Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 13

Nhóm 7

1. Lê Ngọc Bảo Trâm - 21H4010104 ( Nhóm Trưởng )


2. Lê Mai Quỳnh - 21H4020062
3. Trần Thanh Tâm - 21H4030117
4. Đào Duy Thuận - 18H1090082

ĐỀ TÀI: Phân tích để làm rõ quan điểm “Đối với nước ta, (vào thời điểm năm 1986), đổi
mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn.” Từ đó, rút ra những bài
học kinh nghiệm cho sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

1. Hoàn cảnh và bối cảnh Việt Nam giai đoạn năm 1986
Sau khi đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ
quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Thuận lợi về sức mạnh
tổng hợp, song cùng với đó, đất nước ta vẫn phải đối mặt với hậu quả nặng nề hậu chiến
tranh.

Điểm xuất phát của Việt Nam về KT-XH còn ở trình độ thấp. Điều kiện quốc tế có
những thuận lợi đồng thời cũng xuất hiện những khó khăn thách thức mới. Các nước
XHCN bộc lộ nhữngkhó khăn về kinh tế - xã hội và sự phát triển chậm; các thế lực thù
địch bao vây cấm vận và phá hoại sự phát triển của Việt Nam.
Về tình hình và cơ chế quản lý về kinh tế giai đoạn trước 1986 có đặc điểm cơ chế quản
lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc điểm chủ yếu là:
- Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch
cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà
nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
- Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất vàpháp lý đối với các
quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không gây ra thì
ngân sách nhà nước phải gánh chịu.
- Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu.
Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều
hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tưliệu sản xuất quan
trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
- Bộ máy quản lý cồng kềnh, chưa hợp lí; nhiều cấp trung gian vừa kém năng động,
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng
lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Về chế độ bao cấp của nhà nước ta thời điểm đó mang những hình thức cụ thể:
Thứ nhất, bao cấp qua giá: nghĩa là nhà nước ta quyết định luôn giá trị tài sản cũng như
thiết bị và vật tư, hàng hóa thấp hơn nhiều so với giá trị thực với chúng ta trên thị trường.
Thứ hai là, bao cấp chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm
tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem
phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện
vật, thủ tiêu động lực tích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao
động.

Thứ ba, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều này làm cho nền kinh tế
nhà nước ta bị nặng về cơ chế xin – cho; đồng thời là nhà nước trở nên tăng gánh nặng về
ngân sách.
Có thể thấy, cơ chế quản lý của nhà nước ta sau thời kỳ giải phóng nhìn chung có những
hiệu quả nhất định, nó mang lại sự hiệu quả về việc tối đa các nguồn lực kinh tế trong
những giai đoạn và điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, khi ta nhìn nhận sâu sắc hơn thì có thể thấy
được rằng, cơ chế quản lý này đã thủ tiêu đi ý chí cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển và tiến
bộ của khoa học – công nghệ; làm mất đi tính năng động và phát triển của các chủ thể kinh
tế trong xã hội. Có thể thấy, đây chính là một “Sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách, sai lầm về chỉ đạo chiến lược sách lược và tổ chức thực hiện” của
nhà nước ta giai đoạn này để dẫn đến kết quả chính là khiến đất nước rời vào tình trạng
khủng hoảng, cụ thể là khủng hoảng về kinh tế - xã hội.

Chế độ tem phiếu và bối cảnh tình hình xã hội chung


Giai đoạn từ 1976 - 1986, Việt Nam áp dụng chính sách trợ giá và tem phiếu dẫn
đến trong thời gian này thường xuyên xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hóa để đáp ứng
nhu cầu của người dân. Tiêu dùng chậm dẫn đến lạm phát, đời sống nhân dân nghèo nàn,
khó khăn vô cùng.

Chế độ tem phiếu và bối cảnh tình hình xã hội chung


 Trước tất cả những vấn đề hạn chế và bất cập trên về bối cảnh xã hội nói chung và nền
kinh tế Việt Nam nói riêng đã đặt ra nhiệm vụ vô cùng lớn cho Đảng và nhân dân Việt
Nam; từ đó chúng ta hiểu rằng cần phải có đường lối, chính sách đổi mới đầy đủ, chi tiết
cùng với hành động dứt khoát và kịp thời. Và đương nhiên hoàn toàn có thể nói, công cuộc
đổi mới 1986 là tất yếu của bối cảnh lịch sử nước ta lúc bấy giờ.
2. Bối cảnh phát triển khách quan và quốc tế
Giai đoạn 1986, chúng ta có thể nhận thấy rằng cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật đang
phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới
đã thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự
nghiệp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặt trong tình thế đó thì khi soi chiếu ngược lại tình
hình chúng ta, Việt nam đang bị các nước đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và
ở tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan
hiếm, lạm phát tăng 300% năm 1985 lên 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm
pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra phổ biến Đổi mới đã trở thành yêu cầu bức thiết của
tình hình đất nước.

Cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3.0 đã và đang ngày càng đi đến phát triển
cao trào
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp, xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Về tình hình văn hóa xã hội nước ta thời điểm đó:
- Văn hóa – xã hội khép kín, ít có sự giao lưu với phương Tây;
- Xã hội ít có sự phân hóa giàu nghèo nhưng mức sống của người dân là vô cùng
thấp, nhìn chung là đời sống còn nghèo nàn và khó khăn;
- Người dân không được tự do phát triển khả năng và đam mê của mình mà chủ yếu
là sự sắp đặt sẵn có của nhà nước; tóm lại trình độ dân trí nước ta rơi vào tình
trạng thấp.
Trước những trình hình khủng khoảng của kinh tế và bối cảnh xã hội chủ nghĩa lâm
nguy, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện trên phạm vi cả nước, theo hướng
kinh tế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Như vậy, chúng ta có thể tóm lại những lý do và nguyên nhân dẫn đến sự tất yếu của sự
nghiệp đổi mới tại Đại hội VI năm 1986:
- Về yếu tố chủ quan: tình hình chính trị - kinh tế - xã hội của Việt Nam thời điểm đó
đã có những biểu hiện tiêu cực và khủng hoảng nghiêm trọng;
- Về phía nhân dân: khủng hoảng và khó khăn trong xã hội gây nên sự mất lòng tin
trong nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng;
- Trong giai đoạn đó, chúng ta cũng đã liên tiếp tiến hàng các cuộc thử nghiệm quan
trọng để cải thiện tình hình nhưng kết quả không được khả quan và nước ta ngày
càng rơi vào tình trạng khủng hoảng.
- Trên thế giới cũng diễn ra nhiều biến đổi quan trọng: công cuộc cải cách kinh tế
Trung Quốc; sự không thành công của công cuộc cải tổ đã dẫn tới sự sụp đổ của
CNXH ở Liên xô và nhiều nước Đông âu là một bài học phản diện; sự thành công
của các nước "công nghiệp mới" ở Đông á đưa ra những gợi ý về cách thức và giải
pháp phát triển đối với những nước vốn xuất phát từ những nước nông nghiệp và có
quan hệ xã hội theo kiểu những giá trị văn hoá phương Đông.
3. Bài học kinh nghiệm cho sự lãnh đạo của Đảng giai đoạn hiện nay
Có thể nói Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại,
đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trải qua
nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn và đối mới tư duy lý luận nhận thức rõ hơn về thời
kỳ quá độ và về chủ nghĩa xã hội, những quy luật khách quan đang vận dụng trong thời kỳ
quá độ, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, được các kỳ
Đại hội sau này và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng bổ sung, cụ thể hóa
và phát triển.
- Bài học thứ nhất, trong toàn bộ hoạt động của mình thì Đảng phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc”. Tư duy lý luận “Dân là gốc” bắt nguồn từ việc kế thừa và
phát huy những bài học từ truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn xác định “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Cách mạng muốn thành công thì phải có Đảng
mở đường, lãnh đạo nhưng nếu không có nhân dân thì sẽ không có lực lượng cách
mạng và phong trào cách mạng. Điều này cho thấy, chính nhân dân và chỉ có nhân
dân mới là người hiện thực hóa được mục tiêu, lý tưởng mà Đảng đề ra.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn
về nội dung và ý nghĩa của bài học quý báu này. Sự nghiệp đổi mới bắt đầu từ những
sáng kiến trong quần chúng nhân dân, trên cơ sở phù hợp với mong muốn, lợi ích
của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đường lối ấy hình thành trên cơ sở
phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của nhân
dân, của các cấp, các ngành, hợp quy luật, thuận lòng người, nên nhanh chóng đi
vào cuộc sống.

Đối với nước ta, sau hơn 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia,
uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ngày
càng được nâng cao. Song, đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống tuy đã được ngăn chặn bước đầu, song còn diễn biến phức tạp và gây ra những
hệ lụy nghiêm trọng dẫn đến mất uy tín của Đảng và Nhà nước trong mắt quần chúng
nhân dân. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn,
chúng tìm mọi cách để chia rẽ quan hệ giữa nhân dân với Đảng, cũng như thực hiện
mưu đồ ly tán lòng dân, nhất là lòng dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn có thể kể đến như vụ nổ
súng tại Đắk Lắk do các đối tượng bị xúi giục, kích động qua không gian mạng và
kích động chia rẽ giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số với cớ đòi đất…

- Bài học thứ hai, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan.
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ là một sai lầm của Đảng ta trước
Đại hội lần VI tháng 12/1986. Đánh giá về mức độ sai lầm trong thời kỳ này, Đại
hội đã chỉ ra Đảng đã “nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa,
muốn thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng
đường đầu tiên”. Từ sự khủng hoảng đó, một trong những bài học kinh nghiệm quan
trọng được rút ra trong suốt thời kỳ đổi mới là Đảng phải xuất phát từ hiện thực.

