Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

BẾP LỬA

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa


Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi


Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,


Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa


Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,


Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
I. Thông tin về tác giả – tác phẩm
1. Tác giả: Bằng Việt
– Tên thật: Nguyễn Việt Bằng (1941)

– Quê quán: huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây (Hà Nội)

– Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ XX và tập trung lấy cảm hứng ở hai mảng đề
tài là: nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và vẻ đẹp của con người trong cuộc sống đời thường.

- Phong cách thơ: giàu tính suy tưởng, triết lí

- Giọng thơ trầm bổng, thủ thỉ, tâm tình

Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Bằng Việt

Năm 1965, Bằng Việt tốt nghiệp khoa Pháp lý tại Đại học Tổng hợp Kiev. Sau đó, ông công tác tại Viện
Luật học trực thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam.

Năm 1969, Bằng Việt chuyển công tác, tham gia vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Năm 1970, Bằng Việt với tư cách là một phóng viên chiến trường, ông nhận nhiệm vụ công tác tại chiến
trường Bình Trị Thiên.

Năm 1975, ông tiếp tục công việc tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

Năm 1983, Bằng Việt đảm nhiệm vị trí Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội và là một trong những
người tham gia sáng lập tờ báo văn nghệ mang tên “Người Hà Nội” (xuất bản năm 1985).

Ngoài ra, ông còn được bầu làm Uỷ viên Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam,
phụ trách tổng biên tập tờ tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (từ 1989 đến 1991).

Năm 2001, ông nhận chức Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội nhiệm kỳ 2006 – 2010.

Bằng Việt bắt đầu tiếp xúc với thơ ca từ năm 13 tuổi nhưng đến năm 1961, tác phẩm đầu tiên của ông mới
được ra đời với tên “Qua Trường Sa”. Thơ Bằng Việt đa dạng về thể loại, từ thơ không vần, thơ xuống thang
rồi bắc thang, tất cả những thể thơ này đều có trong các tác phẩm của ông.

Những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Bằng Việt: SGK

Phong cách nghệ thuật trong thơ Bằng Việt:

Thơ Bằng Việt sở hữu cái tôi trữ tình độc đáo, giàu sáng tạo. Các tác phẩm của ông mang một hồn thơ đôn
hậu, vừa nhạy cảm lại rất sang trọng, giàu chất trí tuệ. Khác với các nhà thơ của thế hệ kháng chiến chống
Mỹ, phong cách thơ của Bằng Việt trải đều trên các phương diện từ nội dung đến hình thức và nghệ thuật.

Về nội dung thơ, các bài thơ của Bằng Việt thường được lấy cảm hứng từ quê hương, đất nước và con người
trong chiến tranh.
Về phương diện nghệ thuật, thơ Bằng Việt có những sáng tạo độc đáo trong việc phát triển thể thơ tự do,
ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị, đậm chất tự sự văn xuôi. Đặc biệt, ngôn ngữ thơ Bằng Việt không hoa mỹ,
cầu kỳ mà được chọn lọc từ thực tế đời sống, từ những suy nghĩ và rung động tinh tế của tác giả. Các liên
tưởng, hình ảnh thơ và các sự vật so sánh trong thơ Bằng Việt luôn toát lên khí chất hào hoa, tư duy hiện
đại, mang chất trí tuệ phương Tây.

2. Tác phẩm Bếp lửa


a. Hoàn cảnh ra đời và xuất xứ tác phẩm Bếp lửa
– Bài thơ Bếp lửa được ra đời vào năm 1963, khi Bằng Việt đang là sinh viên Luật ở nước ngoài. Bài thơ là
sự hồi tưởng của tác giả về hình ảnh người bà, về quê hương khi nhìn thấy hình bóng chiếc bếp lửa.

