc nặng nhọc từ quét dọn bếp, đốt lửa lò, xách
nước, cho đến khuôn vác thực phẩm. Cùng với chuỗi ngày làm việc không ngừng
nghỉ thì con tàu đã đưa Văn Ba cập bến nhiều nơi như Singapo, Sri Lanka, Ai Cập
và sau đó là đến Marseille – nơi đánh dấu lần đâu tiên Người đặt chân lên đất Pháp.
Đây chính là những khó khăn, thách thức đầu tiên dành cho Văn Ba.
Năm 1919, “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” dưới bút danh Nguyễn Ái
Quốc xuất hiện công khai trên báo Nhân Đạo đã gây xôn xao dư luận và đã đánh

198
động đến chính quyền Pháp. Sau vụ việc này, Nguyễn Ái Quốc đã bị các cơ quan
điều tra Pháp theo dõi sát sao. Sau khi về đến Thái Lan với cái tên Thầu Chín,
Nguyễn Ái Quốc đã bị mật thám Pháp đánh hơi thấy và phối hợp với cảnh sát Xiêm
hòng bắt người nhưng không thành công. Tuy nhiên, thực dân Pháp vẫn tiến hành
một phiên tòa kết án tử hình vắng mặt cho Nguyễn Ái Quốc – tức là chỉ cần bị bắt
và đưa về nước thì Nguyễn Ái Quốc sẽ bị xử tử. Năm 1931, tại Hong Kong,
Nguyễn Ái Quốc bất ngờ bị bắt với cái tên Tống Văn Sơ, may mắn Người đã được
luật sư Francis Henry Loseby giúp đỡ nên đa thoát khỏi án tử chờ sẵn.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã phải đối mặt với
những nguy hiểm, biến cố và sự đánh đổi cá nhân. Tuy nhiên, ý chí và nghị lực phi
thường của Người không bao giờ suy yếu. Người đã không ngừng tìm kiếm và học
hỏi, đi qua nhiều nước và chịu đựng sự khó khăn về tài chính, sức khỏe và an
ninh.Và Người cũng không ngừng lập kế hoạch, tìm cách tiếp cận với các quốc gia
và tổ chức quốc tế, xây dựng liên minh và huy động nguồn lực để chiến đấu cho
độc lập và tự do của Việt Nam.
3. Quá trình hình thành và xác lập con đường giải phóng dân tộc của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử
dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng
những vũ khí tư tưởng khác nhau. Các phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi, không
ngừng khắp Bắc – Trung – Nam. Các phong trào đều sáng ngời tinh thần yêu nước
bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại, chỉ cho đến khi
người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận thấy con đường do những người đi trước mở
ra sẽ không giải phóng được dân tộc. không thể dẫn tới thắng lợi. Nguyễn tất Thành
đã nhận ra những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời trong việc xác định
mục tiêu, đối tượng, nhiệm vụ cách mạng; về phương thức, phương pháp đấu tranh;
về nhận thức “bạn - thù” của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam.
Người muốn đi tìm một con đường cứu nước mới. Bỏ qua những lựa chọn
như Trung Quốc, Nhật, Người quyết định chọn phương Tây – hay cụ thể là Pháp.
Trong vòng mười năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi
cơ hội để có thể đến được nhiều nơi trên thế giới. Người dừng chân khảo sát khá
lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Với những chuyến đi,
cuộc khảo nghiệm đó, Người đã bổ sung cho mình những kiến thức vô cùng phong

199
phú với một tầm nhìn hết sức bao quát. Người nhận ra rằng giai cấp tư sản ở thế kỷ
này không còn là giai cấp tiến bộ của thời đại nữa và con đường của cách mạng tư
sản không phải là con đường chúng ta nên đi.
Trên cuộc hành trình đầy gian truân đi tìm con đường cứu nước, có hai sự
kiện chính với vai trò tạo tiền đề, khai sáng, và khẳng định chắc chắn cho sự lựa
chọn của Nguyễn Ái Quốc.
- Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên
thế giới nổ ra và giành thắng lợi rung chuyển thế giới. Nó thực hiện sứ mệnh giải
phóng quần chúng lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột, đưa họ từ thân phận
người nô lệ làm thuê lên địa vị người chủ chân chính của xã hội. Khi trực tiếp đến
Liên Xô, tận mắt chứng kiến những thành tựu vĩ đại do Cách mạng Tháng Mười
Nga mang lại tại Xô viết, Người đã cảm thán rằng: “Giống như mặt trời chói lọi,
Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu
người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc
cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Nếu trước năm 1911, Nguyễn Tất Thành mới nhận thức được sự bế tắc của
con đường cứu nước cũ, tình trạng đất nước như “trong đêm tối không có đường
ra”, thì giờ đây, Nguyễn Tất Thành đã thấy bùng lên một hy vọng về công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc theo con đường mới, nhất định sẽ đưa lại thắng lợi.
- Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I.Lênin
“Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa” còn gọi là Luận cương của Lênin (Đây là một trong những văn kiện được
Lênin viết xong vào tháng 7/1920 để trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, họp
từ 19/7 đến 07/8/1920) ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức phức tạp.
Vào một ngày tháng 7 năm 1920, đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo
Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã lập tức bị cuốn hút vì tính chất cách mạng
triệt để của nó. Những tư tưởng cơ bản trong Luận cương có nhiều điểm phù hợp
với tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là sự đau xót trước nỗi thống khổ
của quần chúng lao động khắp thế giới và sự quan tâm đến vấn đề giải phóng các
dân tộc thuộc địa cũng như tinh thần đoàn kết của quần chúng lao động trong
đấu tranh.

200
Dưới ánh sáng Luận cương của Lênin, bằng sự mẫn cảm về chính trị, tư duy
nhạy bén và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của những năm bôn ba trong phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước thuộc địa và tư
bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc Việt Nam. Người nhận thấy rằng, tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc cần phải
gắn bó với tinh thần quốc tế vô sản và vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam cần
phải gắn bó khăng khít với phong trào cách mạng thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã rút
ra kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát
triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai
cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản và nhất quyết đi theo con đường
cách mạng vô sản để giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân
Việt Nam.
4. Những cống hiến và sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, Người nhận thấy một trong những ưu
điểm đặc sắc nhất của lý luận Mác - Lênin là phép biện chứng. Đó là phép biện
chứng của phát triển xã hội, là khoa học và cách mạng của sự phát triển, xóa bỏ trật
tự xã hội cũ bất công, tàn bạo và hướng tới xây dựng trật tự xã hội mới, dân chủ,
công bằng và nhân đạo, xứng đáng nhất với con người - đó là chủ nghĩa cộng sản.
Người cũng đặc biệt đề cao học thuyết cách mạng của Lênin, cả trí tuệ khoa học,
tính triệt để cách mạng lẫn đạo đức và nhân cách của người sáng lập ra học thuyết
Đảng kiểu mới, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, biến
chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết lý luận thành hiện thực xã hội mới, một chế độ
xã hội mới.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh còn nêu ra một luận điểm rất khoa học và
sáng tạo, tỏ rõ chính kiến độc lập đầy bản lĩnh của Người. Đó là, muốn áp dụng chủ
nghĩa Mác, áp dụng lý thuyết cộng sản của Mác vào phương Đông và Việt Nam thì
phải “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc
học phương Đông. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ
nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không

201
thể có được”. Người cũng xác định rằng, nhiệm vụ ấy đang đặt ra về mặt lý luận
mà những người cộng sản phải đáp ứng.
Sau này, Người còn có nhiều luận điểm sáng tạo khác đối với việc nhận thức
bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người nhìn nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin trong dòng chảy của sự tiến hoá tư tưởng, biết thâu thái tất cả
những gì tiến bộ, tinh hoa để vừa hiểu rõ sự phong phú của tư tưởng nhân loại, vừa
thấy sự phát triển nhảy vọt của những tư tưởng mácxít vốn không tách rời, không ở
bên ngoài mà ở trong tổng số và tổng hợp của toàn bộ những giá trị tinh hoa đó.
Chẳng thế mà, trong khi tin và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, Người vẫn rất trân trọng
tư tưởng từ bi, bác ái của đạo Phật, khoan dung văn hoá cao cả của chúa Giêsu, tinh
thần thực tiễn trong Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn.
- Vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân và
nêu lên tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phối hợp chặt
chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Nguyễn Ái Quốc là người đã viết tác phẩm lý luận mácxít Bản án chế độ
thực dân Pháp rất nổi tiếng vào năm 1925. Tác phẩm này là một tổng kết lịch sử,
một cáo trạng đối với chủ nghĩa thực dân, để sau đó 20 năm, vào năm 1945, Người
viết nên Tuyên ngôn độc lập, khai sinh chế độ dân chủ cộng hòa của nước Việt
Nam độc lập, đồng thời là cáo chung chế độ thực dân ở Việt Nam sau hơn 80 năm
tồn tại của nó.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận rõ, đối với những người lao động
và vô sản ở khắp mọi nơi, dù màu da có khác nhau nhưng họ đều có chung một kẻ
thù và cũng có chung một mục tiêu tranh đấu. Đế quốc thực dân ở đâu đâu cũng là
ác quỷ, phải đánh đổ nó đi. Còn anh em vô sản ở đâu đâu cũng là bạn bè, anh em,
đồng chí của nhau. Trên đời này, suy đến cùng, cũng chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật
mà thôi: tình hữu ái vô sản. Người đề cập tới tình hình Đông Dương và những cơ
sở cho sự chín muồi cách mạng ở đó. Đó vừa là những khẳng định khoa học, vừa là
những dự báo chính trị mẫn cảm.
- Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân
tộc với giai cấp, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp trên lập trường giai cấp
công nhân.
Trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, không phải tất cả những người
cách mạng và yêu nước, dù đứng trên lập trường cộng sản, đã ý thức đầy đủ và thật

202
sự quan tâm tới vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Song, đây
lại là vấn đề cốt tử mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt chú ý, từ khi tham gia hoạt động
trong Đảng Cộng sản Pháp. Người đã thẳng thắn phê phán thái độ thờ ơ hoặc lãng
quên phong trào cách mạng ở thuộc địa và đòi hỏi Đảng Cộng sản phải xác định rõ
trách nhiệm của Đảng đối với việc thúc đẩy và phối hợp hành động với các phong
trào cách mạng ở thuộc địa. Người đã sớm đi đến một kết luận quan trọng: sự nghiệp
giải phóng dân tộc phải đồng thời gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp công
nhân và giải phóng xã hội; cả hai cuộc giải phóng đó đều là sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, là sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng vĩ đại, đã dẫn dắt cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc của Việt Nam. Là người sáng lập ra Việt Minh, tổ chức cầm quyền
đấu tranh chống lại chế độ thực dân Pháp.
Cuộc hành trình vĩ đại của Người đã thể hiện ý chí mạnh mẽ và quyết tâm
không ngừng nghỉ để đạt được mục tiêu độc lập dân tộc và tự do cho Việt Nam.
Người đã lãnh đạo cuộc chiến tranh khốc liệt, đối mặt với các thử thách và khó
khăn, nhưng vẫn luôn tin tưởng vào khả năng của dân tộc và không bao giờ từ bỏ
mục tiêu cuối cùng của mình. Kết quả của cuộc hành trình này đã thay đổi cảnh
quan chính trị và lịch sử Việt Nam, đạt được độc lập vào năm 1954.
Hồ Chí Minh được coi là một nhà lãnh đạo tài ba, tận tâm với nhân dân và
sáng tạo trong việc xây dựng một xã hội công bằng và tự do. Tầm nhìn và tư tưởng
của Người tiếp tục truyền cảm hứng cho thế hệ hiện tại và tương lai trong việc theo
đuổi giấc mơ tự do và công bằng cho dân tộc. Di sản vĩ đại của Hồ Chí Minh vẫn
và sẽ còn sống mãi trong lòng người dân Việt Nam và tiếp tục lan tỏa khắp nơi trên
thế giới.
Ngày nay, Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự do và phát triển, là kết quả
của cuộc hành trình vĩ đại của Người. Hồ Chí Minh là biểu tượng vĩ đại của đấu tranh
cho độc lập dân tộc và tự do, được tôn vinh và kính trọng trong lòng người dân Việt
Nam và trên toàn thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. https://www.qdnd.vn/ky-niem-130-nam-ngay-sinh-chu-tich-ho-chi-
minh/dang-cam-quyen-theo-tu-tuong-ho-chi-minh/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh-
sau-sac-phong-phu-ve-ly-luan-va-thuc-tien-617724

203
[2]. https://baotintuc.vn/thoi-su/lam-sau-sac-hon-nhung-gia-tri-to-lon-cua-tu-
tuong-dao-duc-phong-cach-ho-chi-minh-20200508174343041.htm
[3]. Hành Trình Theo Chân Bác - Nhà Xuất Bản Trẻ.
[4]. Con Đường Vạn Dặm Của Hồ Chí Minh - Nhà Xuất Bản Trẻ.

204
NHỮNG CỐNG HIẾN CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG
QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Trương Thanh Thảo, Cao Thị Minh Hiền,
Bùi Đức Anh, Nguyễn Thúy Hiền, Đinh Ngọc Hà
K24CLC, Ngân hàng B, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng, nhà văn hoá, nhà nhân đạo mà
còn là một nhà lãnh đạo tài ba, tận tâm và sáng tạo. Người đã đóng góp rất nhiều
cho cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và thống nhất của dân tộc Việt Nam. Để
hiểu rõ hơn về những cống hiến và sáng tạo của Hồ Chí Minh, nhóm chúng em sẽ
tìm hiểu sâu về những bước đầu tiên Người đã thực hiện để tìm đường cứu nước và
giải phóng dân tộc. Các cách tiếp cận, chiến lược, cách thức tổ chức, đàm phán, đối
thoại, và hành động của chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp rất lớn cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Việc nghiên cứu về những cống hiến và sáng
tạo của Người không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn về lịch sử Việt Nam, mà còn giúp ta
học hỏi được những bài học kinh nghiệm quý giá về lãnh đạo và đấu tranh giải
phóng dân tộc. Nghiên cứu này còn có thể truyền cảm hứng cho các thế hệ tương
lai trong việc bảo vệ và tiến tới tương lai tươi sáng hơn cho đất nước và nhân dân
Việt Nam.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận cho những cống hiến của Hồ Chí Minh trong quá trình
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Cách nay 100 năm, trong căn phòng nhỏ hẹp tại Thủ đô Pari, giữa đêm khuya
thanh vắng, có một sự kiện trị định hướng tư tưởng cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi
đêm trường nô lệ: Nguyễn Ái Quốc tiếp cận ánh sáng cách mạng từ trong Sơ thảo
Luận cương của Lênin. Đó là thời khắc lịch sử thiêng liêng nhất trong cuộc đời hoạt
động cách mạng, nhất là 30 năm bôn ba tìm dường cứu nước của Bác Hồ kính yêu.
Trước đó, Người đã khóc khi vĩnh biệt thân mẫu, ứa lệ trước cảnh đồng bào mình bị
áp bức, bóc lột, bùi ngùi khi thấy cảnh thống khổ của những dân tộc, giai cấp bị chủ
nghĩa thực dân dày xéo, tự xếp mình trong hàng ngũ “những người cùng khổ” khắp
năm châu. Cách mạng Tháng Mười Nga chính là con đẻ của tư tưởng Lênin - sự vận
dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác vào nước Nga, mở ra hướng đi đúng đắn
không chỉ cho nước Nga mà còn cho tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới, trong
đó có Việt Nam.

205
Tư tưởng yêu nước chân chính mà Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc lấy
đó làm “vốn liếng” ra đi tìm đường cứu nước là tinh hoa của dân tộc Việt Nam
được chắt lọc, thẩm thấu, tiếp biến qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước. Nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam vẫn
tiếp tục được phát huy, nhưng chưa đủ sức mạnh để ngăn chặn cuộc chiến xâm
lược, áp đặt ách đô hộ trực tiếp của thực dân Pháp. Mọi phương thức đấu tranh
nhằm đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi thân phận vong quốc nô đều rơi vào bế tắc,
biết bao thế hệ nghĩa sĩ đã ngã xuống. Một tâm lý hoài niệm về những trang sử oai
hùng dân tộc, mất phương hướng trong hiện tại và mờ mịt tương lai. Đó là vì, hệ tư
tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản không phải là nguồn sáng dẫn đường phù
hợp cho cách mạng nước ta. Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết chí ra đi
tìm đường cứu nước với giấc mơ thời đại: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng
bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lãnh đạo Nhân
dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình
của Đảng và Bác Hồ kính yêu, Nhân dân ta đã tiếp tục giành được những thắng lợi
vẻ vang trong các cuộc kháng chiến, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 92 năm qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã chứng minh nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ đất nước là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng
đắn Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
phát triển của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Kiên định và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Mình chính là cội rễ
làm nên mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam trong hành trình hơn 92 năm dưới
ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc
của Nhân dân.

206
2. Những cống hiến của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc
- Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Phong trào cứu nước của nhân dân đang đứng trước những khó khăn và thất
bại trong đường lối thì ngày 05/6/1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi
tìm cách cứu nước theo hướng mới với khát khao mãnh liệt đòi độc lập tự do cho
nhân dân và giải phóng Tổ quốc. Người bất chấp mọi hiểm nguy, thử thách để bôn
ba qua nhiều quốc gia châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. Bác đã bắt gặp ánh sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra con đường cứu nước.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc là người
đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà Người đã lựa
chọn. Người đã xác định con đường cứu nước muốn thành công phải kết hợp phong
trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế. Ngày 03/02/1930, thay
mặt Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị tại Hồng Kông để hợp
nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ mốc son ấy, cả dân
tộc đoàn kết, bền lòng phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng lập nên những kỳ tích
vang dội trong 90 năm qua đã chứng minh: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là
đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa tháng Tám, sáng lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa
Vừa mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương vận động nhân
dân đấu tranh giành quyền tự do, cải thiện cuộc sống và chống giặc ngoại xâm.
Trong Lời kêu gọi ngày thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi tất
cả những người dân bị áp bức và bất công gia nhập Đảng và ủng hộ Đảng để lật đổ
thực dân Pháp và phong kiến. Thực hiện chủ trương của Đảng và hưởng ứng Lời
kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, một phong trào cách mạng mới, sôi nổi đã bùng cháy
trở thành cao trào cách mạng 1930-1931 và phong trào đấu tranh vì tự do và độc
lập (1936-1939) tạo tiền đề vững chắc đi vào cao trào cách mạng giải phóng dân
tộc (1939-1945).
Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là

207
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến
09 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên
Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa thực
dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
- Lãnh đạo kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước
Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, cả dân tộc phải đương đầu với muôn
vàn khó khăn, thách thức: Tài chính khánh kiệt, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm;
ở phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh đã kéo vào từ ngày 6-9-1945. Vận mệnh dân
tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngày 3-9-1945, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời để đề ra những nhiệm
vụ cấp bách như: Giải quyết nạn đói, nạn dốt, tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc
hội và đặc biệt là chống giặc ngoại xâm và bài trừ nội phản.
Sau nhiều cố gắng nỗ lực hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh để giải
quyết hòa bình ở Việt Nam không thành, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, cùng với “Chỉ thị toàn dân kháng chiến
của Đảng. Khi hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc cho
cách mạng cả nước. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
- Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc mang
tầm tư tưởng và trí tuệ của thời đại
Ngày 2-9-1969, Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta và để lại cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta bản Di chúc mang tầm tư tưởng và trí tuệ của thời đại. Thực hiện
bản Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
50 năm qua cách mạng Việt Nam đã không ngừng tiến lên giành được nhiều thắng
lợi vẻ vang.
Một là, giải phóng hoàn toàn miền Nam, lãnh đạo cả nước vững bước trên
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tiến
hành thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao.
Ba là, thường xuyên tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường giáo
dục nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bốn là, chú trọng bồi dưỡng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho thế hệ sau.

