Professional Documents
Culture Documents
Giải Phẫu tuyến nội tiết
Giải Phẫu tuyến nội tiết
TUYẾN YÊN
Tuyến yên có hình quả táo, đường kính khoảng 1 – 1,5cm, nằm ở hố yên trên
xương bướm và dính vào vùng hạ đồi bởi một cuống gọi là phễu. Tuyến yên có hai
phần khác nhau về giải phẫu, chức năng và nguồn gốc phát triển phôi thai.
Tuyến yên trước gọi là tuyến yên tuyến hay thùy trước tuyến yên, chiếm 75%
trọng lượng của tuyến.
Tuyến yên sau, gọi là tuyến yên thần kinh hay thùy sau tuyến yên.
Một phần thứ ba của tuyến gọi là phần trung gian đã teo đi trong quá trình phát
triển phôi thai và ngừng tồn tại như một thùy riêng ở người lớn.
Thiết đồ cắt đứng dọc qua sọ não
(nguồn: Netter FH, Atlas Giải Phẫu người)
Tuyến yên
(nguồn: Netter FH, Atlas Giải Phẫu người)
TUYẾN GIÁP
1. Vị trí, hình thể ngoài
Tuyến giáp là tuyến nội tiết lớn nhất cơ thể, nằm ở trước cổ, áp sát vào các vòng
sụn khí quản, hai bên thanh quản, ngang mức với các đốt sống cổ 5, 6, 7 và đốt sống
ngực 1. Tuyến giáp có màu nâu đỏ, nặng khoảng 25g, tuy nhiên rất thay đổi, tuyến
giáp của phụ nữ thường lớn hơn của nam giới, và to lên trong thời kỳ kinh nguyệt
và thai nghén.
Tuyến giáp có hai thùy phải và trái, hai thùy nối với nhau bởi eo tuyến giáp,
thường ở ngang mức sụn khí quản thứ 2 và 3. Mỗi thùy bên tuyến giáp dài 5 – 8cm,
rộng 2- 4cm, dày 1,25cm. Đôi khi có một phần tuyến giáp hình tam giác kéo dài từ
bờ trên eo tuyến giáp.
2. Liên quan
2.1. Tuyến thượng thận phải
Mặt trước hướng ra ngoài, có một diện hẹp thẳng đứng hướng vào trong nằm
sau tĩnh mạch chủ dưới và một diện ngoài hình tam giác giáp với gan, phần trên áp
trực tiếp vào vùng trần của gan, phần dưới có phúc mạc phủ lật xuống từ lá dưới dây
chằng vành. Giữa diện trong và diện ngoài có rốn tuyến, từ đó thoát ra tĩnh mạch
thượng thận phải đổ vào tĩnh mạch chủ dưới.
Mặt sau có một nếp cong chia làm hai phần, phần trên hơi lồi áp sát vào cơ
hoành, phần dưới hẹp, lõm áp vào cực trên và một phần mặt trước thận phải.
Mặt thận hẹp, úp lên cực trên và một phần mặt trước thận phải.
Bờ trong mỏng, liên quan với tĩnh mạch chủ dưới và hạch bụng phải.
Bờ trên áp sát vào vùng trần của gan và liên quan với động mạch hoành dưới
phải.
2.2. Tuyến thượng thận trái
Tuyến thượng thận trái có hình bán nguyệt.
Mặt trước có hai diện: diện trên được phủ bởi phúc mạc của túi mạc nối, ngăn
cách nó với đầu tâm vị dạ dày; diện dưới không có phúc mạc phủ mà liên quan trực
tiếp với tụy và động mạch lách. Rốn tuyến quay về phía trước dưới, từ đó thoát ra
tĩnh mạch thượng thận trái đổ vào tĩnh mạch thận trái.
Mặt sau giáp với trụ trái cơ hoành
Mặt thận lõm úp vào bờ trong cực trên thận trái.
Bờ trong lồi liên quan với hạch bụng trái
Bờ trên là một đường cong liên tiếp với bờ trong, liên quan ở trên với các động
mạch hoành dưới trái và động mạch vị trái.
3. Cấu tạo
Nếu cắt ngang tuyến, nhìn bằng mắt thường cũng có thể nhìn thấy tuyến gồm
một phần ngoài gọi là vỏ, màu vàng, tạo nên khối chính của tuyến, và một phần ở
trong mỏng gọi là tủy, chỉ gồm 1/10 của toàn tuyến, màu đỏ sẫm hoặc xám tùy theo
lượng máu chứa bên trong. Tủy được hoàn toàn bọc bởi vỏ tuyến trừ rốn tuyến.
Tuyến được bọc trong một bao sợi keo dày, từ đó có những bè ăn sâu vào trong vỏ
ở độ dày thay đổi, bao chứa một đám rối động mạch phòng phú phân nhánh vào
trong tuyến.
4. Mạch và thần kinh
4.1. Động mạch
Các tuyến thượng thận là những tuyến nội tiết nên được cấp máu rất phong phú. Cấp
máu cho tuyến có nhiều biến đổi giải phẫu, có loại động mạch cấp máu cho tuyến:
- Các động mạch thượng thận trên: gồm 6 – 8 nhánh, tách ra từ động mạch
hoành dưới, chủ yếu từ các ngành sau của nó. Các nhánh này có thể đi thẳng
xuống bờ trên tuyến như hình răng lược, một số có thể tiếp tục phân nhánh
trước khi chui vào tuyến, một hoặc một vài nhánh ở ngoài cùng tận hết ở mỡ
cạnh thận.
- Động mạch thượng thận giữa: gồm một hoặc vài nhánh, tách từ động mạch
chủ bụng ở trên mức hay ngang mức động mạch thận, chạy ngang tới phía
trong tuyến chia thành nhiều nhánh tới mặt trước trong tuyến và nối tiếp với
các động mạch thượng thận trên và dưới.
- Động mạch thượng thận dưới tách ra từ động mạch thận, đi lên trên và ra ngoài
dọc bờ thận của tuyến và cho nhiều nhánh chui vào mặt dưới tuyến.
Động mạch thượng thận phải và trái
(nguồn: Gray anatomy)
Ba động mạch trên cho nhiều nhánh vào tuyến, trong đó động mạch thượng
thận trên cấp máu chính cho tuyến, nó tương đương với sự đóng góp phối hợp của
cả hai động mạch thượng thận giữa và dưới. Ngoài ra còn cho nhiều nhánh nhỏ vào
bao mỡ quanh thận, đám rối thần kinh và hạch quanh thận.
Thường có một vòng mạch quanh thận – thượng thận, tạo nên bởi sự tiếp nối
giữa các nhánh bên của động mạch thượng thận ở trên với động amchj thận, gian
sườn, thắt lưng và các động mạch khác ở dưới.
4.2. Tĩnh mạch
Tĩnh mạch thượng thận nhỏ,tương ứng với các động mạch đi theo động mạch
tới tuyến.
Dẫn lưu tĩnh mạch chính là do tĩnh mạch thượng thận lớn nhất gọi là tĩnh mạch
trung tâm thoát ra từ rốn tuyến ở mặt trước tuyến. Ở bên trái nó thường hợp với tĩnh
mạch hoành dưới để đổ vào tĩnh mạch thận, còn ở bên phải nó thường đổ vào tĩnh
mạch chủ dưới.
4.3. Thần kinh
Tuyến thượng thận được chi phối bởi nhiều nhánh thần kinh nhỏ đi từ đám rối
bụng và từ dây thần kinh tạng lớn.