– Bài thơ trích trong tập thơ Hương cây – Bếp lửa năm 1968. Đây là tập thơ được đồng sáng tác bởi Bằng
Việt và Lưu Quang Vũ.

b. Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm

c. Ý nghĩa nhan đề “Bếp lửa”


Nhan đề “Bếp lửa” trong bài thơ là một hình ảnh đặc biệt sáng tạo, vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang nghĩa
biểu tượng:

Ý nghĩa tả thực:

– Bếp lửa là vật được sử dụng để đun nấu, là hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình người Việt

– Bếp lửa là vật dụng gắn liền với những kỉ niệm ấu thơ, gắn liền với người bà của tác giả

Ý nghĩa biểu tượng:

– Bếp lửa tượng trưng cho sự tần tảo của người bà trong những năm tháng đói nghèo để giúp người cháu
trưởng thành và khôn lớn một cách tốt nhất
– Bếp lửa là sự sống, niềm tin và hy vọng mà người bà mong muốn ở cháu trong tương lai

– Bếp lửa là biểu tượng của văn hóa gia đình, cho quê hương, đất nước, nơi đã nâng bước người cháu trên
suốt hành trình trưởng thành

=> Với nhan đề “Bếp lửa”, tác giả đã thể hiện sâu sắc chủ đề chính của bài thơ. Đó là hồi tưởng, suy tư của
tác giả về tình bà cháu giản dị, là tình cảm dành cho gia đình, quê hương, đất nước sâu đậm

d. Nội dung chính: Nhắc lại những kỉ niệm về bà

e. Nghệ thuật chính:

- Hình ảnh sáng tác mang giá trị biểu tượng

g. Mạch cảm xúc: Theo dòng suy nghĩ từ quá khứ đến hiện tại; từ những kỉ niệm => suy nghĩ mang tầm
triết lí

c. Bố cục nội dung bài thơ Bếp lửa


– Phần 1: khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ cùng tình bà cháu

– Phần 2: khổ 2,3,4: Những hoài niệm về năm tháng chiến tranh sống cùng bà và bếp lửa

– Phần 3: khổ 5,6: Suy ngẫm về hình ảnh người bà và bếp lửa

– Phần 4: khổ thơ cuối: Nỗi nhớ khắc khoải về bà và bếp lửa

II. Phân tích bài thơ Bếp lửa


1. Phân tích khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa gợi nỗi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ cùng tình bà cháu
(Mạch cảm xúc => tâm thế nv trữ tình đang ở nước ngoài, đã trưởng thành hồi tưởng lại => cảm xúc dồn nén)

Dòng hồi tưởng và mạch cảm xúc của tác giả được gợi từ hình ảnh bếp lửa thân thương, ấm áp. Từ đó những
kỉ niệm về bà ùa về trong tâm trí tác giả.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

– Hình ảnh bếp lửa hiện lên với ý nghĩa tả thực, mang hình dáng nhỏ bé, gần gũi và vô cùng quen thuộc đối
với mỗi gia đình Việt Nam từ xưa đến nay.

Phép tu từ ẩn dụ “ấp iu nồng đượm” có tác dụng:

– Liên tưởng đến bàn tay cần mẫn, khéo léo của người bà khi nhóm bếp lửa mỗi sớm tinh mơ

– Thể hiện tình yêu thương của người bà, nuôi nấng người cháu bằng tấm lòng ấm áp tựa như hơi ấm bếp
lửa.

Điệp từ “một bếp lửa” được lặp lại hai lần:


- Nhấn mạnh hình ảnh, biểu tượng trung tâm của bài: bếp lửa

– Thể hiện tác giả nhìn thấy hình ảnh bếp lửa và bóng dáng của người bà một cách đều đặn mỗi ngày. Bà
luôn tần tảo, thức khuya dậy sớm để chăm sóc, nuôi dưỡng người cháu trưởng thành.

– Diễn tả cách mà mạch cảm xúc trào dâng và lần lượt ùa về từ ký ức

Sử dụng từ láy “chờn vờn” có ý nghĩa:

– Miêu tả thực hình ảnh ngọn lửa bập bùng, lung linh, tỏa sáng trên bếp lửa, ẩn hiện giữa màn sương sớm

– Ẩn dụ về những ký ức mờ ảo, kỷ niệm, về những năm tháng tuổi thơ đang tỏa ra, chờn vờn ám ảnh trong
tâm trí tác giả

Sự trỗi dậy cảm xúc yêu thương mãnh liệt trong người cháu qua hình ảnh bếp lửa được thể hiện qua
câu thơ:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

- “thương bà”, cả hai tiếng đều là thanh bằng gợi nỗi nhớ vang xa, nỗi nhớ trong xa cách mà tác giả
đang hồi tưởng lại về.

