Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


MÔN: Chủ nghĩa xã hội khoa học

ĐỀ BÀI: Phân tích bản chất của nền dân chủ XHCN. Liên hệ với thực tiễn
Việt Nam và hãy cho biết trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc phát huy
dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Họ và tên : Nguyễn Ngọc Hân

Lớp : POHE3 - Truyền thông Marketing 64

Mã sinh viên : 11222048

Hà Nội, 2023
MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................3

B. PHẦN NỘI DUNG............................................................................................4

I. BẢN CHẤT CỦA NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA......................4

1. Bản chất chính trị......................................................................................4

2. Bản chất kinh tế.........................................................................................5

3. Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội.........................................................6

II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.................7

1. Kết quả thực hiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa..............................7

2. Những hạn chế, bất cập cần khắc phục...................................................10

3. Những giải pháp lớn về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa...................11

III. TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM...............................12

1. Đối với môi trường trường học................................................................12

2. Đối với môi trường gia đình và địa phương............................................13

C. PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................14


A. PHẦN MỞ ĐẦU

Có thể nói, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so
với chủ nghĩa tư bản không chỉ ở chỗ xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa
bỏ phân hóa giai cấp, mà về chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vượt qua dân
chủ tư sản, thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Trải qua 90 năm lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta luôn dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
coi đó là mục tiêu và động lực của cách mạng. Đó cũng chính là bài học quý báu
để Đảng ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, để giành hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Bài học đó giữ nguyên giá trị trong quá trình lãnh đạo công cuộc
đổi mới và hội nhập toàn cầu hiện nay. Bài tiểu luận dưới đây sẽ làm rõ bản chất
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực trạng vận dụng ở Việt Nam hiện này và liên
hệ thực tiễn từ chính bản thân em - một người công dân của nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. BẢN CHẤT CỦA NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Như mọi loại hình dân chủ khác, dân chủ vô sản, theo V.I.Lênin, không phải là
chế độ dân chủ cho tất cả mọi người; nó chỉ là dân chủ đối với quần chúng lao
động và bị bóc lột; dân chủ vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số. Rằng,
dân chủ trong chủ nghĩa xã hội bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong
đó dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở; dân chủ đó càng hoàn thiện bao nhiêu,
càng nhanh tới ngày tiêu vong bấy nhiêu. Dân chủ vô sản loại bỏ quyền dân chủ
của tất cả các giai cấp là đối tượng của nhà nước vô sản, nó đưa quảng đại quần
chúng nhân dân lên địa vị của người chủ chân chính của xã hội.
Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hoá của dân chủ, dân chủ xã
hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:
1. Bản chất chính trị
Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công nhân (đảng Mác –
Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện
qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thoả mãn ngày càng cao hơn
các nhu cầu và lợi ích của nhân dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối
với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho
giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể
nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do đảng
Cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân, bởi vì, đảng Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính
nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đảng Cộng
sản đối với toàn xã hội về mọi mặt V.I.Lênin gọi là sự thống trị chính trị.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là những người làm chủ
những quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia
vào bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến
xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước.
Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân chính
