Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

Phân tích Tây Tiến - Mẫu 6

"Chiến tranh – Người lính” là đề tài muôn thuở trong các sáng tác thơ ca của nhiều nhà thơ.
Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì đến Quang
Dũng, ông đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn, đem đến men say cho thi tứ,
sự bay bổng của hình tượng. Quang Dũng được biết đến là một người nghệ sĩ đa tài : viết văn,
làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc…thế nhưng phải nói đến ông là một hồn thơ phóng khoáng và đầy
tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế nhưng đầy lãng mạn. Ông đã rất thành công khi viết về đề tài
người lính và “Tây Tiến” là bài thơ tiên phong cho phong cách thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa
thể hiện nỗi nhớ da diết của chính nhà thơ về cuộc chiến đấu gian khổ, hào hùng của người
lính binh đoàn Tây Tiến, vừa ca ngợi phẩm chất anh hùng, tinh thần yêu nước của những
người chiến sĩ Cách mạng thời kháng chiến chống Pháp.

Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là những
thanh niên tri thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực
địch ở vùng Thượng Lào và một phần của tỉnh Sầm Nứa. Sau khi dời đơn vị cũ chưa được bao
lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này, lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau
nhà thơ đổi lại thành “Tây Tiến”. Tây Tiến, tên gọi ấy của bài thơ gợi lên âm hưởng quân hành
vào thời đặc biệt phát triển những khúc hát Nam Tiến, Tiến quân ca, …Phải chăng nhà thơ đã
xóa mất chữ Nhớ để khiến cảm giác về hành khúc mạnh mẽ hơn? Nỗi nhớ da diết ấy luôn rạo
rực, hiện lên trong từng câu thơ, từng nét bút của Quang Dũng - đó là nét cảm hứng lãng mạn
xuyên suốt tác phẩm.

Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về
những con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất mộng mơ, trữ tình qua 14 câu thơ
dạt dào cảm xúc. Hai câu thơ đầu chính là nỗi nhớ về Tây Tiến da diết trong tâm tưởng nhà thơ
và cũng là nguồn cảm xúc chủ đạo bao quát toàn bài :

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Hình ảnh con sông Mã hiện lên trong tâm thức nhà thơ, con sông gắn liền với chặng đường
hành quân dài đằng đẵng của những người lính. Câu thơ cảm thán “ơi!” và điệp từ “nhớ” như
đang khắc họa đậm nét hơn về nỗi nhớ : Nhớ đồng đội, nhớ núi rừng Tây bắc. “Nhớ chơi vơi”,
hai tiếng chơi vơi ở đây được nhà thơ sử dụng rất đắt –đó là nỗi nhớ không có hình, không có
tượng tưởng chừng nhẹ tênh mà nặng nề vô cùng. Bởi nó không đo được, chỉ biết lửng lơ, đầy
ắp, ám ảnh trong tâm trí thi nhân. Trong thơ văn rất ít ai diễn tả cảm xúc như thế, ca dao cũng
chỉ có một lần nhắc về nỗi nhớ ấy "Ra về nhớ bạn chơi vơi”. Nỗi nhớ về dòng sông Mã –một
chứng nhân lịch sử, nỗi nhớ về Trung đoàn tây tiến năm nào đã trải qua biết bao gian khổ cùng
nhà thơ cũng chính là nỗi nhớ da diết về núi rừng Tây Bắc. Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm
cho người đọc cảm giác bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ khi nhớ về những năm tháng
xưa.

