1. Sự hình thành và phát triển của khái niệm "siêu hình” Sau thời kì đêm trường Trung Cổ khiến cả Châu Âu chìm vào sự lạc hậu, u tối, một loạt những sự kiện diễn ra từ suốt thế kỉ XIV đến thế kỉ XVI, đặc biệt là sự kiện Đế quốc Đông La Mã sụp đổ dưới tay người Hồi Giáo năm 1453 và hàng loạt các phát kiến địa lí đã làm thay đổi hoàn toàn những định kiến về thế giới, con người và vũ trụ. Châu Âu đứng trước hai sự lựa chọn: hoặc là thay đổi, hoặc là chết dần. Cuối cùng, lục địa này đã quyết định chuyển mình, tạo ra một thời kì rực rỡ nhưng có một tên gọi vô cùng khiêm tốn – thời kì Phục Hưng. Phục Hưng hay còn gọi là Renaissance – sự tái sinh, tái sinh của các ý niệm triết học Hy Lạp La Mã cổ đại. Các nhà triết học đã tiếp thu những tiến bộ của thời kì Trung Cổ, trên cơ sở kế thừa những tinh hoa triết học cổ Hy Lạp và La Mã. Triết học trong thời kì này phát triển trong điều kiện phát triển như vũ bão của các phát minh khoa học, giúp cho các nhà triết học có nhiều quan niệm hợp lí về thế giới và con người. Cũng chính do ảnh hưởng của khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ học và toán học mà triết học thời kì này chịu sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Trước hết, thuật ngữ “siêu hình” có nguồn gốc từ chữ Metaphysique, được Aristotle dùng để chỉ những hoạt động nghiên cứu khoa học sau vật lý học của mình. Bản thân Aristotle chưa sử dụng thuật ngữ “siêu hình”, song, nếu căn cứ vào những tác phẩm của ông được tập hợp lại dưới tên gọi “siêu hình học”, thì có thể khẳng định rằng, trong quan niệm của Aristotle, siêu hình là học thuyết về những nguyên tắc và các bản nguyên tối cao, siêu kinh nghiệm của tồn tại, của nhận thức, của văn hoá và của con người. Siêu hình học lúc đầu là khoa học về tồn tại, nó được hiểu là học thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, về những đối tượng đằng sau các sự vật hữu hình. Từ cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu. Khi đó, phương pháp siêu hình xuất hiện giúp cho khoa học tự nhiên hệ thống hóa các tài liệu đã tích lũy được. Ban đầu nó chỉ là sự phát triển của khoa học thực nghiệm, là phương pháp khoa học chia nhỏ tự nhiên thành những bộ phận để nghiên cứu và từ đó làm xuất hiện thói quen xem xét sự vật ở trạng thái cô lập tách rời, bất biến trong quá trình nghiên cứu. Về sau, khi phương pháp xem xét này được đưa vào triết học thì nó tạo ra phương pháp siêu hình, đặc trưng trong tư duy triết học thế kỉ XVII-XVIII. Nói ngắn gọn hơn có thể hiểu “siêu hình” là dùng để chỉ triết học, với tính cách là khoa học siêu cảm tính, phi thực nghiệm. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học. Nhưng từ cuối thế kỉ XVIII tới XIX, khi nghiên cứu bước vào giai đoạn chỉnh lí, con người ta quan tâm đến sự phát sinh, phát triển và kết thúc của mọi vật thì phương pháp hạn hẹp trong việc xem xét sự vật, hiện tượng ở trạng thái bất biến, không phụ thuộc lẫn nhau đã kiềm hãm sự phát triển của khoa học tự nhiên. Phương pháp siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu nhận thức của khoa học nữa và dần bị loại bỏ. Nhu cầu nghiên cứu mới trong khoa học tự nhiên đòi hỏi phải có một cái nhìn biện chứng về thế giới. Từ đó phương pháp tư duy biện chứng ra đời, phát huy thế mạnh và dần trở thành phương pháp thống trị trong tư duy khoa học. Tuy phương pháp tư duy siêu hình có hạn chế, song không thể phủ nhận vai trò của nó trong việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là trong thời kì chuyển tiếp giữa Trung Cổ và Phục Hưng ở các nước Tây Âu. 2. Sự hình thành và phát triển của khái niệm “biện chứng” Khái niệm “biện chứng” được bắt đầu hình thành từ phép biện chứng tự phát của Heraclitus và học thuyết triết học cổ đại. Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại, đặc biệt là phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại, mang tính chất phác và thuần phác tự nhiên. Các nhà triết học cổ đại nghiên cứu sự vận động, phát triển của đối tượng trong bức tranh chung, tổng thể về thế giới. Phép biện chứng cổ đại coi thế giới là một thể thống nhất giữa các bộ phận của thế giới đó, có mối quan hệ qua lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau; thế giới không ngừng vận động, biến đổi. Đây chính là nền tảng để phép biện chứng phát triển lên hình thức cao hơn. Ở một phía cạnh khác: “biện chứng” theo Sokrates được coi là nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý bằng cách phát hiện mâu thuẫn trong cách lập luận. Lịch sử phát triển của phép biện chứng trải qua ba hình thức: phép biện chứng cổ đại (phép biện chứng tự phát), phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. a) Phép biện chứng cổ đại (phép biện chứng tự phát). + Giai đoạn đầu tiên của tư duy triết học biện chứng là phép biện chứng tự phát thời kỳ cổ đại có ở cả Phương Đông và phương Tây. Ở phương Đông phép biện chứng được thể hiện trong Phật giáo, trong thuyết Âm – Dương, ngũ hành và nhiều học thuyết khác. Còn ở phương Tây, phép biện chứng được thể hiện qua nhiều nhà triết học nhưng tiêu biểu là luận điểm của Heraclitus: “Chúng ta không ai tắm hai lần trên một dòng sông” vì mọi sự vật, sự việc đều biến đổi, đều trôi đi. + Hoàn cảnh ra đời: - Điều kiện kinh tế xã hội văn hoá: Xã hội Hy Lạp xuất hiện sớm vào khoảng thế kỷ thứ VIII trước công nguyên đến thế kỷ thứ III sau công nguyên. Vào thế kỷ thứ VI–IV trước công nguyên, xã hội chiếm hữu nô lệ Hy Lạp đã đạt tới hoàn thiện. Sự khác nhau giữa hai thành phố phát triển nhất đó dẫn tới cuộc nội chiến tương tàn và cuối cùng chiến thắng thuộc về thành bang Xpac. Sau cuộc nội chiến, Hy Lạp bị vua Philippos xứ Macedonia xâm chiếm. Đất nước Hy Lạp cổ đại có một nền văn minh phát triển rực rỡ. Về tôn giáo, họ thờ nhiều thần và vị thần tối cao là thần Zeus. Về giáo dục, họ coi trọng đạo đức, trí dục, thể dục. Về chính trị, họ coi trọng chế độ dân chủ. Về đời sống, họ sống giản dị, chất phác. Về kiến trúc, họ có tính cách điều độ cân đối. Về triết học có nhiều trường phái. - Sự hình thành triết học: triết học Hy Lạp ra đời vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên trên các cơ sở: ● Do có nhiều biến chuyển kinh tế và chính trị mà một bộ phận của tầng lớp chủ nô có điều kiện chăm lo xây dựng thế giới quan của mình để định hướng cho cuộc đấu tranh. ● Do sự phát triển kinh tế, đặc biệt do sự phát triển của lao động và tổ chức lao động nô lệ. ● Do liên hệ mật thiết với các tri thức khoa học, cuộc đấu tranh tôn giáo, tín ngưỡng. ● Do vị trí của Hy Lạp cổ đại thuận lợi trong giao lưu kinh tế văn hoá với các nước phương Đông. + Đặc điểm: Ngay từ thời bấy giờ, các nhà duy vật biện chứng cổ đại đã thấy rằng sự vật của thế giới xung quanh ta nằm trong một mớ chằng chịt vô tận những sợi dây liên hệ và những tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng do chưa đạt đến trình độ đi sâu phân tích giới tự nhiên cho nên các nhà biện chứng cổ Hy Lạp chú ý đến sự vận động, đến sự quá độ từ cái này sang cái khác, đến những mối liên hệ nhiều hơn là chú ý đến cái đang vận động, đang quá độ và đang liên hệ với nhau. + Đại biểu: - Heraclitus (520 - 460 TCN): nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại. Khác với các nhà triết học phái Milê, Heraclitus cho rằng không phải nước, Apeiron, không khí, mà chính lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi sự vật. “Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng” .Lửa không chỉ là cơ sở của mọi vật mà còn là khởi nguyên sinh ra chúng. Luận điểm bất hủ của Heraclitus: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng trong lòng nó luôn luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập nhau. Nhờ vậy mà mới có