Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

1.3.

Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, là lực lượng của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Sự
lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân
là nguyên tắc bất biến, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, nhân tố
quyết định mọi thắng lợi, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ngày càng trưởng thành, lớn
mạnh, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trước dân tộc.
Trung thành và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, ngay từ khi mới ra đời,
Đảng ta khẳng định phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo
“tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải xây dựng
và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, bảo đảm đánh thắng
bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào” 1. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của lực
lượng vũ trang thì ở đó phải có sự lãnh đạo của Đảng. Đây là sự tổng kết lịch sử và là
khái quát, phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực
lượng vũ trang nhân dân; chỉ rõ quy luật xây đựng, phát triển của Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân, Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang của dân, do dân, vì dân trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng.
Trải qua quá trình cách mạng, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
lực lượng vũ trang, Đảng ta luôn xác lập cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ
trang, nhằm hiện thực hóa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
lực lượng vũ trang, bảo đảm cho Đảng nắm chắc lực lượng vũ trang trong mọi tình
huống. Trong gần 75 năm qua, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang đã
nhiều lần được bổ sung, điều chỉnh để phù hợp với tình hình nhiệm vụ cách mạng và
nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử. Hình thức tổ chức cụ thể trong mỗi thời kỳ tuy có
khác nhau, nhưng đều nhất quán quan điểm, nguyên tắc là giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang trong mọi
hoàn cảnh, mọi tình huống.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá, luôn công kích, phủ nhận nguyên
tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân. Chúng đòi bỏ Điều 65, chương 4 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
năm 2013, quy định “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân
dân, Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện
nghĩa vụ quốc tế” 2; đòi “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an; chúng còn xuyên tạc
đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; tạo mối nghi ngờ, hiềm khích, gây
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 608.
2
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
ly gián, chia rẽ Quân đội với Công an; chia rẽ nhân dân với lực lượng vũ trang, chia rẽ
lực lượng vũ trang với các cơ quan Đảng, Nhà nước. Mục tiêu của chúng là nhằm tiến tới
xóa bỏ hoàn toàn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ
trang, xóa bỏ chế độ XHCN, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, từng
bước vô hiệu hóa, làm phai nhạt lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu của lực lượng
lượng vũ trang nhân dân.
Để giữ vững nguyên tắc sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực
lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu tranh phản bác lại những luận điệu phản động của các thế
lực thù địch, bảo đảm cho lực lượng vũ trang luôn giữ vững bản chất cách mạng, mục
tiêu, lý tưởng chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, cần thực hiện tốt các nội dung:
Thứ nhất, luôn kiên định và giữ vững nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo lực
lượng vũ trang tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
Trong mọi điều kiện và hoàn cảnh, phải luôn kiên định giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, bảo đảm cho Đảng nắm
chắc lực lượng vũ trang trong mọi tình huống. Đây là yêu cầu tất yếu, khách quan của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối; Đảng không chia sẻ
quyền lãnh đạo đó cho bất kỳ một tổ chức, một đảng phái hay một cá nhân nào. Đảng
lãnh đạo lực lượng vũ trang trực tiếp, không thông qua một khâu, một tổ chức trung gian
nào. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, tư tưởng, tổ chức, trên mọi nhiệm vụ. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự
trưởng thành và chiến thắng của lực lượng vũ trang trong suốt 75 năm qua.
Đảng không những đề ra đường lối, chủ trương quân sự, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
trật tự an toàn xã hội; xác định phương hướng phát triển tiềm lực quân sự, quốc phòng, an
ninh của đất nước; xác định các chủ trương, giải pháp nâng cao sức chiến đấu của Đảng
bộ Quân đội, Đảng bộ Công an mà còn lãnh đạo việc tổ chức hiện thực hóa quan điểm,
đường lối xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại. Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân
ủy Trung ương quyết định những vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; trở thành lực lượng tuyệt đối trung thành với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, trở thành lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và tích cực, chủ động tham gia xây dựng đất nước. Đảng,
Nhà nước thống nhất chỉ huy, quản lý lực lượng vũ trang theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật. Đây là yếu tố căn cốt đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ
trang. Cùng với quy định của pháp luật, Đảng luôn nêu cao tinh thần tự hoàn thiện nhằm
nâng cao chất lượng lãnh đạo, giữ vững vai trò lãnh đạo đối với lực lượng vũ trang.
Chỉ đặt dưới sự lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng vũ trang mới giữ vững bản
chất của đội quân cách mạng, của dân do dân và vì dân, mới phát huy được vai trò trong
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Do vậy, sự lãnh đạo lực
lượng vũ trang của Đảng không thể phân chia cho bất kỳ ai hay lực lượng tổ chức chính
trị nào khác. Nhà nước thống nhất quản lý chặt chẽ lực lượng vũ trang, trên cơ sở nguyên
tắc tập trung dân chủ, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và
thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật.
Thứ hai, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, xây dựng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân thực sự trung thành, tin cậy về chính trị, có chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Để bảo đảm cho lực lượng vũ trang luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và
