Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 28

1.

So sánh pháp luật với các quy tắc tập quán


● Nguồn gốc của PL
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do nhu cầu của cuộc sống cộng đồng, các quan
hệ xã hội giữa người và người được điều chỉnh bằng các quy tắc đạo đức, phong
tục, tập quán và các quy tắc tôn giáo. Khi trong xã hội xuất hiện sở hữu tư nhân, sự
phân chia giai cấp, người giàu, người nghèo, người bóc lột và bị bóc lột, đồng thời,
cũng nảy sinh những mâu thuẫn giai cấp đối kháng, đòi hỏi phải có những quy tắc
xử sự mang tính bắt buộc chung được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế đối với các thành viên trong xã hội và một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt
có bộ máy cưỡng chế đảm bảo cho các quy tắc xử sự đó được thực hiện.

Như vậy, những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước cũng là những
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Pháp luật hình thành bằng ba con
đường chủ yếu sau: nhà nước thừa nhận những tập quán đã có từ trước phù hợp
với lợi ích của mình và nâng lên thành pháp luật. Bằng con đường này, nhà nước
tạo ra hình thức pháp luật đầu tiên là tập quán pháp; nhà nước thừa nhận các quyết
định có trước về từng vụ việc cụ thể của cơ quan xét xử hoặc cơ quan hành chính
cấp trên để trở thành khuôn mẫu cho các cơ quan cấp dưới tương ứng giải quyết
những vụ việc tương tự xảy ra sau này. Con đường này tạo ra hình thức pháp luật
thứ hai trong lịch sử là án lệ pháp; nhà nước ban hành những quy phạm pháp luật
mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới nảy sinh do nhu cầu quản lí và duy trì trật
tự xã hội. Bằng con đường này hình thức pháp luật thứ ba ra đời, đó là các văn bản
quy phạm pháp luật. Đó cũng chính là nguồn gốc của pháp luật.

- Quy phạm pháp luật:


Các quy phạm xã hội ở nước ta hiện nay rất đa dạng bao gồm:
- các quy phạm chính trị do các cơ quan, tổ chức của Đảng ban hành
- các quy phạm do các tổ chức chính trị - xã hội ban hành
- các quy phạm đạo đức, phong tục, tôn giáo và pháp luật
*Vai trò
Điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người - đây chính là các
mối quan hệ được hình thành và điều chỉnh quyết định hành vi của con
người giúp cho họ cân nhắc quyền lợi và những điều được và không được
làm trong quy định chuẩn mực chung.
Ngoài ra những phong tục, tập quán của từng vùng miền, quốc gia, dân
tộc,... góp phần vào việc hình thành nên những bản sắc, văn hóa riêng của
mỗi cộng đồng.
1.1. Khái niệm đạo đức, pháp luật và tập quán

Tập quán là những quy tắc xử sự được hình thành một cách tự phát lâu ngày thành thói quen
trong đời sống xã hội hoặc giao lưu quốc tế, đang tồn tại và được các chủ thể thừa nhận như
là quy tắc xử sự chung.

1.2. So sánh pháp luật với đạo đức

1.2.1. Điểm giống nhau

– Pháp luật và đạo đức đều có những quy tắc xử sự chung hay quy phạm xã hội để hướng dẫn
cách xử sự cho mọi người trong xã hội cho nên chúng đều có các đặc điểm của các quy phạm
xã hội, đó là:

+ Pháp luật và đạo đức đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử sự cho
mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do chúng dự liệu thì đều
phải xử sự theo những cách thức mà chúng đã nêu ra – Căn cứ vào pháp luật, đạo đức, các
chủ thể sẽ biết mình đuợc làm gì, không đuợc làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở
vào một điều kiện, hoàn cảnh nhất định.

+ Pháp luật và đạo đức đều là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con
người. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy tắc đạo đức, có thể xác định được
hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là hợp đạo đức; hành vi nào là trái pháp luật, hành vi
nào là trái đạo đức.

+ Pháp luật và đạo đức đều được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức,
cá nhân cụ thể mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do chúng điều chỉnh.

+ Pháp luật và đạo đức đều được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống, bởi vì chúng
được ban hành không phải để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thế, một trường hợp cụ thế
mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là mọi trường hợp, khi điều kiện hoặc hoàn
cảnh do chúng dự kiến xảy ra.

- Cả pháp luật và đạo đức đều tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ
gìn trật tự xã hội.

- Cả pháp luật và đạo đức đều vừa có tính giai cấp, vừa có tính xã hội và tính dân tộc.

1.2.3. Điểm khác nhau

Pháp luật Đạo đức

Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sựĐạo đức là hệ thống các quy tắc,
chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con
và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các người tự giác điều chỉnh hành vi của

Khái niệm quan hệ xã hội theo mục đích, địnhmình cho phù hợp với lợi ích của
hướng của nhà nước. cộng đồng, của xã hội.

- Pháp luật có tính quyền lực nhà nước, - Đạo đức lúc đầu được hình thành
bởi vì pháp luật được hình thành bằng một cách tự phát trong cộng đồng xã
con đường nhà nước, do nhà nước đặt ra hội, sau đó có thể là tự giác khi
(ví dụ như các quy định về tổ chức bộ được bổ sung bằng những quan
máy nhà nước), hoặc do nhà nước thừa điểm, quan niệm và phong cách
nhận (các phong tục, tập quán, các quan sống của các vĩ nhân; được lưu
niệm, quy tắc đạo đức...) nên pháp luật truyền từ đời này sang đời khác theo
luôn thể hiện ý chí của nhà nước - Pháp phương thức truyền miệng; được
luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bảo đảm thực hiện bằng thói quen,
bằng nhiều biện pháp, từ tuyên truyền, bằng dư luận xã hội, bằng lương
phổ biến, giáo dục, thuyết phục, động tâm, niềm tin của mỗi người và bằng
viên, khen thưởng, tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế phi nhà
cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng nước - Đạo đức thường thể hiện ý
chế nhà nước. chí của một cộng đồng dân cư.

- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến,


nó có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và
thực hiện đối với mọi tổ chức và cá - Đạo đức chủ yếu có tính chất
nhân có liên quan trong phạm vi lãnh khuyên răn đối với mọi người, chỉ
thổ quốc gia - Pháp luật có tác động bao cho mọi người biết nên làm gì,
trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ chức và không nên làm gì, phải làm gì và chỉ
cá nhân có liên quan trong xã hội; đồng tác động tới các cá nhân trong xã
thời có tác động thường xuyên, liên tục hội.
trên toàn lãnh thổ và trong nhiều lĩnh
vực hoạt động của xã hội.