Khi những kí ức mãnh liệt, nó có khả năng hiện tại hóa quá khứ. Chính vì thế mà từ câu thơ thứ
ba, những hình ảnh sống động như xuất hiện trong hiện tại, chính điều này đã làm cho bài thơ
phảng phất dáng dấp của một khúc quân hành hơn là một hồi tưởng. Và cứ như thế, từng kí ức
lại ùa về được Quang Dũng vẽ lại bằng một bức tranh thơ qua sáu câu thơ tiếp theo- đó là bức
tranh hùng vĩ, dữ dội nhưng đầy thơ mộng của núi rừng Tây Bắc :

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi


Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Tây Tiến dẫn con người lên đến độ cao, vào chốn thâm u của biên giới. Ấn tượng đầu tiên về
núi rừng Tây Bắc chính là sương : sương muối, sương lạnh, sương mù phủ khắp nơi, che lấp
luôn cả đoàn quân đang vội vã hành quân ngày đêm vượt ải núi rừng. Cách ngắt nhịp 4/3 làm
cho phần nghỉ của câu thơ rơi vào động từ “lấp” và kết thúc ở từ “mỏi”, ta như có cảm giác
chính sương đã làm cho đoàn quân thêm phần khó khăn, vất vả. Thế nhưng trong cái gian
truân ấy lại xuất hiện nét lãng mạn với hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, đó chính là hương
thơm của hoa nở vào đêm khuya, phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn người lính trẻ.

Bức tranh thiên nhiên ấy còn hùng vĩ và dữ dội hơn cả khi suốt chặng đường hành quân của
người lính chỉ toàn dốc đèo hiểm trở: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Câu thơ tạo nên
cảm giác trúc trắc, chênh vênh, vô cùng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng con người. Câu thơ
được nhà thơ sử dụng toàn thanh trắc lại càng tạo thêm hiệu ứng, tạo thêm chất nhạc cho bài
thơ. Điệp từ “dốc” cùng với cách ngắt nhịp 4/3 làm cho phần nhấn của câu thơ rơi vài từ dốc
giúp ta hình dung được độ dốc, đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc cứ thế lên cao rồi xuống thấp đang
thử thách sự kiên nhẫn, dũng cảm của những người lính đi qua đây. Những con dốc cao đến
độ "Heo hút cồn mây súng ngửi trời” làm cho độ nguy hiểm càng tăng lên. Biện pháp nhân hóa
đã làm tăng hiệu quả diễn đạt cho câu thơ. Cách nói “súng ngửi trời” thể hiện vẻ đẹp hiên
ngang của người lính Tây Tiến, họ là những chiến binh dũng cảm đang chiếm lĩnh tầm cao của
thiên nhiên. Từ đó cho thấy vẻ đẹp của con người lúc này sánh ngang với tầm cao của vũ trụ.
Chính vì nét hiên ngang ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà
nổi bật lên đầy thách thức :

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống


Hết lên cao lại xuống thấp, câu thơ tạo thành hai vế tiểu đối như bị bẻ đôi làm cho con dốc hiện
lên với chiều cao, chiều sâu, rợn ngợp, chót vót. Câu thơ hoàn toàn không đề cập đến con
người nhưng ta vẫn thấy rất rõ bóng người mệt mỏi, bao quanh họ là những nguy hiểm đang
đe dọa dình dập. Dẫu vậy mà những người lính ấy vẫn âm thầm, kiên trì vượt qua để rồi vỡ òa
trước cảnh thôn quê êm đềm phía trước :

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi


Câu thơ được dệt lên bởi những thanh bằng như kéo dài thêm con đường hành quân của
người lính nhưng lại tạo cảm giác êm ái nhẹ nhàng, không còn "khúc khuỷu”, nguy hiểm khi
vượt đèo, vượt dốc. Nhà thơ Xuân diệu đã từng nhận xét về bài thơ Tây Tiến "Đọc Tây Tiến,
người ta như ngậm nhạc trong miệng”. Quả thật không sai, đọc sáu câu thơ trên ta thấy rất rõ
nét tài năng của nhà thơ Quang Dũng ta vừa thấy được nét đẹp dữ dội, hùng vĩ của thiên nhiên
vừa thấy được vẻ đẹp trữ tình, đầy chất lãng mạn qua ngòi bút miêu tả ấn tượng của ông. Qua
những nét vẽ bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã bày tỏ nỗi nhớ da diết của
mình khi liên tưởng về những hồi ức cũ, đó là nỗi nhớ luôn hiện lên trong tâm trí ông suốt một
thời gian dài.

