Professional Documents
Culture Documents
Thực tiễn KTCT 3
Thực tiễn KTCT 3
Thực tiễn KTCT 3
1. Đặt vấn đề
Nhìn lại quá trình phát triển, kinh tế số đã được áp dụng ở Việt Nam từ khi có máy
tính, đặc biệt là khi máy tính cá nhân được sử dụng vào cuối những năm 1980. Đến
cuối những năm 1990, khi Việt Nam sử dụng internet, kinh tế số càng có điều kiện
phát triển. Đặc biệt, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư kể
từ cuối những năm 2010, việc áp dụng kinh tế số ngày càng rộng rãi và được phổ
cập. Trong 10 năm gần đây, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả
hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh.
Năm 2017, số người sử dụng internet ở Việt Nam là 64 triệu người, bằng xấp xỉ
67% dân số và tăng gấp 3,6 lần so với 10 năm trước. Thương mại điện tử (TMĐT)
là một cấu phần trọng yếu nhất của kinh tế số đã tăng trưởng vượt bậc về doanh thu
và quy mô thị trường (năm 2018 doanh thu của ngành TMĐT Việt Nam đạt
khoảng 8 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 30% và cao gấp 1,6 lần so với năm 2016).
Kinh tế số đã và đang là lĩnh vực hấp dẫn nguồn vốn đầu tư phát triển doanh
nghiệp khởi nghiệp. Lượng vốn đổ vào các startup Việt đã tăng 4,3 lần trong 3 năm
qua (từ 205 triệu USD năm 2016 lên 889 triệu USD năm 2018).
Trong sự phát triển của kinh tế số, ngành TMĐT Việt Nam cũng có bước phát triển
khởi sắc và ngày càng trở nên phổ biến hơn. Năm 2020. Quy mô của TMĐT cả
nước đã lên tới 13 tỷ USD. Sự bứt phá của TMĐT đã đưa Việt Nam trở thành một
trong những thị trường tiềm năng nhất khu vực ASEAN [1]. Sự phát triển nhanh
chóng của thương mại điện tử đã ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng trong tạo việc
làm, tăng tính hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia, thúc
đẩy lưu thông hàng hóa, dịch vụ, phân bổ các nguồn lực, thúc đẩy phát triển sản
xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy tăng trưởng của
nền kinh tế và tăng thu nhập cho doanh nghiệp và cho người dân.
Để phát triển nền kinh tế số, thời gian qua, Việt Nam đã coi trọng việc đẩy mạnh
ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt,
nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư. Để biến khả năng thành hiện thực, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-
TTg, ngày 04/5/2017 về Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và Quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 12/8/2019, Phê duyệt Đề án
thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Nhiều ngành, địa phương đã có những đề án triển
khai thực hiện. Tuy nhiên, để phát triển nền kinh tế số, Việt Nam vẫn đang phải đối
mặt với không ít thách thức với các áp lực từ nhận thức đến các nguồn lực (nhân
lực, vốn và tri thức, công nghệ), áp lực từ kết cấu hạ tầng về thông tin và hệ thống
sáng tạo và áp lực từ môi trường pháp lý.
Trên thực tế, mức độ chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở
Việt Nam còn thấp, chính sách còn một số hạn chế, cơ cấu và chất lượng nguồn
nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
chưa thực sự là động lực phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống đổi mới sáng tạo quốc
gia mới được hình thành, chưa đồng bộ và hiệu quả. Quá trình chuyển đổi số quốc
gia còn chậm, thiếu chủ động do hạ tầng phục vụ quá trình chuyển đổi số còn
nhiều hạn chế, nhiều doanh nghiệp còn bị động, năng lực tiếp cận, ứng dụng, phát
triển công nghệ hiện đại còn thấp. Nhìn chung, quy mô kinh tế số còn nhỏ.
Để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, ngày 27/9/2019 Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong đó khẳng định quan điểm chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược
đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội, gắn chặt với những giải pháp đột phá và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt
Nam phát triển hơn nữa kinh tế - xã hội.