- Có những quan hệ xã hội pháp luật - Có những quan hệ xã hội đạo đức
điều chỉnh nhưng đạo đức không điều điều chỉnh nhưng pháp luật không
chỉnh, ví dụ như những quan hệ liên điều chỉnh, ví dụ như quan hệ tình
quan tới việc tổ chức bộ máy nhà nước. bạn, tình yêu...

- Pháp luật có tính hệ thống, bởi vì pháp


luật là một hệ thống các quy phạm để
điều chỉnh nhiều loại quan hệ xã hội -Đạo đức không có tính hệ thống, ví
phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau dụ như quan niệm và quy tắc đạo
của đời sống như dân sự, kinh tế, lao đức trong lĩnh vực ma chay hầu như
động..., song các quy phạm đó không không có liên quan với quan niệm
tồn tại một cách biệt lập mà giữa chúng và quy tắc đạo đức trong lĩnh vực
có mối hên hệ nội tại và thống nhất với cưới hỏi và trong các lĩnh vực khác.
nhau để tạo nên một chỉnh thể là hệ
thống pháp luật.
- Pháp luật có tính xác định về hình
thức, tức là pháp luật thường được thể
hiện trong những hình thức nhất định,
- Đạo đức không có tính xác định về
có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp
hình thức, bởi vì nó tồn tại dưới
hoặc văn bản quy phạm pháp luật.
dạng bất thành văn, được lưu truyền
Trong các văn bản quy phạm pháp luật,
từ đời này sang đời khác bằng hình
các quy định của pháp luật thường rõ
thức truyền miệng.
ràng, cụ thể, bảo đảm có thể được hiểu
và thực hiện thống nhất trong một phạm
vi rộng.

- Pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong


- Đạo đức ra đời và tồn tại trong tất
những giai đoạn lịch sử nhất định, giai
cả các giai đoạn phát triển của lịch
đoạn có sự phân chia giai cấp, mâu
sử.
thuẫn và đấu tranh giai cấp.

1.2. So sánh và phân biệt pháp luật và tập quán


1.2.1. Điểm giống nhau
- Pháp luật và tập quán đều là những quy tắc xử sự chung hay quy phạm xã hội để hướng dẫn
cách xử sự cho mọi người trong xã hội cho nên chúng đều có các đặc điểm của các quy phạm
xã hội, đó là:

- Pháp luật và tập quán đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử sự cho
mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do chúng dự liệu thì đều
phải xử sự theo những cách thức mà chúng đã nêu ra – Căn cứ vào pháp luật, tập quán, các
chủ thể sẽ biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở
vào một điều kiện, hoàn cảnh nhất định.

+ Pháp luật và tập quán đều là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con
người. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, của tập quán, có thể xác định được hành vi
nào là hợp pháp, hành vi nào là hợp tập quán; hành vi nào là trái pháp luật, hành vi nào là trái
tập quán.
+ Pháp luật và tập quán đều được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức,
cá nhân cụ thể mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do chúng điều chỉnh.

+ Pháp luật và tập quán đều được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống, bởi vì chúng
được ban hành không phải để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể, một trường hợp cụ thể
mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là mọi trường hợp, khi điều kiện hoặc hoàn
cảnh do chúng dự kiến xảy ra.

- Cả pháp luật và tập quán đều tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và giữ
gìn trật tự xã hội.

1.2.2. Điểm khác nhau


Pháp luật Tập quán

- Pháp luật có tính quyền lực nhà nước, bởi vì - Tập quán được hình thành một cách tự
pháp luật được hình thành bằng con đường nhà phát trong một cộng đồng dân cư nhất
nước, do nhà nước đặt ra (ví dụ như các quy định định, là thói quen ứng xử có tính chất
về tổ chức bộ máy nhà nước), hoặc do nhà nước lặp đi lặp lại hằng ngày; được bảo đảm
thừa nhận (các phong tục, tập quán, các quan thực hiện bằng thói quen, bằng dư luận
niệm, quy tắc đạo đức...) nên pháp luật luôn thể xã hội, bằng sức thuyết phục của chúng
hiện ý chí của nhà nước - Pháp luật được nhà và bằng các biện pháp cưỡng chế phi
nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, từ nhà nước, của cộng đồng. Vì thế, tập
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, quán thường thể hiện ý chí cửa một
động viên, khen thưởng, tổ chức thực hiện cho cộng đồng dân cư trong những địa
đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. phương nhất định.

- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, nó có giá


trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với
mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong phạm - Tập quán thường chỉ có tác động
vi lãnh thổ quốc gia - Pháp luật có tác động bao trong một cộng đồng dân cư ở một địa
trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ chức và cá nhân phương nhất định.
có liên quan trong xã hội; đồng thời có tác động
thường xuyên, liên tục trên toàn lãnh thổ và trong
nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội.

- Có những quan hệ xã hội pháp luật điều chỉnh - Có những quan hệ xã hội tập quán
nhưng tập quán không điều chỉnh, ví dụ như điều chỉnh nhưng pháp luật không điều
những quan hệ liên quan tới việc tổ chức bộ máy chỉnh, ví dụ như tập quán ma chay,
nhà nước. cưới hỏi...

- Pháp luật có tính hệ thống, bởi vì pháp luật là


một hệ thống các quy phạm để điều chỉnh nhiều
loại quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực -Tập quán không có tính hệ thống. Ví
khác nhau của đời sống như dân sự, kinh tế, lao dụ: tập quán về ma chay và tập quán về
động..., song các quy phạm đó không tồn tại một cưới hỏi là hoàn toàn khác biệt nhau và
cách biệt lập mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại không có liên quan tới nhau.
và thống nhất với nhau để tạo nên một chỉnh thể
là hệ thống pháp luật.

- Pháp luật có tính xác định về hình thức, tức là


pháp luật thường được thể hiện trong những hình
-Tập quán không có tính xác định về
thức nhất định, có thể là tập quán pháp, tiền lệ
hình thức, bởi vì nó tồn tại dưới dạng
pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật.
bất thành văn, được lưu truyền từ đời
Trong các văn bản quy phạm pháp luật, các quy
này sang đời khác bằng hình thức
định của pháp luật thường rõ ràng, cụ thể, bảo
truyền miệng.
đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất
trong một phạm vi rộng.

- Pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong những giai


- Tập quán ra đời và tồn tại trong tất cả
đoạn lịch sử nhất định, giai đoạn có sự phân chia
các giai đoạn phát triển của lịch sử.
giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp.

Bài 2: QUY PHẠM PHÁP LUẬT – VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT (3 tiết)

1. Hình thức pháp luật


Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp
mình lên thành pháp luật.

1.1. Tập quán pháp

Tập quán pháp là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu truyền trong
xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng lên thành những quy tắc xử sự
chung được nhà nước đảm bảo thực hiện.

Đây là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều trong các nhà
nước chủ nô, nhà nước phong kiến. Trong nhà nước tư sản, hình thức này vẫn còn được sử
dụng nhiều, nhất là trong các nước có chế độ quân chủ.

Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn thừa nhận một số tập quán tiến bộ, tuy
nhiên ở mức độ hạn chế.

1.2. Tiền lệ pháp + Án lệ pháp

Tiền lệ pháp là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính
hoặc xét xử giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng giải quyết các vụ việc tương tự.

Tiền lệ pháp được sử dụng trong các nhà nước chủ nô, được sử dụng rộng rãi trong
các nhà nước phong kiến và hiện nay vẫn chiếm vị trí quan trọng trong pháp luật tư sản, nhất
là hệ thống pháp luật Anh – Mỹ.

Tiền lệ pháp hình thành không phải do hoạt động của cơ quan lập pháp mà xuất hiện
từ hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp. Vì vậy, hình thức pháp luật này dễ tạo ra sự
tùy tiện, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế XHCN.

Tuy nhiên, trên thực tế trong giai đoạn mà hệ thống pháp luật chưa được xây dựng
hoàn chỉnh, trước yêu cầu của cách mạng, nhà nước cần giải quyết ngay một số vụ việc, trong
các nhà nước XHCN vẫn còn sử dụng hình thức pháp luật này.

Án lệ được hiểu là: đường lối giải thích và áp dụng luật pháp của các Tòa án về một điểm
pháp lý, đường lối này đã được coi như một tiền lệ, khiến các thẩm phán sau đó có thể noi
theo trong các trường hợp tương tự. Nói nôm na, xử theo án lệ là việc Tòa án cấp dưới vận
dụn các phán quyết có từ trước của Tòa án cấp trên để đưa ra một phán quyết tương tự trong
một vụ việc tương tự.

Cơ sở để hình thành nên án lệ chính là những khuyết điểm của hệ thống pháp luật.
Khi có những khuyết điểm của hệ thống luật, Tòa án sẽ viện dẫn những căn cứ pháp luật
được coi là hợp lý để đưa ra những phán quyết có tính đột phá và bản án này sẽ được Tòa tối
cao công bố là án lệ để áp dụng chung cho các trường hợp tương tự dó khiếm khuyết quy
phạm hoặc chưa có dẫn chiếu quy phạm rõ ràng.
Tiền lệ pháp được hiểu là việc làm luật của Tòa án trong việc công nhận và áp dụng
và áp dụng nguyên tắc mới trong quá trình xét xử dựa trên những cơ sở vụ việc đã được quyết
định trước đây cho những trường hợp và vấn đề tương tự.

1.3. Văn bản quy phạm pháp luật

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành
theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục do luật quy định. Đây là hình thức pháp
luật tiến bộ nhất.

Trong pháp luật chủ nô, phong kiến, các văn bản pháp luật chưa hoàn chỉnh và kỹ thuật xây
dựng chưa cao. Nhiều đạo luật chỉ là sự ghi chép lại một cách có hệ thống các án lệ và các tập
quán đã được thừa nhận. Pháp luật tư sản đã có nhiều hình thức văn bản phong phú và được
xây dựng với kỹ thuật cao.

Pháp luật XHCN có hệ thống các văn bản thống nhất được xây dựng theo nguyên tắc pháp
chế XHCN, tôn trọng tính tối cao của hiến pháp và luật. Hệ thống các văn bản pháp luật
XHCN ngày càng được xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ với kỹ thuật cao phản ánh đúng bản
chất pháp luật XHCN.

2. Quy phạm pháp luật

2.1. Khái niệm quy phạm pháp pháp luật

Đời sống cộng đồng xã hội đòi hỏi phải đặt ra nhiều quy tắc xử sự khác nhau để điều chỉnh
hành vi xử sự của con người. Những quy tắc xử sự sử dụng nhiều lần trong đời sống xã hội
được gọi là quy phạm. Đặc điểm của quy phạm: Quy phạm là khuôn mẫu của hành vi, cách
xử sự ; Quy phạm hình thành dựa trên sự nhận thức các quy luật khách quan của sự vận động
tự nhiên và xã hội.

Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy nó mang đầy đủ những đặc tính
chung vốn có của quy phạm xã hội như: là quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu để mọi người
làm theo, là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người.

Ngoài những đặc tính chung của quy phạm xã hội thì quy phạm pháp luật còn có những đặc
tính riêng như sau:

- Quy phạm pháp luật luôn gắn liền với nhà nước vì do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành, thừa nhận hoặc phê chuẩn được nhà nước đảm bảo thực hiện.

- Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí nhà nước. Nhà nước thể hiện ý chí của mình bằng cách
xác định những đối tượng nào trong những điều kiện, hoàn cảnh nào thì phải xử sự theo pháp
luật, những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có và cả những biện pháp cưỡng chế mà họ
buộc phải gánh chịu nếu họ không thực hiện đúng những nghĩa vụ đó.
- Quy phạm pháp luật là các quy tắc hành vi có tính bắt buộc chung. Tính bắt buộc chung của
quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc tất cả những ai nằm trong điều kiện mà quy phạm
pháp luật đã quy định.

- Quy phạm pháp luật được thể hiện dưới hình thức xác định. Tính hình thức ở đây thể hiện
trong việc biểu thị, diễn đạt chính thức nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật.

