Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

1.2.

4 DÂN TỘC LÀ 1 CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG VỀ VĂN HOÁ VÀTÂM LÝ, TÍNH CÁCH

Đoàn kết là một giá trị văn hóa truyền thống quý báu được hình thành, phát triển trong lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đoàn kết là cội nguồn sức mạnh, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách
thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.
Tinh thần đại đoàn kết, yêu nước nồng nàn, cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động... đã góp phần xây dựng
giá trị con người Việt Nam trong tổng hòa nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc, trở thành nét đặc trưng so với
các dân tộc khác trên thế giới.

Văn hoá
Với quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác đã đi đến kết luận: sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng, là yếu tố quyết định sự
tồn tại, vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Không chỉ thế, C.Mác còn đưa ra quan điểm duy vật
về văn hóa và đi đến kết luận quan trọng về vai trò cơ sở, nền tảng tinh thần của văn hóa đối với sự tồn tại, vận
động và phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại.

C.Mác coi văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người - hoạt
động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con người.Khi coi “giới tự nhiên thứ hai” với tư
cách là “tác phẩm”, “thực tại” của con người - giới tự nhiên được con người cải biến, nhân hóa, mang ý nghĩa và nội
dung con người là văn hóa, C.Mác đã đồng nhất văn hóa với phương thức hoạt động sống đặc thù, phương thức hoạt
động sống riêng có của con người. Đó là phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo của mình để biến đổi
và cải tạo giới tự nhiên, “vận dụng bản chất cố hữu của mình” để cải tạo hiện thực khách quan, “nhào nặn”, “xây
dựng” thực tại khách quan cho chính mình “theo các quy luật của cái đẹp”.

Như vậy, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa là cái phản ánh tính đặc thù của hoạt động con người và sự tồn tại,
vận động, phát triển cùng với tính đặc thù như vậy của con người trong thế giới. Văn hóa chỉ xuất hiện khi con
người ý thức rõ ràng về đời sống xã hội của họ, về hoạt động tự do, hoạt động lao động sáng tạo để không những cải
tạo và biến đổi tự nhiên vì sự tồn tại, phát triển của chính mình, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của chính mình,
mà còn để “làm cho bản thân hoạt động sinh sống của mình trở thành đối tượng của ý chí và của ý thức của mình”.
Nói cách khác, văn hóa là cái phản ánh việc con người tự ý thức về vai trò độc lập của mình, về khả năng và năng
lực sáng tạo của mình trong việc cải tạo và biến đổi tự nhiên.

Trong quan niệm của C.Mác, chủ thể sáng tạo văn hóa là con người. Con người sử dụng văn hóa đó để phát triển
năng lực của mình trong quá trình cải tạo và biến đổi tự nhiên, đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Trong quá
trình cải tạo tự nhiên, xã hội và chính mình, con người ngày càng ý thức một cách rõ ràng hơn sức mạnh xã hội của
lao động và ý thức đầy đủ hơn khả năng, năng lực sáng tạo mang bản chất người của mình - sáng tạo văn hóa, tái sản
xuất ra giới tự nhiên, “xây dựng” giới tự nhiên cho chính mình “theo các quy luật của cái đẹp”. Bằng hoạt động lao
động sáng tạo đó và với chính sự tồn tại, phát triển của mình trong thế giới hiện thực, con người đã tự xác định cho
mình cái ranh giới để phân biệt phương thức hoạt động sống của mình với phương thức hoạt động sinh tồn của loài
vật.

Theo đó, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa là cái thể hiện sự giải phóng và tự giải phóng con người khỏi sự ràng
buộc, thống trị với một sức mạnh bí ẩn của thế giới tự nhiên và thế giới thần thánh mà con người tưởng tượng ra do
sự bất lực của mình trước giới tự nhiên đầy bí ẩn. Văn hóa là cái ghi nhận lĩnh vực hiện thực được quy định không
phải bởi tính thiết yếu tự nhiên và sự tiên định của thượng đế hay một đấng sáng thế nào đó, mà bởi hoạt động lao
động sáng tạo của con người với tư cách là một thực thể độc lập, có ý thức, có năng lực tư duy và khả năng lao động
sáng tạo.