2. Những gợi mở kinh tế chính trị trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam
Một là, ứng dụng công nghệ số thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại, qua đó giải phóng sức sản xuất làm tăng năng suất lao động
Sự phát triển của công nghệ số và ứng dụng công nghệ số vào sản xuất kinh doanh
đã tạo ra hàng loạt ngành nghề mới có giá trị gia tăng cao, như: công nghệ thông
tin (CNTT), logictics, thương mại điện tử, thanh toán trực truyến, nông nghiệp
thông minh, công nghiệp thông minh,... Nhờ đó, nền kinh tế được chuyển dịch theo
hướng hiện đại, tạo cơ hội chuyển nhanh mô hình tăng trưởng từ dựa trên khai thác
tài nguyên, công nghệ thấp, lao động giá rẻ sang tăng trưởng dựa trên công nghệ
cao, công nghệ số và đổi mới sáng tạo. Sự chuyển dịch theo hướng này đã làm sức
sản xuất được nâng cao, nên năng suất lao động xã hội sẽ tăng lên.
Các nhà nghiên cứu kinh tế đã chỉ ra, do các doanh nghiệp dựa trên công nghệ số
có chi phí biên gần bằng 0 (không), nên 1 sản phẩm hàng hóa được tạo ra chỉ cần
sử dụng rất ít nhân công so với 10 hay 15 năm trước. Ngoài ra, công nghệ số còn
tạo ra sự lan truyền tri thức lớn hơn tất cả các công nghệ khác. Chẳng hạn, công
nghệ không dây tạo ra sự lan truyền kiến thức cao hơn 50% các công nghệ khác.
Việc lan tỏa kiến thức là cơ sở quan trọng trong đổi mới, sáng tạo và tăng năng
suất lao động xã hội.
Hai là, nền kinh tế số làm thay đổi cách thức tạo ra năng suất lao động, tăng năng
suất dựa trên nền tảng công nghệ cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với công nghệ số là nền tảng đã kết hợp
giữa hệ thống thực và ảo, IoT và các hệ thống kết nối internet làm thay đổi căn bản
cách thức con người tạo ra sản phẩm, từ đó tạo nên cách mạng về tổ chức các
chuỗi sản xuất - giá trị. Hiện nay, ứng dụng công nghệ số vào sản xuất kinh doanh,
quản lý đã làm xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh hoàn toàn mới trong tất cả các
lĩnh vực của nền kinh tế, như: gọi xe công nghệ, truyền thông toàn cầu, thương mại
điện tử, nông nghiệp thông minh, logictics, giao dịch trực tuyến, giáo dục, y tế trực
tuyến,… Các mô hình kinh doanh dựa trên công nghệ số đã phá bỏ giới hạn về vật
chất của quá trình phát triển, tạo ra quy mô và tốc độ phát tiển nhanh và mạnh chưa
từng có trong lịch sử kinh tế thế giới.
Nếu như trước đây, tăng năng suất dựa vào tăng quy mô vốn, tăng lao động thì
ngày nay việc phát triển công nghệ số và ứng dụng nó đã làm thay đổi cách thức
tăng năng suất - tăng năng suất dựa trên nền tảng công nghệ cao. Công nghệ cao
(công nghệ số) đã làm tăng năng suất lao động lên đáng kể. Nghiên cứu của
Microsoft cho thấy, tác động của chuyển đổi số làm tăng 15% năng suất lao động
xã hội năm 2017 và dự kiến đến năm 2010 là 21%. Vì vậy, để giảm khoảng cách
về năng suất lao động với các nước trong khu vực, Việt Nam cần phải ứng dụng
công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế.