208
Năm là, xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính, đoàn kết sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước.
3. Liên hệ Việt Nam và giải pháp
- Liên hệ: Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta
luôn coi nguồn lực con người là “nguồn lực của mọi nguồn lực”, là nguồn lực nội
sinh quan trọng nhất quyết định thành công của công cuộc đổi mới đất nước ta hiện
nay. Khẳng định vai trò của con người, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do, trong bảo vệ Tổ quốc và trong
công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách để
khơi dậy và phát huy sức mạnh to lớn đó. Và nhờ nguồn lực đó qua hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ý chí và nghị lực của con người Việt
Nam chúng ta đã giành được độc lập, thống nhất đất nước.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã chú trọng: “Phát huy
sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây
dựng xã hội mới” và chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, trên cơ sở
bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; phát huy mọi
tiềm năng thế mạnh của con người để vừa tập trung cao cho phát triển kinh tế, vừa
tăng cường quốc phòng, an ninh, tạo cơ sở nền tảng vững chắc bảo vệ thành quả
của cách mạng trong điều kiện mới.
- Một số giải pháp phát huy nhân tố con người trong công cuộc đổi mới đất
nước hiện nay:
Một là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân. Tập trung mọi nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục; giải quyết tốt các vấn đề xã hội; từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Hai là, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo - tiền đề phát huy nhân tố con người.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển đất nước, muốn
phát triển xã hội phải chăm lo phát triển nhân tố con người cả về thể chất, tinh thần
và giáo dục là một trong những thành tố quan trọng nhất để phát triển con người, là
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước,
một nền giáo dục phát triển sẽ là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con người, yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Ba là, phát huy dân chủ. Có thể nói rằng, “thực hành dân chủ là chìa khóa
vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Chính vì vậy, phát huy tốt dân chủ là

209
điều kiện để phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay. Để phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ
của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của
nhân dân. Nhà nước có cơ chế và các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân
chủ của công dân; đồng thời, phát huy vai trò là chủ, làm chủ của nhân dân. Nhân
dân có quyền học tập, lao động sáng tạo, quyền cống hiến, quyền phát huy vai trò
của chính mình.
Bốn là, quan tâm thực hiện tốt chính sách xã hội để tạo điều kiện phát huy
nhân tố con người. Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con
người, như: Điều kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe…
và luôn gắn chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính
trị - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Chính sách xã hội và quyền con người có mối
quan hệ chặt chẽ. Thực hiện tốt chính sách xã hội là một trong những bảo đảm quan
trọng về quyền con người ở nước ta.
Năm là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Hiện nay, bên cạnh những
thành tựu to lớn đã đạt được trong những năm đổi mới thì nước ta cũng còn tồn tại
nhiều bất cập, hạn chế. Đặc biệt, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
vẫn còn nghiêm trọng, kể cả một số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước…
Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng
túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy
cần ngăn chặn và xử lí kịp thời các thế lực thù địch, phản động, chống phá cách mạng
nước ta.
KẾT LUẬN
Trong suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến và sáng tạo đáng
kể trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người đã thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
đưa đất nước Việt Nam đến thắng lợi trong cuộc chiến giành độc lập, thống nhất và
giải phóng dân tộc. Những cống hiến và sáng tạo của Hồ Chí Minh đã được thể
hiện qua nhiều khía cạnh. Trong lĩnh vực chính trị, Người đã xây dựng nên một chủ
nghĩa Mác-Lênin mới, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và nhân dân Việt Nam, tạo
ra một mô hình lãnh đạo độc đáo và hiệu quả. Trong lĩnh vực kinh tế, Người đã đưa
ra nhiều chính sách kinh tế, xã hội đột phá, đóng góp quan trọng cho sự phát triển

210
kinh tế của đất nước. Ngoài ra, Người còn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn
hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ.
Với những cống hiến và sáng tạo của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại
dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc Việt Nam, và là nguồn cảm hứng lớn cho các
thế hệ sau này. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và tôn vinh những cống hiến và sáng
tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình giải phóng dân tộc là vô cùng cần thiết để tiếp
tục truyền bá tinh thần cách mạng, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của đất nước
Việt Nam.
Để thực hiện điều đó, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững phương thức giải
quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức chính xác đặc điểm của
dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thành
công trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một trong những điều kiện quan trọng nhất
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/hoc-thuyet-lenin-soi-sang-con-
duong-cach-mang-viet-nam-553336.html
[2]. https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/nhung-cong-hien-cua-chu-tich-
ho-chi-minh-la-tai-san-vo-gia-doi-voi-cach-mang-viet-nam-555041.html
[3]. http://hocvienpkkq.com/tin/index.php/vi/news/Quan-doi/Cong-hien-vi-
dai-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh-voi-Cach-mang-Viet-Nam-2
[4]. Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con
người trong công cuộc đổi mới đất nước | Nghiên cứu | Tạp chí mặt trận Online
(tapchimattran.vn)
[5]. https://tcnn.vn/news/detail/48328/Nhung-sang-tao-ly-luan-cua-Ho-
ChiMinh-ve-cach-mang-giai-phong-dan-toc-va-gia-tri-thoi-dai.html
[6]. http://smot.bvhttdl.gov.vn/tam-nhin-thoi-dai-va-tu-duy-doc-lap-sang-tao-
cua-chu-tich-ho-chi-minh-tren-hanh-trinh-tim-duong-cuu-nuoc-giai-phong-dan-toc/

211
PHẦN 3
SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
VỮNG BƯỚC THEO CON ĐƯỜNG NGƯỜI ĐÃ CHỌN

212
SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO
TẤM GƯƠNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS. Đào Thu Hương
Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cả
cuộc đời của Người là tấm gương sáng để nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ
học tập và noi theo. Cuộc đời của Người đã để lại cho bao thế hệ sinh viên Việt
Nam, trong đó có sinh viên Học viện Ngân hàng những bài học hết sức quý báu
trong việc học tập và rèn luyện để trở thành những công dân có ích phục vụ cho
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Thứ nhất, cả cuộc đời hy sinh vì dân vì nước của Người đã đem đến bài học
về tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, yêu đất nước, yêu thương đồng bào gắn
liền với khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh, yêu nước là cầm vũ khí đứng lên chiến đấu để bảo
vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ hòa bình, yêu nước thể hiện qua hoạt động ra sức học
tập và lao động, phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao để phát triển đất
nước ngày càng phồn vinh và hạnh phúc. Trong tương lai, sinh viên Học viện Ngân
hàng sẽ là một trong những lực lượng cốt cán phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội đất nước. Do đó, hiện nay, sinh viên Học viện Ngân hàng phải thấy được
trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân trong sự nghiệp phát triển đất nước. Từ đó,
các em sinh viên sẽ hình thành lối sống có mục tiêu, lý tưởng, có khát vọng trong
cuộc sống, hình thành tính cách cần cù, chăm chỉ, hiếu học, không ngừng phát huy
năng lực độc lập, tự chủ, sáng tạo của bản thân; xây dựng được bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định tiếp bước theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn.
Thứ hai, cuộc đời phục vụ sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã để lại cho sinh viên Học viện Ngân hàng bài học về sự can đảm, quả quyết, dám
nghĩ dám làm; có ý chí quyết tâm, nỗ lực vượt lên hoàn cảnh để phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu; sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, gian
khổ, chấp nhận mọi nhiệm vụ được Tổ quốc giao phó, cho dù là lên núi rừng hay
xuống biển đảo xa xôi với tinh thần “Đâu cần thanh niên có/ Đâu khó có thanh
niên”.

213
Trong quá trình học tập và rèn luyện trong môi trường đại học, sinh viên sẽ
dần dần trưởng thành, rèn luyện bản thân thành con người có đủ năng lực và phẩm
chất để trở thành công dân có ích cho xã hội. Các em phải luôn trau dồi, bồi dưỡng,
rèn luyện mình từ trong thực tiễn, xây dựng ý tưởng đổi mới, sáng tạo trong học tập
và nghiên cứu khoa học và luôn quyết tâm hiện thực hóa ý tưởng của mình. Đồng
thời, sinh viên cần tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện, thiện nguyện như
phong trào Đền ơn đáp nghĩa, Uống nước nhớ nguồn, thăm hỏi các Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, biết ơn những người có công với đất nước, tham gia các hoạt động
chia sẻ, biết ơn những chiến sĩ biên giới nơi núi rừng, hải đảo xa xôi.
Thứ ba, sự nghiệp tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại
bài học về biết kết hợp những thành tựu, tiến bộ của nhân loại với những giá trị
truyền thống của dân tộc.
Để tiếp tục phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng như hiện nay, sinh viên Học
viện Ngân hàng phải luôn tìm hiểu, thấm nhuần các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc; biết trân trọng, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc. Các em phải biết lựa chọn học hỏi, tiếp nhận những giá trị tiến bộ, tích
cực, phù hợp với thuần phong mỹ tục, chuẩn mực đạo đức của người Việt; đồng
thời, kiên quyết ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của tư tưởng, lối sống
thực dụng, sẵn sàng chạy theo vật chất mà bất chấp tất cả hay sự xâm nhập của các
sản phẩm phản văn hóa độc hại đang ngày càng làm lu mờ bản sắc văn hóa của dân
tộc ta. Bên cạnh đó, cần chủ động, tích cực tiếp nhận những giá trị tiến bộ từ bên
ngoài vào nước ta, không ngừng bổ sung, phát triển những giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc, kết hợp tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại
để phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ việc học tập và noi theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh viên Học
viện Ngân hàng cần hình thành lối sống nhân ái, có nghĩa có tình, chân thành đối
với mọi người xung quanh, xây dựng phẩm chất trong sạch, giản dị, phấn đấu bằng
ý chí và nghị lực của bản thân. Các em phải luôn cần cù, chăm chỉ trong học tập,
không ngừng phát huy năng lực tự chủ, sáng tạo của bản thân. Những giá trị văn
hóa cốt lõi của dân tộc như lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, lòng nhân ái, sẻ
chia với người khác, tinh thần hiếu học, thủy chung, trọng nghĩa tình, tinh thần
đoàn kết, cố kết cộng đồng... là những giá trị quý báu được hình thành và phát triển
gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc ta. Trong bối cảnh

214
hội nhập quốc tế hiện nay, những giá trị cao đẹp này lại càng không ngừng được bổ
sung, làm mới và trở nên tỏa sáng hơn bao giờ hết. Thành tựu đó có được chính là
do một phần công lao không nhỏ của thế hệ sinh viên Học viện Ngân hàng - những
chủ nhân tương lai của đất nước đóng góp xây dựng lên.
Thứ tư, cuộc đời của Hồ Chủ Tịch đã để lại cho sinh viên Học viện Ngân
hàng bài học về tinh thần học tập suốt đời, không ngừng trau dồi, bồi dưỡng phát
triển bản thân.
Là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay,
sinh viên Học viện Ngân hàng cần không ngừng chủ động tích cực học tập và phát
huy năng lực sáng tạo của bản thân. Các em phải luôn xác định rằng việc học tập
không phải chỉ là học trong trường lớp mà còn cần phải tự học, bồi dưỡng phát
triển các kỹ năng mềm: kỹ năng giao tiếp - thuyết trình, kỹ năng làm việc nhóm,
quản lý thời gian... Bên cạnh việc hoàn thành bài tập trên lớp, sinh viên cần không
ngừng tìm kiếm khám phá tri thức mới qua các tư liệu, thông tin trên hệ thống thư
viện của Học viện. Không chỉ tham gia tích cực các hoạt động học tập mà còn chủ
động, nhiệt tình tham gia các hoạt động, phong trào văn - thể - mỹ, hoạt động tình
nguyện, thiện nguyện... do Đoàn Thanh niên và Chi hội sinh viên phát động cũng
như tham gia các hoạt động ngoại khóa, tham quan thực tế, gặp gỡ và trao đổi học
thuật với các chuyên gia, ... để thường xuyên mở rộng, liên hệ, vận dụng những
kiến thức đã học vào thực tiễn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, một dân tộc không giao lưu, hội
nhập với thế giới bên ngoài thì chắc chắn sẽ bị tụt hậu so với các nước khác và sớm
muộn cũng sẽ bị suy yếu. Do đó, để phát triển đất nước ngày càng phồn vinh thì
trước tiên cần có một nguồn nhân lực mạnh với nhiều nhân tài để phát huy được
nội lực của đất nước nhằm phát triển đất nước nhanh chóng. Do đó, sinh viên Học
viện Ngân hàng cần tích cực học tập, trau dồi trình độ ngoại ngữ và công nghệ
thông tin, nâng cao trình độ năng lực số để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
nhằm tranh thủ cơ hội tiếp nhận thêm những tri thức mới từ bên ngoài.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng để nhiều thế hệ
người dân Việt Nam và đặc biệt là các em sinh viên học tập và noi theo. Qua việc
học tập và làm theo tấm gương Hồ Chủ Tịch, các em sinh viên sẽ ngày càng trưởng
thành, sống có lý tưởng, hoài bão và có năng lực, bản lĩnh để có thể tiếp tục sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

215
NHỮNG GIAN NAN TRÊN HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI
TUỔI TRẺ HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
TS. Phạm Thanh Hiền
Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng
TÓM TẮT
Trong 30 năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã làm mọi công việc cực khổ để
kiếm sống, không ngừng tự học, vượt qua bao hiểm nguy để hoạt động cách mạng.
Khó khăn, gian nan là thế, nhưng Người không bao giờ chùn bước, Người quyết
tâm đi đến tận cùng với lý tưởng cao quý mình đã lựa chọn vì độc lập dân tộc, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Với những nỗ lực phi thường, Người đã tìm ra con
đường giải phóng quê hương thoát khỏi ách nô lệ, thuộc địa lầm than, mở ra tương
lai tươi sáng cho dân tộc Việt nam. Những gian nan trên hành trình tìm đường cứu
nước của Người nhắc nhở tuổi trẻ Học viên Ngân hàng về lòng yêu nước nồng nàn,
ý thức tự học, ý chí can trường vượt qua thử thách, lòng kiên định với mục tiêu đã
định…- những phẩm chất vô cùng quý báu để đưa mỗi người đến được với thành
công, hạnh phúc chân chính.
Từ khóa: hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bài học
tuổi trẻ
MỞ ĐẦU
Cách đây 112 năm (ngày 5/6/1911 – 5/6/2023), người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành từ bến cảng Nhà Rồng đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng
dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân phong kiến. Cuộc hành trình ấy là bài học lớn cho
thanh niên ngày nay, để mỗi người trẻ thể hiện tình cảm, tâm huyết của mình, đóng
góp trí tuệ, tài năng xây dựng quê hương đất nước “sánh ngang với các cường quốc
năm châu” như tâm nguyện của Người lúc sinh thời.
NỘI DUNG
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, trên quê hương Nghệ An giàu
truyền thống đấu tranh cách mạng, lại lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan nên
Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành đã sớm có tinh thần yêu nước, thương dân,
có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào khỏi ách nô lệ lầm than.
Trong bối cảnh các phong trào đấu tranh, phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp với nhiều khuynh hướng khác đều bị thất bại, hàng loạt câu hỏi lớn được đặt

216
ra cho đối với Người thanh niên yêu nước: Lực lượng nào có thể lãnh đạo phong
trào cách mạng Việt Nam?, con đường và phương pháp đấu tranh phù hợp cho Việt
Nam?. Bế tắc trong việc tìm ra câu trả lời cho nỗi niềm “đau đáu” của mình, người
thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Tất Thành đã có quyết định táo bạo – rời quê hương ra
đi tìm đường cứu nước.
Ngày 5/6/1911 với tên mới Văn Ba, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã
lên con tàu Amiral Latouche Tréville, rời bến cảng Nhà Rồng, khởi đầu một cuộc
hành trình tìm đường cứu nước.
Ngày ra đi, Nguyễn Tất Thành làm việc trên tàu, phục vụ hàng trăm bàn ăn
cho các sỹ quan, thương gia giàu có với những tháng ngày dập dềnh trên biển, luôn
rình rập hiểm nguy. Số tiền lương ít ỏi, Người phải thức khuya dậy sớm, làm đủ
mọi thứ từ lau chùi, quét dọn, phụ bếp. Công việc nặng nhọc, tất bật từ 4 giờ sáng
đến 9 giờ tối.
Công việc thường xuyên đi giữa căn bếp nóng nực và phòng kho lạnh buốt,
suốt ngày người đẫm mồ hôi, hơi nước và bụi than. Mệt lả sau một ngày dài,
Nguyễn Tất Thành còn thức khuya hơn nữa để đọc sách, viết lách, học ngoại ngữ.
Vất vả là vậy nhưng đối với Bác đó là những thử thách để phấn đấu trong hành
trình cứu nước.
Khi đến châu Phi, khí hậu rất nóng, tàu chở hàng chòng chành, dễ bị say
sóng lại không có bầu bạn. Đến Anh, Nguyễn Tất Thành nhận cào tuyết cho một
trường học. Cào tuyết rất khó vì tuyết trơn. Xong tám tiếng, anh Nguyễn mệt lử và
đói bụng. Sau này, Bác nhớ lại:" Hồi ấy Bác làm bồi tàu, làm người quét tuyết ở
Anh rồi đi làm phụ bếp. Làm việc từ sáng đến tối. Đêm đến mới hết việc, mới được
đọc sách, đọc báo. Cứ mỗi buổi sáng đi cọ sàn tàu, cọ thùng, đánh nồi, rửa bát, thái
thịt, băm rau. Hết ngày người mồ hôi đầm đìa". Bác làm việc đốt lò. Năm giờ sáng
đã phải chui xuống hầm nhóm lửa, đốt than. Công việc này cũng thật đáng sợ vì
luôn ở trong cảnh tranh tối tranh sáng. Trong hầm vô cùng nóng, ngoài trời lại giá
rét, không đủ quần áo ấm nên Bác bị cảm lạnh mấy tuần. Tiền dành dụm trả tiền
phòng, tiền bánh mì và học tiếng Anh.
Cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra ác liệt. Tình hình Đông Dương
đang có những biến động. Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp hoạt động trong phong
trào Việt kiều và công nhân Pháp. Nước Pháp bị ngạt thở vì khói lửa chiến tranh và
cũng cực kỳ nguy hiểm. Việc làm không ổn định, giá sinh hoạt đắt đỏ, cuộc sống của
Nguyễn Ái Quốc gặp nhiều khó khăn. Để chống lại những đêm mùa đông giá rét,

217
Bác dùng hơi ấm từ viên gạch để cạnh bếp lò của người chủ nhà bọc vào tờ báo cũ
đặt dưới gầm giường cho đỡ lạnh. Với số ít tiền kiếm được, Nguyễn Tất Thành sống
rất nghèo khổ để dành tiền thuê in bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội
nghị Véc xây, tới đại biểu các nước đồng minh, tới Việt kiều, người Việt đi lính ở
Pháp và gửi về Đông Dương. Lần đầu tiên trong lịch sử, có một người Việt Nam
dám vạch trần tội ác của thực dân Pháp ngay tại Pari, tả lại nỗi thống khổ của nhân
dân Việt Nam bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố thậm tệ. Vì thế, bọn thực dân Pháp
thù ghét, theo dõi Nguyễn Ái Quốc không rời một bước. Như vậy, không chỉ khó
khăn, thiếu thốn về vật chất mà khi Bác đến đất nước của kẻ thù nghĩa là phải sống
trong vòng vây của kẻ thù. Nguyễn Ái Quốc luôn bị kẻ thù giám sát, tìm mọi thủ
đoạn hãm hại. Như lời hăm dọa của quan thượng thư Pháp lúc bấy giờ:"Nước mẹ đại
Pháp sẽ không tha thứ những kẻ gây rối loạn. Nước mẹ đại Pháp đủ sức bẻ gãy họ".
Trong cuốn sách" Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử"- NXB Chính trị Quốc gia,
chúng ta thấy dày đặc sự theo dõi qua báo cáo của mật thám Pháp. Dường như Bác
đi đâu, bọn mật thám cũng ghi lại. Những hoạt động sôi nổi, tích cực của một người
Việt Nam yêu nước, một Chiến sĩ Cộng sản quốc tế xuất sắc, Nguyễn Ái Quốc bị
coi là kẻ thù số một của đế quốc, thực dân. Năm 1929, Người bị kết án tử hình
vắng mặt. Năm 1931, Người bị thực dân bắt giam trong nhà ngục Victoria, bị đưa
ra xét xử trong chín phiên tòa căng thẳng với hai năm trời đằng đẳng. Đây có thể
xem là thời kỳ sóng gió, thử thách trong hành trình cứu nước ba mươi năm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Luận cương của Lê-nin và cách mạng Tháng Mười Nga mở ra, Bác xác định
con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn: " Chỉ có Chủ nghĩa
Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ". Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi
hiểm nguy đến với chủ nghĩa Mác- Lênin. Hồi đó, đi Nga là việc rất khó khăn và
nguy hiểm. Sau cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Nga bị các đế quốc bao vây
chặt chẽ. Sang Nga có thể bị bọn phản động đế quốc bắt hoặc thủ tiêu. Mùa đông ở
Nga, có ngày rét đến âm 40 độ C, lạnh cắt da cắt thịt. Khi về Quảng Châu (Trung
Quốc) hoạt động, Bác cũng không thoát khỏi sự chú ý của mật thám. Nguyễn Ái
Quốc được xếp vào hàng đầu danh sách những người mà cảnh sát quốc tế thuộc địa
lùng bắt bằng được. Người phải tìm chỗ ở, nơi làm việc mới. Cuộc sống đói khát,
công việc thất thường. Có lúc, Bác phải đi bán báo, thuốc lá ngoài đường phố, phải
rút vào hoạt động cách mạng bí mật.

