ruộng" với nội dung giống như việc cầm cố tài sản. Cả hai bên đều thừa nhận là cầm cố sử dụng đất" là đúng, nhưng lại xác định giao dịch thục đất nêu trên là trái pháp luật và
Tóm tắt quyết định số 05/2018/DS-GĐT : Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H và
bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim L – con của cụ Nguyễn Thanh T. Đầu năm 1976, cụ T được Quân đội cấp phép sở hữu, sử dụng căn nhà số 63 nhưng sau khi chết không để lại di chúc, có lập giấy ủy quyền cho bà L trọn quyền giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với căn nhà trên. Bà L đã mua hóa giá căn nhà trên sau khi có sự đồng ý của tòan bộ các con cụ. Tuy nhiên sau đó bà L đã cho thuê mà không bàn bạc với con cụ T. Bà H khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung là ngôi nhà trên theo biên bản thoả thuận của Thanh tra Bộ Quốc phòng. Tại Bản án phúc thẩm, Tòa án xác định căn nhà trên thuộc quyền sở hữu của bà L và chồng. Bà H đề nghị giám đốc thẩm bản án. Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh nhận định Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ chế độ mua nhà của bà L và nhận định sai giấy ủy quyền của cụ T, quyết định hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại. 12) Quyền tài sản là gì ? => Theo Điều 115 BLDS 2015 Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. 13) Không có quy nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản. Căn cứ theo Điều 115 BLDS 2015 Quyền tài sản chỉ mang duy nhất một đặc điểm “ quyền trị giá được bằng tiền” - tức là bất kỳ quyền nào đem lại giá trị kinh tế cho con người sẽ được coi là quyền tài sản.Theo BLDS 2015 thì bản chất của quyền tài sản chỉ cần nhìn nhận ở góc độ giá trị kinh tế của nó, tức là trị giá được bằng tiền, việc có được chuyển giao hay không được chuyển giao trong giao dịch dân sự chỉ nhằm mục đích xác định những quyền tài sản nào sẽ là đối tượng của các giao dịch dân sự chứ đó không phải là đặc điểm của quyền tài sản. 14) Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản? => Theo đoạn nhận định số (1) cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản : “ .....Theo quy định tại Điều 118 và Điều 634 BLDS 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T....”. 15) Bộ luật Dân sự qua các thời kỳ đều có quy định khẳng định “quyền tài sản” là một loại “tài sản” (căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015) và đưa ra định nghĩa “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền” (căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015), có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, quyền tài sản bao gồm những quyền gì thì pháp luật dân sự nói chung mới liệt kê một số loại quyền cụ thể như quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ, quyền sở hữu trí tuệ,... Để có cơ sở xác định quyền mua nhà thuộc sở hữu của nhà nước có phải là quyền tài sản hay không thì phải căn cứ vào định nghĩa là quyền đó có giá trị được bằng tiền hay không. Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã chỉ ra rằng quyền thuê, quyền mua hóa giá nhà cũng là loại quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và có thể được chuyển giao cho các thừa kế. Từ đó có thể suy ra có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về những quy định của pháp luật và tạo điều kiện áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Vì vậy theo em hướng giải quyết của Tòa án trong việc đưa ra lập luận là hoàn toàn hợp lý.
ruộng" với nội dung giống như việc cầm cố tài sản. Cả hai bên đều thừa nhận là cầm cố sử dụng đất" là đúng, nhưng lại xác định giao dịch thục đất nêu trên là trái pháp luật và