Tính xác định thể hiện trong việc biểu thị rõ nội dung các quy phạm pháp luật quy định các
quy tắc hành vi và được diễn đạt rõ ràng, chính xác. Nhờ được biểu thị dưới hình thức nhất
định, các quy phạm pháp luật trở nên dễ hiểu và áp dụng được trong đời sống xã hội.

Từ những đặc điểm trên có thể khái quát về quy phạm pháp luật XHCN như sau: Quy phạm
pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại
nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính
nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định và được Nhà nước bảo đảm
thực hiện.

2.2. Cấu trúc của quy phạm pháp luật

Cấu trúc của quy phạm pháp luật là cơ cấu bên trong, là các bộ phận hợp thành của quy phạm
pháp luật.

Trong khoa học pháp lý có hai quan điểm về cấu trúc của quy phạm pháp luật. Quan điểm thứ
nhất cho rằng: quy phạm pháp luật bao gồm ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài. Quan
điểm thứ hai cho rằng bất kỳ quy phạm pháp luật nào cũng chỉ gồm hai bộ phận: những điều
kiện tác động của quy phạm pháp luật và hậu quả pháp lý. Hậu quả pháp lý có thể là phần
quy định và cũng có thể là phần chế tài. Phần lớn các nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm thứ
nhất.

- Giả định của quy phạm pháp luật: là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu lên
những hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống và cá nhân hay tổ chức nào ở vào
những hoàn cảnh, điều kiện đó phải chịu sự tác động của quy phạm pháp luật đó.

Trong giả định của quy phạm pháp luật cũng nêu lên chủ thể nào ở vào những điều kiện,
hoàn cảnh đó.

Giả định của quy phạm pháp luật có thể giản đơn (chỉ nêu một hoàn cảnh, điều kiện) hoặc có
thể phức tạp (nêu lên nhiều hoàn cảnh, điều kiện)

- Quy định của quy phạm pháp luật: là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu
cách xử sự mà tổ chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong bộ phận giả định
của quy phạm pháp luật được phép hoặc buộc phải thực hiện.

Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có thể dứt khoát (chỉ nêu
một cách xử sự và các chủ thể buộc phải xử sự theo mà không có sự lựa chọn) hoặc cho phép
lựa chọn (nêu ra 2 hoặc nhiều cách xử sự và cho phép các tổ chức hoặc cá nhân có thể lựa
chọn cho mình cách xử sự thích hợp từ những cách xử sự đã nêu)

- Chế tài của quy phạm pháp luật: là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện
pháp tác động mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.

Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật sẽ được áp dụng với tổ
chức hay cá nhân nào vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã
nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.

Các biện pháp tác động mà nhà nước nêu ra trong chế tài pháp luật rất đa dạng, đó có thể là:
những biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính trừng phạt có liên quan tới trách nhiệm pháp
lý ( chế tài hình sự ; chế tài hành chính ; chế tài dân sự ; chế tài kỷ luật) ; hoặc chế tài có thể
chỉ là những biện pháp chỉ gây ra cho chủ thể những hậu quả bất lợi (đình chỉ, bãi bỏ các văn
bản sai trái của cơ quan cấp dưới, tuyên bố hợp đồng vô hiệu ...)

Chế tài quy phạm pháp luật có thể là cố định hoặc không cố định. Chế tài cố định là chế tài
quy định chính xác, cụ thể biện pháp tác động cần phải áp dụng đối với chủ thể vi phạm quy
phạm pháp luật đó. Chế tài không cố định là chế tài không quy định các biện pháp tác động
một cách dứt khoát hoặc chỉ quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của biện pháp tác động.

Ngoài những biện pháp tác động gây hậu quả bất lợi cho chủ thể, nhà nước xã hội chủ nghĩa
còn dự kiến cả các biện pháp tác động khác mang tính khuyến khích để các chủ thể tự giác
thực hiện pháp luật (biện pháp khen thưởng cho chủ thể có thành tích trong việc thực hiện
pháp luật).

3. Văn bản quy phạm pháp luật

3.1. Khái niệm và đặc điểm VB QPPL

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo
đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục do luật quy định.

- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Pháp luật quy định cụ thể loại văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung (các quy
phạm pháp luật). Điều này để phân biệt với những văn bản mặc dù có ý nghĩa pháp lý nhưng
không chứa đựng các quy tắc xử sự chung thì cùng không phải là văn bản quy phạm pháp
luật.

- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống, trong mọi trường hợp.

- Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật được quy định
cụ thể trong pháp luật. Các văn bản có tên gọi cụ thể như : luật, pháp lệnh, nghị định, thông
tư, …
3.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam theo Hiến Pháp năm 2013, Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành
VBQPPL (Luật số 62/2020/QH14) bao gồm các loại văn bản sau đây:

(1). Hiến pháp.

(2). Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.

(3). Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy
ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch
Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

(4). Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

(5). Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch
Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

(6). Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

(7). Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

(8). Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước

Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

(9). Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là cấp tỉnh).

(10). Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

(11). Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt.

(12). Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).

(13). Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

(14). Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp
xã).

(15). Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.


2. Phân tích các yếu tố của quan hệ pháp luật (chủ thể, nội dung, khách thể của
QHPL)

2.1. Khái niệm QHPL

Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội, xuất hiện dưới sự tác động của
các quy phạm pháp luật, trong đó các bên tham gia quan hệ có quyền chủ thể và nghĩa vụ
pháp lý theo quy định của quy phạm pháp luật, quyền và nghĩa vụ đó được pháp luật ghi
nhận và nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, cưỡng chế nhà nước.

2.2. Chủ thể QHPL

Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia quan hệ pháp luật, nói cách khác, đó là
các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ do nhà nước
quy định trong pháp luật.

Những người có ý thức và ý chí nhất định sẽ có đủ tư cách để tham gia quan hệ pháp
luật. Quan hệ pháp luật là quan hệ giữa người với người. Trong quan hệ pháp luật có sự tham
gia của con người hoặc tổ chức của con người. Chủ thể pháp luật có những phẩm chất riêng
biệt nhà nước trao cho là năng lực chủ thể.

- Năng lực chủ thể gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.

Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận, có thể thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lý.

Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận bằng hành vi của mình
thực hiện một cách độc lập các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, độc lập tham gia các quan
hệ xã hội.

Đây còn là khả năng của chủ thể có thể tự bản thân mình thực hiện các hành vi pháp
lý do nhà nước quy định, tự mình tham gia vào các quan hệ xã hội. Muốn tham gia vào các
quan hệ, con người phải có ý thức và ý chí nhất định.