218
Vừa lao động vất vả kiếm sống, vừa học thêm, tìm hiểu nghiên cứu tình hình
các nước, vừa hoạt động chính trị tích cực trong sự theo dõi, lùng sục gắt gao
nhưng Bác không bao giờ chùn bước. Bởi Người luôn nặng lòng thương Tổ quốc
mình, nhân dân mình đang bị giày xéo, áp bức. Ý nghĩa đấu tranh giải phóng dân
tộc luôn luôn khắc sâu trong tâm khảm người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành. Như Bác nói:" Cần luôn luôn nhớ làm nhiệm vụ của người dân mất nước bị
áp bức, bị bóc lột". Bác đã khảng khái trả lời quan thượng thư Pháp khi ông ta
muốn mua chuộc:" Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc
tôi được độc lập". Mặc dù cuộc sống nghèo túng trong phòng trọ rẻ tiền ở xóm lao
động lại luôn bị theo dõi, dọa dẫm nhưng Người không nao núng, luôn vui vẻ, hăng
hái đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa bị áp bức trên
toàn thế giới.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, đưa nhân dân lầm than thành
người chủ đất nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã trọn đời cống hiến cho
đất nước, dân tộc. Điều này đòi hỏi trách nhiệm đưa Việt Nam trở thành nước giàu
mạnh, sánh ngang với các cường quốc trên thế giới, tất cả phụ thuộc vào tinh thần
dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân của thế hệ trẻ hôm nay.
Đất nước đã hòa bình, độc lập, tự chủ và ngày càng có vị thế cao trong khu
vực và thế giới, nhưng khát vọng đưa Việt Nam sánh ngang với các cường quốc
năm châu vẫn luôn là niềm thôi thúc bao lớp thanh niên hôm nay tiếp tục học tập,
rèn luyện, phấn đấu không ngừng. Trong hành trình đưa đất nước tiến lên, tinh thần
độc lập tự chủ, bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân của người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành – Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là bài học quý báu
để thế hệ trẻ hôm nay vững vàng niềm tin trong hành trình lập thân, lập nghiệp.
Đối với tuổi trẻ của Học viện Ngân hàng, “trọng trách tương lai ấy” đòi hỏi
mỗi cá nhân phải có lý tưởng trong sáng, có hoài bảo, dám nghĩ, dám làm, dám dân
thân. Do vậy, trong thời gian tới mỗi người trẻ cần phải:
Một là, phải học tập tinh thần, lý tưởng và khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, người trẻ phải dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách
nhiệm. Bởi lẽ, một trong nhiều điều kiện để trở thành một giảng viên trường chính
trị cần phải có sự trải nghiệm, vốn thực tiễn phong phú và thực tiễn không tự nhiên
có mà phải qua trải nghiệm, tích lũy và tự rút ra cho mình.
Hai là, không tự mãn về bản thân, phải luôn rèn luyện tinh thần tự học, tự
phấn đấu với tinh thần tâm trong, trí sáng, hoài bảo lớn. Trở thành giảng viên

219
trường chính trị là quá trình phấn đấu bền bỉ rất dài, gian khổ, thực tiễn luôn vận
động, kiến thức luôn được cập nhật nếu rơi vào tự mãn về bản thân là tự đào thải
chính mình. Tự học để nâng cao kiến thức, hoàn thiện nhân cách bản thân để có đủ
“sức đề kháng” và chủ động góp sức trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
phản bác các luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực phản động.
KẾT LUẬN
Để xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, còn phải vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đòi hỏi tuổi trẻ phải phát huy
tốt vai trò xung kích, ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; có được nghị lực và ý chí quyết tâm, không ngừng nâng cao giác ngộ lý
tưởng cách mạng, để “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”; hoàn
thành xuất sắc sứ mệnh vẻ vang của tuổi trẻ, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp
đổi mới, xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như mong
muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của BCH T.Ư Đảng tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr 5,6.
[2] Báo Nhân Dân số 4062, ngày 18/5/1965
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12,
tr.562

220
HÀNH TRÌNH ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ BÀI HỌC CHO SINH VIÊN
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
ThS Vũ Mai Phương
Khoa lý luận chính trị - Học viện Ngân hàng
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu sứ xở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương…
(Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên)
Đất nước đẹp vô cùng, nhưng ngày 5-6-1911 tại Bến cảng Nhà Rồng, thành
phố Sài Gòn - Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), người thanh niên yêu
nước vừa tròn 21 tuổi - Nguyễn Tất Thành đã lên chiếc tàu mang tên Amiral
Latouche-Tréville bắt đầu cuộc hành trình đi ra thế giới tìm con đường mới để cứu
nước, cứu dân. Khi quyết định xuất dương, Chủ tich Hồ Chí Minh đã rủ một người
bạn của mình đi cùng. Người bạn đã hỏi: “Lấy tiền đâu để đi?”. Người đã giơ hai
bàn tay ra và nói: “Đây tiền đây, chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”.
Hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có hai bàn tay
trắng, và một ý chí quyết tâm sắt đá hướng tới mục tiêu độc lập cho Tổ quốc, tự do
cho đồng bào. Người đã trải qua bao khó khăn, thử thách với khoảng gần 20 nghề
khác nhau để kiếm sống như: quét tuyết, đốt lò, in phóng ảnh, phụ bếp… Sau mỗi
giờ làm việc vất vả, Người vẫn dành thời gian tự học, tự trau dồi tri thức và ngoại
ngữ. Khó khăn gian khổ không làm người thanh niên Nguyễn Tất Thành chùn
bước, trái lại, càng tôi luyện, hun đúc thêm lòng yêu nước kiên định mục tiêu giải
phóng dân tộc
Trong hành trình của tuổi thanh xuân, cuối cùng Người đã tìm ra "con đường
giải phóng" cho đồng bào, cho dân tộc Việt Nam. “Luận cương đến Bác Hồ, và
Người đã khóc. Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin”. Sự kiện ra đi tìm đường cứu nước
của Bác không chỉ truyền ý chí, cảm hứng, khát vọng cho thanh niên, mà còn giúp
thanh niên Việt Nam nói chung và sinh viên Học viện Ngân hàng nói riêng rút ra
nhiều bài học quý báu trong cuộc sống, học tập, công tác, lao động sản xuất, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những bài học về:
Sự quyết tâm và lòng kiên nhẫn: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua nhiều khó
khăn và thử thách trong suốt hành trình của mình. Tuy nhiên, Người không bao giờ

221
từ bỏ mục tiêu của mình và luôn kiên trì, sẵn sàng đối mặt với khó khăn. Bài học
quan trọng đối với thanh niên là sự quyết tâm và lòng kiên nhẫn là yếu tố quan
trọng để đạt được thành công trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Tình yêu và trách nhiệm với đất nước: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang trong
mình một tình yêu sâu sắc và trách nhiệm với đất nước và nhân dân Việt Nam.
Hành trình của Người là sự thể hiện của sự hy sinh và sự trung thành với lý tưởng
cách mạng. Thế hệ trẻ hiện nay phải xây dựng tình yêu và trách nhiệm với đất
nước, hiểu rằng mỗi người đều có khả năng và trách nhiệm đóng góp để xây dựng
một xã hội và tương lai tốt đẹp hơn.
Tự học và nỗ lực học tập không ngừng: Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng
nỗ lực học hỏi và tìm hiểu cách thức có thể giải phóng được đất nước. Người đọc
sách, tìm hiểu về các phong trào đấu tranh độc lập và tư duy cách mạng, gắn kết
với những người bạn đồng lòng. Sinh viên Học viện Ngân hàng hiện nay cần phải
noi gương và nuôi dưỡng tinh thần tự học, không ngừng mở rộng kiến thức và kỹ
năng để phát triển bản thân và đóng góp cho xã hội. Cần đặt mục tiêu học tập và
phát triển bản thân, kiên trì trong việc nâng cao trình độ và khám phá tiềm năng của
mình, không ngừng nỗ lực học hỏi, rèn luyện kiến thức và kỹ năng, để trở
thànhhững con người có ích cho xã hội.
Tư duy sáng tạo và linh hoạt: Trong hành trình tìm đường cứu nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tư duy sáng tạo và linh hoạt trong việc tìm giải pháp
và thay đổi chiến lược để thích ứng với tình hình thay đổi. Người không bị giới hạn
bởi những giải pháp truyền thống, mà luôn tìm cách sáng tạo và đổi mới, không sợ
thay đổi và thử nghiệm các hướng đi mới để đạt được kết quả tốt hơn.
Lòng yêu nước và tự hào về dân tộc và quê hương: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
truyền cảm hứng cho thanh niên có lòng tự hào và tự tin về dân tộc và quê hương.
Người tin rằng chỉ khi thanh niên tự hào về lịch sử, văn hóa và thành tựu của dân
tộc, họ mới có động lực để phấn đấu nỗ lực học tập, làm việc, thúc đẩy đất nước
ngày một phát triển giàu mạnh hơn.
Khát vọng và hoài bão: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khuyến khích thanh niên
nuôi dưỡng khát vọng và hoài bão trong cuộc sống. Người tin rằng khát vọng và
hoài bão sẽ truyền động lực để thanh niên vươn lên và đạt được thành công. Mặc
dù không hình dung ra con đường phía trước như thế nào, nhưng với quyết tâm và
khao khát cháy bỏng muốn giải phóng cho quê hương, đất nước, người vẫn một

222
mình ra đi đến những xứ sở xa lạ. Thanh niên ngày nay cần có những khát vọng,
hoài bão và không ngừng cố gắng để thực hiện ước mơ của mình.
Không ngừng học tập và trau dồi kiến thức: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi
trọng việc học tập và tự phát triển. Ông luôn khuyến khích thanh niên nỗ lực học
hỏi, rèn luyện kiến thức và kỹ năng, để trở thành người có ích cho xã hội. Bài học
quan trọng là thanh niên nên đặt mục tiêu học tập và phát triển bản thân, kiên trì
trong việc nâng cao trình độ và khám phá tiềm năng của mình.
Cần phải hội nhập và học tập những tinh hoa của thế giới: từ những kinh
nghiệm và thành tựu của các quốc gia và nhân dân khác, Người đã khám phá,
nghiên cứu và áp dụng những bài học quý giá để xây dựng chiến lược và lập kế
hoạch cụ thể cho cuộc đấu tranh giải phóng. Bài học quan trọng là thanh niên cần
có tinh thần học hỏi, sẵn sàng tiếp thu những kinh nghiệm và bài học từ người khác
để phát triển bản thân và đóng góp vào xã hội.
Những bài học này từ hành trình của Chủ tịch Hồ Chí Minh cung cấp những
nguyên tắc quan trọng cho sinh viên Học viện Ngân hàng, giúp các em trở thành
những công dân trách nhiệm, sáng tạo và có ý thức xã hội, góp phần vào sự phát
triển và thịnh vượng của đất nước.

223
DẤU ẤN VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
CỦA SỰ KIỆN BÁC HỒ RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Th.s Nguyễn Đức Quỳnh
Khoa Lý luận chính trị, Học viện Ngân hàng

Đặt câu hỏi rồi tự tìm câu trả lời, đó chính là điểm nổi bật nhất trong hành
trình sang phương Tây tìm con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam của Nguyễn
Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. 112 năm đã qua, giờ đây nhìn nhận lại
sự quyết đoán của Người để thấy giữa muôn vàn những yếu tố chi phối, ảnh hưởng,
nhưng với bản lĩnh, sự hiểu biết của một con người đầy hoài bão, lý tưởng, Người đã
không chấp nhận đi theo những lối mòn cứu nước trước đó để xông pha, lựa chọn
một con đường mới mẻ, nhiều chông gai nhưng hoàn toàn đúng đắn.
1. Dấu ấn “Người đi tìm hình của nước”
Khi Nguyễn Tất Thành đặt chân xuống tàu Amiral Latuso Trevil để đi sang
phương Tây ngày 05-6-1911, dân tộc Việt Nam đang phải chịu ách nô lệ của thực
dân Pháp. Trước Nguyễn Tất Thành đã có nhiều xu hướng, trào lưu cứu nước khác
nhau, mỗi phong trào đã làm cho thực dân Pháp thiệt hại ít nhiều, song kết quả cuối
cùng vẫn là những thất bại. Với những gì được cha kể lại, được học trên sách vở và
được chứng kiến trong thực tế, Người hiểu được rằng các anh hùng, sĩ phu yêu
nước của Việt Nam không thiếu nhiệt huyết và tài năng, đã tận tâm đem hết sức
mình ra cứu nước nhưng đều lực bất tòng tâm vì chưa tìm được con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc.
Nguyễn Tất Thành đúc rút kinh nghiệm từ bài học thất bại của các phong
trào trước đó, Người nhận thấy phong trào Cần Vương với các tấm gương tiêu biểu
như Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng... hầu như chỉ biết tập trung ý
chí và sức mạnh vào việc đánh đuổi thực dân Pháp; một số người có tư tưởng canh
tân, học hỏi cái mới, tiến bộ từ phương Tây như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường
Tộ thì ý thức chống ngoại xâm lại không quyết liệt, sâu sắc. Sự thất bại của phong
trào Cần Vương và phong trào nông dân do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã làm
nhiều người thức thời hiểu được rằng: kẻ thù của dân tộc Việt Nam lúc này rất
mạnh, có một đội quân viễn chinh được trang bị vũ khí hiện đại, còn chúng ta vẫn
lạc hậu trong vòng tăm tối, nếu chỉ đơn thuần có lòng yêu nước thôi thì chưa đủ
chiến thắng được, cho nên yêu cầu cần thiết lúc này là phải học hỏi, canh tân đất
nước, làm cho dân tộc phát triển đặng mới mưu cầu được nghiệp giải phóng.

224
Để thực hiện khát vọng đó, nhiều chí sĩ thức thời đã tiếp thu những trào lưu
“tân thư”, “tân văn” từ bên ngoài điển hình nhất là Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp…
Phan Châu Trinh với chủ trương “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh”, nhưng lại dựa vào Pháp để thực hiện những cải cách. Nguyễn Tất Thành
nhận thấy cụ tiêu biểu cho xu hướng yêu nước theo cách cải lương, bất bạo động,
chủ trương khơi dậy tinh thần yêu nước, dân chủ, mở đường cho văn minh phương
Tây đi vào đời sống dân tộc, nhưng cụ đã không nhìn ra mâu thuẫn lớn nhất đang
hiện hữu trong xã hội Việt Nam chính là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân
Pháp xâm lược. Bởi vậy, trong khi cố tập trung công kích bọn quan lại sâu mọt hại
nước, hại dân thì Phan Châu Trinh lại tỏ ra nương nhẹ việc đấu tranh nguyên lý
quân chủ và sự hiện hữu của nó là triều đình Huế; cụ còn có thái độ công kích
những ai chủ trương dùng phương pháp bạo động cách mạng và cầu viện sự giúp
đỡ từ bên ngoài “bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại giả
ngu”. Vì vậy, đường lối và phương pháp của Phan Châu Trinh đã không đi sâu bắt
rễ được vào cuộc sống, không được nhân dân chấp nhận, mặc dù ông là một chí sĩ
yêu nước có uy tín và danh vọng lớn. Một dân tộc có truyền thống kiên cường, bất
khuất như dân tộc Việt Nam sao có thể cam chịu dựa vào kẻ thù, mong đợi ở chúng
ban bố cho những cải cách[1].
Phan Bội Châu chủ trương “vọng ngoại”, “bạo động” để tìm cách cứu nước
cứu dân, cụ muốn theo gương duy tân của Nhật Bản. Để thực hiện mục đích của
mình, Phan Bội Châu đã lập ra các đảng cách mạng, đưa thanh niên từ Việt Nam
sang Nhật Bản để học tập cái hay, cái mới của Nhật rồi về cứu nước, dùng cách
tuyên truyền qua văn chương để khích lệ lòng yêu nước của nhân dân, từ đó hình
thành phong trào đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Để gây thanh thế cho cách mạng
Việt Nam, Phan Bội Châu còn xây dựng mối quan hệ đồng minh với cách mạng các
nước cùng cảnh ngộ trong khu vực Đông Á. Phan Bội Châu đã tổ chức được nhiều
chuyến Đông Du cho thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản để học tập phương pháp
canh tân đất nước. Nhật Bản khi đó chính là một tấm gương về nghị lực cũng như
sự thức thời để trở thành một nước phát triển, có tầm ảnh hưởng to lớn ở châu Á.
Đặc biệt, sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905), vai trò, vị
thế và tầm ảnh hưởng của Nhật càng tăng cao, lần đầu tiên có một dân tộc da vàng
đã chiến thắng dân tộc da trắng, điều đó đã tạo nên ảo tưởng về sự “dựa dẫm” của

225
các quốc gia “đồng chủng, đồng văn” với mong muốn thoát khỏi sự thống trị của
các nước phương Tây, trong đó có Việt Nam.
Phan Bội Châu cùng rất nhiều nhân sĩ đương thời chỉ thấy ở người Nhật Bản
máu đỏ da vàng, “đồng chủng, đồng văn” nhưng lại không hề nhìn thấy ở họ sự
không “đồng bệnh”. Vì vậy, khi Pháp đồng ý trao cho Nhật một số lợi ích với yêu
cầu trục xuất và dập tắt phong trào Đông Du thì con đường của cụ Phan Bội Châu
thất bại. Đánh giá về cách thức cứu nước của cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành
cho rằng, làm vậy chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Thực tế
đã chứng minh sau này khi có cơ hội Nhật cũng đã hất cẳng Pháp để thống trị nhân
dân Việt Nam.
Không phải tìm về với các giá trị phong kiến cũ kỹ theo phong trào Cần
Vương; không phải lựa chọn cách thức duy tân theo hai cụ Phan để rồi sang Nhật,
sang Trung Quốc, đọc sách Tân Thư, Tân Văn để Canh Tân đất nước; sức hút lớn
nhất với Nguyễn Tất Thành khi đó chính là hình ảnh của nước Pháp với các giá trị
nhân văn về “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Điều đó đã thôi thúc khát vọng cháy bỏng
của Người về nền văn minh Pháp. Người muốn làm quen, khám phá và xem sự thật
ẩn dấu đằng sau những mỹ từ đó là gì. Và hơn hết, Người muốn đến đó để trả lời
câu hỏi của thế hệ cha anh Người vẫn đang đau đáu:“Nhân dân Việt Nam trong đó
có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình
thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ.
Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào tôi”[2].
Để chuẩn bị cho cuộc đi đó, hành trang Nguyễn Tất Thành mang theo là trí
tuệ cùng ham muốn tột bậc là nước được độc lập, dân được hạnh phúc, tự do.
Người ra đi trong hình ảnh một người lao động, Nguyễn Tất Thành đã hòa mình
vào cuộc sống của giai cấp vô sản, không e dè, mặc cảm, không bề trên, khinh
thường, “đó quả là một sự đổi mới đầy dũng cảm”[3].
Nguyễn Tất Thành đã đi nhiều nước, khảo sát nhiều cuộc cách mạng, học hỏi
nhiều mô hình nhà nước, tất cả đều với mục đích cao nhất là tìm con đường giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Đến Mỹ, thay vì nhìn thấy những hào nhoáng,
những lời lẽ đẹp đẽ về quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người, chứng
kiến cuộc sống nghèo khổ, bị chà đạp của người da đen và sự bất công mà người
phụ nữ phải gánh chịu, cho nên cách mạng Mỹ chưa phải là cái đích cuối cùng mà
Nguyễn Tất Thành hướng tới.