+ Cụm từ “biết mấy nắng mưa” chính là để lột tả sự cần cù, chịu khó, đức hi sinh của người bà dành cho
người cháu.

+ Từ “thương” là từ biểu cảm đắt nhất trong câu thơ. “Thương” là động từ chỉ tình cảm chân thành, được thể
hiện qua sự sẻ chia và sự kính trọng. Tác giả sử dụng từ “thương” thay vì từ khác giúp cảm xúc an tỏa tâm
hồn người cháu một cách rất tự nhiên.

=> Bộc lộ sự thấu hiểu của người cháu trước những vất vả, lam lũ, nhọc nhằn của cuộc đời người bà.

=> Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu những ký ức xúc động về người bà và là tiền đề
để những kỷ niệm bên bà hiện về. Dòng cảm xúc đi từ nỗi nhớ bà lan rộng thành nỗi nhớ về quê hương, nơi
có gia đình và có những người thân yêu.

2. Phân tích khổ 2,3,4 bài Bếp lửa: Những hoài niệm về năm tháng chiến tranh sống cùng bà và bếp
lửa
a. Ký ức từ hồi lên bốn chợt ùa về
Từ những năm lên bốn, tác giả đã phải trải qua những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, đầy khó khăn
cùng gia đình:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”


- Hoàn cảnh: Cháu lên 4 tuổi => nạn đói 1945 (hơn 2tr đồng bào chết đói, chống trả giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm) => Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn, đầy khó khăn vất vả

Từ láy “đói mòn đói mỏi” thành ngữ có mang ý nghĩa:

– Diễn tả hiện thực đau thương trong lịch sử, đó chính là nạn đói năm 1945. Do chính sách cai trị hà khắc
của quân Nhật và Pháp, hơn hai triệu đồng bào ta đã chết đói. Những người còn lại thì chật vật kiếm ăn qua
ngày. Cái đói cái nghèo làm nhân dân ta mệt mỏi, rã rời và kiệt sức.

- Thành ngữ đói mòn đói mỏi là cái đói kéo dài, mệt mỏi, kiệt quệ => Quá khứ đau thương

– Khiến giọng điệu câu thơ trùng xuống, lòng người như nao nao, nghẹn ngào cảm xúc khi nghĩ về những
năm tháng tuổi thơ đói khổ ấy

– Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” diễn tả được hậu quả mà cái đói đã gây ra. Nó khiến cho
không chỉ người mà đến ngựa cũng trở nên gầy rạc, xanh xao…Tuy tiều tụy, thiếu thốn là vậy nhưng với vai
trò là trụ cột gia đình, người cha vẫn phải “đi đánh xe”, bươn chải kiếm sống đủ nghề

=> Cả hai hình ảnh “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” đều mang đậm chất hiện thực. Qua đó, tác giả
đã thành công trong việc đặc tả sự xơ xác, xanh xao, mệt mỏi của những con người sống trong nạn đói lớn
nhất lịch sử dân tộc.

Trong những năm nạn đói hoành hành, người cháu đã cùng bà nhóm lửa:

“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

– Khói bếp của bà năm tháng ấy đã lưu giữ một cảm giác khó quên, dai dẳng đến nỗi, bây giờ khi nghĩ lại
“sống mũi còn cay’’.

– Trong khổ thơ này từ “khói” đã được lặp lại 2 lần dưới 2 trạng thái khác nhau: “mùi khói” và “khói hun”.
Tuy ở hai hình thái khác nhau nhưng “khói” đều gợi sự ám ảnh về một thời gian khó khăn mà tác giả đã phải
trải qua cùng người bà

- Trên nền đói đó, h/a cháu cùng bà nhóm lửa xuất hiện, “cái khói” thực - nấu ăn, đun nấu; “khói” xua
tan mùi tử khí vào năm 1945 (chết la liệt - hố chôn tập thể), nâng lên thành hình tượng - xua đi cái
đói khổ.
– Cảm giác “cay” vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động như hòa vào làm một. Hai trạng thái “cay”
của quá khứ và “cay” của hiện tại như hiện lên đồng thời qua những dòng thơ

=> Mùi khói in đậm trong tâm trí dâng lên thành nỗi xúc động nghẹn ngào

=> Những câu thơ được đầy ắp tình cảm, chan chứa nước mắt, ùa về trong tâm tư tác giả, mờ ảo qua làn
khói. Từ đó giúp gợi cho người đọc hình dung rõ nét về một tuổi thơ đầy gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn,
một thời kỳ đen tối trong lịch sử dân tộc.