Như vậy, theo quan niệm của C.Mác, thế giới văn hóa là thế giới con người, do con người tạo ra cho chính mình -
thế giới mà trong đó, “con người nhân đôi mình không chỉ về mặt trí tuệ như xảy ra trong ý thức nữa, mà còn nhân
đôi mình một cách hiện thực, một cách tích cực”, để rồi “ngắm nhìn bản thân mình trong thế giới do mình sáng tạo
ra” .Con người sáng tạo ra thế giới văn hóa cho mình bằng hoạt động có ý thức và hơn nữa, đó là hoạt động có ý
thức một cách tích cực, sáng tạo. Do vậy, khi nói tới văn hóa không phải là nói tới cái thế giới sự vật và các tư tưởng
tự nó, mà là nói tới con người đã tạo ra nó. Song, sự phát triển của con người lại chính là kết quả của quá trình hoạt
động có ý thức, của quá trình lao động sáng tạo của bản thân con người và do vậy, khi nói tới văn hóa là nói tới hoạt
động có ý thức, hoạt động lao động sáng tạo của con người và kết quả của hoạt động đó. Cũng do vậy, qua hình thức
văn hóa của vật thể, chúng ta có thể phán xét về con người đã tạo ra các vật thể văn hóa đó, về những đặc trưng, tính
chất của thời đại đã sản sinh ra chúng, về trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ của con người trong một thời
đại lịch sử nào đó.

Không chỉ thế, quan niệm của C.Mác về văn hóa còn cho thấy, văn hóa là cái thể hiện sức mạnh xã hội của hoạt
động lao động sản xuất của con người. Hoạt động lao động sản xuất tạo ra toàn bộ sự phong phú, đa dạng cho tồn
tại của con người, hình thành mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên xung quanh và quan hệ của con người
với con người trong cộng đồng xã hội chính là cội nguồn của văn hóa. Song, nội dung của văn hóa không chỉ thể
hiện ở đó, mà còn thể hiện ở sự phát triển của bản thân con người, ở sự phát triển và hoàn thiện của con người cả về
thể xác lẫn tâm hồn, cả về đạo đức lẫn năng lực trí tuệ và trình độ thẩm mỹ. Do vậy, trong quan niệm của C.Mác,
văn hóa với tư cách là phương thức hoạt động sống đặc thù của con người cần được hiểu là, hoạt động đó không chỉ
là hoạt động lao động sản xuất nhằm tạo ra những vật phẩm thiết yếu cho cuộc sống con người, mà còn là hoạt động
tinh thần, hoạt động giáo dục và khai sáng theo nghĩa rộng nhất của từ này, để tạo nên những sản phẩm tinh thần cho
con người. Nói cách khác, văn hóa chính là cái làm nên nền tảng tinh thần của xã hội, ghi nhận tầm cao và chiều
sâu phát triển của cộng đồng xã hội, tạo ra hệ các giá trị nhân đạo, nhân văn cho một cộng đồng xã hội và kết tinh
những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa con người với con người, với xã hội và với tự nhiên.

Song song với điều đó, C.Mác còn quan niệm: văn hóa là lĩnh vực hoạt động mà nhờ đó, con người sản xuất và tái
sản xuất ra bản thân mình với tư cách là một thực thể xã hội. Đó là hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ
thống giá trị mang tính định hướng cho sự phát triển ý thức con người và cho lối ứng xử của con người trong cộng
đồng xã hội. Với hệ thống giá trị định hướng này, mỗi nền văn hóa trở thành một hệ thống biểu tượng bao hàm trong
đó các khuôn mẫu ứng xử xã hội của con người. Đó còn là hoạt động của con người nhằm tạo ra một hệ thống
những thể chế mà qua đó, những giá trị cao đẹp, mang tính định hướng được giữ gìn, lưu truyền và phổ biến trong
cộng đồng xã hội, trở thành tài sản của mỗi người, của tất cả mọi mgười trong cộng đồng xã hội ấy và làm nên
truyền thống văn hóa cho một cộng đồng xã hội.