là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị. V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ của đại đa số dân cư, của những người lao
động bị bóc lột, là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc
Nhà nước. Với ý nghĩa đó, V.I.Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và
mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân
chủ tư sản”1.
Bàn về quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, Hồ Chí Minh cũng
đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là
của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân2... Chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa do đó về thực chất là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với
các cuộc cách mạng xã hội trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đông,
vì lợi ích của số đông nhân dân. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa (1946) theo Hồ Chí Minh là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do
lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nhà nước, “... hễ là
người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có
quyền đi bầu cử3. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước
chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp
công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp
(giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên;
một đảng hay nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản).
2. Bản chất kinh tế
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu
sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày
càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của
đảng Mác - Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối, phải coi
lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế -
xã hội phát triển.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế
của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng cũng như toàn bộ nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa, nó không hình thành từ “hư vô” theo mong muốn của bất kỳ
ai. Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân
loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm
hãm... của các chế độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lộ,t bất
công... đối với đa số nhân dân.
Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân
phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
3. Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã
hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân
tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân
loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc... Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
nhân dân được làm chủ những giá trị văn hoá tinh thần; được nâng cao trình độ văn
hoá, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một thành tựu
văn hoá, một quá trình sáng tạo văn hoá, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và
phát triển của con người.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa cá
nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức động
viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới.
Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu
được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động
tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ
xã hội chủ nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm vững hệ tư tưởng cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa nó vào quần chúng, Đảng mang lại
cho phong trào quần chúng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình, Đảng nâng
cao trình độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có khả
năng thực hiện hữu hiệu những yêu cầu dân chủ phản ánh đúng quy luật phát triển
xã hội. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân mới đấu tranh có hiệu
quả chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ đi ngược lại lợi ích
của nhân dân.
Với những ý nghĩa như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất nguyên về chính
trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ nhau mà
ngược lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa ra
đời, tồn tại và phát triển.
Với tất cả những đặc trưng đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao
hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự
thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Sau hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn tầm quan
trọng và vai trò của xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định
dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc
đổi mới; đồng thời, nhận thức đầy đủ hơn về tính khách quan thực hiện dân chủ,
nhất là các hình thức dân chủ trực tiếp trong tình hình mới.