=> Quá khứ và hiện tại đã hoàn toàn đồng hiện với nhau.

b. Ký ức hồi lên tám tuổi


Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

“Tám năm ròng” là khoảng thời gian người cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà:

– “Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” cũng là tám năm cháu nhận được sự yêu thương, bao bọc của bà

– Tám năm ấy tuy thiếu thốn, khó khăn nhưng chưa bao giờ cháu thiếu tình yêu thương

– Hình ảnh “Bếp lửa” hiện lên trong khổ thơ như thể hiện cho tình bà cháu ấm áp. Với cháu, bà như chỗ dựa
tinh thần, là nơi cho cháu sự bình yên và an toàn

Năm tháng sống bên bà là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư. Điều này được thể hiện qua
hình ảnh tâm tình của tác giả với chim tu hú:

“Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa

Tu hú kêu bà còn nhớ không bà?


Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

– Tiếng chim tu hú báo hiệu hè về là âm thanh quen thuộc của đồng quê Việt Nam, giục lúa chín, báo hiệu
một mùa bội thu. Tiếng chim cũng khiến cho bức tranh đồng quê trở nên sinh động hơn với đồng lúa chín
vàng đồng và vải chín đỏ cành

- Gợi buổi sớm thức dậy cùng bà

Tiếng chim tu hú giục giã liên hồi như khắc khoải da diết, khiến lòng người trỗi dậy những kỷ niệm xưa cũ.
Nó gợi nhắc về câu chuyện của bà:

=> Giọng thơ ngân vang, xa mãi, khắc khoải khi tiếng chim tu hú cứ láy đi láy lại trong tâm trí tác giả

– Tám năm kháng chiến chống Pháp, tác giả đã phải xa cha mẹ: “mẹ cùng cha công tác bận không về”. Lúc
bấy giờ chỉ có hai bà cháu sống cùng nhau. Có thể nói, bà vừa là cha, vừa là mẹ, nuôi dưỡng cháu khôn lớn
và trưởng thành.

* Những năm tháng tuổi thơ cùng bà nhóm lửa. Đó là cảm giác yên bình khi được sống trong tình yêu
thương, đùm bọc, tìm cảm ấm áp, trọn vẹn của bà. Những câu thơ là hồi ức về tình yêu thương, che chở của
bà.

Mẹ cùng cha công tác bận không về,


Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

- Hoàn cảnh: Mẹ cùng cha bận kháng chiến => 2 bà cháu côi cút nương tựa chăm nhau
- Cháu sống trong yêu thương của bà ntn?

“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học’’


– Sử dụng các động từ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” như một cách liệt kê. Tác giả cho thấy tấm lòng bao
la, sự nâng niu, chăm sóc mà bà dành cho đứa cháu nhỏ. Bà là sự hòa quyện đẹp đẽ nhất của “công cha,
nghĩa mẹ, ơn thầy”.

=> Bà là chỗ dựa vững chãi nhất của người cháu khi lên tám

– Tình yêu thương, sự kính trọng trước những hi sinh của người bà được tác giả thể hiện chân thành, sâu sắc
qua câu thơ: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”

Hình ảnh chim tú hú được nhắc lại ở cuối khổ thơ kết hợp cùng câu hỏi tu từ là một sáng tạo độc đáo của
Bằng Việt. Tác giả đã diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ bên bà:

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

– Qua câu thơ, ta thấy được hình ảnh chú chim tu hú đang lạc lõng, bơ vơ giữa không gian rộng lớn, mênh
mông của cánh đồng, được tác giả mời gọi đến bên bà.