Hết nhớ về thiên nhiên, cảnh vật nơi rừng núi nguy hiểm, Quang Dũng lại nhớ về những đồng
đội cũ đã cùng ông vượt qua bao gian khổ hành quân. Cũng từ đó hình ảnh người lính lại hiện
lên với bao khó khăn, gian khổ, thiếu thốn :

Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Bốn câu thơ đã miêu tả rõ nét sự hi sinh giữa bao gian khổ, thiếu thốn của những người lính
Tây Tiến. Hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Trong những gian khổ,
các anh phải “dãi dầu”, có những người "không bước nữa”, đã “gục lên súng mũ bỏ quên đời”
vùi thân mình nơi rừng núi âm u…Cách nói giảm nói tránh của tác giả về sự hi sinh để nói về
sự hi sinh của những người lính, phần nào giảm đi sự bi lụy mà thay vào đó là chất bi tráng,
hào hùng. Dù có mất mát, đau thương thì họ vẫn dũng cảm, tiến về phía trước bởi ở đó là nền
độc lập, tự do của nước nhà. Đọc những câu thơ trên của nhà thơ Quang Dũng ta lại liên
tưởng tới cứ như khi đọc mấy câu thơ trong “Thục đạo nan” của Lý Bạch:

“Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!”


(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)
Tây Bắc đâu chỉ có rừng núi cheo leo, nguy hiểm mà còn biết bao thách thức của núi rừng với
cái vẻ hoang sơ, bí ẩn : "Chiều chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu
ngươi”. Biện pháp nhân hóa "cọp trêu ngươi- thác gầm thét” làm tăng thêm phần dữ dội, hoang
vu, bí hiểm của núi rừng. Điệp từ "chiều chiều”, “đêm đêm” đã gợi ra một không gian và thời
gian về khuya với những nguy hiểm luôn dình dập người lính. Trên chặng đường hành quân từ
Pha Luông về Mường Hịch, nguy hiểm lúc nào cũng dình dập họ nhưng ở những người lính ấy
vẫn hiện lên vẻ lạc quan, hóm hỉnh, nhưng cũng rất gan dạ, kiên cường, sống hết mình vì lí
tưởng cao đẹp.

Đoạn thơ kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ về những bản làng Tây
Bắc thân yêu :

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Sự chuyển biến của tứ thơ còn thể hiện qua sự chuyển biến về hình ảnh. Vẫn là hình ảnh
sương khói trong sáu câu thơ đầu nhưng giờ đây đã là "cơm lên khói”. Tất cả ấm lại, giờ đây
sau chặng đường hành quân vất vả chỉ còn là ánh sáng, là ngọn lửa ấm áp nơi bản làng. Cụm
từ “nhớ ôi” như chứa đựng tình cảm dạt dào cũng như tiếng lòng của những người lính Tây
Tiến. Sau chặng đường hành quân vất vả, họ dừng chân và quay quần cùng với niềm vui, hạnh
phúc bên những nồi cơm còn thơm mùi gạo mới. Tình cảm quân dân gắn kết yêu thương nhau
hiện lên một cách gần gũi, chân thật qua ngòi bút của tác giả. “Mùa em” là một sáng tạo độc
đáo về ngôn từ của nhà thơ Quang Dũng để chỉ vẻ đẹp của những cô thôn nữ Mai Châu xinh
đẹp, đảm đang. Tất cả đã hòa quyện vào nhau để tạo nên nỗi nhớ bâng khuâng đọng lại trong
lòng tác giả.

Mười bốn câu thơ đầu tiên đã để lại một ấn tượng đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành
công của tác giả là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên
cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ nhân hóa, điệp từ, phép đối cùng
những động từ mạnh, từ láy tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao…Tất cả đã tạo nên bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc qua nỗi nhớ của nhà thơ vừa dữ dội, hùng vĩ nhưng rất đỗi thơ mộng, từ
đó hiện lên vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến.

Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ thấm tình quân dân và cảnh chia
tay trên bến sông tĩnh lặng của những người lính. Không còn là cảnh núi rừng hoang vu, hiểm
trở nữa mà ở tám câu thơ này đều là những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi
bút tài hoa của Quang Dũng :

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Trên con đường hành quân đầy gian khổ, những người lính Tây Tiến dừng chân dựng trại và
được sự đón tiếp nồng hậu, thân tình của người dân. Đối với Quang Dũng nói riêng và những
người lính nói chung, không khí vui tươi của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình gắn kết quân
nhân là kỉ niệm khó quên vô cùng. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng
bừng, náo nhiệt, ấm áp. Ở đây, nhà thơ đã có cách ví von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc
hoa”. Đuốc hoa trong Hán Việt có nghĩa là nến hoa chúc-biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Có
lẽ nhà nhà muốn gợi lên sự ấm áp, niềm vui trong lòng các chiến sĩ trẻ. Trong cuộc đời đầy ắp
sự lung linh chất thơ như vậy, nhưng những nhà thơ có thể chớp lấy nó như Quang Dũng lại
không nhiều.

Trong cái tưng bừng của không khí lễ hội ấy, hình ảnh những cô gái hiện lên thật lộng lẫy với
những bộ ‘xiêm áo” nhiều màu sắc. Hai từ “kìa em” cùng câu hỏi tu từ “tự bao giờ” như nhấn
mạnh sự ngạc nhiên và hào hứng trước vẻ đẹp của những cô sơn ca núi rừng. Đó là một vẻ
đẹp đến ngỡ ngàng, vẻ đẹp e ấp của những cô gái nơi đây. Tiếng khèn, tiếng nhạc lại thi nhau
hòa âm, tạo cho tâm hồn người lính thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó
là sự lạc quan, yêu đời, là động lực giúp họ tiếp tục chiến đấu vì lí tưởng bảo vệ đất nước.

Miên man trong dòng hồi tưởng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, nhà thơ tiếp tục nhớ về
những cảnh sắc đẹp đẽ, nên thơ nơi núi rừng Tây Bắc. Đó là khung cảnh chia tay trên miền
sông nước hoang vắng, tĩnh lặng, có đôi nét buồn thi vị :

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
“Người đi’ là những người lính trẻ Tây Tiến, họ ra đi vào không gian buổi chiều, xung quanh
đều là sương khói. "Sương ở đây không phải là “sương lấp” mà là không gian núi rừng mờ
trong sương. Hình ảnh "chiều sương ấy” làm hiện lên trong ta nhiều liên tưởng về một miền kí
ức sâu thẳm, vừa thực vừa mộng. Sự xuất hiện của câu hỏi tu từ với các động từ “có thấy”, “có
nhớ” như khắc sâu vào trong lòng người đọc cảm giác xao xuyến khó tả, nó như gợi hỏi tới
những người đồng chí, đồng đội, hoặc cũng là hỏi chính nhà thơ có nhớ tới mảnh đất đã từng
vào sinh ra tử này không? Biện pháp nhân hóa “hồn lau” gợi cảm giác hoang vắng nhưng vẫn
rất giàu chất thơ bởi cảnh vật nơi đây đều có hồn. Hồn lau có thể hiểu theo hai nghĩa, nghĩa thứ
nhất là tâm trạng buổi chia tay nhuốm lên cả hoa lau, cảnh vật xung quanh, nghĩa thứ hai cuộc
đời người lính gắn với hoa lau, nay xa rồi nên xao xuyến, bâng khuâng.

Khung cảnh trữ tình ấy đã làm nền cho sự xuất hiện của con người "Có nhớ dáng người trên
độc mộc”. Ở đây người đọc có thể liên tưởng tới những cô gái vùng cao duyên dáng hay những
người dân với tình cảm gắn bó gần gũi với những người lính trẻ. Câu thơ cuối khép lại khổ thơ
là hình ảnh “hoa trôi đong đưa”như khắc sâu vào lòng người nỗi nhớ khôn nguôi.