1. Kết quả thực hiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã nêu lên bốn bài học lớn, trong đó có bài
học: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(1). Văn
kiện Đại hội nhấn mạnh “xóa bỏ nhận thức sai lầm coi công tác quần chúng chỉ là
biện pháp để tổ chức, động viên nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách.
Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân trên phạm vi
cả nước cũng như ở các địa phương phải trưng cầu ý kiến nhân dân trước khi quyết
định”. Nội dung phát huy dân chủ tiếp tục được Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng từ khóa VII đến khóa X đề cập rõ nét.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) chỉ rõ: “Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân
dân... Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực
tiếp... Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội;
phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân...”(2).
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 1-2016), vấn đề phát
huy dân chủ được khẳng định trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng:
“Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ
mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm
quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các
nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(3)
Về phát huy dân chủ trong Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định: Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho
Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo
đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng.
Đảng ta và Bác Hồ luôn xác định thực hành dân chủ trong Đảng có ý nghĩa
quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cả hệ thống
chính trị gắn với dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội, có dân chủ mới có đồng
thuận xã hội, có đồng thuận xã hội mới tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nội dung phát huy dân chủ được Đảng ta quy định rất rõ, bảo đảm thật sự tự do tư
tưởng trong sinh hoạt đảng, khuyến khích và tôn trọng sự suy nghĩ độc lập, sáng
tạo, thảo luận, tranh luận dân chủ nhằm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, của từng
cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị các nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị
quyết. Trong đại hội đảng các cấp, trong các hội nghị của Đảng, mỗi đảng viên đều
có quyền thảo luận, bàn bạc, tham gia các công việc của Đảng, phê bình, chất vấn
các cán bộ, đảng viên khác, được trình bày hết ý kiến của mình, có quyền bảo lưu ý
kiến hoặc đề xuất ý kiến lên các cơ quan cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng. Các nghị quyết, quyết định của tổ chức đảng được thảo luận tập
thể và biểu quyết theo đa số. Việc bầu cử trong Đảng đều được tiến hành dân chủ
theo nguyên tắc bỏ phiếu kín, không gò ép, áp đặt... Đặc biệt, trong các nhiệm kỳ
gần đây, việc thực hành dân chủ trong Đảng tiếp tục được bổ sung bằng những quy
chế, quy định chặt chẽ hơn, như quy định Bộ Chính trị báo cáo công việc và hoạt
động của mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, ban thường vụ
báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp cấp ủy, cấp ủy báo cáo
trước tổ chức đảng hoặc cơ quan bầu ra mình; quy định thời gian tiến hành tự phê
bình và phê bình, tổ chức quần chúng phê bình và bỏ phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng
viên từ cơ quan cao nhất đến tổ chức cơ sở.
Việc phát huy dân chủ trong các tổ chức nhà nước có nhiều chuyển biến,
tiến bộ. Quốc hội có những đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc hội đến
hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức năng lập
pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc
hội hoạt động ngày càng dân chủ, hiệu quả. Để nâng cao chất lượng các văn bản
pháp luật, Quốc hội đã có nhiều hình thức để lấy ý kiến góp ý, như tổ chức hội
thảo, tọa đàm, phát phiếu...
Trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội đều tổ chức tiếp xúc cử tri để nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri cả nước. Sau tiếp xúc đều tổng hợp, phân
tích những kiến nghị xác đáng để yêu cầu Chính phủ chỉ đạo giải quyết theo thẩm
quyền. Nhiều khóa gần đây, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp
của Quốc hội, hội đồng nhân dân thật sự sôi nổi, dân chủ, phát huy được trách
nhiệm của đại biểu, được nhân dân cả nước ghi nhận. Định kỳ, Quốc hội, hội đồng
nhân dân tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội, hội đồng
nhân dân bầu bằng hình thức bỏ phiếu kín. Phát huy dân chủ của Chính phủ tiếp
tục có những đổi mới trong hoạch định chính sách, quản lý vĩ mô, chỉ đạo điều
hành tổ chức thực hiện. Ý thức, trách nhiệm thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ
trương, nghị quyết của Đảng thành các văn bản pháp luật được đề cao. Đặc biệt,
chính quyền các cấp đã có nhiều tiến bộ trong tổ chức tiếp dân, đối thoại với công
dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Đối với công tác tổ chức
cán bộ diện quản lý theo phân cấp của Đảng đều được tập thể ban cán sự đảng thảo
luận dân chủ, bỏ phiếu kín và quyết định theo đa số. Các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp đều tạo điều kiện và phát huy chức năng tuyên truyền, định hướng
dư luận của các phương tiện truyền thông, như báo viết, báo nói, báo hình, báo
mạng...
Phát huy dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội cũng có nhiều tiến bộ
rõ, thể chế thực thi các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và cụ
thể hóa. Nhiều văn bản tạo cơ sở pháp lý phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp
nhân dân được Quốc hội thông qua, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật
Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Trưng cầu ý dân... Những bảo đảm dân chủ về
quyền và nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội được luật hóa
cụ thể hơn và từng bước thực hiện có kết quả; nhiều chủ trương, biện pháp đã phát
huy vai trò tích cực, chủ động của nhân dân, đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa xã
hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 34/PT/UBTVQH, ngày
20-4-2007, “Về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Nghị định số
04/NĐ/CP, ngày 24-1-2013, “Về thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập”, Nghị định số 60/NĐ-CP, ngày 19-
6-2013, “Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc” đã góp phần tích cực vào quá trình phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội đang tích cực thực hiện chức năng giám sát, phản biện
xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Trước các kỳ họp Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã tập hợp khá đầy đủ các kiến nghị của các tổ chức thành viên, ý kiến của cử
tri cả nước để phản ánh đến Quốc hội; hội đồng nhân dân các cấp đã thường xuyên
giám sát chính quyền trong việc tiếp thu và giải quyết các kiến nghị chính đáng của
đoàn viên, hội viên, cử tri.
2. Những hạn chế, bất cập cần khắc phục
Bên cạnh những ưu điểm, việc thực hiện phát huy dân chủ cũng còn nhiều
hạn chế, bất cập. Nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều
vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật,
kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp. Hiện
nay, vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức về dân chủ còn
phiến diện, nhất là thực hành dân chủ trong Đảng. Có người cho rằng dân chủ
trong Đảng thì đảng viên được tự do phát ngôn và tuyên truyền trên các phương
tiện thông tin đại chúng quan điểm riêng của mình. Cá biệt, có người còn muốn tổ
chức đảng chỉ như “câu lạc bộ”, được tranh luận, bàn cãi bất kỳ vấn đề gì, không
tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Ngược lại, có một bộ phận đảng viên lại
hiểu dân chủ trong Đảng một cách cứng nhắc, coi dân chủ như là phương tiện để
đạt đến sự tập trung, không muốn đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới độc lập suy
nghĩ, tìm tòi khoa học, đồng nhất khoa học với chính trị, đồng nhất ý kiến nghiên
cứu, trao đổi với quan điểm, đường lối của Đảng. Một số người đối lập dân chủ với
tập trung, tách rời việc phát huy sáng kiến, sáng tạo của đảng viên với việc thực
hiện kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, để phát huy sáng kiến và tư duy độc lập của cán bộ,
đảng viên cần có quy định về chế độ cung cấp, cập nhật thông tin thường xuyên
cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm quyền được thông tin của đảng viên. Là Đảng duy
nhất cầm quyền, một số cán bộ, đảng viên không nhận thức đầy đủ nguyên tắc tập
trung dân chủ đã dẫn đến lạm quyền, bao biện, làm thay, độc đoán, gia trưởng, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đã có nhiều hình thức,
phương pháp tổ chức lấy ý kiến nhân dân, nhất là ý kiến của đội ngũ chuyên gia,
các nhà khoa học khi xây dựng văn bản pháp luật và một số đề án quan trọng khác,
nhưng có một số đề án chưa làm tốt việc đó dẫn đến chất lượng văn bản pháp luật
không cao, chưa được Quốc hội thông qua, như Đề án xây dựng đường sắt cao tốc
Bắc - Nam, ba đặc khu kinh tế... Một số văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý phát
huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân chưa được xây dựng kịp thời, như
Luật Giám sát và phản biện xã hội. Một số luật đã được ban hành, như Luật Trưng
cầu ý dân là văn bản pháp luật quan trọng để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của
mình trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường
đoàn kết và đồng thuận xã hội có hiệu lực từ ngày 1-7-2016, nhưng đến nay vẫn