- Câu thơ là câu hỏi tu từ, trách, than => nỗi nhớ mong khắc khoải nhớ mong về bà

– Người cháu nơi phương xa bỗng chạnh lòng trước hình ảnh chú chim tu hú, nhớ về những ngày được sống
trong tình yêu, sự đùm bọc của bà. Chú chim chính là phản chiếu hình ảnh người cháu đã lớn khôn, bơ vơ,
lạc lõng giữa nơi đất khách quê người nhưng trong lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ bà, thương bà da diết

– Người cháu thương con tu hú bao nhiêu thì lại biết ơn những tháng bên bà bấy nhiêu

– Các từ “bà” và từ “cháu” được lặp lại bốn lần, đan xen vào nhau, góp phần thể hiện sự quấn quýt yêu
thương của tình bà cháu

=> Trong hồi tưởng của người cháu về quá khứ, người cháu luôn bày tỏ nỗi nhớ thương và lòng biết ơn bà
vô hạn

c. Ký ức về một thời bom đạn chiến tranh, giặc đốt làng


Trong sự tàn khốc của cuộc chiến tranh bừng sáng lên hình ảnh người bà với nhiều phẩm chất cao đẹp:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi


Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

- Hoàn cảnh: chiến tranh ác liệt, giặc đốt làng => cuộc sống ngày càng thiếu thốn, gian khổ

+ Hình ảnh thơ “cháy tàn cháy rụi” đã thể hiện rõ nét sự tàn phá khủng khiếp mà chiến tranh đã mang lại
cho những làng quê Việt Nam.

– Trong cái khắc nghiệt của chiến tranh là tình cảm làng xóm, cùng “đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”. Đó
chính là phẩm chất lá lành đùm lá rách – một phẩm chất đáng quý trong truyền thống dân tộc ta

Trước bi kịch của hiện thực ấy, người bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường sống và nuôi nấng người cháu. Bà hiện
lên với phẩm chất cao quý. Bà đã dặn dò cháu:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”

– Mặc cho sự khó khăn thiếu thốn nơi quê nhà, bà vẫn nói rằng có thể lo toan mọi việc, mục đích để các con
yên tâm công tác, phục vụ cách mạng

– Lời dặn của bà là lời dặn giản dị, nôm na, chứa đựng tình cảm, tấm lòng bà dành cho cháu => Bà không
chỉ tạo chỗ dựa vững chắc cho những đứa con xa nhà mà còn là điểm tựa vững chắc cho cả người cháu

- Hoàn cảnh: thiếu thốn => bà nén lại chịu đựng một mình => nhấn mạnh đức hi sinh

=> Người bà nhẫn nại, nghị lực

=> Hình ảnh người bà qua lời dặn đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, người mẹ anh hùng
Việt Nam trong kháng chiến “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Họ không những giàu lòng vị tha
mà còn giàu đức hi sinh.

3. Phân tích khổ 5,6 bài Bếp lửa: Suy ngẫm về hình ảnh người bà và bếp lửa
a. Suy ngẫm của tác giả về cuộc đời bà
Từ đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa luôn song hành cùng hình ảnh người bà, với sự tần tảo, nhẫn nại và giàu
tình thương. Đến khổ 5, tác giả đã tự mình bày tỏ những suy ngẫm về bếp lửa:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Ngọn lửa: thực, ẩn: niềm tin lạc quan bất diệt

– Hình ảnh “bếp lửa” ở dòng thơ đầu là mang nghĩa tả thực. Đó là sự vật hữu hình và gần gũi nhất, luôn xuất
hiện trong những khoảng thời gian khó khăn của đời bà

Từ hình ảnh “bếp lửa” tả thực, tác giả đã gợi lên hình ảnh “ngọn lửa”. Đó là “ngọn lửa” mà “lòng bà
luôn ủ sẵn”, mang ý nghĩa trừu tượng sâu sắc:

– Bếp lửa bà nhóm lên không phải bằng than, bằng củi, mà còn bằng “ngọn lửa” từ trong lòng bà. Một ngọn
lửa ấm áp tình yêu thương, niềm tin “dai dẳng” vào một tương lai tươi sáng, tương lai sống trong hòa bình
độc lập của đất nước.