Nhân dân, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; vững vàng trước mọi khó khăn, thách
thức; trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh chống lại những quan điểm sai
trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh chính trị,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Đảng phải không
ngừng kiện toàn hệ thống tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang; nâng cao năng
lực, trình độ lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, đặc biệt là tổ chức
cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy cần thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo gắn với cá nhân phụ trách; tích cực đổi mới, nâng
cao chất lượng sinh hoạt đảng, nâng cao tính chiến đấu, tăng cường đoàn kết, thống nhất
trong từng tổ chức đảng và đơn vị; chủ động triển khai thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám
sát chặt chẽ, khoa học sát với yêu cầu, nhiệm vụ, thực tiễn của từng tổ chức đảng.
Chú trọng nâng cao chất lượng công tác cán bộ, đẩy mạnh xây dựng bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ theo hướng ngày càng có chất lượng cao, số lượng phù hợp, gắn liền với cơ cấu,
bố trí, sắp xếp cán bộ hợp lý; thường xuyên kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của hệ thống tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
các cấp trong lực lượng vũ trang. Đây là những vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định
giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ
trang.
Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng gắn với tăng cường sự quản lý
thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang cách mạng quan hệ chặt chẽ với
nhau, có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng theo
hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Đây cũng là một trong
những giải pháp quan trọng nhằm giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với lực
lượng vũ trang.
Nhà nước quản lý thống nhất lực lượng vũ trang trên cơ sở thể chế hóa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng luật pháp; đồng thời, không ngừng
cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa
phương. Kịp thời điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an, các Bộ và cơ quan ngang Bộ khác, cơ quan thuộc Chính phủ và địa
phương cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước đối với lực lượng vũ trang; không
ngừng củng cố, hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống chỉ huy các cấp trong các cơ quan, đơn
vị trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam, Dân quân tự vệ.
Nỗ lực cải tiến phương pháp, lề lối làm việc; xác định rõ nguyên tắc làm việc và quy chế
phối hợp vận hành của bộ máy lãnh đạo, quản lý, chỉ huy các cấp của các cơ quan, đơn vị
trong lực lượng vũ trang. Duy trì nghiêm cơ chế lãnh đạo để Đảng luôn luôn nắm chắc
được lực lượng vũ trang trong mọi tình huống.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, các chủ trương, quan điểm của Đảng về các nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh phải được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật và được thực
hiện bằng các cơ chế quản lý nhà nước. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối lực
lượng vũ trang là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, cần chủ động đề
xuất xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực quốc phòng, an ninh
làm cơ sở để xây dựng và phát huy vai trò của lực lượng vũ trang trong bảo vệ Tổ quốc,
giữ môi trường ổn định để phát triển đất nước.
Thứ tư, đẩy mạnh đấu tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”,
“phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch
Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để “phi chính trị hóa” Quân đội, Công an. Đây là
sự chống phá cực kỳ nguy hiểm và trên thực tế, các thế lực thù địch đã và đang đẩy mạnh
xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác quốc phòng, an ninh,
về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân. Chúng ra sức xuyên
tạc, bôi nhọ bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Quân đội và Công an; xuyên tạc các sự kiện lịch sử có
ý nghĩa chính trị trọng đại của đất nước có lực lượng Quân đội và Công an tham gia,
nhằm làm mất uy tín vị thế, vai trò cùa hai lực lượng này trước nhân dân. Mục tiêu của
các thế lực thù địch là nhằm tách rời lực lượng vũ trang khỏi sự lãnh đạo của Đảng; làm
cho lực lượng vũ trang không còn là công cụ bạo lực sắc bén, không còn là lực lượng
chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Bởi vậy, nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang phải được giữ vững và luôn luôn được
củng cố, tăng cường trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Mỗi cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng, lực
lượng vũ trang là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân mà chiến đấu, dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của lực lượng
vũ trang cách mạng Việt Nam chính là mục tiêu, lý tưởng của Đảng vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Trên nền tảng cơ sở đó, cán bộ, chiến sĩ, đảng viên trong lực lượng vũ trang cần nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kịp thời xử lý các tình huống phức tạp diễn ra
theo đúng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, không để kẻ địch lợi dụng. Các cấp ủy Đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải
thực hiện tốt nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng. Phải tiếp tục giữ vững,
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung,
thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc; làm cho Quân đội và Công an thật sự đoàn kết, gắn bó, là lực lượng xung
kích đi đầu ưong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh
bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái muốn hạ thấp, xem nhẹ, phủ định vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh cách mạng nào, lực lượng vũ trang phải không ngừng
nâng cao bản lĩnh chính trị, vững vàng trong mọi tình huống, tích cực đấu tranh bảo vệ
Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, không dao động trước những diễn biến phức
tạp của tình hình và sự công kích của các thế lực thù địch; nhạy bén, sắc sảo và kiên
quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn cách mạng mới.