chưa được tổ chức triển khai thực hiện rộng rãi. Một số cơ quan hành chính nhà
nước, chính quyền các cấp tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật chưa tốt, như
trên các lĩnh vực quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên,
khoáng sản, đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức tái định cư...
Việc phát huy dân chủ ngoài xã hội còn nhiều hạn chế, một bộ phận nhân
dân còn bức xúc, khiếu kiện phức tạp. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công
dân gửi đến các cơ quan chức năng, như Ban Dân nguyện của Quốc hội, Thanh tra
Chính phủ còn rất cao, nhưng tỷ lệ đơn, thư được giải quyết chưa được như mong
muốn. Theo số liệu của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tỷ lệ chính quyền không đối
thoại với công dân và không dự các phiên tòa đều tăng qua từng năm. Từ năm
2015 đến 2017, kể từ khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, cả nước có 11.180
quyết định hành chính và hành vi hành chính bị tòa án hủy toàn bộ hoặc một phần.
Các nghị định và pháp lệnh về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại một số nơi
chưa được tổ chức thực hiện tốt. Những hạn chế, bất cập trên đây có cả nguyên
nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Về
khách quan: Đổi mới là sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài và khó khăn, phức tạp,
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá của các
thế lực thù địch tác động khá lớn vào quá trình phát huy dân chủ. Về chủ
quan: Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thực hiện dân chủ trong
Đảng, trong các cơ quan nhà nước và ngoài xã hội chưa được quan tâm đúng mức,
chậm được lý giải và thể chế hóa đầy đủ về mặt nhà nước.
3. Những giải pháp lớn về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng
- Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về
phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng, củng
cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy vai
trò, vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để thực
hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề liên
quan đến phát huy dân chủ, đến quyền và lợi ích của các thành viên, đoàn
viên, hội viên.
- Phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy; chính quyền các
cấp và các cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị về phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về phát huy dân chủ, tạo sự chuyển biến về nhận thức trong các tầng
lớp nhân dân.
III. TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Trong quá trình sống và học tập, bản thân em đã và đang cố gắng phát huy
những quyền dân chủ của mình và tôn trọng quyền dân chủ của mọi người xung
quanh. Việc thực hiện quyền dân chủ của chính chúng ta sẽ thúc đẩy sự sáng tạo,
dám nói dám làm, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy xã hội, đất nước phát
triển và tiến bộ hơn. Việc tôn trọng quyền dân chủ của mọi người cũng chính là tôn
trọng quyền dân chủ của chính chúng ta. Mỗi công dân là một hạt giống của xã hội,
mỗi người đều có nghĩa vụ và trách nhiệm khiến xã hội trở nên tốt đẹp hơn bao giờ
hết. Phát huy quyền dân chủ là tiếp sức cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Chính vì thế, là một sinh viên, một người con của
đất nước Việt Nam, em đang trong quá trình thực hiện quyền dân chủ của mình từ
những công việc nhỏ nhất trong các tổ chức, xã hội mà em đã và đang tham gia.
1. Đối với môi trường trường học
Từ những năm cấp 3, quyền dân chủ của em ngày càng được thể hiện rõ trong
quá trình học và tham gia các hoạt động ngoại khoá, cụ thể:
- Trong những năm công tác tại trường Trung học phổ thông Chuyên Lam
Sơn, mỗi tháng, chúng em đều được viết thư góp ý về cách dạy học và tổ
chức của các thầy cô trong trường và được nêu ra những góp ý thay đổi.
Điều này có tầm quan trọng trong quá trình tiến bộ của chúng em, những ý
kiến của chúng em luôn được lắng nghe, góp ý và cân nhắc bởi các thầy cô
trong trường.
- Không những vậy, vào mỗi kì họp đại hội Đoàn đại diện cho lớp mình,
chúng em cũng được đứng lên trên sân khấu, bày tỏ về những thực trạng, bất
cập mà chúng em gặp phải trong quá trình học tập tại trường. Chúng em
được nêu lên tiếng nói của chính mình trong buổi họp quan trọng của các
học sinh trong trường. Và các thầy cô đã tiếp thu, cân nhắc, thay đổi để cho
chúng em một trải nghiệm học tập tốt nhất ở trường.
- Trong quá trình tham gia các Câu lạc bộ trong trường, chúng em luôn được
khuyến khích để nêu ra những ý tưởng cá nhân, góp phần vào nội dung bài
đăng trên Fanpage Câu lạc bộ, hay đó là cách thức tổ chức và vận hành Câu
lạc bộ làm sao để hiệu quả và ngày càng phát triển hơn. Đó cũng là khi các
anh chị đứng đầu Câu lạc bộ luôn luôn tôn trọng sự khác biệt trong mỗi