– “Ngọn lửa” bền bỉ và bất diệt bà nhóm mỗi ngày ấy chính là phản chiếu niềm vui, niềm tin, tình yêu
thương mà bà thắp lên để nâng đỡ người cháu trên chặng đường trưởng thành

– Người bà trong mắt cháu không chỉ là người thắp lửa, nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, giúp
duy trì ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ sau

– Sử dụng các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa”, tác giả muốn thể hiện rằng ý chí, bản lĩnh của bà, vốn đã có
sẵn trong tố chất, phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, chỉ đợi một ngọn lửa để thắp lên, bộc lộ ra
bên ngoài

- Nhóm: bằng củi, bằng than - bằng tình yêu thương, sự hi sinh, ý chí nghị lực

– Sử dụng điệp ngữ đi kèm với phép ẩn dụ “một ngọn lửa”, cùng với đó là kết cấu song hành đã khiến giọng
thơ vang lên với đầy xúc động, tự hào

=> Qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca về vẻ đẹp tần tảo, kiên trì, nhẫn
nại và giàu đức hy sinh của người bà. Những phẩm chất cao đẹp ấy hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng
diệu kỳ giữa những điều bình dị, giản dị nhất trong cuộc sống đời thường

b. Ý nghĩa cao cả về việc nhóm lửa


(Hình ảnh bà bà bếp lửa song song hiện với nhau)
Bà vừa là người nhóm lửa, vừa là người giữ cho ngọn lửa ấm nóng và tỏa sáng. Trong ký ức người cháu mỗi
khi nhớ lại luôn hiện lên hình ảnh người bà với sự cảm phục và biết ơn vô hạn:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

– Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” cùng với từ láy tượng hình “lận đận” và hình ảnh ẩn dụ
“nắng mưa” (lặp ở khổ 1) đã diễn tả một cách trọn vẹn và sâu sắc về cuộc đời đầy gian nan, lo toan, vất vả
của người bà

– Thời gian trôi qua, mọi sự biến đổi, song chỉ một điều duy nhất bất biến, đó là cuộc đời bà: suốt một cuộc
đời vất vả chăm con chăm cháu, bà “vẫn giữ thói quen dậy sớm” để nhóm lửa, nhóm niềm tin, thắp lên tình
yêu thương, nuôi dưỡng cháu khôn lớn

=> Tình thương yêu tác giả đối với người bà được bộ lộ rõ qua từng câu chữ. Đó là tình cảm ấm áp, giản dị,
chân thành mà sâu nặng, thiết tha.

Đôi tay khẳng khiu, gầy guộc của bà không những nhóm lửa mà còn “ấp iu nồng đượm” tình yêu con
cháu, ấp ủ tình cảm cảm bằng tất cả tấm lòng đôn hậu:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần, đan xen với những chi tiết tả thực, gợi ra nhiều ý nghĩa sâu sắc:

– Hình ảnh “Nhóm bếp lửa” và “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh miêu tả thực công việc thường ngày của
người bà để sưởi ấm, nấu ăn cho cả gia đình.

– Mặt khác, “nhóm niềm yêu thương” hay “nhóm dậy cả những tâm tình” là mang nghĩa ẩn dụ về công việc
thiêng liêng, cao quý nhất của người bà. Bà đã khơi dậy niềm yêu thương và sự chia sẻ, đoàn kết giữa người
với người, thức dậy ước mơ, khát khao trong tâm hồn cháu từ tuổi tấm bé
Nhớ đến bài thơ cũng nhắc về h/a bà cháu: Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh

“Tiếng gà trưa mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ giấc ngủ hồng sắc trứng”

=> Người bà cũng khơi gợi cho chúng ta những ước mơ, khát vọng của chính người cháu.

=> Ý nghĩa của việc nhóm lửa với thế hệ: Việc nhóm lửa như một thông điệp chuyển giao thế hệ. Bà giữ
lửa, truyền lửa, truyền..., đánh thức...

– Sau suy ngẫm đó, tác giả nhận ra trong sự bình dị của hình ảnh bếp lửa là một điều kỳ diệu, thiêng liêng.
Từ đó, tác giả đã chợt thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng — bếp lửa!”.

+ Đảo ngữ, cảm thán: cảm xúc ngạc nhiên pha chút ngỡ ngàng nhưng cũng là đầy tự hào khi nghĩ đến việc
đầy ý nghĩa của người bà dành cho cháu, cho mọi thế hệ.

=> Nhớ về bà và bếp lửa, mở rộng ra là nhớ quê hương, cội nguồn, nhắc nhở về đọa lí “uống nước nhớ
nguồn”

=> Có thể nói, 2 khổ thơ chính là cảm xúc dâng trào của tác giả khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Từ đó ngợi
ca, khẳng định: Bà là một người phụ nữ tần tảo, luôn chăm lo và dành những điều tốt đẹp nhất cho con cháu.