Chương 2

ĐẢNG LÃNH ĐẠO LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUA CÁC THỜI KỲ

2.1. Lãnh đạo lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954)

Sau khi giành được độc lập bằng Cách mạng tháng Tám nǎm 1945, Nhà nước và nhân
dân ta ra sức chống đói, tích cực sản xuất để ổn định đời sống nhân dân. Nhưng trong
thời gian ngắn, sự nỗ lực chưa được bao nhiêu thì chiến tranh Việt- Pháp đã xảy ra.

Đến tháng 12-1946, lực lượng vũ trang của ta đã phát triển trên 8 vạn người, nhưng trang
bị còn quá thô sơ, phần lớn là giáo mác, súng trường, súng kíp. Quân số phát triển nhanh,
nhưng chưa được huấn luyện kỹ, cán bộ chưa được đào tạo, huấn luyện nhiều. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng đánh giá quân đội ta lúc đó là: quân đội ấu thơ, thừa về lòng dũng
cảm, nhưng thiếu về trang bị vũ khí, kém về tổ chức chỉ huy. Chủ nghĩa đế quốc bao vây
ta bốn phía. Chúng tìm mọi cách bưng bít và xuyên tạc tính chất của cuộc chiến tranh ở
Việt Nam. Trong khi đó, phương tiện thông tin của ta vừa yếu vừa thiếu, không có điều
kiện liên lạc với bè bạn xa gần để bạn bè hiểu ta, đồng tình giúp đỡ ta trong những nǎm
đâu của cuộc kháng chiến đầy khó khǎn thử thách. Đảng ta lãnh đạo toàn dân kháng
chiến, nhưng chư có kinh nghiệm nhiều, lại chưa có điều kiện tiếp cận, học tập trao đổi
kinh nghiệm với các đảng và các nước anh em, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc. Từ
những khó khǎn trên, có người cho rằng, ta đánh Pháp là "châu chấu đá voi". Nhưng
Đảng ta và nhân dân ta dám đánh và quyết đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, vì độc
lập dân tộc, vì sự tồn vong của đất nước. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược tiếp tục sự nghiệp của Cách mạng tháng Tám. Khí thế của Cách mạng tháng Tám đã
thôi thúc đông đảo thanh niên tự nguyện tham gia lực lượng vũ trang. Sức mạnh của dân
tộc được khơi dậy nhờ nhiều yếu tố. Đó là cuộc kháng chiến của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, có đường lối kháng chiến đúng đắn: Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, phát huy truyền thống
bất khuất của dân tộc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt
Nam; nhân dân ta tin tưởng vào Đảng; cán bộ, đảng viên của Đảng đã thực sự tỏ rõ tính
tiên phong gương mẫu, dám đi đâu trong cuộc kháng chiến đây gian khổ, hy sinh; chính
quyền nhân dân được củng cố, tiêu biểu cho ý chí chống xâm lược của toàn dân, đã huy
động được sức mạnh của toàn dân, động viên được mọi tiềm nǎng của đất nước phục vụ
kháng chiến. Là chính quyền của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân tổ chức cuộc
kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc và lợi ích của nhân dân, nên vai trò của chính quyền
cách mạng đã tạo được thế và lực ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện.