- Phân loại chủ thể : chủ thể của quan hệ pháp luật có thể là cá nhân, tổ chức là pháp nhân
hoặc nhà nước.

+ Năng lực chủ thể của cá nhân :

Cá nhân là chủ thể phổ biến của quan hệ pháp luật.

Năng lực pháp luật của cá nhân phát sinh kể từ khi cá nhân đó sinh ra và chấm dứt khi cá
nhân chết.

Trong một số lĩnh vực, năng lực pháp luật được mở rộng dần từng bước phụ thuộc vào sự
phát triển thể lực và trí lực của cá nhân.
Năng lực hành vi chỉ xuất hiện khi cá nhân đã đạt đến độ tuổi nhất định và đạt được những
điều kiện nhất định. Phần lớn pháp luật các nước đều lấy độ tuổi 18 tuổi tròn và tiêu chuẩn lý
trí làm điều kiện công nhận năng lực hành vi cho chủ thể của đa số các nhóm quan hệ pháp
luật. Trên cơ sở đó pháp luật Việt Nam cũng quy định độ tuổi để xác định năng lực hành vi
đầy đủ của cá nhân là từ đủ mười tám tuổi trở lên.

+ Năng lực chủ thể của tổ chức :(tổ chức là pháp nhân)

Pháp nhân là chủ thể tương đối phổ biến của quan hệ pháp luật.

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của tổ chức xuất hiện cùng một lúc, vào thời điểm tổ
chức được thành lập và được ghi nhận trong điều lệ, quy chế hoặc văn bản của nhà nước,
năng lực hành vi của tổ chức thực hiện thông qua người đứng đầu cơ quan hoặc người đại
diện

Pháp nhân:( Điều 74 - Bộ luật Dân sự 2015) một tổ chức là pháp nhân khi tổ chức thỏa mãn
những điều kiện sau:

- Được thành lập hợp pháp: Được thành lập hợp pháp là do cơ quan có thẩm quyền
thành lập (thường là các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp), đăng ký kinh doanh
(đối với các doanh nghiệp) hoặc công nhận (đối với các hội, quỹ từ thiện)
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ trong đó có sự phân công, phân
nhiệm rõ ràng giữa các thành viên của pháp nhân. Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, mục
đích hoạt động và số lượng thành viên pháp nhân lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp
- Có tài sản độc lập với tài sản của cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm về tài
sản đó; Nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập. Pháp nhân tham gia
các quan hệ pháp luật thông qua người đại diện hợp pháp (gồm người đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền).

+ Nhà nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật vì nhà nước chỉ tham gia vào một số
quan hệ pháp luật đặc thù.

2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật

Nội dung của quan hệ pháp luật XHCN bao gồm quyền và nghĩa vụ chủ thể.

- Quyền chủ thể: Quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành.
Nói cách khác, quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định được
pháp luật cho phép. Quyền chủ thể có những đặc điểm như sau:

+ Khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép. Pháp luật quy
định cá nhân có quyền ký kết hợp đồng, khiếu nại, tự do ngôn luận.

+ Khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở nó thực hiện
các quyền và nghĩa vụ hoặc yêu cầu tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền và
nghĩa vụ này.
+ Khả năng các chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích
của mình.

Các thuộc tính kể trên của quyền chủ thể là thống nhất không thể tách rời.

- Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể: Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà nhà nước bắt buộc
chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác.

Nghĩa vụ pháp lý có những đặc điểm sau:

+ Chủ thể cần phải tiến hành những hành vi bắt buộc nhất định. Những hành vi này được thể
hiện bằng hành động hoặc không hành động.

+ Việc thực hiện những hành vi bắt buộc nhằm đáp ứng quyền chủ thể của chủ thể bên kia.

+ Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện những hành vi bắt buộc.

Quyền và nghĩa vụ chủ thể là hai hiện tượng pháp lý không thể thiếu trong một quan hệ pháp
luật cụ thể. Trong quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ chủ thể luôn thống nhất, phù hợp với
nhau. Nội dung, số lượng và các biện pháp bảo đảm thực hiện chúng đều do nhà nước quy
định hoặc do các bên xác lập trên cơ sở các quy định đó.

2.3. Khách thể của quan hệ pháp luật

Khách thể quan hệ pháp luật là lợi ích vật chất, tinh thần và những lợi ích xã hội khác có thể
thỏa mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc cá nhân mà vì chúng các chủ thể
tham gia vào các quan hệ pháp luật, nghĩa là, vì chúng mà họ thực hiện các quyền và nghĩa
vụ chủ thể của mình.

Khách thể của quan hệ pháp luật cần được phân biệt với đối tượng điều chỉnh của pháp luật là
những quan hệ xã hội mà pháp luật tác động tới.

3. Trình bày các hình thức thực hiện pháp luật. So sánh giữa áp dụng PL với các
hình thức thực hiện PL khác. Các trường hợp phải áp dụng pháp luật (cho ví dụ
minh hoạ)

3.1. Khái niệm thực hiện pháp luật

Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật.

3.2 Hình thức thực hiện pháp luật

Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những
hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Ở hình thức
thực hiện này đòi hỏi chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động, thực hiện các quy phạm
pháp luật dưới dạng không hành động.

- Thi hành pháp luật Thi hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Khác với
tuân thủ pháp luật, trong hình thức thi hành pháp luật đòi hỏi chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ
pháp lý dưới dạng hành động tích cực.

- Sử dụng pháp luật Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho
phép). Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện
hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình chứ không bị bắt
buộc phải thực hiện.

- Áp dụng pháp luật Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các
chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào những
quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm
dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.

Áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn đòi hỏi phải có sự tham gia của các cơ quan nhà
nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền.

- Các trường hợp áp dụng pháp luật :

+ Khi những quan hệ pháp luật với những quyền và nghĩa vụ cụ thể không mặc nhiên phát
sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.

+ Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia vào quan
hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.

+ Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước do các chế tài pháp luật quy định đối
với những chủ thể có hành vi vi phạm.

+ Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám
sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó hoặc nhà nước xác nhận tồn tại hay không tồn
tại một số vụ việc, sự kiện thực tế. Chẳng hạn toà án tuyên bố mất tích, tuyên bố chết đối với
một người; tuyên bố không công nhận vợ chồng đối với nam nữ sống chung với nhau không
có đăng ký kết hôn hoặc đăng ký kết hôn tại cơ quan không có thẩm quyền.