226
Sang Anh, nơi mà gần đó đang diễn ra cuộc đấu tranh dũng cảm, đầy hy sinh
của nhân dân Airơlen để giành độc lập. Phong trào đã bị đàn áp, những người cầm
đầu bị bức hại. Anh thấm thía: Nếu bản thân người da trắng còn chưa được tự do,
độc lập thì có thể hy vọng gì ở chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc da màu?[4].
Qua hai nước tư bản phát triển là Mỹ và Anh nhưng không tìm thấy câu trả
lời, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, đất nước đang cai trị dân tộc mình để tìm hiểu
thực hư của những mỹ từ “tự do, bình đẳng, bác ái”. Đến đây vừa đúng lúc các
nước thắng trận trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang chuẩn bị họp hội
nghị để chia lại thuộc địa. Được sự hướng dẫn của các nhà cách mạng tiền bối như
Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn Tất Thành đã tích cực hòa mình vào
phong trào yêu nước của những người Việt Nam tại Pháp. Năm 1919, khi Hội nghị
hòa bình tổ chức tại Véc xây, Nguyễn Tất Thành đã chuyển đến Hội nghị Bản Yêu
sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm, trong đó sử dụng hình thức đấu tranh pháp
lý của giai cấp tư sản để đòi các quyền bình đẳng, tự do, dân chủ tối thiểu cho nhân
dân Việt Nam. Mặc dù Bản yêu sách không được chấp thuận, song nó cũng đã gây
tiếng vang lớn cho các nước đế quốc và nhân dân An Nam, đồng thời lần đầu tiên
tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện một cách trang trọng trên những báo chí của
Pháp cũng như báo cáo của Chính phủ thực dân.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một tổ chức chính
trị duy nhất ở Pháp tỏ ý quan tâm đến số phận các dân tộc thuộc địa. Sau này,
Người đã chia sẻ: “Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ông bà" ấy
- hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế - đã tỏ ra đồng tình với tôi, với cuộc
đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”[5].
Tháng 7 -1920, sau nhiều năm kiếm tìm, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I Lênin
và tìm thấy ở đây chiếc “cẩm nang thần kỳ” cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
mình. Tìm thấy con đường cứu nước chính là điều kỳ vọng nhất của Nguyễn Ái
Quốc trong nhiều năm đã trở thành hiện thực. Điều đó được người ví “tựa như
người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn” (6). Để tìm
thấy “nước uống” và “cơm ăn” cho dân tộc, Người đã phải mất gần 10 năm lao
động vất vả, cực nhọc, học tập, nghiên cứu, đấu tranh không ngừng nghỉ, cốt mong
chọn lấy một con đường duy nhất đúng đắn giữa muôn vàn con đường không hiệu

227
quả, không đến nơi. Con đường đó chính con đường cách mạng vô sản, là chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Sự tin tưởng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vào chủ nghĩa Mác - Lênin
và quyết định áp dụng chủ nghĩa đó vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã minh
chứng cho tính cách mạng, đổi mới, vượt gộp trong tư tưởng và suy nghĩ của Người
so với các bậc tiền nhân. Từ chỗ sang phương Tây với những nhận thức còn sơ khai
về tự do, bình đẳng, bác ái đến chỗ đi đến hiểu được bản chất thực sự của chủ nghĩa
tư bản, từ chỗ còn chưa biết đến các nước Âu, Mỹ ra sao đến khi đã thông thuộc cả
Pháp, Anh, Mỹ thì Người hiểu rằng con đường cách mạng của các nước đó là
“chưa đến nơi”, từ chỗ chưa hiểu đảng là gì, công đoàn là gì, qua quá trình trải
nghiệm thực tiễn phong trào, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức được con đường mình
cần phải đi, hiểu được chủ nghĩa nào tốt cho dân tộc Việt Nam, đảng phái nào mình
cần phải đứng vào hàng ngũ.
Sự đổi mới về mặt tư tưởng này của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh “tưởng
chừng như đơn giản và tự nhiên, thực ra đó là một chặng đường chiến thắng biết
bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được sai lầm dẫn tới ngõ cụt” (7). Đó
là dấu ấn lịch sử trọng đại trên hành trình tìm đường cứu nước, mở ra con đường
xây dựng đất nước Việt Nam của Hồ Chí Minh.
2. Giá trị lịch sử của sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước
Lịch sử dân tộc Việt Nam mãi mãi ghi nhớ ngày 05-6-1911 - người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành với tên Văn Ba đã lên con tàu Amiral Latouche
Tréville của Pháp, lênh đênh nơi sóng cả, bôn ba qua ba đại dương, bốn châu lục, đi
qua 28 nước trên thế giới để đem chân lý của thời đại là chủ nghĩa Mác - Lênin về
với dân tộc Việt Nam. Quá trình đó cũng là quá trình chuyển biến từ người thanh
niên yêu nước nhiệt thành trở thành người chiến sĩ cộng sản quốc tế, là quá trình
kiên trì, chủ động, sáng tạo, bền gan, vững trí của Nguyễn Tất Thành trước những
khó khăn, chông gai của thời cuộc.
112 năm nhìn lại, chúng ta có thể khẳng định rằng, quyết định sang phương
Tây của Nguyễn Tất Thành là hoàn toàn đúng đắn, có giá trị to lớn đối với lịch sử
dân tộc Việt Nam.
Một là, sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mở ra quá trình
Người tiếp thu chân lý thời đại - chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra con đường chân
chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Với lòng yêu nước nồng nàn, sự cảm

228
thông sâu sắc với cuộc sống đọa đày đau khổ của nhân dân, Người ra đi với tâm thế
và dự định ấp ủ xem các nước họ làm như thế nào để trở về giúp đồng bào. Chính
nhờ sự đổi mới, sáng tạo về cách làm so với những người trước đó mà Nguyễn Tất
Thành đã sớm thấu hiểu nỗi thống khổ của người lao động, lại càng hiểu hơn nỗi cơ
cực của người dân mất nước. Gần 10 năm sau ngày bước chân xuống tàu để sang
phương Tây, tài sản lớn nhất Người đã có được, đó chính là con đường cứu nước
cho dân tộc Việt Nam. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đã giúp Người giải đáp con đường đấu tranh giành
độc lập, tự do: Cách mạng vô sản. Sự lựa chọn đúng đắn của Người càng có giá trị
to lớn trong thế bế tắc về đường lối của cách mạng Việt Nam, mở ra bước ngoặt
lịch sử của cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách
mạng vô sản”[8].
Hai là, sự kiện này cũng mở ra thời kỳ định hình của con đường xây dựng,
phát triển đất nước: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Mục tiêu nhất quán của
Nguyễn Tất Thành khi ra nước ngoài ngày 5-6-1911 là tìm đường cứu nước. Sau
khi tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, Người xác định: “Đối với tôi, câu trả lời
đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [9]. Đặt cách mạng Việt
Nam trong quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, Người nhận thấy rằng, cách mạng
giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới giành được
thắng lợi hoàn toàn. Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc tạo tiền đề, cơ sở cho
việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước; giải phóng dân tộc phải hướng tới
giải phóng hoàn toàn con người khỏi mọi áp bức, bóc lột. Do đó, độc lập dân tộc
phải gắn liền với CNXH, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”[10]. Đó là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với yêu cầu lịch sử của cách mạng
Việt Nam và xu thế phát triển tất yếu của thời đại.
Ba là, sự khởi đầu hành trình tìm đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất
Thành đã đặt nền móng cho quá trình Người tiếp nhận, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin
thâm nhập vào cách mạng Việt Nam. Trải qua những năm bôn ba, Người học hỏi,
thâu thái những tinh hoa văn hóa nhân loại và từng bước nghiên cứu, tiếp nhận thế
giới quan khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đến với học
thuyết Mác - Lênin khi nhìn thấy ở đó ánh sáng soi đường, chỉ lối cho con đường

229
đấu tranh giải phóng dân tộc, để rồi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam,
sáng lập chính đảng cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi theo con đường cách mạng vô sản, cuộc cách mạng thành công dẫn tới sự ra đời
của nhà nước dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu Á - nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, khởi tạo nên một thời đại rực rỡ, thời đại Hồ Chí Minh, đúng như lời
tiên lượng của cụ Phan Châu Trinh “tôi tin rằng không bao lâu nữa cái chủ nghĩa
Anh tôn thờ sẽ thâm căn cố đế trong đám dân tình chí sĩ nước ta”[11].
Bốn là, hành động ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành có ý
nghĩa động viên, cổ vũ, thúc đẩy cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải
phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Trên những nơi đã đi qua, Người hòa
mình vào các phong trào của quần chúng lao động, tham gia sôi nổi và quyết liệt
trong các hoạt động đấu tranh yêu nước ngay chính trên đất nước của kẻ thù đang
áp bức dân tộc mình. Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây
(năm 1919) không được chấp nhận đã giúp Người thấy được bản chất bịp bợm, giả
dối của chủ nghĩa đế quốc và rút ra bài học: Muốn giải phóng, các dân tộc phải dựa
vào lực lượng của chính bản thân mình. Đặt chân đến nhiều nước thuộc địa và đế
quốc, chứng kiến cuộc sống của nhân dân lao động nhiều nước, Người kết luận:
“Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột
và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình
hữu ái vô sản”[12]. Do đó, cách mạng Việt Nam phải là một bộ phận khăng khít, gắn
bó chặt chẽ với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới. Nhân dân
các dân tộc thuộc địa được thức tỉnh, cổ vũ to lớn từ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh - người đại diện cho khát vọng chân chính của dân tộc Việt Nam: “Độc lập
cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi. Đó là tất cả những gì tôi hiểu, đó là tất cả
những gì tôi muốn”[13].
Năm là, sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước đã thể hiện tấm
gương lớn về quyết định chủ động, sáng tạo, độc lập, ý chí, quyết tâm, nghị lực phi
thường trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Nguyễn Tất Thành ra đi trong bối cảnh
đất nước bị xâm lược, nhân dân lầm than, hành trang là hai bàn tay trắng, động cơ
trong sáng, cao cả: Vì nước, vì dân. Với trái tim nhiệt thành yêu nước, thương dân,
Người làm nhiều công việc vất vả để sống và hoạt động cách mạng. Người vừa lao
động, vừa học hỏi, vừa đấu tranh trong những hoàn cảnh nhiều khó khăn, nguy
hiểm để tích lũy tri thức, kinh nghiệm thực tiễn, tìm kiếm câu trả lời lịch sử cho sự
nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.

230
Những bài học sâu sắc từ sự chủ động, quyết đoán, sáng tạo, bản lĩnh, nghị
lực của Người có giá trị to lớn đối với các thế hệ, đặc biệt là trong bối cảnh đổi
mới, hội nhập quốc tế hiện nay.
Ngày 5-6-1911 không chỉ là sự kiện khởi đầu hành trình tìm đường cứu nước
của Nguyễn Tất Thành mà còn là một dấu ấn đặc biệt trong quá trình đấu tranh
giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Đây là sự kiện mang giá trị lịch sử, thể hiện
cống hiến của Người đối với công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam trong kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1], [3], [4] Song Thành: Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2005, tr.56, 63, 58.
[2] Báo Nhân dân, số 4062, ngày 18-5-1965.
[5], [8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2011, tr.561, 30.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.173.
[7] Hồ Chí Minh, Notre camarade, Introduction historique de Charles
Fourniau, Ed. Sociales, Paris, 1970, p.28.
[9], [12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 209, 287.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 128.
[11] Lê Thị Kinh: Phan Chu Trinh qua những tư liệu mới, t.2, Nxb Đà Nẵng,
2003, tr.355.
[13] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2012, tr.54-55.

231
NHỮNG CỐNG HIẾN VÀ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH
TRONG QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Nguyễn Hiền Anh, Trần Thị Ngọc Châu
Lê Hải Ngọc, Hồ Thu Quỳnh, Bùi Đức Thịnh
K24CLC, Ngân hàng B, Học viện Ngân Hàng
MỞ ĐẦU
Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, Người nhận thấy một trong những ưu
điểm đặc sắc nhất của lý luận Mác - Lênin là phép biện chứng. Đó là phép biện
chứng của phát triển xã hội, là khoa học và cách mạng của sự phát triển, xóa bỏ trật
tự xã hội cũ bất công, tàn bạo và hướng tới xây dựng trật tự xã hội mới, dân chủ,
công bằng và nhân đạo, xứng đáng nhất với con người - đó là chủ nghĩa cộng sản.
Người cũng đặc biệt đề cao học thuyết cách mạng của Lênin, cả trí tuệ khoa học,
tính triệt để cách mạng lẫn đạo đức và nhân cách của người sáng lập ra học thuyết
Đảng kiểu mới, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, biến
chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết lý luận thành hiện thực xã hội mới, một chế độ
xã hội mới.
1. Những cống hiến của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc
- Nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Mác – Lênin
Người nhận rõ chủ nghĩa Mác - Lênin là biểu hiện và kết tinh tinh hoa trí tuệ
và tư tưởng của thời đại, của văn hoá nhân loại. Song, Người cũng đặt ra một vấn
đề hết sức nghiêm túc về nhận thức khoa học: “Mác đã xây dựng học thuyết của
mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu.
Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Người đặt vấn đề về sự cần
thiết phải vận dụng quan điểm và phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác để xem xét sự khác nhau cơ bản giữa kết cấu kinh tế và kết cấu giai cấp - xã
hội giữa phương Tây với phương Đông. Nếu giải phóng giai cấp và đấu tranh giai
cấp như một đặc trưng nổi bật và là một đòi hỏi bức xúc ở phương Tây tư bản chủ
nghĩa, thì ở phương Đông, trong đó có Việt Nam lại nổi lên đặc trưng khác, đó là
giải phóng dân tộc, là giải quyết mâu thuẫn dân tộc với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
thực dân xâm lược để giành độc lập, xóa bỏ tình trạng thuộc địa và phụ thuộc dưới
ách đô hộ, thống trị của thực dân.
Đó là lý do giải thích vì sao Người chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp
trong dân tộc để tạo ra sức mạnh giải phóng. Trong khi tin tưởng chắc chắn rằng, lý

232
luận của chủ nghĩa Mác là đúng đắn không chỉ ở phương Tây mà còn ở phương
Đông, Người còn có dự báo đầy mẫn cảm rằng, chủ nghĩa cộng sản dễ áp dụng và
cách mạng cộng sản chủ nghĩa dễ thành công hơn chính trong thực tiễn phương
Đông, châu á và Việt Nam. Một trong những cơ sở luận chứng cho giả thuyết đó là
sức đoàn kết dân tộc, truyền thống cộng đồng đã tỏ ra rất gần gũi với bản chất của
chủ nghĩa cộng sản.
Nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh, điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam là điểm xuất phát về lý luận và thực
tiễn, về ý thức hệ của Hồ Chí Minh. Đó chẳng những là cơ sở để có những phát
kiến sáng tạo, những cống hiến của Hồ Chí Minh về tư tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự cống hiến đặc sắc của Người, góp phần làm phong
phú chủ nghĩa Mác - Lênin và kho tàng lý luận cách mạng thế giới.
- Vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân
và nêu lên tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phối hợp
chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc
Nguyễn Ái Quốc là người đã viết tác phẩm lý luận mácxít Bản án chế độ
thực dân Pháp rất nổi tiếng vào năm 1925. Tác phẩm này là một tổng kết lịch sử,
một cáo trạng đối với chủ nghĩa thực dân, để sau đó 20 năm, vào năm 1945, Người
viết nên Tuyên ngôn độc lập, khai sinh chế độ dân chủ cộng hoà của nước Việt
Nam độc lập, đồng thời là cáo chung chế độ thực dân ở Việt Nam sau hơn 80 năm
tồn tại của nó.
Người phân tích: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các
thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai
vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai
cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận rõ, đối với những người lao động
và vô sản ở khắp mọi nơi, dù màu da có khác nhau nhưng họ đều có chung một kẻ
thù và cũng có chung một mục tiêu tranh đấu. Đế quốc thực dân ở đâu đâu cũng là
ác quỷ, phải đánh đổ nó đi. Còn anh em vô sản ở đâu đâu cũng là bạn bè, anh em,
đồng chí của nhau. Trên đời này, suy đến cùng, cũng chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật
mà thôi: tình hữu ái vô sản.

233
- Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc với giai
cấp, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp trên lập trường giai cấp
công nhân
Hồ Chí Minh đã sớm đi đến một kết luận quan trọng: sự nghiệp giải phóng
dân tộc phải đồng thời gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải
phóng xã hội; cả hai cuộc giải phóng đó đều là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, là sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Về thành lập Đảng Cộng sản:
Trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin chỉ bao gồm 2 yếu tố: Chủ nghĩa
Mác-Lênin và phong trào công nhân.
Trong lý luận của Bác: 2 yếu tố trên và thêm yếu tố thứ 3 là “phong trào yêu
nước”.
- Về quan hệ quốc tế:
Trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin: Cách mạng của thuộc địa phụ thuộc
hoàn toàn vào cách mạng của chính quốc. Đây là mối quan hệ chính-phụ (Chính
quốc là chính-Thuộc địa là phụ).
Trong lý luận của Bác: Mối quan hệ bình đẳng, thậm chí các nước thuộc địa
còn có thể giành thắng lợi trước và thậm chí quay lại giúp chính quốc.
Con đường cách mạng vô sản đã thành công với các nước phương Tây,
nhưng khi áp dụng vào thực tiễn Việt Nam (một nước thuộc địa phương Đông) thì
không thể thành công nếu chỉ áp dụng máy móc, kế thừa y nguyên những giá trị
của chủ nghĩa Mác-Lenin mà không có sự thay đổi, vận dụng sáng tạo, khéo léo
của Hồ Chí Minh. Chính vì thế, nhờ năng lực tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí
Minh đã có những cống hiến lớn trong công cuộc tìm đường giải phóng đất nước.
- Nhờ có lý luận và phương pháp cách mạng đúng đắn, Hồ Chí Minh đã
cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc ta đánh bại chủ nghĩa thực dân
kiểu cũ và mới, đưa dân tộc ta vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thế giới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước ta
Mấu chốt của xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là phải dựa vào
dân, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Việc
gì có lợi cho dân phải quyết làm cho bằng được. Việc gì có hại tới dân phải quyết
tránh cho bằng được. Quyền làm chủ của dân, hạnh phúc của dân, sự phát triển tự
do, dân chủ, công bằng trong xã hội - đó là những giá trị đảm bảo cho chế độ phát
triển bền vững và chủ nghĩa xã hội thực sự là một xã hội văn hóa cao, trong đó, con

234
người là con người xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ và làm chủ, dân tộc trở thành
một dân tộc thông thái. Chủ nghĩa xã hội nhân dân và nhân văn trong chiều sâu triết
lý nhân văn chủ nghĩa của Hồ Chí Minh là ở đó. Trong những tư tưởng hàm xúc đó
đã toát lên đầy đủ những vấn đề cốt yếu về mục tiêu, bản chất, động lực, cách làm và
bước đi của chủ nghĩa xã hội. Đó là chủ nghĩa xã hội Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó cũng là một trong những cống hiến sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội.
Việc lựa chọn bỏ qua mô hình TBCN không đồng nhất với việc bỏ qua toàn
bộ, mà ngược lại chúng ta vẫn tiếp thu những thành tự đáng quý của mô hình, thời
kỳ này. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh đã quán triệt tư tưởng phải chống lại, phải đẩy
lùi những tiêu cực của mô hình TBCN, như là tư tưởng thực dụng, chủ nghĩa tiêu
dùng, coi sự chiếm hữu tài sản là thước đo của hạnh phúc, thịnh vượng,... CNXH
mà nước ta tiến tới có nhiều điểm ưu việt, mà nhờ đó trung tâm của xã hội là con
người được phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần, không ai bị bỏ lại phía
sau, con người được sống hòa hợp với thiên nhiên và bạn bè quốc tế.
2. Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc
- Độc lập ra đi tìm đường cứu nước
Trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng ở Việt Nam, Bác Hồ đã tự ra đi tìm
đường cứu nước và không ngừng nỗ lực để giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội
công bằng. Bác đã trải qua nhiều cuộc hành trình và khó khăn để tìm đường cứu nước.
Người đã đi từ nước ngoài trở về nước vào năm 1941 xuyên qua các vùng núi, rừng
rậm, để lãnh đạo và tổ chức kháng chiến chống lại thực dân Pháp và sau đó chống lại
phát xít Nhật.Có thể nói Bác đã hy sinh hạnh phúc bản thân để dành toàn bộ thời gian
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bác luôn
đặt lợi ích của dân tộc lên hàng đầu và không ngừng làm việc vì sự phát triển của đất
nước.
Bên cạnh đó, công cuộc tự giải phóng dân tộc của Việt Nam không dựa dẫm
vào bất kỳ nước nào. Trong suốt quá trình chiến đấu, nguyên tắc của cuộc đấu tranh
của Việt Nam luôn là tự lực, tự cường. Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam
đứng lên chống lại các thế lực đế quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền và sự tồn tại của
dân tộc. Nguyên tắc "tự lực cánh sinh" đã trở thành tôn chỉ của cuộc cách mạng
Việt Nam, khẳng định quyết tâm và khả năng của người Việt trong việc tự mình
giải phóng và xây dựng đất nước. Các cuộc kháng chiến lịch sử của Việt Nam, từ

235
kháng chiến chống Pháp cho đến kháng chiến chống Mỹ, đều dựa trên sự tổ chức,
đoàn kết và sự hy sinh của nhân dân Việt Nam. Qua những nỗ lực không ngừng
nghỉ, người dân Việt Nam đã tự mình giành lại độc lập và thể hiện ý chí mạnh mẽ
của mình trong việc xây dựng một xã hội công bằng, tiến bộ và hạnh phúc.
- Phẩm chất và trí tuệ của Nguyễn Tất Thành, cùng với vào cuộc sống
thực tiễn, bằng lao động để mở mang nhận thức tìm ra chân lý
Vốn được sinh ra tại quê hương Nghệ An - một vùng đất với truyền thống
hiếu học; có cha là nhà Nho giáo yêu nước; ngay từ khi còn nhỏ, Bác Hồ đã sớm
được tiếp cận với tinh hoa văn hóa Phương Đông, tiếp thu giá trị truyền thống dân
tộc. Lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến cảnh đồng bảo cực khổ, tinh
thần bất khuất, kiên cường đấu tranh của cha anh, Người càng yêu nước sâu sắc,
trong lòng dần hình thành những ý chí, ước mong, khát vọng lớn lao. Vì vậy, năm
1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết định hành trình tìm đường cứu
nước của mình. Bắt đầu cuộc hành trình, người lựa chọn làm phụ bếp trên con tàu
Amiral Latouche Tréville từ bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Marseille (Pháp).
Gần 10 năm bôn ba, kinh nghiệm tích lũy dần qua những chuyến đi, Nguyễn
Aí Quốc đã đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới, Người đã đi qua bốn châu lục: Âu,
Á, Phi, Mỹ; Người đặc biệt dành thời gian ở lại lâu hơn trên đất Pháp - Anh - Mỹ
để nghiên cứu, tìm tòi và khảo nghiệm quá trình cách mạng của ba đất nước này.
Trong quá trình bôn ba gian truân, Người đã làm vô số công việc như cào tuyết, đốt
lò, chụp ảnh, vẽ thuê, ... Công việc tuy vất vả, mệt nhọc nhưng lại vô cùng ý nghĩa
đối với chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất
Thành đến cảng Mác - xây; ấn tượng mạnh khi nhìn thấy những người phụ nữ Pháp
nghèo khổ, Người nhận ra trên đất nước Pháp vẫn còn những người dân nghèo khổ,
Người nghi vấn: “Tại sao người Pháp không khai hóa đồng bào họ trước khi khai
hóa đồng bào ta?”. Làm thuê trên chiếc tàu vòng quanh Châu Phi, chứng kiến
người da đen bị hành hạ, phân biệt đối xử bởi lũ thực dân tàn độc, Người nghĩ:
“Với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không
đáng một xu”. Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành đến Mỹ, Người thăm Tượng
nữ thần Tự do, không bị ấn tượng bởi sự tráng lệ, đồ sộ của bức tượng, Người vô
cùng đồng cảm với hình ảnh những người nô lệ da đen dưới chân tượng. Quá trình
đi từ Mỹ sang Anh rồi trở lại Pháp, đặc biệt nghiên cứu các cuộc Cách mạng tư sản
Anh - Mỹ - Pháp, Nguyễn Tất Thành đưa ra kết luận các cuộc cách mạng tư sản
này đều là những cuộc cách mạng vĩ đại nhưng “không đến nơi”. Chiến tranh thế