Thứ ba, nền kinh tế số làm tối ưu hóa sử dụng các nguồn lực, gia tăng năng suất
lao động và năng lực nội sinh của nền kinh tế
Nền kinh tế số có đặc điểm là khi kinh tế số được vận hành sẽ làm gia tăng khối
lượng lẫn chủng loại hàng hóa do chi phí tạo ra các sản phẩm lần thứ hai gần như
bằng 0 (không), sản xuất không có đối thủ, chi phí vận chuyển cũng gần như bằng
0 (không)... Vì vậy, khi ứng dụng công nghệ số trong nền kinh tế sẽ dẫn đến hoạt
động kinh tế diễn ra kịp thời, người sản xuất đưa ra các quyết định sản xuất - kinh
doanh đúng lúc, nắm bắt được cơ hội do giảm được thời gian trung gian, nhờ đó,
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có. Công nghệ số phát triển và tận
dụng được công nghệ số giúp các chủ thể kinh tế ở Việt Nam tham gia vào chuỗi
cung ứng toàn cầu thuận tiện với chi phí thấp, nâng cao hiệu quả kinh doanh, mở
rộng thị trường và thị phần.
Bên cạnh đó, công nghệ số tạo điều kiện để các ngành kinh tế Việt Nam đẩy mạnh
cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực kinh tế theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát
triển bền vững, từ đó làm cho hiệu suất kinh tế tăng cao và gia tăng năng lực nội
sinh của nền kinh tế. Ở Việt Nam hiện nay, việc ứng dụng công nghệ số trong
ngành Thuế, Hải quan đã tiết kiệm cho Nhà nước, doanh nghiệp rất nhiều chi phí
cả chính thức và không chính thức; ứng dụng công nghệ số vào phát triển nông
nghiệp đã nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm và ứng phó
với biến đổi khí hậu… Theo dự báo, nếu Việt Nam không chuyển đổi số, năng suất
lao động bình quân trong những năm tới sẽ tăng từ 5 - 6%/năm, còn nếu chuyển
đổi số, năng suất lao động sẽ tăng từ 8 - 10%/năm.
3. Một số nút thắt tác động đến hạn chế phát triển nền kinh tế số ở Việt
Nam và khuyến nghị giải pháp
3.1. Một số nút thắt tác động đến hạn chế phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam
Một là, nhận thức, hiểu biết của các doanh nghiệp và người dân về kinh tế số còn
thấp. Mặc dù kinh tế số có vai trò quan trọng trong nâng cao năng suất lao động,
song hiểu biết của các doanh nghiệp và người dân Việt Nam về kinh tế số còn thấp.
Kết quả khảo sát của Bộ Công Thương cuối năm 2017 cho biết, còn 82% doanh
nghiệp Việt Nam ngoài luồng của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chỉ có
21% trong số đó có những bước đi cụ thể ban đầu. Rào cản này đã làm hạn chế
việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam, nên chưa tạo ra sự đột phá trong nâng cao
năng suất lao động của nước ta.
Hai là, chất lượng nguồn nhân lực, nhất là chất lượng nhân lực phục vụ số hóa
nền kinh tế còn thấp. Nguồn nhân lực là một trong các điều kiện tiên quyết giúp
Việt Nam ứng dụng công nghệ số vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, qua đó
nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay còn thấp. Đến năm 2018, cả nước vẫn còn 77,9% lao động không có
chuyên môn kỹ thuật. Lao động CNTT - lĩnh vực liên quan trực tiếp đến chuyển
đổi số cũng rất thiếu. Thống kê từ TopDev, trang tuyển dụng về công nghệ phần
mềm cho thấy, nhu cầu nhân lực CNTT tăng, nhưng thị trường lao động lĩnh vực
này tại Việt Nam luôn trong tình trạng thiếu hụt về cả số lượng và chất lượng. Năm
2021, số lượng nhân lực CNTT cần là 500.000 người và thiếu hụt 190.000 người.
Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia
chưa sẵn sàng cho nền sản xuất tương lai. Trong đó, chỉ số nhân lực Việt Nam xếp
thứ 70/100, chỉ số lao động có chuyên môn cao xếp thứ 81/100, chất lượng đại học
xếp thứ 75/100, xếp thứ 90/100 về công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các chỉ số này
thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực ASEAN, như: Malaysia (23/100
về công nghệ và đổi mới sáng tạo; 21/100 về nguồn nhân lực); Thái Lan tương tự
(41/100 và 53/100); Philippines (59/100 và 66/100). Như vậy, Việt Nam đang thiếu
đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cũng như lao động chất lượng cao, nhất là
nhân lực liên quan đến lĩnh vực số hóa nền kinh tế. Điều này đã làm hạn chế việc
đưa nhanh số hóa, cũng như ứng dụng tiến bộ công nghệ vào nền kinh tế, nên năng
suất lao động Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực.
