Professional Documents
Culture Documents
Phân tích Tây Tiến
Phân tích Tây Tiến
"Chiến tranh – Người lính” là đề tài muôn thuở trong các sáng tác thơ ca của nhiều nhà thơ.
Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì đến Quang
Dũng, ông đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn, đem đến men say cho thi tứ,
sự bay bổng của hình tượng. Quang Dũng được biết đến là một người nghệ sĩ đa tài : viết văn,
làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc…thế nhưng phải nói đến ông là một hồn thơ phóng khoáng và đầy
tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế nhưng đầy lãng mạn. Ông đã rất thành công khi viết về đề tài
người lính và “Tây Tiến” là bài thơ tiên phong cho phong cách thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa
thể hiện nỗi nhớ da diết của chính nhà thơ về cuộc chiến đấu gian khổ, hào hùng của người
lính binh đoàn Tây Tiến, vừa ca ngợi phẩm chất anh hùng, tinh thần yêu nước của những
người chiến sĩ Cách mạng thời kháng chiến chống Pháp.
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là những
thanh niên tri thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực
địch ở vùng Thượng Lào và một phần của tỉnh Sầm Nứa. Sau khi dời đơn vị cũ chưa được bao
lâu, Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này, lúc đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau
nhà thơ đổi lại thành “Tây Tiến”. Tây Tiến, tên gọi ấy của bài thơ gợi lên âm hưởng quân hành
vào thời đặc biệt phát triển những khúc hát Nam Tiến, Tiến quân ca, …Phải chăng nhà thơ đã
xóa mất chữ Nhớ để khiến cảm giác về hành khúc mạnh mẽ hơn? Nỗi nhớ da diết ấy luôn rạo
rực, hiện lên trong từng câu thơ, từng nét bút của Quang Dũng - đó là nét cảm hứng lãng mạn
xuyên suốt tác phẩm.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về
những con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất mộng mơ, trữ tình qua 14 câu thơ
dạt dào cảm xúc. Hai câu thơ đầu chính là nỗi nhớ về Tây Tiến da diết trong tâm tưởng nhà thơ
và cũng là nguồn cảm xúc chủ đạo bao quát toàn bài :
Khi những kí ức mãnh liệt, nó có khả năng hiện tại hóa quá khứ. Chính vì thế mà từ câu thơ thứ
ba, những hình ảnh sống động như xuất hiện trong hiện tại, chính điều này đã làm cho bài thơ
phảng phất dáng dấp của một khúc quân hành hơn là một hồi tưởng. Và cứ như thế, từng kí ức
lại ùa về được Quang Dũng vẽ lại bằng một bức tranh thơ qua sáu câu thơ tiếp theo- đó là bức
tranh hùng vĩ, dữ dội nhưng đầy thơ mộng của núi rừng Tây Bắc :
Bức tranh thiên nhiên ấy còn hùng vĩ và dữ dội hơn cả khi suốt chặng đường hành quân của
người lính chỉ toàn dốc đèo hiểm trở: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Câu thơ tạo nên
cảm giác trúc trắc, chênh vênh, vô cùng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng con người. Câu thơ
được nhà thơ sử dụng toàn thanh trắc lại càng tạo thêm hiệu ứng, tạo thêm chất nhạc cho bài
thơ. Điệp từ “dốc” cùng với cách ngắt nhịp 4/3 làm cho phần nhấn của câu thơ rơi vài từ dốc
giúp ta hình dung được độ dốc, đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc cứ thế lên cao rồi xuống thấp đang
thử thách sự kiên nhẫn, dũng cảm của những người lính đi qua đây. Những con dốc cao đến
độ "Heo hút cồn mây súng ngửi trời” làm cho độ nguy hiểm càng tăng lên. Biện pháp nhân hóa
đã làm tăng hiệu quả diễn đạt cho câu thơ. Cách nói “súng ngửi trời” thể hiện vẻ đẹp hiên
ngang của người lính Tây Tiến, họ là những chiến binh dũng cảm đang chiếm lĩnh tầm cao của
thiên nhiên. Từ đó cho thấy vẻ đẹp của con người lúc này sánh ngang với tầm cao của vũ trụ.
Chính vì nét hiên ngang ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà
nổi bật lên đầy thách thức :
Hết nhớ về thiên nhiên, cảnh vật nơi rừng núi nguy hiểm, Quang Dũng lại nhớ về những đồng
đội cũ đã cùng ông vượt qua bao gian khổ hành quân. Cũng từ đó hình ảnh người lính lại hiện
lên với bao khó khăn, gian khổ, thiếu thốn :
Đoạn thơ kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ về những bản làng Tây
Bắc thân yêu :
Mười bốn câu thơ đầu tiên đã để lại một ấn tượng đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành
công của tác giả là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên
cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ nhân hóa, điệp từ, phép đối cùng
những động từ mạnh, từ láy tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao…Tất cả đã tạo nên bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc qua nỗi nhớ của nhà thơ vừa dữ dội, hùng vĩ nhưng rất đỗi thơ mộng, từ
đó hiện lên vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến.
Tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ thấm tình quân dân và cảnh chia
tay trên bến sông tĩnh lặng của những người lính. Không còn là cảnh núi rừng hoang vu, hiểm
trở nữa mà ở tám câu thơ này đều là những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi
bút tài hoa của Quang Dũng :
Trong cái tưng bừng của không khí lễ hội ấy, hình ảnh những cô gái hiện lên thật lộng lẫy với
những bộ ‘xiêm áo” nhiều màu sắc. Hai từ “kìa em” cùng câu hỏi tu từ “tự bao giờ” như nhấn
mạnh sự ngạc nhiên và hào hứng trước vẻ đẹp của những cô sơn ca núi rừng. Đó là một vẻ
đẹp đến ngỡ ngàng, vẻ đẹp e ấp của những cô gái nơi đây. Tiếng khèn, tiếng nhạc lại thi nhau
hòa âm, tạo cho tâm hồn người lính thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó
là sự lạc quan, yêu đời, là động lực giúp họ tiếp tục chiến đấu vì lí tưởng bảo vệ đất nước.
Miên man trong dòng hồi tưởng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, nhà thơ tiếp tục nhớ về
những cảnh sắc đẹp đẽ, nên thơ nơi núi rừng Tây Bắc. Đó là khung cảnh chia tay trên miền
sông nước hoang vắng, tĩnh lặng, có đôi nét buồn thi vị :
Khung cảnh trữ tình ấy đã làm nền cho sự xuất hiện của con người "Có nhớ dáng người trên
độc mộc”. Ở đây người đọc có thể liên tưởng tới những cô gái vùng cao duyên dáng hay những
người dân với tình cảm gắn bó gần gũi với những người lính trẻ. Câu thơ cuối khép lại khổ thơ
là hình ảnh “hoa trôi đong đưa”như khắc sâu vào lòng người nỗi nhớ khôn nguôi.
Đoạn thơ thứ hai là một khúc nhạc đầy chất họa. Nhạc điệu cất lên từ âm thanh tiếng khèn,
cũng chính là tâm trạng của người lính. Hình ảnh thơ được tạo nên bởi những đường nét tài
hoa, độc đáo mang chất trữ tình, lãng mạn của nhà thơ đã phần nào cho thấy tâm hồn đầy lạc
quan, yêu đời của những người lính trẻ và tinh thần gắn kết quân nhân bền chặt.
Bên cạnh tái hiện vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và nỗi nhớ da diết của mình về cảnh vật, đồng
đội thì ở bài thơ Tây Tiến, nhà thơ còn tập trung khắc họa hình tượng người lính đầy bi tráng,
oai hùng. Nếu như có hình tượng người lính mang nét đẹp chân thực như trong thơ Chính Hữu
hay Nguyên Hồng thì ở đây hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng còn mang vẻ đẹp
lãng mạn và bi tráng được thể hiện qua dáng vẻ, tinh thần, lí tưởng và sự hi sinh. Và hình
tượng ấy được nhà thơ tái hiện rõ nét qua khổ thơ thứ ba đầy hào hùng :
Đoạn thơ cuối cũng như khép lại nỗi nhớ thương đồng đội của nhà thơ, tác gải cũng thể hiện
tình cảm của mình về đoàn quân Tây Tiến, đồng đội trong những năm tháng gắn bó chiến đấu
một cách đầu trân trọng. Đó là khúc vĩ thanh của nỗi nhớ. Hai câu thơ đầu đã thể hiện nỗi lòng
của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn sống và những người đã ngã xuống:
Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những
kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm
Nứa:
Bằng việc sử dụng bút pháp sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng mạn, âm hưởng bi tráng,
hào hùng bài thơ Tây Tiến đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa mang vẻ hào
hùng nhưng đầy lạc quan, yêu đời. Họ là những người lính trẻ mang trong mình lí tưởng cao
đẹp, quyết hi sinh thân mình bảo vệ tổ quốc. Bài thơ còn thể hiện tài hoa trong cách sử dụng
các động từ mạnh, các từ láy mang tính biểu cảm cao và các biện pháp điệp từ, nhân hóa. Đọc
bài thơ ta liền nhớ tới những câu thơ về người lính Tây Tiến được nhà thơ Giang Nam viết