236
giới thứ nhất đã lấy đi bao mạng người vô tội, bao của cải đều mất đi, Nguyễn Tất
Thành càng hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết
thúc, tại buổi họp Hội nghị hòa bình Véc - xây để các nước thắng cuộc phân chia
tài sản; Nguyễn Tất Thành thay mặt “Hội những người Việt Nam yêu nước” gửi
đến Hội nghị “Bản yêu sách 8 điểm”; văn bản này chỉ yêu cầu những yêu sách vô
cùng tối thiểu và cấp thiết cho nhân dân An Nam nhưng lại không được Hội nghị
thông qua. Việc này đã vạch trần bản mặt của chủ nghĩa tư sản, giúp Nguyễn Aí
Quốc hiểu được rằng: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể tự trông cậy
vào mình, trông cậy vào lực lượng bản thân mình”.
- Tham gia hoạt động chính trị, tiếp cận các trường phái cách mạng, các
luồng tư tưởng; khảo nghiệm thực tiễn để chọn con đường cứu nước đúng và khoa
học
Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh được thể hiện việc trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã tiếp thu những giá trị cũ, bổ sung và
phát triển những giá trị mới để làm cho hệ tư tưởng - lý luận luôn được đổi mới và
cách mạng hóa. Với niềm nhiệt huyết cứu nước, với nhãn quan chính trị sắc bén
cùng nhận thức sâu sắc về bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc đã tìm
hiểu về Pháp cùng một số nước khác với mong muốn tìm ra con đường để giải
phóng đất nước, giải phóng dân tộc.
Có thể nói sự kiện đọc bản thảo “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề về dân tộc và vấn đề thuộc địa’’ của V.I.LêNin đăng trên báo L'Humanité
(Nhân đạo) vào ngày 16 và 17/7/1920 đã đánh dấu một cột mốc vô cùng quan trọng
trong quá trình chuyển biến cơ bản về nhận thức con đường cứu nước và giải phóng
dân tộc của Hồ Chí Minh. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và đem lại cho người một luồng ánh
sáng để chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước và giải phóng dân tộc. Và
sau khi đã xác định được con đường cách mạng đúng đắn, người tiếp tục khảo sát,
tìm hiểu để hoàn thiện những nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời
tích cực trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin về Việt Nam. Cho đến cuối đời,
Hồ Chí Minh càng trung thành với con đường độc lập dân tộc bao nhiêu, thì càng
trung thành bấy nhiêu với những lý luận Lênin viết trong Sơ thảo Luận cương và
đường lối của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc ngày càng có
hệ thống và hoàn thiện khi Người tham gia Đảng Cộng sản Pháp, học tập ở Đại học

237
phương Đông, sống trong không khí sục sôi ở trung tâm phong trào cộng sản ở
Nga, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp
vào tháng 12/1920 tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp đã đánh dấu một bước ngoặt lớn,
đưa Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản,trở thành
người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đó cũng là quá trình mở
đầu trên con đường kết hợp đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
vô sản. Từ đây, cách mạng Việt Nam bắt đầu đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản
- Việc tìm ra con đường cứu nước, con đường phát triển cho dân tộc của
Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa lịch sử và sự sáng tạo to lớn
Tìm ra con đường đúng đắn cứu nước không phải là dễ thế nhưng việc tuyên
truyền vận động quần chúng và tổ chức thắng lợi trên đường lối ấy thực tế còn khó
hơn nhiều. Nét đặc sắc nhất cuộc hành trình cứu nước 30 năm là không bao giờ
Người xa rời mục đích về nước cứu đồng bào. Khi đang hoạt động trong Bát lộ
quân Trung Quốc, Người vẫn bí mật liên lạc với Ban lãnh đạo Đảng trong nước
chuẩn bị xây dựng căn cứ địa vùng biên giới Việt Trung. Đầu năm 1941, sau 30
năm ra đi tìm đường cứu nước, Người kết thúc Hành trình cứu nước, về vùng rừng
núi Cao Bằng - địa đầu Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo dân tộc thực hành đường lối cứu
nước mới, mở ra giai đoạn mới trong công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam.
Người đã đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin soi đường cho phong trào yêu
nước và khắc họa rõ nét truyền thống của người dân Việt Nam là lòng yêu nước
giống như người đã từng viết: ‘’Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta’’. Đồng thời đó còn là một biểu tượng sáng chói trong
hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc trong công cuộc tái thiết và phát triển đất
nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Hồ Chí Minh đã có một đóng góp to lớn và
thiết thực trên con đường cứu nước, giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam, mở
ra một thời kì phát triển mới của phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á
nói riêng.
3. Liên hệ sinh viên
- Nhận thức

238
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng cho các thế hệ người Việt noi theo. Từ lâu,
chúng ta đã được nghe, được cổ vũ động viên và học tập, rèn luyện theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Là thanh niên, chủ nhân tương lai của đất nước,
sinh viên nói chung và sinh viên học viện Ngân Hàng nói riêng cần có nhận thức
đúng đắn trong việc học tập và làm theo lời Bác.
Bác đã nói: “Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người
có tài mà không có đức thì là người vô dụng”. Quả đúng như vậy, sinh viên cần
nhận thức được việc bản thân cần phải nỗ lực rèn đức và luyện tài trên tinh thần
học tập noi gương Bác.
Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng
lớp sinh viên, thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất
đạo đức cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu rèn luyện. Trong Bài nói tại Đại
hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (7-5-1958), những phẩm chất đó được Người
tóm tắt trong "Sáu cái yêu”:
1. Yêu Tổ quốc.
2. Yêu nhân dân.
3. Yêu chủ nghĩa xã hội.
4. Yêu lao động.
5. Yêu khoa học và kỷ luật.
6. Và cuối cùng, Bác chân tình gửi gắm: “Mong các cháu cũng làm người
thanh niên anh hùng trong thời đại anh hùng”.
Sinh viên cần thấy được trách nhiệm của mình với đất nước, từ đó luôn vững
tin vào CNXH, vào sự lãnh đạo của Đảng, trở thành thế hệ công dân gương mẫu,
tài năng, sáng tạo.
- Hành động
Để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình
những đức tính như: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ
nhiệm vụ của mình, "không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự
hỏi mình đã làm gì cho nước nhà. Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà
nhiều hơn. Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào". Trong
học tập, rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động; phải
chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng hám danh, hám lợi.
"Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động,
nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị.

239
Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang". Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì?
Học để phục vụ ai? Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là
thù?... Người chỉ rõ: "Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta
đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù.
Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào
là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù...
Điều gì đúng, thì phải cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức
tránh, dù là điều nhỏ".

240
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG
CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG VÀ PHÁT TRIỂN DÂN TỘC
Lộ Minh Anh, Bùi Thị Phương Thảo, Trần An Nhung,
Phạm Thu Hằng, Trần Việt Huyền, Trần Phương Hạ,
Nguyễn Huy Thành, Nguyễn Ngọc Huyền, Trần Đức Lương
K24CLC, Kế toán A, Học viện ngân hàng

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh bổ sung và làm phong phú thêm lý luận của
chủ nghĩa Mác Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc
- Sự phát triển lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân
Điểm sáng tạo trước tiên của Hồ Chí Minh là nghiên cứu, tìm hiểu, nắm
vững bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Hồ Chí Minh đặt mình trong hoàn
cảnh là một người dân mất nước, là nạn nhân trực tiếp của chủ nghĩa thực dân Pháp
khi nghiên cứu chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, để có thể hiểu rõ hơn về “kẻ
thù” của dân tộc, đất nước mình, và mục đích chính là tìm con đường “chống chủ
nghĩa thực dân”, giải phóng dân tộc và con người khỏi áp bức bóc lột của ách thống
trị. Trong giai đoạn 1916-1925, Người viết rất nhiều bài báo, bài tham luận nhằm
các mục đích tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh nhân dân các dân tộc
bị áp bức, bóc lột, nhận rõ kẻ thù, làm rõ “chính sách khai hoá” của chủ nghĩa thực
dân, và nói về sự cam chịu, lép vế trước sức mạnh bạo lực của kẻ xâm lược thống
trị v.v. .Người nêu rõ vai trò, vị trí của thuộc địa đối với chính quốc và chính sách
đế quốc chủ nghĩa đối với các thuộc địa phụ thuộc, nhằm xóa bỏ tình trạng thờ ơ
của giai cấp vô sản chính quốc đối với các thuộc địa; chỉ ra được trách nhiệm của
Đảng Cộng sản chính quốc và Quốc tế Cộng sản đối với vấn đề thuộc địa. Những
vấn đề Hồ Chí Minh đề cập đến hết sức phong phú và có tính thuyết phục cao. Đó
chính là sự đóng góp lớn vào nhận thức chủ nghĩa thực dân mà có lẽ cho đến lúc
bấy giờ chưa ai đề cập đến. Người vạch rõ tính chất dã man, tàn bạo của chủ nghĩa
thực dân: Công cuộc khai hoá của chủ nghĩa thực dân thực chất là áp dụng sưu cao
thuế nặng, lao dịch khổ sai, bóc lột nặng nề. Điều cực kỳ quan trọng là Hồ Chí Minh
đã thấy rõ mối quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa, cả về phía những kẻ bóc lột,
thống trị, cả về phía nhân dân lao động.
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về bản chất của chủ nghĩa thực dân quan hệ
giữa các thuộc địa và chính quốc chứa đựng nhiều phát hiện mới mẻ làm cơ sở cho
việc xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc.

241
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
Vấn đề quan hệ giữa dân tộc và giai cấp là vấn đề rất lớn, rất phức tạp, tế nhị
và có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định chiến lược và sách lược cách
mạng. Nó còn liên quan đến những vấn đề lý luận và thực tiễn trong phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và là vấn đề thời sự nóng
hổi hiện nay. Người nêu lên những đặc điểm cơ bản của Việt Nam mà nổi bật là lực
lượng sản xuất lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, sự phân hoá giai cấp trong
nội bộ dân tộc chưa sâu sắc như ở các nước phương Tây, mâu thuẫn cơ bản của xã
hội không phải là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mà là mâu
thuẫn giữa một bên là nhân dân Việt Nam mà tuyệt đại bộ phận là nông dân với
một bên là đế quốc Pháp và bọn địa chủ phong kiến tay sai. Sự khẳng định mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, thể hiện ở mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng vô sản ở thuộc địa, là sự xác định tính tất yếu của phong trào
giải phóng dân tộc trong thời đại chúng ta, nó không phải là một công thức để vận
dụng một cách máy móc, rập khuôn, giáo điều mà phải hết sức linh hoạt, sáng tạo.
Về chiến lược, Hồ Chí Minh đặt công cuộc giải phóng dân tộc trong cách mạng vô
sản, nhưng trong chỉ đạo cụ thể lại không bao giờ coi nhẹ nhiệm vụ dân tộc và đề cao
một cách không thực tế nhiệm vụ giai cấp. Tuy nhiên, khi đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, Người nhắc nhở không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi giai
cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác. Hơn nữa, tập trung giải quyết
việc giải phóng dân tộc cũng nhằm mục đích góp phần giải quyết nhiệm vụ giai cấp.
Phải nói rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng tám (1945) và toàn bộ cách mạng
Việt Nam sau này, chứng minh Đảng ta, nhân dân ta đã thực hiện những tư tưởng và
đường lối có ý nghĩa quyết định đó của Hồ Chí Minh.
2. Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng
Việt Nam
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đề cao sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã vận dụng và phát triển con đường
của mình, phù hợp với điều kiện dân tộc, đặc điểm lịch sử dân tộc và đặc điểm của
phong trào yêu nước Việt Nam. Bác truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối
cứu nước của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, chuẩn bị có tính quyết định nhất cho sự ra đời của Đảng Cộng sản về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. “Đường kách mệnh” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đời có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của cách mạng Việt Nam như kim

242
chỉ nam cho đường lối của cách mạng lúc bấy giờ. Người đã chỉ rõ 12 điều về tư
cách của một Đảng cách mạng chân chính. Trong 12 điều đó thì điều đầu tiên là
“Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Đảng phải làm tròn nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” Ngay từ
khi Đảng chưa ra đời, Bác Hồ đã hiểu rõ nhân tố quan trọng quyết định thành công
của cách mạng, ngoài đường lối, lý tưởng, mục tiêu chính trị, thì một vấn đề hết sức
quan trọng là đạo đức của người cách mạng, nhất là khi cầm quyền.
Thứ hai, Người chỉ ra ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi
mặt các điều kiện của cách mạng. Điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách
mệnh, “Để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng
mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam”. Bên cạnh đó, chiến thắng lịch sử 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước một lần nữa khẳng định ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ và
giữ vững nền độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam.
- Trong bối cảnh hiện nay
Trước hết, Đảng ta không ngừng tìm tòi, đạt được những phát triển nhận thức
mới về tư tưởng Hồ Chí Minh, Di sản Hồ Chí Minh và khẳng định thời đại Hồ Chí
Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của
dân tộc ta. Việc học tập và làm theo Người không chỉ là đạo đức hay tấm gương
đạo đức mà còn là một hệ thống chỉnh thể tư tưởng – đạo đức và phong cách. Nó đã
trở thành một nhu cầu văn hóa tự giác và sáng tạo, là chiến lược để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, làm cho Đảng thật trong sạch, thật vững mạnh, triệt để chống quan liêu,
tham nhũng và mọi tệ nạn tiêu cực của xã hội, làm cho cả hệ thống chính trị trong
sạch vững mạnh toàn diện.
Ngoài ra, Đảng vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng
ta ra sức thực hiện chỉ dẫn của Người qua cẩm nang kỳ diệu mà Người trao cho
chúng ta “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Nhờ nắm vững phương pháp, mà Đảng ta đặc
biệt chú ý nhận thức và xử lý các mối quan hệ. Đảng nỗ lực tổng kết từ thực tiễn,
khái quát thành lý luận, xác định rõ đó là nội dung lý luận của đường lối đổi mới,
bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Trước hết phải đổi mới kinh tế,
đến đổi mới hệ thống chính trị rồi đổi mới chính trị, đồng bộ với đổi mới kinh tế và

243
thúc đẩy kinh tế phát triển. Đổi mới gắn liền với mở cửa và hội nhập, từ hội nhập
kinh tế đến hội nhập quốc tế, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, từ ổn định đến
phát triển, từ phát triển tới phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước.
Đảng ta còn tập trung giải quyết các mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đây là quan hệ chính trị, pháp lý giữa các chủ
thể mà mục tiêu cần đạt tới là nhân dân làm chủ, nhân dân thụ hưởng lợi ích chính
đáng, công bằng, nhân dân còn kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực do mình ủy
quyền, không để xảy ra tình trạng tha hóa quyền lực. Đảng ta cũng tập trung vào
giáo dục, huấn luyện, đào tạo và kiểm soát cán bộ. Trong giải pháp đột phá chất
lượng nguồn nhân lực, Đảng ta xác định ưu tiên trước hết cho chất lượng nguồn
nhân lực lãnh đạo, quản lý, nâng cao trình độ cán bộ về lý luận, học vấn chuyên
môn, nghiệp vụ, rèn luyện cán bộ trong môi trường thực tiễn, kiểm tra giám sát cán
bộ bằng thế chế, thiết chế, bằng đánh giá của tổ chức và nhân dân.
3. Liên hệ sinh viên
Thứ nhất, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng cùng với con đường phát triển đất nước, để tiếp bước điều đó họ đã sống có
trách nhiệm với quê hương, gia đình và bản thân, có ước mơ và hoài bão, có kiến
thức, kỹ năng, tư duy năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám vươn mình ra
thế giới để đem về nhiều thành quả cho nước nhà.
Thứ hai, đặt mục tiêu, học, làm theo Bác để trở thành một người như Bác. Để
trở thành một người dành trọn niềm tin, sự tôn kính của cả dân tộc cũng như của
nhân loại tiến bộ như Bác là cả một quá trình học tập, rèn luyện vất vả và quá trình
ấy cũng phải diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt. Nhưng học và làm theo
Bác chắc chắn không phải là cái gì đó quá cao siêu. Tư tưởng, đạo đức, phong cách
của Người là chuẩn mực của tất thảy những việc diễn ra trong cuộc sống thường
ngày, khi thật tâm, thì soi chiếu vào đó, ai cũng đều có thể thấy được những việc
mình có thể học theo, làm theo Người. Sinh viên cần tích cực, thường xuyên tìm
hiểu, tuyên truyền tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm,
trung thực, nói đi đôi với làm, góp phần nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm
thực hành trong sinh viên. Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh phụ thuộc nhiều vào sự nỗ lực của thanh niên, suy cho cùng sinh
viên có tác động to lớn đến tương lai của cá nhân và đất nước. Sinh viên tích cực
nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm, đồng thời tuyên truyền tinh

244
thần đó đến với xã hội, đặc biệt là đối với thiếu niên, nhi đồng, càng có ý nghĩa lớn
lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
Thứ ba, sinh viên cần học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao năng lực tư
duy, lý luận và phương pháp công tác. Tư tưởng Hồ Chính Minh chính là ánh sáng
soi đường cho Đảng, nhân dân Việt Nam trên con đường xây dựng đất nước với
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì thế làm
cho sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
đời sống cách mạng Việt Nam. Qua quá tình tìm hiểu tư tưởng Hồ Chính Minh đã
bồi dưỡng củng cố cho sinh viên, thanh niên lập trường, quan điểm của bản thân,
kiên định với mục tiêu chung của dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có nhiều tư tưởng tiến bộ về giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách
mạng. Từ những tư tưởng tiến bộ ấy sẽ giúp sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu
dưỡng, rèn luyện bản thân hoàn thành tốt trọng trách của mình, đóng góp thiết thức
cho sự nghiệp cách mạng và đất nước. Như vậy có thể thấy Tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là một trong những tư tưởng quan trọng đối với nhân dân, bởi vậy
nên thế hệ trẻ, sinh viên cần được giáo dục về tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm làm nền
tảng để phát triển và định hướng bản thân theo con đường đúng đắn. Việc vận dụng
được lý luận chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh về soi sáng con đường giải phóng,
phát triển dân tộc sẽ trực tiếp giúp sinh viên nuôi dưỡng ý chí kiên cường và 1 trái
tim yêu nước đầy nhiệt huyết để từ đó bảo vệ, phát huy được cũng như đóng góp
được nhiều điều trong việc xây dựng tổ quốc, đưa đất nước mình vươn mình sáng
vai được với các cường quốc năm châu như mong muốn của Bác năm xưa. Có thể
thấy, việc trang bị cho bản thân khả năng lĩnh hội chính trị mang đến cho chúng ta
nói chung cũng như đại đa số sinh viên nói riêng có kiến thức để ngăn chặn các thế
lực thù địch trong và ngoài nước bằng những hành động tuy đơn giản mà vô cùng
thiết thực trong thời đại công nghệ số ngày nay.