Nhưng do những điều kiện lịch sử hạn chế, từ nǎm 1950 mới thật sự có điều kiện quốc tế
thuận lợi trên. Từ đây cuộc kháng chiến của nhân dân ta thực sự là một bộ phận của lực
lượng tiến bộ và cách mạng trên thế giới, đối lập với các thế lực đế quốc và phản động
quốc tế. Những nǎm đầu, cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở trong thế bao vậy của chủ
nghĩa đế quốc. Nhưng, Đảng và nhân dân ta luôn xác định rằng, ta kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược lá góp phần bảo vệ hoà bình thế giới, làm thất bại và đẩy lùi các
thế lực gây chiến. Tinh thần chiến đấu dũng cảm của Hồng quân Liên Xô đập tan chủ
nghĩa phátxít; sự ra đời và trưởng thành của các nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân
dân; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc đang
phát triển, đã tạo nên nguồn sức mạnh tinh thần, cổ vũ quân và dân ta chiến đấu.

Trên cơ sở phân tích tình hình, Đảng ta thấy rằng, để đánh thắng thực dân Pháp xâm lược
phải tổ chức toàn dân kháng chiến. Phương châm chỉ đạo cuộc kháng chiến là:"kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính".

Tháng 10-1947, địch mở đợt tấn công lên Việt Bắc, nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ
quan đầu não kháng chiến của ta, hòng kết thúc chiến tranh theo chiến thuật quân sự "tốc
chiến, tốc thắng" của chúng. Địch huy động một lực lượng lớn quân viễn chinh Pháp
(khoảng 20.000 tên), 40 máy bay và phần lớn lực lượng thuỷ quân và cơ giới tham gia
chiến dịch. Triệt để lợi dụng yếu tố địa hình thuận lợi, bộ đội chủ lực phối lực với dân
quan tự vệ đã chiến đấu dũng cảm, giữ vững quyền chủ động trong từng tình huống, từng
trận đánh. Nhiều trận ta đánh cho địch không kịp viện binh, không kịp rút chạy. Sau hơn
200 trận đánh, chiến dịch Việt Bắc kết thúc thắng lợi, đã phá tan kế hoạch "đánh nhanh;
thắng nhanh" của địch. Việt Bắc trở thành mồ chôn giặc Pháp.

Sau chiến dịch đánh lên Việt Bắc thất bại, địch thay đổi kế hoạch. Từ trọng điểm đánh
chiếm Bắc Bộ quay về "bình định" Nam Bộ, từ tập trung tiêu diệt chủ lực của ta sang
đánh phá cơ sở quần chúng và kinh tế của ta. Địch tǎng cường "bình định" vùng chiếm
đóng, rán riết xây dựng nguy quản, nguy quyền, thực hiện chính sách "lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt".

Để phá kế hoạch thâm độc của địch, ta chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây
dựng, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân. Bộ đội chủ lực được phân tán thành các
đại đội độc lập và các tiểu đoàn tập trung, phát động trong quân đội phong trào luyện
quân lập công. Trong nǎm 1948, quân ta đã diệt hàng trǎm đôn bốt địch bằng nhiều hình
thức tập kích bất ngờ, nội ứng, bức rút và mở một số chiến dịch, tiêu diệt một bộ phận
quan trọng sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai.