- Đặc điểm của áp dụng pháp luật :


+ Áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, quyền lực nhà nước, cụ thể, hoạt động này chỉ do
những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành. Tuỳ theo từng loại
quan hệ phát sinh được pháp luật quy định thẩm quyền của cơ quan nhà nước nào.

+ Áp dụng pháp luật là hoạt động được thực hiện theo thủ tục do pháp luật quy định chặt chẽ.
Để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động áp dụng pháp luật các thủ tục được pháp luật
quy định cụ thể và chặt chẽ, nếu cơ quan có thẩm quyền thực hiện sai, tuỳ tiện bị xác định vi
phạm thủ tục

+ Áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội. Áp
dụng pháp luật áp dụng không phải cho những chủ thể trừu tượng, chung chung mà cho các
chủ thể cụ thể thông qua các quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

+ Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo. Pháp luật là những quy tắc xử sự chung
không thể chỉ ra từng trường hợp cụ thể, do vậy khi áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, người có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu
thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi
hành.

Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước,
được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách, hoặc các
tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật
vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.

- Các giai đoạn của quá trình ADPL:

+ Phân tích đánh giá đúng, chính xác các tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của sự việc thực tế đã
xảy ra;

+ Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp và phân tích làm sáng rõ nội dung, ý nghĩa của
QPPL đối với trường hợp cần áp dụng’

+ Ra văn bản áp dụng pháp luật;

+ Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật.

● Áp dụng pháp luật tương tự:

+ Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật: là giải quyết một vụ việc thực tế cụ thể nào đó chưa
có QPPL trực tiếp điều chỉnh trên cơ sở QPPL điều chỉnh một trường hợp khác có nội dung
gần giống như vậy

+ Áp dụng tương tự pháp luật: là giải quyết một vụ việc thực tế nào đó chưa có QPPL trực
tiếp điều chỉnh trên cơ sở những nguyên tắc chung và ý thức pháp luật (dựa vào sự công bằng
và lẽ phải mà giải quyết)
VD:

Một bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi có nội dung như sau: “Trong các năm 2023, bà
A tham gia 01 dây hụi tháng và 03 dây hụi tuần, loại hụi hoa hồng và có lãi do vợ chồng bà
B, ông C làm đầu thảo. Mỗi dây hụi bà A tham gia 1 phần, các phần hụi đều còn sống và đã
góp tiền hụi đến ngày 18/09/2023 âm lịch thì bà B tuyên bố vỡ hụi ngưng khui.
Bà A đã đóng hụi số tiền là 18.000.000 đồng nên khi bà B vỡ hụi, bà A yêu cầu buộc bà B,
anh C trả lại cho ông và bà A số tiền hụi”.
Khi này, Tòa án đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A. Buộc bà B và ông C
cùng có trách nhiệm trả cho bà B số tiền 18.000.000 đồng.
Khi này, Tòa án có thể áp dụng các quy định của Nghị định 19/2019/NĐ-CP để giải quyết
tranh chấp. Do pháp luật không quy định việc chủ hụi tự ý ngưng khui hụi thì hụi viên đã góp
hụi chưa lĩnh hụi được xem là đương nhiên rút khỏi dây hụi và được nhận lại tiền hụi đã góp,
nên trong vụ kiện này, Tòa án đã áp dụng tương tự pháp luật.
Việc bà A yêu cầu bà B, anh C cùng có trách nhiệm trả lại số tiền hụi đã góp cho bà là có căn
cứ đúng với quyền của hụi viên và nghĩa vụ của chủ hụi tham gia hụi hưởng hoa hồng, có lãi
được quy định tại khoản 3 Điều 15 và khoản 8 Điều 18 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP.

3.3. Các trường hợp cần áp dụng pháp luật

- Khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi,
chấm dứt.

+ Đây là trường hợp đã có quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể, nhưng các cá nhân, tổ chức không tự mình làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt
quyền, nghĩa vụ đó. Trong trường hợp này, bằng sự can thiệp của chủ thể có thẩm
quyền, quyền, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức sẽ được phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt trên thực tế. Chẳng hạn, cơ quan có thẩm quyền quyết định công nhận quan
hệ vợ, chồng đối với anh A và chị B; cơ quan có thẩm quyền quyết định khen thưởng
công dân c...

- Khỉ xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lí giữa các bên tham gia quan hệ
pháp luật mà họ không tự giải quyết được

+ Đây là trường hợp quan hệ pháp luật đã phát sinh, các bên có những quyền và nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật, nhưng có sự tranh chấp mà các bên không tự giải
quyết được. Chẳng hạn, tranh chấp về tài sản được thừa kế, tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ trong sử dụng đất đai... Hoạt động áp dụng pháp luật trong trường hợp này
nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể giữa các bên.

- Khi cần phải áp dụng các chế tài pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật.

+ Vi phạm pháp luật là hiện tượng khá phổ biến trong đời sống.

+ Để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; xử lí người vi phạm; răn đe, phòng ngừa đối với
người khác, các chủ thể có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà
nước được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật đối với người vi
phạm. Chẳng hạn, toà án tuyên phạt tù đối với người phạm tội, cảnh sát giao thông xử
phạt tiền đối với người vi phạm pháp luật giao thông...

- Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong các trường hợp khác

+ Trường hợp này không có vi phạm pháp luật, tuy nhiên vì lợi ích chung của cộng
đồng, nhà nước có thể phải can thiệp, tiến hành các biện pháp cưỡng chế, buộc
những chủ thể có liên quan phải thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất
định. Chẳng hạn, cưỡng chế cách ly người mắc bệnh truyền nhiễm; cưỡng chế trưng
thu tài sản; cưỡng chế giải phóng mặt bằng...

- Khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong
một số quan hệ pháp luật nhất định

+ Trong một số trường hợp, pháp luật quy định, chủ thể có thẩm quyền phải tham gia
vào quan hệ pháp luật để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên nhằm xác định tính
đúng đắn trong hoạt động của các chủ thể hoặc phát hiện những sai sót, vi phạm để
kịp thời ra quyết định phù hợp đảm bảo sự đúng đắn trong hoạt động của các chủ thể
này.