245
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Vũ Lê Ngọc Anh, Nguyễn Hải Anh,
Cát Hương Giang, Nguyễn Hương Lan,
Lê Minh Ngọc, Nguyễn Anh Thư
K24CLC, Ngân hàng B, Học Viện Ngân hàng

1. Nội dung tư tưởng và ý nghĩa thời đại tư tưởng Hồ Chí Minh


1.1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
- Về con đường của cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh đã khẳng định“không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sở dĩ có được điều này là bởi tư duy cách
mạng của Hồ Chí Minh đã được thể hiện trong tư tưởng chính trị coi tự do, hạnh
phúc của con người là mục tiêu quan trọng nhất của sự nghiệp cách mạng. Chủ
nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc
một cách hoàn toàn triệt để.
- Về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh
cách mạng, phức tạp và lâu dài”. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được đặc trưng bởi
một nền kinh tế phát triển cao, sử dụng các nguồn lực sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
- Về nhân dân, đại đoàn kết dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, dân là phạm trù cao quý nhất trong tư tưởng cách mạng
của Người: “Trong bầu trời không gì quý bằng dân.” Về đoàn kết dân tộc, Hồ Chí
Minh cho rằng đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là nhân tố quyết định thành công.
Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành
công, đại thành công. Ai có tài, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đoàn kết với họ”.
- Về phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân
Về phát huy dân chủ, Hồ Chí Minh xác định dân chủ là dân làm chủ. Người
nhấn mạnh:“ Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ",
mọi quyền lực suy cho cùng đều từ nhân dân. Về xây dựng Nhà nước pháp quyền

246
của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về
nhân dân. Nhà nước do nhân dân là nhà nước do dân chúng lập ra và do họ tham
gia quản lý.
1.2. Ý nghĩa thời đại
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã phản ánh khát vọng hoà bình của những dân tộc
chịu áp bức trên thế giới, những hiểu biết cơ bản và đặc sắc trong mối liên hệ biện
chứng với vấn đề dân tộc trong đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản thể hiện khát vọng hoà bình và độc lập của các dân tộc trên thế giới
trong thời kỳ mới.
Ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thể hiện rất nhiều trong
nhiều lĩnh vực về xây dựng Đảng, con người và văn hóa... Trong bối cảnh ngày
nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa nhân văn, đạo đức mới có tác dụng định
hướng, hướng con người đến hành động. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới phức
tạp với nhiều cơ hội và thách thức, tích cực và tiêu cực, ý nghĩa và giá trị thời đại
của tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tỏa sáng hơn bao giờ hết.
2. Tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc giải phóng dân tộc
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng vững chắc
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng vững chắc để Đảng
Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và
lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và cả trong các cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và những thành tựu quan trọng.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn dắt và soi đường cho Đảng và nhân dân ta
Áp dụng con đường cách mạng vô sản vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam,
trong thời kỳ 1930 - 1945, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định: Độc lập dân tộc là
nhiệm vụ trọng tâm, trước hết và trên hết; đấu tranh giành độc lập dân tộc là nội
dung chủ đạo, chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực tiếp mà là phương hướng tiến
lên. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Với “Tuyên ngôn độc lập”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống
nhất đất nước và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc ta. Trong đó, độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

247
Thực hiện quyết tâm ấy, bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với
quyết tâm: “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ” và tinh thần “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, toàn thể dân tộc
Việt Nam ta đã anh dũng chiến đấu đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù, lập
nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đánh đuổi
thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, với tinh thần “không có gì quý hơn độc
lập, tự do”, trải qua 21 năm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, quân và dân ta đã
hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tại miền Bắc,
với tinh thần "Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược", "Xây dựng chủ nghĩa xã
hội lúc này cũng là để đánh thắng Mỹ", đã khơi dậy tinh thần yêu nước, động viên
toàn dân ta vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là kết quả của quá trình phát huy cao độ mối
quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh của chế độ
mới. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước khẳng định khát vọng
độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.
3. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp phát triển đất nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những ảnh hưởng mang giá trị bền vững, lâu
dài đối với sự nghiệp phát triển đất nước.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh tìm đến chân lý của thời đại, đưa chủ nghĩa Mác
- Lênin vào thực tiễn Việt Nam, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng đổi mới ngay từ khi lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc để hình thành nên quy luật phát triển và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sau
khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt
Nam tiếp tục đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, xây dựng và phát triển đất nước.
Theo tư tưởng của Người: “Trước hết nói về Đảng”, Đảng ta đã và đang thực
hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tiếp tục hoàn
thiện các cơ chế, chính sách, nhất là bảo đảm quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến
đó, có chế tài xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm, ngăn chặn, đấu tranh, xử
lý triệt để, đúng pháp luật các vụ việc tiêu cực, tham nhũng,…
Đảng ta tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng “dân là gốc” của Bác Hồ, xác
định nhân dân là trung tâm, chủ thể, mục tiêu và đối tượng của đổi mới, đồng thời

248
cũng là động lực quyết định của công cuộc đổi mới. Xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Nước ta là nước của dân, do dân, vì dân, dân là người làm chủ đất nước. Vì vậy,
mọi thành tựu trong xây dựng và phát triển đất nước đều vì hạnh phúc của nhân
dân, vì đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao.
Mọi nhiệm vụ cách mạng đều do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của đảng.
- Tư tưởng đổi mới, ham học hỏi, tiếp thu cái mới, cái tiến bộ; soi sáng
con đường đưa đất nước phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Người khẳng định: “Cách mệnh là phá
cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Nói về sự nghiệp phát triển đất
nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đó là cuộc chiến đấu để loại bỏ
những thứ đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt đẹp. Triết lý đổi mới
trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao ích nước, lợi dân: “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Người luôn suy nghĩ,
tìm tòi, đổi mới trong công việc, không cứng nhắc, bảo thủ, đóng khung mà rất
mềm dẻo, linh hoạt khi xử lý, giải quyết từng vấn đề, sự việc cụ thể.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng, vạch ra con đường, biện pháp để
xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam.
Người viết trong bản Di chúc thiêng liêng, Người mong muốn toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nước ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ một cách toàn diện. Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao
hiểu biết về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển
kinh tế nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Thực hiện thắng lợi phương châm: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và xây dựng nền văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội”. Đồng thời Đảng ta cũng xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất.
Thực hiện tư tưởng của Bác Hồ, chúng ta phải tiếp tục tăng cường bồi
dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ thích ứng với yêu cầu mới của sự nghiệp cách
mạng. Phát triển nhanh và bền vững, lấy đổi mới sáng tạo làm nòng cốt, thực hiện
căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, trên cơ sở kết hợp đổi mới của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với

249
phát triển và ứng dụng công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế lãnh đạo
đất nước thực hiện phát triển nhanh và bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. https://www.nxbctqg.org.vn/gia-tri-tu-tuong-ho-chi-minh.html
[2].https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/gia-tri-tu-tuong-
ho-chi-minh-la-khong-the-phu-nhan-127447
[3].https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-
minh/ho-chi-minh/tieu-su-cuoc-doi-va-su-nghiep/tieu-su-chu-tich-ho-chi-minh-52
[4].https://vinhloi.baclieu.gov.vn/vi/-/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-
doan-ket-ung-ho-quoc-te-trong-cong-cuoc-doi-moi-hien-nay-40.

250
SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG VỮNG BƯỚC THEO
CON ĐƯỜNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐÃ LỰA CHỌN
Bùi Thị Mỹ Duyên, Vũ Trường Giang,
Nguyễn Khắc Lương, Nguyễn Thị Mai,
Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Phạm Minh Uyên,
K24CLC, Ngân hàng B, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Thời đại 4.0 phát triển nhanh như vũ bão, thông tin kết nối toàn cầu chỉ bằng
một cú click chuột. Cũng chính vì sống trong kỷ nguyên số mà thế hệ trẻ ngày nay,
đặc biệt là lứa tuổi học sinh sinh viên có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận những nguồn tri
thức nhân loại, định hình cá tính riêng biệt cũng như bản lĩnh chính trị cho bản thân.
Tuy nhiên, đứng giữa muôn vàn luồng tin tức tốt xấu lẫn lộn tràn lan, thế hệ sinh viên
trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên Học viện Ngân hàng nói riêng còn phải đối mặt
với thách thức không nhỏ trong việc bảo vệ niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Việc
tin tưởng vào con đường Đảng và Nhà nước ta đã chọn, con đường phát triển đất nước
với kim chỉ nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên quan
trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
NỘI DUNG
1. Hành trình vĩ đại thực hiện khát vọng độc lập dân tộc tự do
- Sự hình thành ý chí, khát vọng cứu nước của Nguyễn Tất Thành
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam. Rất nhiều
cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh yêu nước liên tiếp nổ ra tại khắp mọi miền
nhưng đều bị quân Pháp đàn áp đẫm máu. Những thất bại đó là do những tư tưởng,
đường lối ấy chưa phù hợp với điều kiện lịch sử. Sau khi bình định Việt Nam về
mặt quân sự, thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa, triển khai chính sách cai
trị vô cùng hà khắc, dã man để vơ vét tài nguyên làm giàu cho chính quốc. Nhân
dân Việt Nam lúc ấy rơi vào cảnh nô lệ lầm than đói khổ, bị áp bức bóc lột đến tận
xương tủy, quê hương Nghệ An của Nguyễn Tất Thành cũng không phải ngoại lệ.
Nguyễn Sinh Cung sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, được nuôi dưỡng
trong một gia đình nề nếp và thừa hưởng những truyền thống tốt đẹp của quê
hương. Ngay từ nhỏ Người đã bộc lộ tư chất thông minh, ham học hỏi cùng lòng
nhân ái, khoan dung với đồng bào. Lớn lên với sự dạy dỗ của cha mẹ, cũng như các
thầy giáo có tư tưởng tiến bộ, Nguyễn Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và
day dứt trước đau thương mà nhân dân ta phải chịu. Cùng với đó, sự thất bại của

251
các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản cũng như được tiếp cận
với nền văn minh của Tây Âu qua nhà trường, Nguyễn Tất Thành đã dấy lên quyết
tâm rời tổ quốc để tìm ra con đường giải phóng dân tộc khỏi xiềng xích nô lệ, giành
lại tự do cho nhân dân Việt Nam. Người đã không chọn các nước châu Á như Nhật
Bản hay Trung Quốc, mà chọn đi đến châu Âu và Mỹ.
- Ý chí, nghị lực phi thường của Nguyễn Ái Quốc để vượt qua những khó
khăn, thử thách trong hành trình tìm đường cứu nước
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu
nước trên con tàu buôn của Pháp có tên Latouche Tréville. Trong suốt 30 năm sau
đó, Người phải đối mặt và vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ. Bắt đầu với
công việc phụ bếp, người thanh niên Văn Ba phải làm từ 4 giờ sáng với nhiều công
việc nặng nhọc trong điều kiện khó khăn. Tuy vậy, sự vất vả ấy lại càng rèn luyện
bản lĩnh, ý chí thêm kiên cường của người thanh niên yêu nước. Năm 1912, khi đặt
chân đến Mỹ, Nguyễn Tất Thành làm thuê ở quận Brooklyn, rồi làm phụ bếp trong
một nhà hàng Pháp. Năm 1913 ở nước Anh, Người đã làm những công việc nặng
nhọc như cào tuyết, đút lò ở hầm hay làm phụ bếp,... Dẫu cho hoàn cảnh có khốn
khó thế nào, công việc nặng nhọc ra sao, Nguyễn Tất Thành vẫn không ngừng học
tập và trau dồi ngoại ngữ. Những ngày trở lại Pháp (1917), cuộc sống của Người
còn nhiều thử thách và thiếu thốn hơn. Nguyễn Tất Thành làm nhiều nghề khác
nhau nhưng đều bấp bênh với thu nhập thấp. Khó khăn còn nhân lên gấp bội khi
trong mùa đông giá rét ở Paris, không có lò sưởi, mỗi buổi sáng đi là Người đều
nhét một viên gạch vào bếp lò của bà chủ nhà rồi tối về lấy báo bọc lại và sưởi cho
đỡ rét. Trong suốt những tháng ngày ấy, lao động nặng nhọc, sự thiếu thốn về điều
kiện vật chất, sức khỏe của Người bị ảnh hưởng. Tuy vậy, vượt lên tất cả, Nguyễn
Tất Thành vẫn nỗ lực tham gia vào hoạt động chính trị dưới cái tên Nguyễn Ái
Quốc. Hơn nữa, Nguyễn Ái Quốc luôn bị kẻ thù theo dõi, rình rập, giám sát, chịu
mọi thủ đoạn hãm hại khi nhiều lần bị kết án và bắt giam: Bản án tử hình vắng mặt
(1929), bị quân Anh bắt giam tại Nhà ngục Victoria, Hồng Kông (1931). Tất cả
những khó khăn gian khổ ấy chưa từng mài mòn đi ý chí của Nguyễn Tất Thành mà
ngược lại, khát vọng của Người ngày càng trở nên mãnh liệt, trở thành động lực để
quyết tâm đạt được mục tiêu đầy cao cả trong suốt cuộc đời của mình.
- Quá trình hình thành và xác lập con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
+ Thời kỳ năm 1890-1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu
nước. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê

252
hương hình thành nên tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước. Hồ Chí Minh
chịu ảnh hưởng sâu sắc từ gia đình, đặc biệt là những đức tính tốt đẹp của cả cha và
mẹ. Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, gắn bó gần gũi với
nhân dân lao động. Quê hương Nghệ Tĩnh là nơi có nhiều truyền thống tốt đẹp, đặc
biệt là truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm và hiếu học.
+ Thời kỳ từ giữa năm 1911- cuối năm 1920: dần dần hình thành tư tưởng
cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Thời kỳ
này, người thanh niên Nguyễn Tất Thành bôn ba khắp các châu lục để tìm hiểu các
cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị
áp bức. Từ những ngày tháng sinh sống và hoạt động ở Pháp, Người bắt đầu tham
gia các tổ chức yêu nước, chính trị - xã hội - văn hóa, từng bước tìm thấy con
đường cứu nước giải phóng dân tộc trong Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa và đặc biệt trở thành một trong những người
tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp (12/1920). Chính trong giai đoạn này, Hồ
Chí Minh đã từ một người Việt Nam yêu nước chính thức trở thành một chiến sĩ
cộng sản quốc tế - một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Người.
+ Thời kỳ cuối năm 1920-1930: hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng
về cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ từ năm 1921 đến 1930, chứng kiến sự thành
công triệt để của Cách mạng Tháng Mười Nga (1921), Hồ Chí Minh thêm phần
vững tin vào con đường giải phóng dân tộc mình đã chọn. Từ đó, Người hăng hái
tham gia hoạt động cách mạng ở Pháp (1920 - 1923) và Liên Xô (1923 - 1924)
trước khi trở về Quảng Châu, Trung Quốc để chuẩn bị về mặt tổ chức, chính trị, tư
tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này vào năm 1925. Những tư
tưởng cơ bản bắt đầu được hình thành trong giai đoạn này là: tư tưởng về dân tộc
và cách mạng giải phóng dân tộc; tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam; tư tưởng
về Đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; tư tưởng về Nhà nước; tư tưởng về
đạo đức cách mạng. Đây là giai đoạn quan trọng nhất, đóng vai trò dẫn đường cho
sự thành công của cách mạng Việt Nam.
+ Thời kỳ 1930-1941: vượt qua thử thách, giữ vững đường lối đúng đắn, sáng
tạo. Trong giai đoạn từ năm 1930 đến 1941, nhiều hoạt động quan trọng đã được
tiến hành để hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, trở về nước, thực
hiện khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Cũng chính trong giai đoạn
này, Bác với những bất đồng quan điểm với một số người trong Quốc tế Cộng sản
do ảnh hưởng của quan điểm tả khuynh vẫn luôn kiên trì giữ vững quan điểm cách

253
mạng Việt Nam. Đương đầu với muôn vàn khó khăn và thách thức đe dọa đến sự
tồn tại của Đảng đến mức phải tiến hành đổi tên Đảng, bị bắt ở Hồng Kông chịu
nhiều gian khổ trong nhà tù Quảng Tây để rồi đến ngày trở về Tổ quốc, Bác mang
theo Cương lĩnh tháng 2/1930 triệu tập HNTW 8 như một bước ngoặt của cách
mạng Việt Nam.
+ Thời kỳ 1941 - 9/1969: tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn
thiện, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Bác trực tiếp
chỉ đạo chuẩn bị những điều kiện để tiến tới giành chính quyền như: thành lập mặt
trận Việt Minh (19/5/1941); thành lập căn cứ địa cách mạng; thành lập lực lượng
vũ trang (22/12/1944) và sáng lập Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền
thân của Quân đội nhân dân Việt Nam; lãnh đạo cách mạng tháng 8/1945.
Từ 1945-1954: xây dựng Nhà nước và lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng
chiến chống thực dân Pháp để rồi đến giai đoạn 1954-1969. Đây là giai đoạn phát
triển thắng lợi của tư tưởng Hồ Chính Minh khi những nội dung tư tưởng tiếp tục
được bổ sung và phát triển như: tư tưởng về CNXH; về con người mới và nền văn
hóa mới, về đảng, về đạo đức, tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân,...
- Những cống hiến và sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Trong quá trình tìm đường cứu nước và giải phóng dân tộc, Bác đã có nhiều
cống hiến và sáng tạo đáng kể, bao gồm:
(1) Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930)
(2) Tuyên ngôn độc lập (1945)
(3) Chiến lược đấu tranh dân tộc
(4) Cách mạng đất nước (1945-1954)
(5) Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
(6) Đóng góp trong chính sách kinh tế
2. Giá trị lý luận và thực tiễn
- Giá trị lý luận
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên vẫn mãi là kim chỉ nam
để thế hệ trẻ Việt Nam noi theo:
Một là vai trò của thế hệ thanh niên đối với xã hội: là một lớp người rộng
lớn, đóng vai trò không thể thiếu trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước. C.Mác đã
có kết luận rằng: Do quy luật khách quan của xã hội, bao giờ thanh niên cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc kế thừa và phát triển những thành tựu của người đi

254
trước. Bất kể vào thời kỳ hay giai cấp lãnh đạo nào, họ cũng đều muốn lôi kéo lớp
người trẻ này về phía mình. Trong thư “Gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc”
(1946) và trong nhiều các bài viết khác, Bác cho rằng thanh niên là một bộ phận
trẻ, năng động, sáng tạo, cần được xã hội quan tâm, chăm sóc để trở thành người có
ích; là lực lượng xung kích, đi đầu trong mọi nhiệm vụ khó khăn, là nguồn xung
lực mạnh mẽ của tổ quốc và quan trọng của cách mạng. Chỉ có thể đi tới thành
công nếu thức tỉnh được quần chúng nhân dân, mà trước tiên là phải thức tỉnh thế
hệ thanh niên, rồi hướng cuộc chiến tranh theo đúng quỹ đạo của cách mạng vô
sản. Vì vậy, tháng 12/1924, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra đời, đóng dấu
mốc vô cùng quan trọng, những hạt giống đầu tiên cho cách mạng Việt Nam, và
đây cũng là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là về công tác bồi dưỡng thanh niên, phải đào tạo thanh niên phát triển
một cách toàn diện. Người yêu cầu: "Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng
đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ XHCN, văn hoá, kỹ thuật, lao động và
sản xuất". Các trường học cần chú trọng giảng dạy các môn KHTN, KHXH, môn
kỹ thuật, và đặc biệt cần giáo dục tinh thần lao động, trân trọng những người lao
động. Người rất chú trọng việc rèn luyện đạo đức, và coi đó là nền tảng của một
con người cách mạng.
Ngoài ra phải giáo dục lý tưởng cho thanh niên, tức là dạy họ yêu nước
thương dân, biết phấn đấu tự lực tự cường, có nhận thức đúng đắn về con đường
cách mạng đi lên CNXH ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin,...
Ba là phương pháp bồi dưỡng thanh niên, Bác tin rằng học phải đi đôi với
hành, lý thuyết phải gắn liền với hiện thực xã hội. Người luôn xem gia đình có vai
trò quan trọng trong việc giáo dục thanh niên và coi việc giáo dục đó là một môn
khoa học, đòi hỏi phải có chương trình đào tạo phù hợp, rõ ràng với các cấp. Bên
cạnh đó, Người cũng nghiêm khắc chỉ rõ một số yếu kém của thế hệ thanh niên.
- Giá trị thực tiễn
Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác giúp thanh niên Việt Nam rút
ra nhiều bài học quý báu trong cuộc sống, học tập, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trước hết, đó là bài học về lòng yêu nước thương dân, tinh thần độc lập dân
tộc. Trong suốt hành trình cách mạng của mình, chủ nghĩa yêu nước đã chi phối
mọi suy nghĩ, hành động của Bác: Người có một mong muốn tột bậc, là ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Lý tưởng ấy đã thôi thúc người thanh niên
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, chịu bao gian khổ và sau này gặp

255
được chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời tìm thấy con đường cứu nước, “con đường
cách mạng vô sản”. Không chỉ vậy, chủ nghĩa yêu nước còn mang tinh thần quốc
tế, “Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau”. Sự kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp đưa cách
mạng Việt Nam tới thành công.
Thứ hai, bài học về sự mạnh dạn đột phá tìm hướng đi mới. Trước những
thất bại của các phong trào cách mạng cuối TK XIX, đầu TK XX, Người rất
ngưỡng mộ tinh thần cách mạng của các bậc tiền bối nhưng Người không tán thành
con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới. Người sang
Pháp, cũng như các nước tư bản, thuộc địa khác.
Thứ ba, bài học về ý chí, nghị lực, quyết tâm vươn lên không ngừng. Trên
tàu, Bác phải làm mọi công việc nặng nhọc: quét dọn, chuẩn bị thực phẩm, dọn dẹp.
Rời tàu, Bác làm nghề đốt lò, xúc than, quét tuyết. Ở Pháp, Bác chụp ảnh, viết báo,
vẽ,... Dù làm việc vất vả ngày này qua ngày nọ nhưng mục tiêu lý tưởng của Bác chưa
bao giờ phai nhạt.
Thứ tư, bài học về tinh thần tự học suốt đời. Trong hành trình đi tìm đường
cứu nước khắp năm châu, đi đến đâu Người cũng tìm hiểu, học tập để nâng cao tri
thức, để kiếm sống và hoạt động cách mạng. Bác đã học và làm rất nhiều nghề khác
nhau, từ thợ đốt lò, đầu bếp, viết truyện, chụp ảnh,... Bác tự học rất nhiều thứ tiếng:
Pháp, Trung Quốc, Nga, Ả Rập,... Cuộc đời Bác là tấm gương sáng về tinh thần
không ngừng học tập, nâng cao tri thức và hoàn thiện bản thân mà mỗi thế hệ thanh
niên cần noi theo.
3. Vận dụng bối cảnh hiện nay
- Quốc tế: Trên thế giới chỉ còn 4 quốc gia được chính thức công nhận là
nhà nước XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác - Lênin là Việt
Nam, Cuba, Trung Quốc và Lào. Tình hình chính trị bất ổn: xung đột Nga -
Ukraine, xung đột ở miền Nam Thái Lan, xung đột ở khu vực Trung Đông... Cạnh
tranh địa chính trị, địa kinh tế và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt
và ngày càng phức tạp, trực diện và quyết liệt hơn. Xu hướng toàn cầu hóa, khoa
học kỹ thuật phủ sóng và kết nối xuyên quốc gia.
Thời cơ: Quan hệ quốc tế được tăng cường, địa vị quốc tế được nâng lên. Mở
rộng tầm ảnh hưởng mang tầm thế giới
Thách thức: Sự phản đối gay gắt của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề chủ quyền
lãnh thổ, lợi ích quốc gia.