hiện tượng sự vật này chết đi sự vật khác ra đời. Vì thế đấu tranh là vương quốc của mọi cái, là quy luật phát triển của vũ trụ. Bản thân cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập luôn luôn diễn ra trong sự hài hòa nhất định. b) Phép biện chứng duy tâm. + Hoàn cảnh: - Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nước Đức vẫn là một nước phong kiến lạc hậu, tình trạng cát cứ phân tán nhỏ lẻ phổ biến. - Giai cấp tư sản Đức đã hình thành nhưng tách rời nhau vì thế giai cấp tư sản Đức nhỏ bé về số lượng, yếu kém về thế lực chính trị => giai cấp tư sản không thể làm cách mạng hiện thực mà chỉ làm cách mạng trong tư duy. + Đặc điểm: - Sự mâu thuẫn giữa nội dung tư tưởng triết học mang tính khoa học và cách mạng với những hình thức thể hiện có tính chất duy tâm, tôn giáo và có tính chất siêu hình. Vào thời kỳ này, Đức là một nước phong kiến với tình trạng lạc hậu cả về kinh tế chính trị, những mầm mống của chủ nghĩa tư bản mới bắt đầu hình thành trong xã hội Đức. Giai cấp tư sản vì thế chưa thể thực hiện được một cuộc cách mạng trong thực tiễn. Ănghen nhận xét: “ Triết học Đức của cách mạng Pháp. Chúng ta những người Đức cùng thời đại về mặt tư tưởng nhưng không cùng thời đại về mặt lịch sử.” - Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, có tính lý luận cao và cung cấp cho chúng ta phương pháp tư duy biện chứng. - Nhưng bên cạnh đó triết học cổ điển Đức còn duy tâm, do quá đề cao sức mạnh của trí tuệ, hoạt động của con người. + Đại biểu: - Cantơ (1724 – 1804) là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước C.Mác. Nét nổi bật trong triết học của Cantơ là đã trình bày những quan niệm biện chứng của mình về giới tự nhiên. Triết học Cantơ là triết học nhị nguyên. Một mặt ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới các “ vật tự nó” ở bên ngoài con người. Nhưng mặt khác thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại chỉ là “các hiện tượng”… phù hợp với cái cảm giác và cái tri thức do lý tính tạo ra. Tính duy tâm trong triết học Cantơ còn thể hiện ở chỗ ông coi không gian, thời gian, tính nhân quả cũng như các quy luật của giới tự nhiên không phải là những cái thuộc bản thân giới tự nhiên, mà là sản phẩm của lý trí tiên nghiệm, có trước kinh nghiệm. - Hênghen: Triết học của HênGhen đầy mâu thuẫn. Ông đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ thống triết học duy tâm của mình, Hênghen không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn…mà còn nói đến cả các quy luật như “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ định”, và quy luật mâu thuẫn. Tóm lại, hệ thống triết học của Hênghen là một hệ thống duy tâm, mà thực chất của nó “là ở chỗ lấy cái tâm lý làm điểm xuất phát, từ cái tâm lý suy ra giới tự nhiên” (Lênin). Tuy nhiên, phép biện chứng của Hênghen đã mâu thuẫn với hệ thống triết học duy tâm của ông và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của triết học Marx c ) Phép biện chứng duy vật + Hoàn cảnh: Điều kiện kinh tế xã hội: Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản cũng ngày càng gay gắt, quyết liệt. Thời kỳ đầu, các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chỉ hướng tới những mục tiêu kinh tế hàng ngày và hình thức đấu tranh chủ yếu là kinh tế. Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân có sự thay đổi về chất, nhiều cuộc đấu tranh lớn diễn ra. Những cuộc đấu tranh này làm xuất hiện những yêu cầu: ● Làm rõ vai trò lịch sử của giai cấp vô sản. Mác và Anghen tham gia phong trào công nhân, tổng kết kinh nghiệm và xây dựng nên học thuyết tư tưởng của mình trong đó có triết học. ● Thay đổi quan niệm về lịch sử, chỉ ra được động lực bên trong của sự phát triển lịch sử + Tiền đề lý luận: - Triết học Mác ra đời ngoài những điều kiện kinh tế xã hội, nó còn kế thừa được những yếu tố tích cực của các giai đoạn trước. Đặc biệt trong triết học cổ điển Đức những nội dung cách mạng toàn bộ trong phép biện chứng của Hêghen cùng những tư tưởng duy vật của Pháp đã làm một trong những cơ sở lý luận cho sự hình thành tư tưởng duy vật biện chứng trong triết học Mác. - Tiền đề khoa học tự nhiên: Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX nhiều phát minh khoa học lớn xuất hiện. Đáng chú ý có 3 phát minh: 1842 – 1845: ra đời định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng 1859: ra đời thuyết tiến hoá của Đacuyn Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ 19 ra đời học thuyết tế bào. - Kết luận: những điều kiện và tiền đề trên cho thấy sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội và phù hợp với quy luật phát triển của nhận thức nhân loại. + Đặc điểm: Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại và nó được thể hiện qua các nội dung: - Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại. Mác và Ănghen đã sáng tạo lên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để. - Triết học Mác đã khắc phục được sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và biện chứng trong các tư tưởng triết học của các giai đoạn trước. -Sự ra đời của triết học Mác đã làm cho vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học được nâng cao. -Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, tạo nên bước chuyển về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác. -Triết học Mác là thế giới quan của khoa học và phương pháp luận chung, cần thiết cho sự phát triển của tất cả các môn khoa học. + Đại biểu: - Mác và Ănghen : chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử do Mác và Ănghen sáng lập là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. +Triết học Mác trở thành thế giới quan khoa học để tiếp tục phát triển khoa học và cải tạo thực tiễn. C.Mác đã phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen một cách sâu sắc. Mác cho rằng sai lầm chủ yếu của Hêghen là ở chỗ ông quan niệm mâu thuẫn của hiện tượng như sự thống nhất trong bản chất, trong tư tưởng, trong khi bản chất của mâu thuẫn này tất nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất. Mác và Ănghen đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Hai ông không chỉ thỏa mãn với việc cải tạo duy vật phép biện chứng duy tâm mà đồng thời cũng tiến hành cải tạo một cách biện chứng chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đó. Mác và Ănghen đã liên kết đã gắn bó, không tách rời chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. 3.Sự đối lập của phương pháp biện chứng và siêu hình a) Biện chứng - Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau. - Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng. Như vậy phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” còn có cả cái “vừa là… vừa là…”; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau. Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới. Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Marx của triết học Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất là phép biện chứng duy vật, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết không thể biết, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và khả năng của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. b) Siêu hình - Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối. - Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng. Phương pháp siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”. Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Song phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm. Cách xem xét cho chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng ở trạng thái đứng im tương đối, nhưng nếu tuyệt đối hoá phương pháp này sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.