Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

Tóm tắt bản án

Ông Nguyễn Văn Q ("Anh Q"; "Nguyên đơn") cho ông Võ Văn B ("Ông
B"; "Bị đơn") vay 5 chỉ vàng 24K vào ngày 27/10/2016 với lãi suất 2 chỉ vàng
24K/năm. Từ khi vay vàng đến nay, ông B không thực hiện việc trả gốc và lãi
cho anh Q. Nay, anh Q yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông B trả gốc và lãi là 9
chỉ 5 phân vàng 24K nhưng thay đổi yêu cầu tại phiên tòa chỉ còn trả gốc 5 chỉ
vàng 24K. Vì hoàn cảnh khó khăn, ông B xin trả dần mỗi năm 1.000.000d
nhưng không có cơ sở để được chấp nhận. Với các tài liệu, chứng cứ, Tòa án
tuyên xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Q.
a. Phân tích, đánh giá việc giải quyết của Tòa
Từ bản án, các vấn đề pháp lý được Tòa án giải quyết được xem xét như sau:
Thứ nhất, về thủ tục pháp lý, anh Q là chủ thể có quyền khởi kiện theo Điều
186 BLTTDS 2015, do đó việc anh Q thực hiện khởi kiện là đúng theo quy
định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Về hình thức
khởi kiện được anh Q thực hiện đúng theo quy định tại Điều 189 BLTTDS
2015 dưới hình thức đơn khởi kiện. Nội dung đơn khởi kiện tuy không được
nhóm tác giả trực tiếp xem xét, song, xét tại phần Nhận định của Tòa án có thể
thấy rằng anh Q đã hoàn thành đủ và đúng với quy định của pháp luật về việc
nội dung, việc gửi đơn khởi kiện đến Tòa án và nộp đầy đủ tiền tạm ứng án phí
theo thông báo của Thẩm phán. Các trình tự thủ tục tố tụng được Tòa án xác
định thực hiện đúng theo quy định tại Điều 191 và Điều 195 BLTTDS 2015.
Thứ hai, về thẩm quyền giải quyết vụ án, vụ việc dân sự giữa anh Q và ông B
được xác định là tranh chấp về hợp đồng
dân sự do đó căn cứ theo khoản 3 Điều 26 BLTTDS 2015 được xác định thuộc
thẩm quyền của Tòa án. Xem xét thẩm quyền về cấp của Tòa án, căn cứ vào
điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS 2015, vụ việc dân sự trên khi thực hiện thủ
tục sơ thẩm thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Xét thấy phía
nguyên đơn không có yêu cầu về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ tại Điều
40 BLTTDS 2015 và các đương sự cũng không thỏa thuận đặc biệt về thẩm
quyền giải quyết tại điểm b khoản 1 Điều 39. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản
1 Điều 39 cùng Bộ luật trên, thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ án dân sự
theo lãnh thổ được xác định là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Căn cứ vào
các thông tin về đương sự, Thẩm quyền giải quyết thủ tục sơ thẩm trong vụ án
dân sự này thuộc Tòa án nhân dân huyện M tỉnh Sóc Trăng là đúng với quy
định của pháp luật.
Thứ ba, về nội dung vụ án, các đương sự cùng xác nhận số nợ vốn là 5 chỉ vàng
24K cùng tính xác thực của tờ giấy biên nhận. Về yêu cầu giải quyết của anh Q
thay đổi tại phiên tòa từ yêu cầu ông B trả cả nợ gốc và lãi thành chỉ cần trả nợ
gốc được xác định là không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện theo Điều 244
BLTTDS 2015 do đó Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi yêu cầu của anh
Q là có cơ sở để chấp nhận. Về phía bị đơn chấp nhận việc trả nợ nhưng xin trả
dần mỗi tháng, căn cứ Điều 471 BLDS 2015, về số tài sản mà bên vay cần trả
cho bên cho vay được xác định là toàn bộ tài sản, đúng về số lượng, chất lượng
khi đến hạn trả, do đó Hội đồng xét xử có cơ sở để không chấp nhận yêu cầu
của bị đơn.
Thứ tư, về quyết định tuyên xử của Tòa án, với các tài liệu, chứng cứ do anh Q
cung cấp và việc láy lời khai trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, việc
Tòa án tuyên xử buộc bị đơn có nghĩa vụ trả theo yêu cầu của nguyên đơn là trả
5 chỉ vàng 24K tính theo thời điểm xét xử quy đổi thành 17.650.000đ là đúng
theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, về án phí sơ thẩm được Tòa án xác định do phía bị đơn phải chịu là
đúng với quy định pháp luật Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa
án vì toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Về mức án phí
sơ thẩm được xác định là tranh chấp về dân sự có giá ngạch với giá trị tài sản từ
trên 6 triệu đồng đến 400 triệu đồng, do đó, mức án phí được xác định là 5%
giá trị tài sản tranh chấp. Bằng việc quy đổi giá trị tài sản thành tiền, 5 chỉ vàng
24K có giá trị tương đương 17.650.000đ tại thời điểm xét xử và mức án phí là
5% x 17.650.000đ = 882.500đ do bị đơn phải trả. Vì nguyên đơn không là đối
tượng phải trả án phí trong vụ án dân sự này, do đó nguyên đơn được hoàn trả
số tiền tạm ứng án phí mà Thẩm phán đã thông báo trước đó (được xác định là
868.537đ)
Cuối cùng, về các thủ tục sau khi tuyên xử như kháng cáo được Tòa án xác
định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án là đúng quy định của pháp luật tại khoản 1
Điều 237 BLTTDS 2015.
b. Nêu quan điểm

c. Kiến nghị về loại giao dịch này

You might also like