Đoạn thơ thứ hai là một khúc nhạc đầy chất họa. Nhạc điệu cất lên từ âm thanh tiếng khèn,
cũng chính là tâm trạng của người lính. Hình ảnh thơ được tạo nên bởi những đường nét tài
hoa, độc đáo mang chất trữ tình, lãng mạn của nhà thơ đã phần nào cho thấy tâm hồn đầy lạc
quan, yêu đời của những người lính trẻ và tinh thần gắn kết quân nhân bền chặt.

Bên cạnh tái hiện vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và nỗi nhớ da diết của mình về cảnh vật, đồng
đội thì ở bài thơ Tây Tiến, nhà thơ còn tập trung khắc họa hình tượng người lính đầy bi tráng,
oai hùng. Nếu như có hình tượng người lính mang nét đẹp chân thực như trong thơ Chính Hữu
hay Nguyên Hồng thì ở đây hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng còn mang vẻ đẹp
lãng mạn và bi tráng được thể hiện qua dáng vẻ, tinh thần, lí tưởng và sự hi sinh. Và hình
tượng ấy được nhà thơ tái hiện rõ nét qua khổ thơ thứ ba đầy hào hùng :

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính
thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn bệnh này: “Anh
với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ
cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của
người lính tây tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn.
Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ
xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên
oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng. Ta cũng từng bắt gặp những
khó khăn của người lính trong thơ Tố Hữu:

"Giọt mồ hôi rơi


Trên má anh vàng nghệ”
Bởi xuất thân từ những học sinh, sinh viên lại ra đi từ Hà Nội, chính vì vậy mà trong cuộc sống
gian khổ những người chiến sĩ trẻ ấy vẫn hiện lên những tâm hồn mang nhiều nét "mộng và
mơ”. Họ đều là những chàng trai Hà Thành lạc quan, yêu đời nhưng vô cùng dũng cảm, luôn
hướng về lí tưởng cao đẹp "khi đất nước cần, chúng tôi sẵn sàng đứng lên”. Hình ảnh “mắt
trừng” gợi lên cho người đọc liên tưởng về đôi mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù của những
người lính trẻ. Đôi mắt ấy gửi mộng qua biên giới, đôi mắt ấy thao thức nhớ về quê hương, nhớ
về Hà Nội thơm mùi hoa sữa. Điều đó cho ta thấy rằng những người lính Tây Tiến không chỉ
biết cầm súng đi theo tiếng gọi của tổ quốc mà còn rất hào hoa, lãng mạn.
Hai câu thơ tiếp theo, tác giả đã nêu bật lên lí tưởng của những người lính "quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh”

Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ đầu với cách ngắt nhịp 4/3 khiến trọng tâm rơi vào chữ mồ, gợi nên ý niệm về cái chết.
Ngoài ra tác giả còn khéo léo sử dụng từ Hán Việt "biên cương”, “viễn xứ” không chỉ gợi nên
cảm giác cổ kính mà còn gợi cả không gian xa xôi nơi biên cương hẻo lánh, nơi những chiến sĩ
trẻ làm nhiệm vụ. Nhà thơ nhìn thẳng vào sự thật khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết một
cách chân thực không né tránh đúng như nhà thơ Trần Lê Văn từng nhận xét "Tây Tiến phảng
phất nét buồn đau, nhưng buồn đau mà không hề bi lụy”. Cái bi của câu trên được câu dưới
nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
Đời xanh tuổi trẻ biết báo hiệu là hoa mộng nhưng họ vui vẻ hiến dâng cho tổ quốc. Họ đi vào
cái chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh thản vô cùng. Bốn từ “chẳng tiếc đời
xanh” cất lên đầy hào khí đồng thời mang vẻ đẹp của lí tưởng "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”
của người lính. Mỗi cuộc ra đi đều không hẹn ngày về, giống như lời một bài hát rất thịnh hành
ngày đó:

“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi


Nào có sá chi đâu ngày trở về…”
Hai câu thơ cuối, nhà thơ đã viết về sự hi sinh bi tráng của người lính trên chiến trường

Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa cho sự hi sinh quên mình của người lính.
Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh quang thì người lính tây
tiến với hình ảnh "áo bào thay chiếu" đấy sức mạnh ngợi ca. Thực tế, những người lính gục
chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống chi là "áo bào". Nhưng thái độ
trân trọng, yêu thương cùng cảm hứng lãng mạn đã tạo ra ở Quang Dũng một cái nhìn của chủ
nghĩa anh hùng cổ điển trước cái chết của người lính. Trong cách nhìn ấy, cái chết của người
lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo như trong thơ của Đặng Trần Côn: "Hồn tử sĩ gió ù ù
thổi" mà được bao bọc trong một âm hưởng hùng tráng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Quang Dũng cũng từng tâm sự rằng "Sự thật khi người lính ngã xuống không có được mảnh
vải liệm. Nói áo bào là theo cách nói của thơ xưa để an ủi những người đã nằm xuống”. Con
sông Mã lại hiện lên như một chứng nhân lịch sử, người bạn đồng hành của người lính Tây
Tiến, nhưng giờ đây nó như đang cảm thương, gầm lên khúc độc hành đưa tiễn những người
lính về nơi an nghỉ cuối cùng.

Đoạn thơ cuối cũng như khép lại nỗi nhớ thương đồng đội của nhà thơ, tác gải cũng thể hiện
tình cảm của mình về đoàn quân Tây Tiến, đồng đội trong những năm tháng gắn bó chiến đấu
một cách đầu trân trọng. Đó là khúc vĩ thanh của nỗi nhớ. Hai câu thơ đầu đã thể hiện nỗi lòng
của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và những người đã ngã xuống:

Tây tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến
họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc,
cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ
lại thành một gia đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang
Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đối, đối mặt với những sự hi sinh của đồng
đội mình nơi biên cương cửa ải. Qua cách nói "một chia phôi”, “không hẹn trước”, tác giả đã thể
hiện sự thương mến, cảm phục và nỗi xót xa về những người vệ quốc quân ra đi không trở về.
Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình.

Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những
kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm
Nứa:

Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy


Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
“Ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ nhà thơ cố
tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn
sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian
nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu
kỉ niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người anh hùng Tây
Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại. Câu thơ với sự kết hợp linh hoạt các thanh bằng như một
bản hòa âm đầy da diết về cuộc đời người lính, dù họ ngã xuống ở đâu thì vẫn sẽ có những
người đồng đội tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Câu thơ còn vang vọng âm
hưởng của "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” …

Bằng việc sử dụng bút pháp sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng mạn, âm hưởng bi tráng,
hào hùng bài thơ Tây Tiến đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa mang vẻ hào
hùng nhưng đầy lạc quan, yêu đời. Họ là những người lính trẻ mang trong mình lí tưởng cao
đẹp, quyết hi sinh thân mình bảo vệ tổ quốc. Bài thơ còn thể hiện tài hoa trong cách sử dụng
các động từ mạnh, các từ láy mang tính biểu cảm cao và các biện pháp điệp từ, nhân hóa. Đọc
bài thơ ta liền nhớ tới những câu thơ về người lính Tây Tiến được nhà thơ Giang Nam viết

Tây Tiến biên cương mờ lửa khói


Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Sống mãi muôn đời với núi sông
Quả đúng như Nguyễn Đình Thi đã nhận xét "Quang Dũng đã đem đến tượng đài người lính
Tây Tiến giữa ngàn non ngàn mây, ngàn cây Tây Bắc …”. Vừa thể hiện thành công bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc oai hùng, dữ dội, nhà thơ còn khắc họa lên hình tượng người lính đầy bi
tráng, nhưng cũng rất đỗi lạc quan, yêu đời. Tây Tiến là đóa hoa thơ vào loại đẹp nhất của thơ
ca những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp, là một bài thơ vừa có giá trị về nội
dung và nghệ thuật để lại cho người đọc nhiều suy tư về sự hi sinh quên mình của những con
người dũng cảm, kiên cường ấy đến mãi muôn đời sau.

You might also like