Coi văn hóa là phương thức hoạt động sống đặc thù của con người - hoạt động lao động sản xuất và hoạt động tinh
thần, C.Mác còn chỉ rõ, hai phương thức hoạt động nền tảng này của con người tồn tại không tách rời nhau mà gắn
bó, thống nhất với nhau trong một chỉnh thể văn hóa để tạo nên và tái tạo nên con người với tư cách là một thực thể
sinh học - xã hội. Bằng những hoạt động nền tảng này, con người tạo nên nền văn hóa của mình, sống trong nền văn
hóa đó và làm cho nền văn hóa đó ngày một phát triển, hoàn thiện, vì cuộc sống ngày càng cao đẹp của mình, vì một
xã hội nhân đạo, nhân văn, công bằng, dân chủ. Đồng thời, thông qua kết quả của những hoạt động nền tảng đó, con
người phán xét toàn bộ lịch sử sinh thành và phát triển của nhân loại, thẩm định hệ thống những giá trị con người -
những giá trị định hướng cho hoạt động con người, xác định cả nội hàm lẫn ngoại diên của hệ thống những giá trị ấy
và thể hiện chúng qua nền văn hóa của mình. Nhờ đó, kết quả hoạt động của con người trong các lĩnh vực kinh kế,
chính trị, khoa học, v.v. cũng được phản ánh trong nền văn hóa nhân loại và trở thành yếu tố cấu thành nền văn hóa
ấy khi chúng mang ý nghĩa và nội dung con người, thể hiện bản chất con người.

Như vậy, trong quan niệm của C.Mác, văn hóa không chỉ đóng vai trò là cơ sở, nền tảng tinh thần của xã hội, của
lịch sử nhân loại, mà còn là lĩnh vực luôn có ảnh hưởng, tác động đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đến
sự phát triển xã hội. Trong sự tác động và ảnh hưởng đó, văn hóa không chỉ tác động, ảnh hưởng đến nguyên nhân
sinh ra nó - đến tồn tại xã hội, đến quá trình sản xuất vật chất của con người, mà còn góp phần quyết định phương
thức vận động và phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Văn hóa còn đem lại cho con người sự điều
chỉnh và định hướng hoạt động của mình và qua đó, điều tiết quá trình sản xuất vật chất, điều tiết sự phát triển xã
hội, trở thành nguồn lực nội sinh cho sự phát triển xã hội bền vững - phát triển vì mục tiêu nhân văn, vì giá trị nhân
đạo.

Kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo học thuyết Mác, trong đó có cả quan niệm của C.Mác về văn hóa và vai trò
nền tảng tinh thần của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Coi văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng
tạo ra vì sự sống còn, vì cuộc sống ngày một cao đẹp của chính con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn xác định văn
hóa là cơ sở, nền tảng tinh thần của xã hội. Với quan điểm đó, ngay khi chúng ta mới bắt tay vào công việc xây dựng
xã hội mới, Người đã khẳng định: để biến một xã hội dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao, chúng ta phải
phát triển đồng thời cả kinh tế lẫn văn hóa, lấy phát triển văn hóa là cơ sở để phát triển kinh tế. Phát triển văn hóa
phải nhằm mục đích nâng cao đời sống tinh thần cho quần chúng nhân dân lao động, “Văn hóa phải thiết thực phục
vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng”. Để phát triển văn hóa với
tầm vóc và ý nghĩa lớn lao đó, theo Người, chúng ta cần “xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới là cán
bộ mới” cho công cuộc xây dựng đất nước, đồng thời phải “phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân
tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân
tộc, khoa học và đại chúng”.

Khẳng định tầm chiến lược trong tư tưởng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với quan niệm của C.Mác về văn hóa
và vai trò nền tảng tinh thần của văn hóa, lấy đó làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng
ta đưa ra chủ trương, đường lối và khẳng định quyết tâm xây dựng nền văn hóa đó, để tạo ra một đời sống tinh thần
cao đẹp, phong phú, đa dạng. Xác định chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội, giải quyết
tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là cơ sở cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, đồng thời coi văn hóa vừa là kết quả, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, trong suốt tiến trình đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã lấy phát triển văn hóa là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất
cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững và xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển là “nền văn
hóa yêu nước và tiến bộ”, với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với mục tiêu tất cả vì
con người, vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện cho mỗi con người Việt Nam trong mối quan
hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc cần được giữ gìn, phát huy của nền
văn hóa ấy là những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết
cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình; đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động, biết hy sinh vì sự nghiệp dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đó còn là sự tế nhị trong giao tiếp và giản dị
trong đời sống.

Đảng ta đã chỉ rõ, quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng chính là quá
trình thực hiện các chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người; đồng thời, coi đây là “khâu
trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta”.