Cùng với sự trưởng thành của bộ đội chủ lực, dân quân du kích được phát triển. Ta chú ý
xây dựng các cǎn cứ và khu du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ cho nhân dân
đứng dậy phá tề diệt ác, xây dựng chính quyền cơ sở.

Chiến tranh nhân dân phát triển mạnh trong hai nǎm 1948 và 1949; đồng thời, chúng ta
cũng tạo được điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc kháng chiến. Ngày 1-10-1949, nước
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Nhân thắng lợi to lớn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đi thǎm Trung Quốc và Liên Xô. Tình hình trong nước và quốc tế có những điều kiện
thuận lợi cho ta chủ động mở chiến dịch Biên giới vào tháng 9-1950.

Thắng lợi của chiến dịch Biên giới đã phá vỡ phòng tuyến biên giới của địch, làm thay
đổi cục diện chiến tranh. Ta đã phá thế bị bao vây, giành lại thế chủ động trên chiến
trường, từ phương thức tác chiến chủ yếu là du kích chiến đã chuyển sang vận động chiến
"công đồn diệt viện", từ đánh nhỏ tiến lên đánh vừa và đánh lớn giành thắng lợi lớn, mở
ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

Sau thất bại ở Biên giới, địch có khó khǎn. Nhưng được sự viện trợ của Mỹ, chúng vạch
kế hoạch mới mang tên Đơ-lát Đờtátxi-nhi để đối phó với ta nhằm giành lại quyền chủ
động chiến lược.

Thực hiện kế hoạch Đơ-lát Đờ-tát-xi-nhi, địch tập trung lực lượng cơ động chiến lược lớn
mở chiến dịch Lô-tuýt đánh chiếm Hoà Bình, nhằm tiêu diệt lực lượng ta, dựng lại hành
lang Đông - Tây, chặn đường tiếp tế của ta từ Việt Bắc đi các chiến trường và tái lập xứ
Mường tự trị thấy rõ ý đồ của địch, Trung ương Đảng ra chỉ thị nhằm phá tan cuộc hành
quân này. Sau ba đợt chiến đấu từ ngày 25-11-1951 đến ngày 23-2-1952, chiến dịch Hoà
Bình kết thúc thắng lợi. Chiến thắng Hoà Bình và các chiến trường vùng sau lưng địch đã
tạo ra các vùng giải phóng liên hoàn ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, làm phá sản ý đồ
của địch hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường.
Sau 7 nǎm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bị thất bại liên tiếp,
các kế hoạch quân sự theo nhau phá sản. Nhưng với bản chất ngoan cố của kẻ xâm lược,
chúng cố tìm "lối thoát danh dự" bằng thắng lợi quân sự. Được sự viện trợ tối đa của Mỹ,
thực dân Pháp vạch kế hoạch Na-va khá tỉ mỉ, với quy mô rộng lớn. Kế hoạch Na-va thực
sự là một âm mưu chính trị và quân sự của liên minh Mỹ - Pháp chống phá cách mạng
Việt Nam và Đông Dương. Kế hoạch Na-va nhằm "giành thắng lợi quyết định trong vòng
18 tháng để kết thúc chiến tranh".

Tháng 9-1953, Bộ chính trị thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Phương
châm chiến lược là tập trung lực lượng tiến công vào các hướng chiến lược nơi địch yếu,
đẩy mạnh chiến tranh du kích, bảo vệ vùng tự do. Hướng tiến công chính là Tây Bắc và
Thượng Lào. Ngày 6-12-1953, Bộ chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ là điểm quyết
chiến chiến lược giữa ta và địch, quyết định tiêu diệt cǎn cứ này trong hình thái phòng
ngự kiên cố của nó.

Chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm thất
bại kế hoạch Na-va, đập tan ý chí xâm, lược của địch, buộc chúng phải đi đến một giải
pháp chính trị, kết thúc chiến tranh ở Đông Dương.

Qua các chiến dịch lớn, thấy rõ tư tưởng chỉ đạo của Đảng là đánh chắc thắng, chủ động,
mưu trí và sáng tạo tiến công địch, không có chiến dịch phòng ngự, không có sự phòng
ngự chiến lược. Nhưng có phòng ngự chiến thuật, có lúc, có nơi phải rút khỏi chỗ này,
chỗ khác, hoặc đánh thắng rồi rút quân.