- Khi cần phải xác định sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự kiện thực tế nào đỏ
theo quy định của pháp luật

+ Hoạt động áp dụng pháp luật trong trường hợp này được tiến hành khi trong thực tế
xảy ra những sự kiện nào đó, tuy nhiên theo quy định của pháp luật, cần phải có sự
xác nhận của chủ thể có thẩm quyền để biến nó thành sự kiện pháp lý. Chẳng hạn, cơ
quan có thẩm quyền công nhận một người nào đó đã chết hoặc mất tích.

https://hocluat.vn/bai-tap-xac-dinh-cau-truc-quy-pham-phap-luat-va-phan-tich-thanh-
phan-cua-quan-he-phap-luat/

4. Vi phạm pháp luật (khái niệm, dấu hiệu, các yếu tố cấu thành của VPPL: mặt
khách quan, mặt chủ quan, chủ thể, khách thể của VPPL).

3. Vi phạm pháp luật

3.1. Khái niệm và dấu hiệu của vi phạm pháp luật

Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp
luật xác lập và bảo vệ do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý.

Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội có những dấu hiệu cơ bản sau:

- VPPL luôn là hành vi (hành động hoặc không hành động) xác định của con người.

Chỉ những hành vi (biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động) cụ thể mới bị coi
là những hành vi vi phạm pháp luật; những ý nghĩ dù tốt, dù xấu cũng không thể coi là những
vi phạm pháp luật.

- VPPL là hành vi trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

Hành vi thể hiện sự chống đối những quy định chung của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ
xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với
những quy định của pháp luật như không thực hiện những nghĩa vụ pháp lý, sử dụng quyền
hạn vượt quá giới hạn pháp luật cho phép,... Tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu
của hành vi bị coi là vi phạm pháp luật.

- VPPL là hành vi có lỗi.

Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi. Để xác định hành vi vi
phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, nghĩa là phải xác định trạng thái
tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật
được thực hiện do những hoàn cảnh và điều kiện khách quan, chủ thể hành vi đó không cố ý
và không vô ý thực hiện hoặc không thể ý thức được, từ đó không thể lựa chọn cách xử sự
theo yêu cầu của pháp luật thì hành vi đó không thể coi là có lỗi và chủ thể không bị coi là vi
phạm pháp luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực hiện trong
điều kiện không có tự do ý chí thì cũng không bị coi là có lỗi.
- Chủ thể thực hiện hành VPPL phải có năng lực trách nhiệm pháp lý.

Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ pháp lý chỉ quy định đối với
những người có khả năng tự lựa chọn cách xử sự và có tự do ý chí, nói một cách khác, người
đó phải có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Những hành vi
mặc dù trái pháp luật nhưng do những người mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình thì không thể coi là vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật của trẻ
em (chưa đến độ tuổi pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm pháp lý) cũng không bị coi là
vi phạm pháp luật. Như vậy, trách nhiệm pháp lý trong pháp luật xã hội chủ nghĩa chỉ quy
định cho những người đã đạt một độ tuỏi nhất định theo quy định của pháp luật, có khả năng
lý trí và tự do ý chí.

- VPPL là hành vi phải bị trừng phạt.

3.2. Cấu thành vi phạm pháp luật

Cấu thành của vi phạm pháp luật là các yếu tố tạo nên một vi phạm pháp luật. Bao
gồm :

- Mặt khách quan của vi phạm pháp luật:

Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên ngoài của vi phạm pháp
luật, gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả thiệt hại cho xã hội, mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả thiệt hại cho xã hội cùng các dấu hiệu khác.

Vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi thể hiện bằng hành động hoặc không hành động.
Không thể coi ý nghĩ, tư tưởng, ý chí của con người là vi phạm pháp luật nếu nó không được
thể hiện thành những hành vi cụ thể. Hành vi để bị coi là nguy hiểm cho xã hội phải là hành
vi trái pháp luật. Tính trái pháp luật được biểu hiện dưới hình thức làm ngược lại điều pháp
luật quy định, thực hiện hành vi vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc làm khác đi so
với yêu cầu của pháp luật.

Hậu quả thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần mà xã hội phải gánh
chịu. Xác định sự thiệt hại của xã hội chính là xác định mức độ nguy hiểm của hành vi trái
pháp luật.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả thiệt hại cho xã hội được biểu
hiện: sự thiệt hại cho xã hội phải do chính hành vi trái pháp luật nói trên trực tiếp gây ra.
Trong trường hợp giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả thiệt hại cho xã hội không có mối
quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại của xã hội không phải do hành vi trái pháp luật trên gây ra
mà có thể do những nguyên nhân khác, trường hợp này không thể bắt chủ thể của hành vi trái
pháp luật phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của họ không
trực tiếp gây ra.
Ngoài ra, trong mặt khách quan còn có các dấu hiệu khác như: thời gian, địa điểm, phương
tiện, công cụ,... vi phạm pháp luật.

- Khách thể của vi phạm pháp luật:

Mọi hành vi trái pháp luật đều xâm hại tới những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh
và bảo vệ. Vì vậy, khách thể của vi phạm pháp luật chính là những quan hệ xã hội ấy. Mức
độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật phụ thuộc vào tính chất của các quan hệ xã hội bị
xâm hại, nói cách khác nó phụ thuộc và tính chất của khách thể.

- Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật:

Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên trong của nó, bao gồm yếu
tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến lỗi là động cơ, mục đích của chủ thể thực hiện vi phạm
pháp luật.

Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình,
cũng như đối với hậu quả của hành vi đó.

Lỗi được thể hiện dưới 2 hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp có
thể là cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin cũng có thể là vô ý do cẩu thả.

Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể vi phạm pháp luật nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do
hành vi của mình gây ra, mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.

Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do
hành vi của mình gây ra, tuy không mong muốn những để mặc cho hậu quả xảy ra.

Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành
vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng điều đó không xảy ra hoặc nếu xảy ra có thể
ngăn chặn được.

Lỗi vô ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm không nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể thấy hoặc cần phải nhận thấy trước.

Động cơ là lý do thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Mục đích là kết quả mà chủ thể muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm.

Trong mặt chủ quan, lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục đích không phải là dấu
hiệu bắt buộc, trong thực tế, nhiều trường hợp vi phạm pháp luật chủ thể thực hiện hành vi
không có mục đích và động cơ.