256
- Trong nước: Hội nhập quốc tế sâu rộng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội: chính sách kinh tế mở cửa, đẩy mạnh trao đổi hàng hóa; trào lưu văn
hóa nhân loại du nhập vào Việt Nam nhanh chóng và mạnh mẽ. Cơ sở hạ tầng được
đầu tư, quá trình đô thị hóa nhanh, mức sống được cải thiện rõ. Đường lối chính
sách của Đảng đã phát huy hiệu quả trong thực tiễn.
Thuận lợi: Tạo điều kiện cho phát triển đất nước hội nhập tiến bộ. Phát triển
nền văn hóa tiên tiến, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Khó khăn: Vấn đề gìn giữ bản sắc dân tộc. Tác động của thế lực phản động
vào niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, mô hình nhà nước của quốc gia.
- Ưu điểm và hạn chế của sinh viên Học viện Ngân hàng
- Ưu điểm: Sinh viên hiện nay, được nuôi dưỡng và phát triển trong một môi
trường có điều kiện tốt, đó là một xã hội hoà bình, no đủ. Sinh viên tiếp thu và vận
dụng tốt những kiến thức học thuật hiện tại mà môi trường giáo dục đem đến. Sinh
viên luôn nâng cấp bản thân và nắm bắt kịp thời cũng như hiểu rõ những xu thế
mới trên toàn cầu. Hầu hết sinh viên trẻ nước ta đã và đang gìn giữ và phát huy tư
tưởng của cha ông như “Lá lành đùm lá rách".
- Hạn chế: Sinh viên dễ bị học sai cách, tức là nhiều sinh viên còn chưa biết
chắt lọc thông tin, dễ mắc phải những kiến thức sai lệch mà không phát hiện kịp thời.
Một số sinh viên thiếu kỹ năng mềm, phần lớn sinh viên chưa có thói quen đọc sách,
cách học thụ động và phụ thuộc nhiều vào giảng viên; thái độ cứng nhắc, không sẵn
sàng tiếp thu để thay đổi, ít hiểu biết thực tiễn làm hạn chế việc tiếp thu, vận dụng.
Thiếu kinh nghiệm thực tiễn: nhiều sinh viên chỉ tập trung vào học tập và bỏ qua
việc trải nghiệm thực tế dẫn đến thiếu kinh nghiệm khi làm việc sau khi ra trường.
- Liên hệ thực tế
- Về Nhận thức: Việc sinh viên nói chung và sinh viên Học viện Ngân hàng
vững bước theo con đường của Bác đã chọn là vấn đề đúng đắn mang tính cấp thiết
gắn liền lý luận với thực tiễn. Không có tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, đất nước
ta có thể sẽ chẳng thể thống nhất non sông thành một nhà. Nhất quán đi theo con
đường Bác chọn, Đảng đã lãnh đạo xuất sắc quần chúng nhân dân đi đến thắng lợi,
hòa bình và giải phóng dân tộc. Do đó, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục vững bước
trên con đường ấy để xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
phù hợp với nền kinh tế - xã hội và bản sắc văn hóa truyền thống lâu đời.
Hiện nay tình hình chính trị thế giới và khu vực còn nhiều bất ổn: xung đột
Nga – Ukraine tạo điều kiện cho thế lực tư bản lên án chế độ cộng sản không có

257
nhân quyền, nhân đạo, tiến hành biện pháp đả đảo, kêu gọi nhân dân thế giới quay
lưng với các nước XHCN đồng minh của Nga. Đứng trước nguy cơ hội nhập quốc
tế sâu rộng tạo điều kiện cho các thế lực thù địch xâm nhập chống phá chế độ dưới
nhiều hình thức tinh vi, chiêu trò thâm độc, thế hệ trẻ học sinh, sinh viên ngày nay
luôn nhất trí khẳng định quan điểm và tin tưởng vào con đường Bác chọn, tin tưởng
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kim chỉ nam, là ngọn đèn
soi sáng dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng và phát triển bền vững của đất nước.
- Về hành động: Sinh viên ưu tiên hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ học tập của
bản thân: tập trung trau dồi kiến thức, mở mang tầm hiểu biết, trở thành người có
học thức, có lí tưởng, có bản lĩnh vững vàng. Tiêu biểu có thể kể như sinh viên
HVNH đã có thành tích xuất sắc trong các cuộc thi: Hội thảo Khoa học sinh viên
do Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức, Quán quân tại Sự kiện khoa học
quốc tế ICMSS 22,... Sinh viên chú trọng chăm sóc và rèn luyện sức khỏe: trau dồi
kiến thức song hành với việc luyện tập thể dục thể thao, tăng cường sức khỏe thể
chất lẫn tinh thần. Chính vì thế, sinh viên Học viện Ngân hàng thường xuyên tham
gia các hoạt động thể thao như AP’s Football League, Giải cầu lông Nam Sport mở
rộng 2023, Giải Cầu lông CBVC, sinh viên khu vực Hà Nội 2023,...
Sinh viên tích cực tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH): chuẩn
bị hành trang về kỹ năng NCKH cơ bản độc lập để hỗ trợ các dự án thực tế sau tốt
nghiệp, hình thành tư duy logic, sáng tạo, thành thạo trong xử lý dữ liệu. Tiêu biểu
có thể kể đến như Công trình NCKH của sinh viên CLC được tạp chí Quốc tế
International Journal of Emerging Markets đăng tải, Giải thưởng “Sinh viên
NCKH”,...
Sinh viên nâng cao nhận thức đúng đắn về đường lối chính sách của Đảng, tu
dưỡng phẩm chất đạo đức: thực hiện quyền dân chủ khi bỏ phiếu bầu cử Đại biểu
Quốc hội, tham gia lớp cảm tình Đảng sớm, tham gia hoạt động tình nguyện như
“Sắc đoàn trong tôi 2023”, “Tết yêu thương 2023”, “Tình nguyện mùa xuân
2023”...
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam hành động của Đảng. Con đường Bác đã dùng cả cuộc đời mình từ những
tháng ngày tuổi trẻ bôn ba xa xứ, trong trường kỳ kháng chiến giải phóng dân tộc
khỏi ách đô hộ đến ngày tháng xây dựng XHCN ở miền Bắc đã được thực tiễn lịch
sử chứng minh rõ ràng rằng: đây là sự lựa chọn đúng đắn. Đảng và Nhà nước ta

258
tiếp tục bước tiếp trên con đường Bác đã đặt nền móng tiến lên phát triển đất nước,
thế hệ sinh viên Việt Nam, đặc biệt là sinh viên HVNH vững tin vào con đường ấy
mà cống hiến sức trẻ, rèn luyện chính mình trở thành những con người với bản lĩnh
chính trị vững vàng, trung với Đảng, hiếu với dân, gìn giữ và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia sự thật
(2021).
[2]. Vũ Kim Yến (2021), Ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành khi ra đi
tìm đường cứu nước.<https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-
tim-duong-cuu-nuoc/hanh-trinh-lich-su/y-chi-va-nghi-luc-cua-nguyen-tat-thanh-
khi-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc->
[3]. Phan Vân (2021), Khát vọng cứu nước của Hồ Chí Minh.từ
<https://hcma4.hcma.vn/tintuc/pages/chi-tiet.aspx?ItemID=11491#_ftn1>

259
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Trần Thái Dương, Nguyễn Minh Hiếu,
Hà Đức Hùng, Trương Thái Sơn,
Nguyễn Hồng Quang, Hà Minh Quân, Nguyễn Hải Yến
K24CLC, Ngân hàng A, Học viện Ngân hàng
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc, người chèo lái con
thuyền cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ thắng lợi, người lãnh đạo cuộc kháng
chiến cách mạng thần thánh của dân tộc trước những thế lực xâm lược hùng mạnh
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để làm được điều đó, Người phải có
một nghị lực phi thường, một ý chí mạnh mẽ để vượt qua những thử thách khắc
nghiệt nhằm đi tới thắng lợi cuối cùng. Để tìm hiểu thêm về hoạt động của Bác Hồ
trong những năm tháng cách mạng ấy, nhóm chúng em chọn đề tài “Chủ tịch Hồ
Chí Minh - Hành trình tìm đường cứu nước”. Qua hành trình ấy, chúng em đúc rút
ra được thật nhiều bài học trân quý từ Bác, và nhận thấy là một người trẻ, sinh viên
Học viện Ngân hàng cần “vững bước theo con đường Người đã chọn”.
NỘI DUNG
1. Từ bến cảng Nhà Rồng Người ra đi tìm đường cứu nước
Khi cụ Phan Bội Châu quyết định sang Nhật Bản với mục đích kiều viện đã
gặp cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh của Bác) trên dòng sông Lam và nói chuyện đưa
Nguyễn Tất Thành sang Nhật để theo Đông Du, nhưng Nguyễn Tất Thành đã không
đồng tình. Đó là mẫn cảm hết sức sáng suốt để sau này Nguyễn Tất Thành lựa chọn
sang phương Tây tìm đường cứu nước. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành nung
nấu một ý chí với quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Ngày 5-6-1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ
tịch Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước với thân phận người đầu
bếp mang tên Văn Ba trên con tàu Amiral Latouche Tréville (tàu Đô đốc Latouche
Tréville) rời cảng Sài Gòn đi Marseille. Đây là một trong 6 con tàu cỡ lớn chuyên
chạy tuyến Pháp – Đông Dương của hãng Năm Sao.
Trải qua 3 đại dương, 4 châu lục và gần 30 quốc gia trên thế giới, với hành
trang là lòng yêu nước đã đưa Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp cuối năm 1920 và xác
định con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn.

260
Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, Người đã đi đến kết luận cực kỳ sáng
suốt: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức, bóc lột và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”…
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị
về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” và “Đường Kách Mệnh”, đặc biệt là việc xuất bản tờ Báo Thanh
niên ra ngày 21/6/1925, Người đã chuẩn bị về đường lối chính trị để tiến tới Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ngày 3/2/1930, tại Hương Cảng
(Trung Quốc).
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành
lập Đảng, nó đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân. Quan
điểm xuyên suốt trong toàn bộ cuộc đời và tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là: Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự
vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, thể hiện tính quy luật của sự phát triển
lịch sử của xã hội Việt Nam. Thực tế lịch sử cách mạng nước ta đã chứng minh đó
là sự lựa chọn lịch sử, sự lựa chọn duy nhất đúng.
Sau này, khi được hỏi về chuyến đi ngày 5-6-1911, Bác đã trả lời một nhà báo
Nga như sau: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự
do, Bình đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm
xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”. Trả lời một nhà văn Mỹ cũng về câu
hỏi này, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này
thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người
này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ.
Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Tại Lễ kỷ niệm lần thứ 120 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/5/1890 - 19/5/2010), do Ðại sứ quán Việt Nam tổ chức ở Pháp, ông Han đơ-vi-
lơ, Phó Tổng Giám đốc UNESCO phát biểu: “Các cuộc hành trình trong cuộc đời
đã khiến Bác Hồ trở thành công dân của thế giới, đồng thời là đại sứ của Việt Nam
trên khắp toàn cầu”.
Tổng thống nước Nga Putin đã nói về Bác Hồ kính yêu của chúng ta: “Nhân
loại đã bước sang thế kỷ XXI. Nhưng giá trị tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh

261
vẫn là ngọn đuốc, là biểu tượng cho một nền văn hóa tương lai… Vì thế nhân loại
sẽ mãi mãi nhắc tới Người như một bậc thánh nhân”.
Có thể nói, con đường cách mạng nước ta và những giá trị về tư tưởng, đạo
đức, văn hóa Hồ Chí Minh được khởi phát từ cuộc xuất dương tìm đường cứu nước
của Người trên Bến cảng Nhà Rồng lịch sử năm xưa.
2. Cuộc hành trình vĩ đại thực hiện khát vọng độc lập dân tộc tự do
Sự hình thành ý chí, khát vọng cứu nước, cứu dân của người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa
kiệt xuất của Việt Nam - cũng có một thời thanh niên vô cùng đẹp đẽ với khát vọng
và bản lĩnh của người cách mạng trẻ tuổi, hiến dâng trọn vẹn cho cách mạng Việt
Nam và các phong trào cách mạng thế giới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
dành mối quan tâm đặc biệt cho thanh niên. Người đã để lại cả một hệ thống quan
điểm rất toàn diện và sâu sắc về thanh niên. Tuy nhiên, điều có giá nhất mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh để lại cho thanh niên ngày nay không chỉ những tư tưởng thể
hiện trong các bài nói, bài viết của Người, mà có lẽ, chính ở những “tấm gương
sống” của người thanh niên cách mạng Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc.
Trong khuôn khổ bài viết ngắn mừng Sinh nhật lần thứ 132 của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đồng thời chúc mừng thành công của Đại hội đại biểu lần thứ XI Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội, tôi sẽ điểm lại một số sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời người
thanh niên cách mạng Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn từ
1908 đến 1925, những sự kiện mà qua đó ta có thể thấy rất rõ KHÁT VỌNG và
BẢN LĨNH giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của Người, và từ những sự
kiện đó rút ra một số gợi mở cho thanh niên Việt Nam nói chung, thanh niên trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội nói riêng.
Bác Hồ, với trí thông minh tuyệt vời, nghị lực lớn lao và lòng yêu nước nảy
nở sớm ngay từ nhỏ đã thu vào mình những tinh hoa xứ sở, những trăn trở của khổ
đau, những ưu tư dào dạt, những mơ ước khát khao, những căm uất giận hờn,
những quyết tâm sắt đá của bao kiếp sống, bao nỗi niềm quê hương đã được thể
hiện trong văn học dân gian, văn học thành văn, nhất là trong cuộc sống mà dòng
sông văn hoá đã mang theo…”
Ngay từ thời niên thiếu, với vốn tri thức có được từ giáo dục của gia đình, từ
những người thầy có tinh thần yêu nước sâu sắc, cũng như từ quá trình tự học hỏi,

262
tự tìm hiểu, và nhất là từ tình yêu đối với quê hương, đất nước, cậu bé Nguyễn Sinh
Cung đã sớm bộc lộ khát vọng và bản lĩnh của một thiếu niên nước trước cảnh đất
nước bị ngoại bang xâm lược, thống trị, đồng bào bị áp bức, đoạ đày.
Nhìn lại một số sự kiện trong quãng đời hoạt động cách mạng của người
thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc, có thể thấy trong đó những khát
vọng và bản lĩnh đẹp đẽ, mạnh mẽ và tràn đầy sức trẻ, sức hồi sinh, sức khởi đầu.
Và trong đó gợi mở biết bao điều cho thanh niên ngày nay:
Phải có khát vọng vả bản lĩnh bảo vệ và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Phải có khát vọng và bản lĩnh dấn thân và cống hiến cho Tổ quốc, cho đồng
bào, theo tinh thần: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”.
Phải có khát vọng và bản lĩnh nâng tầm học vấn, trí tuệ, nhân cách, thực sự
có đủ phầm chất và năng lực, đức và tài của “người chủ tương lai của nước nhà”.
Phải có khát vọng và bản lĩnh khẳng định và thể hiện mình, sẵn sàng đấu
tranh với cái xấu, cái ác, để bảo vệ và vun bồi có cái tốt, cái thiện, làm cho cái tốt,
cái thiện “nảy nở như hoa mùa Xuân”.
Phải có khát vọng và bản lĩnh khởi nghiệp. Khởi nghiệp phải là đặc tính của
tuổi trẻ, cũng giống như “một đời khởi đầu từ tuổi trẻ”, theo đúng Triết lý về sự
khởi đầu của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tóm lại, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương lớn cho con người Việt Nam thời hiện đại, trong đó, đối với thanh niên
Việt Nam ngày nay thì quãng đời của người thanh niên cách mạng Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc thực sự chứa đựng nhiều bài học và sự gợi mở rất trực
tiếp và sâu sắc. Khát vọng và bản lĩnh Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc là
niềm cảm ứng, nguồn năng lượng bất tận mà mỗi người thanh niên Việt Nam ngày
nay đều có thể tiếp nhận từ đó, để dấn thân và cống hiến, để thật sự là “người chủ
tương lai của nước nhà”, là “mùa Xuân của xã hội”.
Ý chí, nghị lực phi thường của Nguyễn Ái Quốc để vượt qua những khó khăn,
thử thách trong hành trình tìm đường cứu nước.
Ở Nguyễn Tất Thành, ý chí và nghị lực được hình thành, phát triển trong môi
trường sống và điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của đất nước, từ những tố chất cá nhân
của Người và thừa hưởng từ cha mẹ, gia đình, quê hương. Người sinh ra và lớn lên
khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân bị lầm than đói khổ. Quê hương
Người là Nghệ An, vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước với
những tên tuổi lớn như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình

263
Phùng, Phan Bội Châu… Người xuất thân trong một gia đình nhà Nho nền nếp,
mang những nét đặc trưng của xã hội Việt Nam thời phong kiến. Cha của Người là
ông Nguyễn Sinh Sắc đã đỗ Phó bảng trong kỳ thi Hội năm 1901 nhưng nhiều năm
liền trì hoãn việc làm quan bởi với ông: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu
nô lệ” (nghĩa là: Làm quan là nô lệ trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Mẹ của
Người là bà Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ Việt Nam điển hình, làm nghề
nông và dệt vải, tần tảo nuôi chồng con ăn học. Được nuôi dưỡng bởi những truyền
thống tốt đẹp của quê hương xứ Nghệ; của ý chí học tập và sự kiên nhẫn của người
cha, của tâm hồn và tình cảm của người mẹ hiền, Nguyễn Tất Thành và anh chị em
của mình ngay từ khi còn nhỏ tuổi đã biết nói những điều hay, làm những việc tốt,
giàu lòng vị tha, nhân ái, chan hòa trong nghĩa cử đồng bào.
Ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành còn thể hiện sâu sắc ở sự khắc phục
những khó khăn, gian khổ, không chỉ vượt qua khó khăn, gian khổ mà còn vượt qua cả
những cám dỗ để vững vàng, kiên định với lý tưởng, mục đích của mình. Sinh ra trong
một gia đình nhà nho nghèo, những năm còn nhỏ Nguyễn Tất Thành đã trải qua cuộc
sống khó khăn, thiếu thốn. Và nỗi đau mất mát lớn nhất đầu tiên tác động đến tình
cảm, ý chí và nghị lực trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành là vào năm 1900. Mới 11
tuổi Người đã mất mẹ và em trai nhỏ, phải thay cha, thay anh chị, nhờ sự giúp đỡ của
bà con hàng xóm ở Huế để lo tang cho mẹ. Hoàn cảnh khó khăn cùng với nỗi đau và
sự mất mát đã tiếp thêm cho Nguyễn Tất Thành ý chí và nghị lực để vượt qua những
thử thách, gian khổ trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Người sau này.
Thời điểm đầu thế kỷ XX, với Nguyễn Tất Thành và phần đông người Việt
Nam lúc bấy giờ, thế giới Đông - Tây vẫn còn khép kín, tách biệt. Con đường đi
sang phương Tây của tầng lớp lao động chỉ rộng mở hơn nếu họ có quan hệ với
ngành hàng hải, thương mại. Nghĩ đến cuộc hành trình lênh đênh trên biển hàng
vạn dặm, không phải Nguyễn Tất Thành không có băn khoăn. Người nói về quyết
định của mình, bày tỏ những băn khoăn của mình với một người bạn, “đi một mình,
thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm…”, đồng thời bày tỏ nguyện
vọng khuyên người bạn cùng đi. Và khi người bạn không dám mạo hiểm ra đi,
Người đã quyết tâm ra đi bằng đôi bàn tay trắng, với ý chí “sẽ làm bất cứ việc gì để
sống và để đi”.
Cả cuộc hành trình 30 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành phải đối mặt và
vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách. Những ngày khó khăn, cực nhọc đầu tiên
đó là những ngày Người làm phụ bếp trên tàu Latouche Tréville: Mỗi ngày phải