Phương châm đánh chắc thắng còn quán triệt mục đích quân sự của chiến tranh cách
mạng là diệt địch và bảo toàn lực lượng mình. Chỉ có tiêu diệt thật nhiều địch trong từng
trận đánh, từng chiến dịch mới giữ được lực lượng của ta một cách chắc chắn nhất; làm
cho địch không còn khả nǎng, không còn đủ lực lượng tiến công tiêu diệt lực lượng ta.
Chiến thuật phòng ngự trong chiến tranh cách mạng cũng nhằm tạo điều kiện tiến lên tiêu
diệt địch và cách phòng ngự có hiệu quả nhất là phòng ngự tích cực bằng tiến công.

Cuối nǎm 1953 và dầu nǎm 1954, trên cơ sở thắng lợi của 8, 9 nǎm kháng chiến đã có
những yếu tố mới làm xuất hiện khả nǎng kết thúc chiến tranh bằng một giải pháp chính
trị.

Trên chiến trường, ta thắng lớn trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Đặc biệt thắng
lợi trong trận quyết chiến chiến lược, ở Điện Biên Phủ đẩy địch lún sâu vào thế thất bại,
từ phòng ngự trên chiến trường phải rút về phòng ngự quanh các cứ điểm lớn và các
thành phố, thị xã. Trong khi đó, tình hình nước Pháp không ổn định, Chính phủ phân hoá,
Quốc hội tranh luận sôi nổi về việc chấm dứt chiến tranh Đông Dương, nhân dân đòi lập
lại hoà bình ở Đông Dương, binh lính phản chiến ngày càng đông. Tình hình quốc tế
cũng có những thay đổi. Các nước lớn đã đi vào thế hoà hoãn, muốn kết thúc chiến tranh
Đông Dương, tạo điều kiện cho Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc thương lượng với nhau. Mặt
khác, Mỹ đe doạ sẽ can thiệp trực tiếp vào Đông Dương.

Trước tình hình đó, Đảng ta quyết định: trước đây ta chủ trương trường kỳ kháng chiến,
tự lực cánh sinh là đúng, nay do tình hình biến đổi, ta chủ trương tranh thủ hoà bình,
đồng thời tiếp tục chuẩn bị chiến tranh nếu cần thiết. Do đó, chúng ta đã cử phái đoàn
Chính phủ do đồng chí Phạm Vǎn Đồng dẫn đầu tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông
Dương.

Ngày 8-5-1954, một ngày sau chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Hội nghị Giơ-ne-vơ
về Đông Dương khai mạc. Các nước tham dự đều có ý đồ riêng của mình trong việc giải
quyết chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương. Điều đó có tác động xấu đến tiến trình
và kết quả Hội nghị. Nhưng với thiện chí hoà bình và thái độ kiên quyết đấu tranh có tình
có lý của phái đoàn ta, cùng với những thắng lợi vang dội trên chiến trường đã thúc đẩy
Hội nghị tiến triển. Ngày 20-7-1954, Hiệp định đình chiến, lập lại hoà bình ở Đông
Dương được ký kết tại Giơ-ne-vơ. Các nước tham dự Hội nghi cam kết tôn trọng chủ
quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương và tuyệt đối
không can thiệp vào công việc nội trị của các nước Đông Dương.

Hội nghị Giơ-ne-vơ thành công là một thắng lợi của ta. Dựa trên cơ sở thắng lợi đã đạt
được, tranh thủ đình chiến và hoà bình, phá tan âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh
của đế quốc Mỹ và thực dân Pháp, ta củng cố những thắng lợi đã giành được, tiếp tục
tǎng cường lực lượng và tiếp tục đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn. Đó là con đường
duy nhất đúng và có lợi

Tài liệu tham khảo :


1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.
608.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
3. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
tực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1946 - 1954),
https://danguykhoicqvadn.thuathienhue.gov.vn/?gd=8&cn=22&tc=295, Ngày 21-
10-2010

You might also like