Thật vậy, trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nhận thức đúng, vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tầm quan trọng hàng đầu và ý nghĩa lớn lao
của văn hóa, vai trò nền tảng tinh thần của văn hóa đối với sự phát triển xã hội bền vững là điều luôn cần được
khẳng định. Thực tiễn của hơn 20 năm đổi mới đất nước đã cho chúng ta thấy, văn hóa, bản sắc dân tộc của văn hóa
ngày càng thể hiện rõ là động lực không thể thiếu cho sự phát triển xã hội vì mục tiêu nhân văn, vì giá trị nhân đạo,
vì con người với cuộc sống đích thực con người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta thực hiện thành công
sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế nhanh với việc cải thiện đời sống nhân dân, phát triển
văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với tư cách là năng lực nội sinh. Nói cách khác, phát triển văn
hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giải quyết đúng đắn và hợp lý mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa
trong quá trình phát triển chính là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển lâu bền, sự phát triển không chỉ vì thế hệ chúng
ta hôm nay, mà còn vì tương lai dân tộc ta mai sau, vì tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam. Do vậy, để phát
triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển, như Đảng ta đã khẳng định, chúng ta cần “Tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”

Nước ta có 54 dân tộc anh em.Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số,
phân bố rải rác trên phạm vi cả nước.Có 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người, 20 dân
tộc có số dân dưới 100 ngàn người; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân
tộc có số dân dưới 1 ngàn người.
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam đều có đời sống
văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú. Bởi vì bất cứ dân tộc nào dù nhiều người hay ít người, đều có
nền văn hóa riêng, phản ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào dân tộc bằng những bản
sắc văn hóa độc đáo.Đặc trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngôn ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ
thuật, tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình dòng họ.... dân tộc có chữ viết
riêng :Thái , Chăm, Mông, Giarai,...Một số dân tộc thiểu số gắn với một vài tôn giáo truyền thống như:
đạo Phật, Bàlamôn, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa ...Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng bản
sắc văn hóa riêng và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản sắc văn
hóa của từng dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng.Các dân tộc thiểu số tuy chỉ
chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị,
kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới, các vùng núi cao, hải
đảo...nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc
có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực.

Đối với các dân tộc thiểu số sống ở vùng cao, rừng đóng vai trò quan trọng tới đời sống kinh tế của người
dân. Người H’mông, Thái, Dao đỏ, Vân Kiều, Ja Rai, Ê Đê, và Ba Na sinh sống trên nhiều tỉnh thành trên
cả nước. Vẫn nương tựa vào rừng cộng đồng. Họ có những khu rừng thiêng phục vụ mục đích về tâm linh
tín ngưwng cũng như người Kinh có đền thờ và nhà thờ dòng họ. Luật tục cũng quy định những khu rừng
đầu nguồn, rừng nguồn nước nơi người dân thờ Thần Nước. Ngoài ra còn có các khu rừng khai thác sản
phẩm chung của cả làng bản, ví dụ như dược liệu, củi, và vật liệu để làm đồ thủ công. Hình thức quản lý
rừng truyền thống theo cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong phong tục tập quán cũng như sinh kế của
các dân tộc thiểu số tại Việt Nam.

ĐOÀN KẾT
Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong cộng đồng dân tộc - quốc gia thống nhất
Đây là đặc trưng vô cùng quan trọng và thể hiện được tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam ta bao
đời nay. Đặc trưng này được hình thành qua quá trình cải biến tự nhiên là đời sống con người gắn với nền kinh tế
trồng lúa nước (một kết cấu nông thôn bền chặt đã sớm xuất hiện) và nhu cầu phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu
tranh chống ngoại xâm nên dân tộc Việt Nam đã hình thành từ rất sớm và tạo ra khối đại đoàn kết giữa các dân tộc.