- Chủ thể vi phạm pháp luật:


Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật. Khi truy cứu trách nhiệm pháp lý nếu chủ thể hành vi trái pháp
luật là cá nhân phải xác định người đó có năng lực trách nhiệm pháp lý ttrong trường hợp đó
hay không, muốn vậy phải xem họ đã đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật phải chịu trách
nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay chưa? Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
trong trường hợp đó như thế nào? Còn đối với chủ thể là tổ chức phải chú ý tới tư cách pháp
nhân hoặc địa vị pháp lý của tổ chức đó.

3.3. Phân loại vi phạm pháp luật

Trong đời sống xã hội tồn tại nhiều những vi phạm, theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội có 4 loại vi phạm pháp luật sau:

- Tội phạm (vi phạm hình sự): là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.

Chủ thể của vi phạm hình sự bao cá nhân và pháp nhân thương mại.

- Vi phạm hành chính: là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính.

Chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ chức.

- Vi phạm dân sự: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi của các cá nhân, tổ chức có năng lực
trách nhiệm dân sự, xâm hại tới các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân được pháp luật bảo vệ.

Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân cũng có thể là tổ chức.

- Vi phạm kỷ luật nhà nước: là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác lập
trật tự trong nội bộ cơ quan, xí nghiệp, trường học,... hay nói cách khác là không thực hiện
đúng kỷ luật lao động, học tập, phục vụ được đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường học đó.

Chủ thể vi phạm kỷ luật có thể là cá nhân, cũng có thể là tập thể và họ phải có quan hệ ràng
buộc với cơ quan, đơn vị, trường học,... nào đó.

5. Trách nhiệm pháp lý

5.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý


- Khái niệm : trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính trừng
phạt của nhà nước) mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện đúng mệnh lệnh
của nhà nước đã quy định trong các quy phạm pháp luật.

- Đặc điểm :

+ Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối
với chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật trong trạng thái có lý trí và tự
do về ý chí. Nói cách khác, chủ thể trách nhiệm pháp lý chỉ có thể là cá nhân hoặc tổ chức có
lỗi khi vi phạm các quy định của pháp luật.

+ Trách nhiệm pháp lý chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến
hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Mỗi loại cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước chỉ có
quyền truy cứu một hoặc một số loại trách nhiệm pháp lý theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật
đã quy định.

+ Trách nhiệm pháp lý liên quan mật thiết tới cưỡng chế nhà nước. Khi vi phạm pháp luật
xảy ra, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp có
tính cưỡng chế khác nhau, nhưng không phải bất cứ biện pháp tác động nào cũng là trách
nhiệm pháp lý. Biện pháp trách nhiệm pháp lý chỉ là những biện pháp có tính chất trừng phạt,
làm thiệt hại hoặc tước đoạt ở một phạm vi nào đó các quyền tự do, lợi ích hợp pháp mà chủ
thể vi phạm pháp luật trong điều kiện bình thường đáng ra được hưởng.

+ Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định có hiệu lực pháp luật của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

+ Trách nhiệm pháp lý là sự lên án của nhà nước và xã hội đối với chủ thể vi phạm pháp luật,
là sự phản ứng của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật.

Tóm lại, trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước (thông qua
cơ quan nhà nước có thẩm quyền) và chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó nhà nước (thông
qua cơ quan có thẩm quyền) có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng
phạt được quy định ở chế tài quy phạm pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp luật và chủ
thể đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần do hành vi của mình gây ra.

4.2. Các loại trách nhiệm pháp lý

Tương ứng với các dạng vi phạm pháp luật là các dạng trách nhiệm pháp lý. Thông thường,
trách nhiệm pháp lý được phân loại như sau:

Cách phân loại dựa vào các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng trách nhiệm pháp lý
phân thành: trách nhiệm do Tòa án áp dụng và trách nhiệm do cơ quan quản lý nhà nước áp
dụng.
Cách phân loại dựa vào mối quan hệ của trách nhiệm pháp lý với các ngành luật, ta có trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm
vật chất.

- Trách nhiệm hình sự được Tòa án áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội được
quy định trong Bộ luật hình sự, chế tài trách nhiệm hình sự là nghiêm khắc nhất (đó là hình
phạt: tù có thời hạn, tù trung thân hoặc tử hình,…).

- Trách nhiệm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước hay nhà chức trách có
thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm hành chính.

- Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do Tòa án áp dụng đối với các chủ thể vi
phạm pháp luật dân sự.

- Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với chủ thể vi phạm kỷ luật, do
thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tiến hành.

- Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, đơn vị,... áp dụng đối với
cán bộ, công chức, công nhân, người lao động... của cơ quan, đơn vị mình trong trường hợp
họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, đơn vị.

5. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự , Luật Hôn nhân và Gia đình
5.1 Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự
Căn cứ theo điều 1 bộ luật hình sự: Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn
mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân
và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình
đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (gọi chung là quan hệ dân
sự)
5.2 Đối tượng điều chỉnh của Luật hôn nhân và Gia đình
https://datafiles.chinhphu.vn/cpp/files/vbpq/2014/08/52_honnhan_gd.signed.pdf
Điều 1 quy định chung của luật hôn nhân gia đình, Luật số 52/2014/QH13 của
Quốc hội: Bộ luật Hôn nhân gia đình quy định chế độ hôn nhân và gia đình, chuẩn
mực pháp lý cho các ứng xử giữa các thành viên trong gia đình; trách nhiệm của cá
nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và
gia đình
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cụ thể là các quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài
sản phát sinh giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa những người thân thích ruột thịt
khác.

Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình có các đặc điểm sau:
- Quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết định trong các quan hệ hôn
nhân và gia đình.

- Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là đặc điểm cơ bản trong quan hệ hôn nhân và gia
đình.

- Quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình gắn liền với nhân thân mỗi chủ thể, không thể
chuyển giao cho người khác được.

- Quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân và gia đình tồn tại lâu dài, bền vững.

- Quyền và nghĩa vụ tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình không mang tính chất đền bù,
ngang giá

6. Điều kiện kết hôn, chấm dứt


7. Hệ thống hình phạt theo Bộ luật Hình sự VN hiện hành
chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung ( điều 32, 33 bộ luật hình sự)

You might also like