Ba là, vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ nói chung và lĩnh vực công nghệ số
nói riêng thấp. Việc đầu tư vào các ngành sử dụng số hóa (ICT, thương mại điện
tử, viễn thông, điện toán đám mây, CNTT,…) đòi hỏi vốn lớn, trong khi nguồn vốn
đầu tư của nền kinh tế thấp, khả năng hấp thụ vốn kém. Đối với đầu tư cho khoa
học và công nghệ nói chung còn ở mức hạn chế, nên kinh tế Việt Nam vẫn cơ bản
là nền kinh tế gia công với trình độ công nghệ thấp. Đối với lĩnh vực liên quan đến
ứng dụng số hóa, giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ đã phê duyệt kinh phí 2.960 tỷ
đồng từ ngân sách, tuy nhiên theo thông báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự kiến
kinh phí cấp chỉ khoảng 884 tỷ đồng, bằng 35% nhu cầu[2]. Vốn đầu tư ít khiến
cho nền kinh tế khó tiếp cận được những cơ hội mang lại từ công nghệ số để thay
đổi cách thức sản xuất dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học công nghệ nên năng suất
lao động của nước ta vẫn thấp.
Bốn là, hạ tầng CNTT - nền tảng của công nghệ số còn nhiều bất cập. Trước hết,
hạ tầng CNTT chưa được đầu tư hoàn chỉnh và đồng bộ ở các địa phương. Việc
phân bổ băng tần viễn thông phục vụ phát triển, hoàn thiện chất lượng dịch vụ 4G,
tiến tới 5G chưa được phổ biến; Hạ tầng viễn thông, CNTT chưa đảm bảo bảo mật
thiết yếu làm tăng nguy cơ bị tấn công mạng. Việt Nam vẫn là một trong những
nước đứng đầu về tỷ lệ lây nhiễm phần mềm độc hại. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ
liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử còn triển khai chậm. Ngày
22/5/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 714 về Danh mục cơ sở dữ
liệu quốc gia cần ưu tiên triển khai, gồm: dân cư, đăng ký doanh nghiệp, đất đai,
tài chính, bảo hiểm. Đến quý II/2021, các cơ quan chức năng đã cập nhật được hơn
1 triệu doanh nghiệp trên cả nước nhưng chưa có cơ chế chia sẻ, sử dụng cho nhiều
hệ thống. Các cơ sở dữ liệu quốc gia về quản lý dân cư, đất đai, tài chính, bảo
hiểm, y tế mới đang trong giai đoạn triển khai, sự tích hợp chung theo hệ thống còn
hạn chế.
Năm là, thể chế cho nền kinh tế số chưa phù hợp. Hệ thống chính sách và khung
khổ pháp lý còn nhiều điểm gây khó khăn cho doanh nghiệp mở rộng, phát triển
kinh doanh. Chính sách thuế doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cung cấp
dịch vụ đang còn nhiều bất cập, một số quy định liên quan đến CNTT, nhân lực để
thực hiện chuyển đổi số, khuyến khích hơn nữa doanh nghiệp khởi nghiệp,… còn
chưa theo kịp với thực tiễn. Chẳng hạn, internet là hạ tầng để triển khai rất nhiều
dịch vụ trong nền kinh tế số, song hiện nay, chi phí vẫn còn cao, do phải chịu tới 3
loại chi phí (phí cung cấp dịch vụ viễn thông; quỹ dịch vụ viễn thông công ích; phí
quyền cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền). Bên cạnh đó là các vấn đề về sở hữu
trí tuệ trên mạng, về đảm bảo an toàn an ninh thông tin mạng, về cơ chế phối hợp
khi xảy ra sự cố công nghệ,... Những nút thắt này đang là rào cản làm cho nền kinh
tế chưa tận dụng được thành quả của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
(trong đó có ứng dụng công nghệ số vào sản xuất - kinh doanh), nên năng suất lao
động chưa cao.