Đoàn kết dân tộcđã trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc Việt Nam, là một trong những nguyên
nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc trong các giai đoạn lịch sử; đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược
để giành độc lập thống nhất Tổ quốc. Bên cạnh những mặt tích cực, nước ta vẫn có đối mặt với hiện tượng tiêu cực
trong quan hệ dân tộc. Các thế lực thù địch, phản động dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn để chia rẽ và can thiệp vào nội
bộ nước nhà. Vì vậy, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, các dân
tộc thiểu số cũng như đa số đều dốc sức phát huy nỗ lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc nâng cao

cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, pháhoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng
dân tộc thiểu số và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện
tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số,giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các
dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trước hết, tập
trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả
tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy
nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan
tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Thể chế hóa Nghị quyết của Đảng
về vấn đề dân tộc, ngày 12/3/2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược công tác dân
tộc đến năm 2020. Ngày 18/11/2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 về
phê duyệt đề án tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
giai đoạn 2021-2030. Đảng và Nhà nước ta đã có sự đầu tư thích đáng cho sự phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và môi trường ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi từng
bước phát triển mạnh mẽ.
1.2.5 DÂN TỘC LÀ MỘT CÔNG ĐỒNG NGƯỜI CÓ MỘT NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỐNG NHẤT
- Nhà nước là một hiện tượng xã hội, tồn tại trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Do nhận thức,
lợi ích giai cấp khác nhau, phương pháp tiếp cận khác nhau nên trong lịch sử tư tưởng của nhân loại đã có
nhiều cách hiểu khác nhau về nhà nước xoay quanh những vấn đề cơ bản như: nguồn gốc, bản chất, chức năng
của nhà nước, cách phân loại các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử,...

Có 2 quan điểm về nhà nước quan điểm ngoài mácxitvà quan điểm mácxit: còn hạn chế về mặt lịch sử, trình độ
nhận thức, bị chi phối bởi lợi ích về giai cấp nên đã giải thích không đúng, không đầy đủ ko đạt tính khách
quan , khoa học về nhà nước, không thấy được nhà nước là một hiện tượng lịch sử , mang bản chất giai cấp, là
bộ mấy thống trị của giai cấp thống trị trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.

Quan điểm về nhà nước trong lịch sử được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển trên cơ sở vận dụng quan điểm duy vật biện chứng
vào việc xem xét các hiện tượng lịch sử xã hội, đạt được giá trị khách quan, khoa học
a) nguồn gốc của nhà nước
- nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự
dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và về của cải; còn nguyên nhân
trực tiếp dẫn tới sự xuất hiện nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt không thể điều
hòa được. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan để “làm dịu” sự xung đột giai cấp, duy trì trật tự
xã hội trong vòng “trật tự” mà ở đó, địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị được đảm bảo.
b) bản chất của nhà nước
Nhà nước ra đời trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có
mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Do vậy, nhà nước không phải là cái gì trừu tượng không hiểu
được, chẳng hạn, coi nhà nước là “sự thực hiện ý niệm” hoặc “là sự ngự trị của thượng đế trên trái
đất”, là “lĩnh vực ở đó chân lý và chính nghĩa vĩnh cửu được thực hiện hoặc phải được thực hiện”. Theo
Ph. Ăngghen, nhà nước “chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp
khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ”.Trong tác
phẩm Nhà nước và cách mạng, một lần nữa V.I. Lênin khẳng định lại quan điểm của C. Mác về nhà nước:
“Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối
với một giai cấp khác; đó là sự kiến lập một “trật tự”, trật tự này hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức kia
bằng cách làm dịu xung đột giai cấp

Về bản chất, nhà nước là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm bảo
vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp
- Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Không có nhà nước đứng trên hoặc đứng ngoài
giai cấp. Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà nước có thể là sản phẩm của sự thỏa hiệp về quyền lợi
tạm thời giữa một số giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Hoặc cũng có khi nhà nước giữ một
mức độ độc lập đối với hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giai cấp đạt tới mức cân bằng nhất
định. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ là có những thời kỳ trong đó
những giai cấp đang đấu tranh lẫn nhau lại gần đạt được một thế bình quân khiến cho chính quyền
nhà nước, tựa hồ một kẻ trung gian giữa các bên, lại tạm thời có được một mức độ độc lập nào đó đối
với cả hai giai cấp” Nhà nước dù có tồn tại dưới hình thức nào thì cũng phản ánh và mang bản chất
giai cấp. Để phân biệt nhà nước với các tổ chức xã hội khác cần phải nhận biết các đặc trưng của nhà
nước