264
làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò,
đi khuân than, xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá... Công việc khá nặng nhọc vì
dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét, nhất là khi vừa phải vác một bao nặng vừa
leo lên những bậc thang trong khi tàu tròng trành, thậm chí có lần suýt chết đuối vì
biển nổi sóng to... Nhiều lúc tưởng chừng như Người không vượt qua nổi thử thách
đầu tiên. Nhưng ý chí và nghị lực kiên cường, càng gian khổ, khó khăn sức chịu
đựng của Người ngày càng rắn rỏi. Công việc quen dần, nỗi vất vả như lùi lại phía
sau mỗi hải lý con tàu vượt qua. Những năm tháng đặt chân đến Anh, Pháp, Mỹ,
Nguyễn Tất Thành tiếp tục trải qua những tháng ngày lao động gian khổ với nhiều
nghề vất vả khó khăn để kiếm sống và nuôi chí lớn tìm con đường cứu nước.
Không chỉ gặp khó khăn, thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống, mà trong
cuộc hành trình suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành luôn
bị kẻ thù rình rập, theo dõi, giám sát, hăm dọa và tìm mọi thủ đoạn hãm hại. Bản án
tử hình vắng mặt (năm 1929) và những ngày bị thực dân Anh bắt giam tại Nhà
ngục Victoria, Hồng Kông (năm 1931) mà Người đã trải qua và tất cả những khó
khăn gian khổ đó không làm Nguyễn Tất Thành chùn bước. Ngược lại, những thử
thách đó càng tiếp thêm cho Người nghị lực, ý chí và sức mạnh để cổ vũ Người
vượt qua, kiên định lập trường của mình là tìm con đường cứu nước cho nhân dân
Việt Nam. Dù chịu cảnh tù đày nghiệt ngã trong dãy xà lim “bề rộng chỉ vừa một
người nằm xiên xiên” nhưng sau này khi viết lại những năm tháng ấy, Người chỉ
nói đến tâm tư của mình “khi bị bắt giam, trong tâm trạng chỉ có một điều là lo,
không phải là lo cho số phận của mình sau này sẽ ra sao… lo là lo những công
việc mình làm xong, ai sẽ tiếp tục làm thay?”.
Có thể nói, ý chí và nghị lực là tố chất rất quan trọng đối với mỗi một con
người, giúp con người xác định mục đích và đưa ra những quyết định cho hướng
hoạt động của mình và giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách nhằm
đạt được mục đích. Ở Nguyễn Tất Thành ý chí và nghị lực mang tính nhân văn sâu
sắc và được thể hiện ở một tầm cao mới, định hướng cho lý tưởng, cho mục đích
cao cả trọn cuộc đời của Người: “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”,
giúp Người vượt qua tất cả những khó khăn gian khổ trong hành trình suốt 30 năm
bôn ba tìm đường cứu nước.
Quá trình hình thành và xác lập con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

265
Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành từ cảng Nhà
Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu
nước. Hành trang mà Người mang theo là lòng yêu nước nhiệt thành và quyết tâm
“làm bất cứ việc gì để sống và để đi” nhằm thực hiện hoài bão tìm ra con đường
cứu nước, cứu dân. Song đi đâu và đến nước nào, bản thân Nguyễn Tất Thành cũng
không biết trước. Điều này thể hiện rõ khi Người trả lời nhà văn Mỹ, Anxa Lu-y
Xtơrông: “Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự
hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này thì
nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ.
Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở
nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con
đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng
dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người:
“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”. Việc lựa
chọn con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, thể hiện
tầm nhìn chiến lược và phù hợp với xu thế thời đại, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng
của các tầng lớp nhân dân lao động. Đến thời điểm này, cách mạng vô sản là cuộc
cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để nhất. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải
phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Hiện thực hóa con đường cách mạng vô sản vào tình hình thực tiễn Việt
Nam, trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập (1930 - 1945), Đảng và Nguyễn Ái
Quốc xác định: Độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm, trước hết và trên hết; đấu
tranh giành độc lập dân tộc là nội dung chủ đạo, chủ nghĩa xã hội chưa đặt ra trực
tiếp mà là phương hướng tiến lên. “Chánh cương vắn tắt của Đảng” được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Trong thời kỳ vận động Cách mạng
Tháng Tám (1939 - 1945), trước những diễn biến mới của tình hình thế giới và
trong nước, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (5-1941), khẳng
định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không
đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia

266
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
chính là quan điểm đúng đắn, sáng tạo, quyết định đến thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
Khi đất nước giành được độc lập, trong “Tuyên ngôn độc lập”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Với “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt
Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền
đề, vừa là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân.
Thực hiện quyết tâm ấy, bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, với quyết tâm: “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ” và tinh thần “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”,
toàn thể dân tộc Việt Nam đã anh dũng chiến đấu đánh bại các chiến lược quân sự
của kẻ thù, lập nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu”, đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc. Cùng với thắng lợi về quân sự,
với chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, chế độ dân chủ mới được xây dựng
ở các vùng tự do, tạo ra động lực và nguồn lực đưa cuộc kháng chiến đến thành
công. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mở ra kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Những cống hiến và sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường
cứu nước, giải phóng dân tộc.
Trước hết là tự ra đi tìm đường cứu nước, không dựa dẫm vào nước nào;
không nhờ vả, kêu gọi người khác giúp mình. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, thực
dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Xã hội Việt Nam đã thay
đổi và bắt đầu phân hóa. Với sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản Pháp, trong xã hội
Việt Nam xuất hiện hai giai cấp mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Các phong
trào cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu tại Trung Quốc cũng ảnh hưởng
đến Việt Nam. Các phong trào yêu nước chống Pháp ở nước ta rất đa dạng và sôi
nổi, nhưng cũng có những phong trào mang khuynh hướng dân chủ tư sản như
Đông Du, Đông Kin Nghĩa Tử, Duy Tân, Việt Quân Phục Hội... cũng có. Các

267
phong trào chống sưu thuế của nông dân ở các tỉnh miền Trung, các phong trào
chống Pháp như vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội, khởi nghĩa Yên Thế.
Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp này đều thất bại. Nguyên nhân
chủ yếu là do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn, khoa học và thiếu sự lãnh đạo
của các giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến từng có vai trò tiến bộ nhất định
trong lịch sử đã trở thành giai cấp phản động bán nước làm tay sai cho đế quốc.
Giai cấp tư sản non trẻ, chưa trưởng thành về lực lượng kinh tế mà nó phụ thuộc và
khuynh hướng chính trị cải lương của nó, không có khả năng lãnh đạo cuộc đấu
tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập, tự do. Nông dân và tiểu tư sản
khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc, phong kiến, nhưng không đi
được con đường giải phóng đúng đắn và không thể giữ vai trò lãnh đạo cách mạng.
Cách mạng Việt Nam đứng trước một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về đường
lối cứu nước.
Hai là, phẩm chất và trí tuệ của Nguyễn Tất Thành cùng với vào cuộc sống
thực tiễn, bằng lao động để mở mang nhận thức tìm ra chân lý.
Hành trang ban đầu của Nguyễn Tất Thành khi ra nước ngoài là tri thức về
văn hóa phương Đông và phương Tây, lòng yêu nước nhiệt thành, tiếp thu có chọn
lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp trước và một dự định rõ rệt, lớn
lao, đó là “xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào,
tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”, đó là dự định đi tìm con đường cứu nước, cứu dân.
Gần mười năm, vừa lao động kiếm sống, vừa tiến hành khảo sát thực tiễn nhiều
nước tư bản và các nước thuộc địa, khảo sát các cuộc cách mạng ở các nước Pháp,
Anh, Mỹ… Người đi đến kết luận: “chúng ta đổ xương máu để làm cách mạng thì
không đi theo con đường cách mạng này” (3). Nguyễn Tất Thành đã tìm ra những
mặt trái của xã hội phương Tây, nhận ra “ở đâu cũng có người nghèo khổ như xứ
sở mình” do ách áp bức, bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Điều đó đã
giúp Người có một nhận thức quan trọng: Nhân dân lao động trên toàn thế giới cần
đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị; cùng nhau thực
hiện nguyện vọng chung là độc lập, tự do. Như vậy, sự sáng tạo của Người còn
được biểu hiện ở triết lý hành động, ở kiểm chứng mọi lý thuyết trong thực tiễn và
bằng thực tiễn, hiện thân nhân sinh bằng dấn thân.
Thứ ba, tham gia hoạt động chính trị, tiếp cận các trường phái cách mạng,
các luồng tư tưởng; khảo nghiệm thực tiễn để chọn con đường cứu nước đúng và
khoa học. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc không thoả mãn với những

268
nguyên lý có sẵn, mà trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã bổ
sung, phát triển những giá trị mới, làm cho hệ tư tưởng - lý luận luôn được đổi mới,
cách mạng hoá.
Sự kiện cực kỳ quan trọng làm chuyển biến cơ bản nhận thức con đường cứu
nước giải phóng dân tộc của Người là được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân
đạo (L’Humanité) tháng 7-1920. Luận cương đã mang lại cho Người ánh sáng về
con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa. Khẳng định ý
nghĩa to lớn của Luận cương trong hành trình tìm ra con đường cứu nước, sau này
Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta””.
Trong bối cảnh bấy giờ, có nhiều trí thức Việt Nam sống tại Pháp, nhưng
Người đã thể hiện tính vượt trội của tư tưởng khi nhận ra được chân lý lớn nhất của
thời đại. Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con
đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực
lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa
với cách mạng vô sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự
hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc. Cho đến cuối đời, Hồ Chí
Minh càng trung thành với con đường độc lập dân tộc bao nhiêu, thì càng trung
thành bấy nhiêu với những lý luận Lênin viết trong Sơ thảo Luận cương và đường
lối của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc ngày càng có
hệ thống và hoàn thiện khi Người tham gia Đảng Cộng sản Pháp, học tập ở Đại học
phương Đông, sống trong không khí sục sôi ở trung tâm phong trào cộng sản ở
Nga, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Nhận thức của Người về sức mạnh của
nhân dân lao động thế giới, về mối quan hệ giữa các dân tộc bị áp bức, giữa cách
mạng ở các nước thuộc địa và các nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân, về chính quyền
cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng… ngày càng sâu sắc và có những luận
điểm bổ sung, phát triển, sáng tạo. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tháng 12/1920 là một
mốc lịch sử quan trọng trong hành trình đi tìm đường cứu nước của Người, đánh

269
dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư
tưởng và lập trường chính trị của Người - từ một nhà yêu nước chân chính trở thành
một chiến sĩ cộng sản. Đồng thời, sự kiện đó cũng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử
vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu quá trình kết hợp đấu tranh giai cấp với
đấu tranh dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tinh thần yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Từ đây, cách mạng Việt Nam bắt đầu đi
vào quỹ đạo của cách mạng vô sản. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bắt đầu hình thành.
Thứ tư, việc tìm ra con đường cứu nước, con đường phát triển cho dân tộc
của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa lịch sử và sự sáng tạo to lớn, đó là:
Tháng 6 -1923, trong thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp, Người phác
họa công việc của mình - Người dẫn đường cứu nước khi trở về Tổ quốc là: “Đối
với tôi, câu trả lời đã rõ ràng là trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” (8).
Nét đặc sắc nhất cuộc hành trình cứu nước 30 năm là không bao giờ Người xa rời
mục đích về nước cứu đồng bào. Khi ở Liên Xô dự Đại hội lần thứ VI Quốc tế
Thanh niên, Người nói với nhà văn I. Êrenbua: “Tôi chỉ có một mong ước là sớm
trở về Tổ quốc”. Khi đang hoạt động trong Bát lộ quân Trung Quốc, Người vẫn bí
mật liên lạc với Ban lãnh đạo Đảng trong nước chuẩn bị xây dựng căn cứ địa vùng
biên giới Việt Trung. Cuối tháng 6 năm 1940, ngay sau khi Pháp đầu hàng phát xít
Đức, Người chỉ thị gấp cho đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không đi
học Trường Quân chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Diên An nữa mà cùng
các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh đi Quế Lâm, Nam Ninh (Quảng Tây) hướng
về Cao Bằng đón thời cơ mới. Đầu năm 1941, sau 30 năm ra đi tìm đường cứu
nước, Người kết thúc Hành trình cứu nước, về vùng rừng núi Cao Bằng - địa đầu
Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo dân tộc thực hành đường lối cứu nước mới, mở ra giai
đoạn mới trong công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. Như vậy, Hồ Chí Minh đã
đem ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm
thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh; mà sau này biểu tượng sáng
chói trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc tái thiết và phát triển đất nước theo con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Và với vệc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân
tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn, thiết thực chuẩn bị cho việc mở ra

270
một giai đoạn phát triển mới của phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và châu Á
nói riêng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển của dân
tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nuôi dưỡng và truyền cảm hứng về khát vọng xây
dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Khi cách mạng chưa thành công, đất nước trong tình cảnh "ngàn cân treo sợi
tóc", Người đã nêu khát vọng đưa dân tộc Việt Nam "bước tới đài vinh quang" để
"sánh vai với các cường quốc năm châu". Đó cũng là khát vọng chung, mong ước
chung của toàn dân và là cái đích mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam
quyết tâm vươn tới. Để thực hiện nguyện vọng trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đề
ra những biện pháp giải quyết các nhiệm vụ cụ thể, như nạn đói, nạn dốt, soạn thảo
Hiến pháp dân chủ, thực hiện tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết, thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính trong đội ngũ cán bộ, công chức. .. Người nêu rõ mong ước và
khát vọng cháy bỏng "... là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng, đề ra con đường, giải pháp để xây
dựng và phát triển đất nước Việt Nam "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn", hoà bình và
hạnh phúc.
Trong bản Di chúc bất hủ, Người trăn trở, đóng góp về việc xây dựng các đô
thị và làng mạc bị chiến tranh tàn phá; phát triển và mở rộng các khu kinh tế; thay
đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với điều kiện mới của đất nước; biến cây cối trở
thành rừng đẹp cho con người, lợi cho nông nghiệp. .. Người mong muốn toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam đoàn kết phấn đấu để xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, ổn định, độc lập, thống nhất, phát triển và đóng góp xứng đáng
cho sự nghiệp cách mạng quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân, là biểu tượng của sự bao dung, nhân ái
và yêu hoà bình, văn minh Việt Nam và tiến bộ của nhân loại.
Khoan dung, nhân ái và yêu hoà bình Hồ Chí Minh cũng chính là hiện thân
của sự khoan dung, văn minh Việt Nam và thế giới trong thời đại mới. Đó là tình
thương yêu bao la với con người, là góc nhìn bao dung trước các thái độ cực đoan
với bản thân và cả việc tôn trọng lòng tin của người khác; khoan dung với mọi sự
cực đoan, giáo điều. Đối với các tín ngưỡng, Người tôn trọng đức tin của người có

271
đạo, tìm sự tương đồng giữa đức tin và lý tưởng của những người có đạo với sự
nghiệp giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho con người như của Đảng ta.
Người được toàn dân tộc và nhân loại suy tôn là chiến sĩ của hoà bình, đấu tranh
chống lại sự bất công, áp bức và bóc lột, cứu giúp con người để có một cuộc sống
đúng nghĩa của con người.
3. Sinh viên Học viện Ngân hàng vững bước theo con đường Người đã chọn
Thứ nhất, sinh viên cần phải năng động, sáng tạo, có thái độ và động cơ học
tập tốt, học tập vì mai sau xây dựng đất nước, thấy rằng học tập cũng là yêu nước.
Tuổi trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ kiến thức
và kỹ năng để thích nghi với các xu hướng phát triển mới về khoa học và công
nghệ. Chính vì vậy, thế hệ trẻ - lớp chủ nhân tương lai của đất nước phải không
ngừng học tập, nghiên cứu và ứng dụng những công nghệ mới nhằm chuẩn bị một
nền tảng tốt, đủ kiến thức và vững kỹ năng để kế tục các thế hệ cha ông trong việc
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, thường xuyên rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sạch, lành
mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện của lối
sống ích kỷ, thực dụng, tránh xa giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc.
Đây sẽ là một động lực quan trọng trong giữ gìn giá trị truyền thống của dân tộc.
Ba là, luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xa Đảng, xa Đoàn, xa
rời chính trị. Ngày nay, những tiện ích công nghệ mới nhất và hệ thống mạng xã
hội ngày càng phát triển đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến việc giãn cách xã
hội, trong đó có giới trẻ nói chung, kể cả những lối sống thiếu sức sống, thờ ơ, lãnh
cảm, có nhiều ảnh hưởng lớn đến học sinh, sinh viên, trong đó có cả hai Hơn nữa,
nhiều bạn trẻ đọc báo chủ yếu thông qua các bài báo chưa được kiểm chứng trên
mạng xã hội chứ không chủ động tiếp cận các nguồn tin chính thống, tạo cơ hội cho
các thế lực thù địch. Việc lan truyền những thông tin xuyên tạc đảng, nhà nước khi
chưa có đủ nhận thức chính trị sẽ tạo ra những suy nghĩ sai lệch trong người đọc và
gây ra những hậu quả khôn lường đối với tình hình an ninh trật tự xã hội. Sinh viên
Việt Nam có nhiệm vụ nâng cao ý thức quản trị, học tập và làm theo Bác Hồ, góp
phần giúp đảng và nhà nước lọc bỏ những thông tin tiêu cực.
Thứ tư, biết phát triển kỹ năng hội nhập trong thời đại mới, tiếp thu những
phát triển của công nghệ, tiến bộ theo hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong quá trình

272
xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta không nên bác bỏ một cách
mù quáng tất cả những sản phẩm của chủ nghĩa tư bản mà phải chắt lọc, tiếp thu
những thành tựu phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. Đặc biệt, những
sinh viên có tính cách năng động, sáng tạo, nhiệt tình và nhanh nhẹn là đối tượng lý
tưởng để học hỏi những kỹ năng mới, tham gia giao lưu và hội nhập quốc tế. Tuy
nhiên, quá trình hội nhập luôn phải đảm bảo không làm mất đi bản sắc văn hóa dân
tộc, lối sống hiện đại hài hòa với các giá trị truyền thống. Trong những thách thức
của học tập khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế, lớp học sinh hiện nay nhanh
chóng tiếp thu các kỹ năng hội nhập như lòng dũng cảm, kiến thức, kỹ năng ngoại
ngữ, tin học, tác phong công nghiệp, hiểu biết về con người và nền văn hóa của
mình. đặt nó trên. , cũng như các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của
thế giới. Để đáp ứng thách thức này, tất cả sinh viên phải phát triển tinh thần tự
học. Là một bộ phận thuộc sinh viên Việt Nam, sinh viên Học viện Ngân hàng cũng
rèn đức, luyện tài, nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức, hướng đến mục tiêu trở thành
thế hệ thanh niên vừa “hồng” vừa “chuyên”. Tri thức và cống hiến cho sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Tích cực tu dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, nếp sống
văn hóa, không chịu sự chi phối của các thế lực phản động thù địch. Tích cực phấn
đấu noi gương thanh niên Việt Nam có tâm trong sáng, chí khí trong sáng, hoài bão
lớn, tiên phong trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, góp phần xây dựng
chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
KẾT LUẬN
Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã
vững bước trên con đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước và dân
tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác,
giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nước kém phát triển, từng bước tiến lên
“sánh vai với các cường quốc năm châu”, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh toàn tập (2011), tập 12, NXB Chính trị Quốc gia,Hà Nội.
[2]. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử (Học viện CTQG HCM - HCM - Biên
niên tiểu sử, NXBCTQG)

273
TỌA ĐÀM KHOA HỌC

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – HÀNH TRÌNH


TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

BAN TỔ CHỨC
1. TS. Trần Thị Thu Hường – Trưởng Ban Tổ chức
2. TS. Nguyễn Thị Lan Phương – P.Trưởng Ban
3. TS. Nguyễn Thị Giang –P.Trưởng Ban

BAN NỘI DUNG VÀ BIÊN TẬP


1. ThS.Kiều Thị Yến
2. ThS. Trần Ngọc Hằng
3. TS. Đào Thu Hương
4. ThS. Nguyễn Đức Quỳnh

THƯ KÝ HỘI THẢO


- ThS.Kiều Thị Yến

THIẾT KẾ BÌA KỶ YẾU


- ThS. Kiều Thị Yến

Hà Nội, 2023

274

You might also like