thành viên và lắng nghe cảm nghĩ của mỗi cá nhân sau một thời gian đóng
góp cho Câu lạc bộ.
- Khi lên Đại học, là một sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, em
càng ý thức hơn về quyền dân chủ của mình, vì nó là bệ phóng cho sự phát
triển của chính em và đất nước Việt Nam sau này. Chúng em luôn được
khuyến khích trình bày ý kiến của mình trước toàn tập thể lớp và giảng viên.
Đó là khi ý kiến không phải là sai hay đúng, mà là mỗi ý kiến là một cách
nhìn nhận về một vấn đề trong cuộc sống và mỗi cá nhân phải tôn trọng cách
nhìn của mỗi cá thể.
- Mỗi lần có những thông báo gì về các sự kiện hay của trường học, chúng em
đều được phổ biến một cách đầy đủ bởi các bạn cán bộ lớp và giáo viên chủ
nhiệm. Cùng với đó là được quyền thắc mắc và trao đổi với các bạn cán bộ
lớp hay giáo viên nếu gặp bất cập gì trong việc tiếp nhận thông tin.
- Trong một tập thể lớp có 69 người với 69 cá tính khác nhau, chúng em vẫn
luôn có những sự cãi vã, tuy nhiên với thế hệ Gen Z chúng em, chúng em
vẫn luôn ý thức được cao độ việc phải lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
người khác, chúng em không áp đặt ý kiến của mình lên người khác và luôn
thực hiện hành động dân chủ nhất để quyết định một công việc gì đó.
- Em cũng luôn tuân thủ các quy tắc, quy định của Nhà trường và Câu lạc bộ
trong quá trình học tập và sinh hoạt tại các tổ chức đó.
2. Đối với môi trường gia đình và địa phương
- Trong môi trường gia đình, em rất may mắn khi được sinh ra trong một gia
đình mà bố mẹ luôn tôn trọng mọi quyết định của em, từ đó mà khiến em
luôn có trách nhiệm và cố gắng với lựa chọn của mình. Khi gặp những khó
khăn trong quá trình đưa ra quyết định, bố mẹ luôn là người ở cạnh và đóng
vai trò định hướng tương lai chứ không hề ép buộc em phải làm theo ý của
bố mẹ.
- Bên cạnh đó, càng lớn em càng lắng nghe và hiểu bố mẹ nhiều hơn thay vì
dân chủ một cách cực đoan khi em còn nhỏ. Em lắng nghe và tiếp thu những
lời bố mẹ góp ý và cũng chia sẻ với bố mẹ những cảm nghĩ của em. Có thể
nói, cho đến tận khi rời xa vòng tay của bố mẹ, tinh thần dân chủ trong gia
đình em mới càng được phát huy nhiều hơn.
- Ở địa phương, khi đủ 18 tuổi, em được quyền bầu cử ra các đại biểu đi dự
Quốc hội hay được bầu chọn Trưởng phố.
Nhìn chung, để có thể phát huy quyền dân chủ của mỗi công dân, mỗi cá nhân
đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng và khuyến khích sự dân chủ trong
mỗi hoạt động có liên quan đến lợi ích của công dân và xã hội. Không được coi
thường, khinh miệt ý kiến của những người khác mà hãy lắng nghe và cho họ một
khoảng không để đề đạt ý kiến của mình. Bởi lẽ, mỗi cá nhân đều là công dân của
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, họ đều có quyền được hưởng bình
đẳng, tự do và hạnh phúc trong xã hội của chính họ đang sống.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, trong một nước dân chủ, nhân dân là người
chủ, cán bộ, công chức là đầy tớ và công bộc phục vụ dân, bảo vệ dân. Bao
nhiêu lợi ích là của dân, bao nhiêu quyền hành đều thuộc về dân. Quyền hành
và lực lượng đều ở trong dân. Thực vậy, bài tiểu luận trên đã cho chúng ta một
cái nhìn gần hơn về bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa, những thành tựu về
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đạt được, những hạn chế cần khắc
phục và trách nhiệm của mỗi công dân, cụ thể là một sinh viên như em cần phải
làm gì để phát huy hơn nữa quyền dân chủ. Quyền dân chủ được bắt nguồn từ
chính xã hội mà chúng ta được sinh ra, đó là từ xã hội nhỏ như gia đình, trường
học, địa phương đến môi trường lớn hơn là các tổ chức trong và ngoài nước.
Chính vì vậy, nếu chúng ta ý thức được quyền dân chủ ngay từ thưở ban đầu, sẽ
tạo ra được một xã hội tiến bộ về sau. Bài tiểu luận của em có thể vẫn còn
những khuyết điểm và chưa được chau chuốt về từ ngữ do trình độ lý luận
chính trị của em còn hạn chế, em mong cô có thể lượng thứ và ghi nhận sự cố
gắng của em qua bài viết trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thuỷ, P. T. (2019, 10 24). Thực hiện phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay: Thực
trạng và Giải pháp. Hà Nội.
Phúc, N. T. (2011, 8 23). Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi
mới.
Trọng, N. P. (2021, 5 16). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đức, P. V. (2019, 10 09). Dân chủ và thực trạng thực hiện dân chủ trong những
năm qua.
Thuỷ, P. T. (2019, 10 24). Thực hiện phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay: Thực
trạng và giải pháp.
Trọng, N. P. (2021, 5 17). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn và Chủ nghĩa xã hội
và đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Giáo trình “Chủ nghĩa xã hội khoa học”, NXB Chính trị Quốc Gia 2019

You might also like