Thông qua Đại hội XIII (2021) cùng những bài học kinh nghiệm sâu sắc qua 35 năm
đổi mới, với quyết tâm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,
Đảng ta đã thể hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước với những lộ trình
cụ thể:

“Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức
thu nhập trung bình thấp.

Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay
là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao”

- Bài học thứ ba, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mới.

Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh, sức mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh, giữ vai trò quyết định;
sức mạnh thời đại là nguồn lực bên ngoài chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua
nhân tố bên trong là sức mạnh dân tộc, và khi nó được phát huy thì sẽ làm cho sức
mạnh dân tộc tăng lên.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trở thành bài học kinh nghiệm
xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, qua
hơn 36 năm đổi mới đất nước, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
đã để lại dấu ấn đặc sắc qua các kết quả, thành tựu to lớn, có tính bước ngoặt. Đất
nước Việt Nam từ chỗ bị bao vây, cấm vận ngặt nghèo, đến nay, đã vào nhóm nước
có thu nhập trung bình, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế; uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế ngày càng được khẳng
định và nâng lên.

Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối diện với những thách thức lớn: rơi vào bẫy thu
nhập trung bình; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; các nhân tố của an
ninh phi truyền thống và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…

Bài học thứ tư, phải xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đảng cầm quyền theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hệ thống những quan
điểm toàn diện, sâu sắc về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh nhằm giữ vững
và bảo đảm sự lãnh đạo đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kế thừa và vận dụng sáng tạo
những chỉ dẫn của Người trong quá trình lãnh đạo và cầm quyền, Đảng ta đã tiến
hành công cuộc đổi mới, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, kinh
tế không ngừng phát triển, chính trị - xã hội ổn định, đối ngoại mở rộng, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp
tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng”, theo đó, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:

Thứ nhất, không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hoàn thiện thể chế, bảo đảm
đồng bộ, liên thông giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng. Tiếp tục
nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu của toàn Đảng. Thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tổ chức, quy định của Đảng; thực hành dân chủ gắn liền với
tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cần rà soát, bổ sung chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị, khắc phục
sự trùng lắp, chồng chéo.

Thứ ba, tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước. Cần đổi mới, tăng
cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban
kiểm tra các cấp, xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên vi
phạm. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tiêu cực, lãng phí, kiên
quyết xử lý, đưa ra khỏi hệ thống chính trị những cán bộ, đảng viên không có tinh
thần tự giác rèn luyện, tha hóa, biến chất, không có đức, có tài, thông qua đó, sàng
lọc những phần tử yếu kém, nâng cao chất lượng của bộ máy tổ chức Đảng.

Bộ đội giúp đồng bào Tây Nguyên chuyển nhà

Thứ tư, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ phẩm chất và uy tín ngang tầm nhiệm
vụ. Phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên
có ảnh hưởng quyết định đến uy tín, danh dự của Đảng. Do đó, phải phát huy vai
trò tiên phong, gương mẫu, tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên
gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần tự soi, tự sửa chính mình, nêu cao tinh thần tự phê bình
và phê bình; thực hiện nói đi đôi với làm, tìm ra những ưu điểm để phát huy, có các
biện pháp khắc phục, sửa chữa khuyết điểm một cách thiết thực, hiệu quả.

Thứ năm, luôn coi trọng bài học “lấy dân làm gốc”, tăng cường mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa cán bộ, đảng viên của Đảng với nhân dân, phải tin dân, dựa vào dân,
thường xuyên học hỏi nhân dân, phát huy quyền làm chủ và sức mạnh to lớn của
nhân dân. Mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải thật sự tiên phong, gương mẫu,
có tinh thần trách nhiệm trước dân, gần dân, tôn trọng dân, biết lắng nghe ý kiến,
nguyện vọng của dân, trong mọi công việc cần phát huy tinh thần dân chủ, có sự
bàn bạc và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, chăm lo lợi ích chính đáng, thiết thực
của nhân dân, gương mẫu về đạo đức, lối sống.
Kết luận: Bốn bài học trên được đại hội đưa ra dựa trên cái nhìn tổng quát, khách
quan về tình hình thực tế của đất nước. Những bài học kinh nghiệm đó rút ra từ
chính quá trình lãnh đạo và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, là sự vận
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trần Đức Lương, Đổi mới - Sự lựa chọn đúng đắn vì mục tiêu phát triển hiện đại
của Việt Nam (mofa.gov.vn)
2. Thu Hà (2021), Bài học từ đổi mới tư duy của Đảng năm 1986 (vietnamnet.vn)
3. Trịnh Văn Quyết (2023), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “nước lấy dân làm
gốc” vào xây dựng “thế trận lòng dân”, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới (tapchicongsan.org.vn)
4. PGS, TS. Cao Xuân Long – Đoàn Xuân Toàn (2022), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đảng cầm quyền trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững
mạnh (tapchicongsan.org.vn)
5. Nguyễn Hồ Phong (2022), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới
kinh tế đất nước (hcmcpv.org.vn)
6. TS Lê Văn Hải (2023), Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới (tapchicongsan.org.vn)

You might also like