4. Phân tích khổ thơ cuối bài Bếp lửa: Nỗi nhớ khắc khoải về bà và bếp lửa
Người cháu năm xưa được bà nuôi nấng giờ đã lớn khôn, chắp cánh bay xa nhưng vẫn không quên được
nguồn cội, không thể quên được quê nhà, nơi có bếp lửa và đặc biệt là có bà:

“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chăng lúc nào quên nhắc nhớ:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

– Dòng thơ đầu được ngắt thành hai nhịp đã gợi vận động của thời gian: từ năm bốn tuổi, lên tám tuổi, đến
tuổi trưởng thành. Nhịp thơ cũng biểu thị sự biến đổi của không gian: từ căn bếp của bà đến những khoảng
trời rộng lớn).
– Điệp từ + số từ “trăm” giúp người đọc mở rộng tầm nhìn ra một thế giới rộng lớn với muôn vàn điều mới
mẻ, khẳng định cháu đã lớn, đã trưởng thành.

Tác dụng của điệp từ “có” và biện pháp liệt kê:

– Thể hiện những thay đổi lớn trong cuộc đời người cháu. Ở nơi phương xa, người cháu đã tìm được cho
mình nhiều niềm vui mới

- Quen hệ từ “nhưng” tương phản đối lập => Lời tự nhắn nhủ bản thân mình, tự đinh ninh, nhớ lại
không bao giờ được quên bếp lửa- bà
- Câu hỏi tu từ + âm điệu nhanh, dồn nén cảm xúc

=> Giúp khẳng định nỗi nhớ khắc khoải trong tâm trí người cháu về hình ảnh ngọn lửa của bà, tấm lòng hi
sinh, che chở, ấp iu, đùm bọc của bà, đã nâng đỡ cháu trưởng thành.

=> Khẳng định bà là người truyền lửa, người nhóm lửa và giữ lửa, chuyển giao những cái đẹp nhất cho mọi
thế hệ sau này (có cháu). Ngọn lửa ấy đã trở thành ký ức khó phai, thành niềm tin thiêng liêng, tạo động lực
cho người cháu trên suốt chặng đường trưởng thành và phát triển.

=> Khép lại bài thơ, tác giả đã thể hiện lòng tôn vinh đối với đạo lí thủy chung, cao đẹp của người Việt:
“uống nước nhớ nguồn”. Tượng trưng cho tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. Đạo lí nhân văn ấy được
nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ, nhen nhóm trong tâm hồn người cháu từ nhỏ, để rồi sau này chắp cánh bay cao,
bay xa trên hành trình cuộc đời nhiều khó khăn thử thách.

III. Tổng kết chung tác phẩm Bếp lửa


1. Về nội dung tác phẩm Bếp lửa
– Bài thơ “Bếp lửa” là lời khẳng định, ngợi ca tình bà cháu, tuy bình dị, giản đơn nhưng vẫn hết sức thiêng
liêng, kì diệu.

– Toàn bộ bài thơ là dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu ở nơi phương xa khi đã trưởng thành. Từ
hình ảnh bếp lửa, người cháu đã nhớ lại những ký ức đầy xúc động về người bà. Từ đó bộc lộ những tình
cảm nhớ nhung da diết, sâu nặng đối với gia đình, quê hương

2. Về nghệ thuật trong bài thơ Bếp lửa


– Có sự kết hợp hài hòa giữa nhiều phương thức biểu đạt trong 1 bài thơ, bao gồm: tự sự, biểu cảm, miêu tả,
bình luận

– Hệ thống hình ảnh vừa mang nghĩa tả thực lại vừa mang nghĩa biểu tượng

– Giọng thơ tâm tình, thiết tha kết hợp với nhịp điệu thơ linh hoạt
– Lỗi viết trùng điệp được sử dụng linh hoạt, khiến hình ảnh bếp lửa hiện lên sinh động, giúp người đọc cảm
nhận được sự nồng nàn, ấm nóng của ngọn lửa

– Ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc với giọng điệu chân thành, mang đến nhiều triết lý sâu xa

2. Sơ đồ tư duy bài Bếp lửa

You might also like