c) Đặc trưng cơ bản của nhà nước


- Nhà nước thường có 3 đặc trưng cơ bản:
1) Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định: “so với tổ chức huyết tộc trước kia
(thị tộc hay bộ tộc) thì đặc trưng thứ nhất của nhà nước là ở chỗ nó phân chia thần dân trong quốc
gia theo sự phân chia lãnh thổ”
Nếu như cộng đồng thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ huyết thống thì cư dân trong cộng đồng
nhà nước không chỉ tồn tại quan hệ huyết thống mà còn tồn tại trên cơ sở quan hệ ngoài huyết thống. Đó là
quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội, quan hệ chính trị,... giữa các thành phần cư dân trong một phạm vi lãnh thổ
nhất định. Hình thành biên giới quốc gia giữa các nhà nước với tư cách là một quốc gia - dân tộc. Trong cộng
đồng nhà nước (quốc gia - dân tộc) có thể tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội. Có những nhà
nước (quốc gia - dân tộc) ngày nay, ngoài giai cấp, tầng lớp xã hội vẫn còn tồn tại cộng đồng thị tộc, bộ lạc, bộ
tộc. Về nguyên tắc, quyền lực nhà nước có hiệulực với tất cả thành viên, tổ chức tồn tại trong phạm vi biên
giới quốc gia. Việc xuất nhập cảnh do nhà nước quản lý
2) Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi
thành viên. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I. Lênin cho rằng, các cơ quan quyền lực
giúp nhà nước thực hiện chức năng trấn áp sự phản kháng của các giai cấp khác là: “Những đội vũ
trang đặc biệt, trong tay có những nhà tù, v.v.”, “đội vũ trang đặc biệt” ngoài quân đội nhà nghề còn
có cảnh sát vũ trang, và những cơ quan cưỡng bức, những cơ quan hành chính thực hiện chức
năng cai trị,... để buộc người khác phải phục tùng ý chí của giai cấp cầm quyền là “những công cụ
vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước”
Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp luật là chủ yếu. Bằng hệ thống pháp luật nhà nước sử dụng phương
thức “cưỡng bức” mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phải thực hiện các chính sách theo hướng có lợi cho
giai cấp thống trị. Bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở là công cụ triển khai thực hiện những
chính sách của nhà nước. Bộ máy này được nhà nước trả lương từ các nguồn thu trong ngân sách, do đó
thường trung thành với giai cấp thống trị. Quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân mà thuộc về
giai cấp thống trị, ngày càng xa rời nhân dân, đối lập với nhân dân

3) Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.
V.I. Lênin cho rằng, “muốn duy trì quyền lực xã hội đặc biệt, đặt lên trên xã hội, thì phải có thuế và quốc trái”
Ph. Ăngghen viết: “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có sự đóng góp của công dân, đó là thuế má”
“nắm được quyền lực công cộng và quyền thu thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ quan của xã hội,
được đặt lên trên xã hội”.
Như vậy, để duy trì sự thống trị của mình, giai cấp thống trị trước hết phải đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà
nước. Muốn bộ máy nhà nước hoạt động thì phải có nguồn tài chính. Nguồn tài chính được nhà nước huy động
chủ yếu là do thu thuế, sau đó là quốc trái thu được do sự cưỡng bức hoặc do sự tự nguyện của công dân.

d) Chức năng cơ bản của nhà nước


Về bản chất, nhà nước là công cụ thống trị của giai cấp thống trị, song để duy trì xã hội trong vòng “trật
tự”, nhà nước đồng thời phải thực hiện nhiều chức năng như: chức năng thống trị chính trị và chức năng xã
hội, chức năng đối nội và chức năng đối ngoại,...

* Chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội


Chức năng thống trị chính trị của nhà nước chịu sự quy định bởi tính giai cấp của nhà nước. Là công cụ thống
trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền lựcđể duy trì sự thống trị đó thông qua hệ thống
chính sách và pháp luật. Bộ máy quyền lực của nhà nước từ trung ương đến cơ sở, nhân danh nhà nước duy trì
trật tự xã hội, đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị, các lực lượng chống đối nhằm bảo vệ địa vị và quyền
lợi của giai cấp thống trị. Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã hội
làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung của xã hội như: thủy lợi, giao thông,
y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường,... để duy trì sự ổn định của xã hội trong
“trật tự” theo quan điểm của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, theo Ph. Ăngghen, nhà nước là đại biểu chính thức
của toàn xã hội chỉ trong chừng mực nó là nhà nước của bản thân giai cấp đại diện cho toàn xã hội trong thời
đại tương ứng.
Mối quan hệ giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của nhà nước: Do bản chất giai cấp, nhà
nước bao giờ cũng đặt chức năng thống trị chính trị của mình lên hàng đầu. Giai cấp thống trị sử dụng nhà
nước như một công cụ thống trị để duy trì quyền thống trị của mình, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp
mình. Chính vì vậy, chức năng thống trị chính trị của nhà nước giữ vai trò quyết định, chi phối và định hướng
chức năng xã hội của nhà nước.
Tuy nhiên, để duy trì trật tự xã hội, nhà nước của giai cấp thống trị còn phải thực hiện chức năng xã hội của
mình. Ph. Ăngghen cho rằng: “chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị
cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó” .Do vậy, chức năng xã hội của nhà
nước có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại của nhà nước. Nếu chính quyền nhà nước nào không chú ý tới
chức năng xã hội thì sớm muộn sẽ sụp đổ. Ph. Ăngghen đã chứng minh điều đó rằng, những chính quyền
chuyên chế đã xuất hiện và suy vong ở Ba Tư, Ấn Độ thời cổ đại là do không chú ý tới việc “tưới nước cho các
thung lũng” để đảm bảo nền sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của nhà nước luôn có mối quan hệ hữu cơ với
nhau. Một nhà nước tồn tại lâu dài khi giai cấp thống trị giải quyết ổn thỏa lợi ích của giai cấp và lợi ích của
toàn xã hội trong những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
* Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Để thực hiện vai trò của mình đối với giai cấp thống trị và với toàn xã hội, nhà nước còn thực hiện chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội của nhà nước là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy
trì trật tự xã hội thông qua các công cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan truyền thông, văn hóa, giáo
dục,... Chức năng đối nội được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục,... của
mỗi quốc gia, dân tộc nhằm đáp ứng và giải quyết những nhu cầu chung của toàn xã hội. Chức năng đối nội
được nhà nước thực hiện một cách thường xuyên, liên tục thông qua lăng kính giai cấp của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại của nhà nước là sự triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của giai cấp thống trị nhằm
giải quyết mối quan hệ với các thể chế nhà nước khác dưới danh nghĩa là quốc gia, dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh
thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao đổi kinhtế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế, giáo dục,... của mình. Trong
xã hội hiện đại, chính sách đối ngoại của nhà nước được các quốc gia coi trọng, xem đó như là điều kiện cho
sự phát triển của mình. Các nhà nước không chỉ quan hệ với nhau mà còn quan hệ với các tổ chức quốc tế, các
tổ chức phi chính phủ,...
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thực thể thống nhất, hỗ trợ và tác
động lẫn nhau nhằm thực hiện đường lối đối nội và đường lối đối ngoại của giai cấp cầm quyền. Trong mối
quan hệ này, chức năng đối nội của nhà nước giữ vai trò chủ yếu, vì, nhà nước trước hết, nếu không muốn bị
sụp đổ thì phải duy trì được trật tự xã hội, phải giải quyết những công việc xã hội, để xã hội tồn tại trong vòng
trật tự nhất có thể, theo quan điểm của giai cấp thống trị. Có làm tốt chức năng đối nội thì nhà nước mới có
điều kiện để thực hiện tốt chức năng đối ngoại.
Khi chức năng đối ngoại được thực hiện tốt thì chức năng đối nội lại càng có điều kiện thực hiện, vị thế và vai
trò của thể chế nhà nước ngày càng cao, các vấn đề kinh tế - xã hội được đảm bảo, quốc phòng - an ninh được
giữ vững, văn hóa, giáo dục, khoa học, y tế cộng đồng,... phát triển.
Trong xã hội hiện đại, nhà nước nào giữ được sự ổn định chính trị - xã hội thì các nhà đầu tư nước ngoài mới
dám đầu tư, thực hiện các dự án lớn, kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ,...
mới có điều kiện phát triển.
Sự phân định các chức năng của nhà nước chỉ có ý nghĩa tương đối. Vì trong chức năng thống trị chính trị và
chức năng xã hội cũng bao hàm chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Trong chức năng đối nội và chức
năng đối ngoại cũng bao hàm chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của nhà nước

You might also like