Bài 8 Ảnh Hưởng Của Thẩm Mỹ RHM Tới Tâm Lý Xã Hội

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 28

Bài 8

ẢNH HƯỞNG CỦA THẨM MỸ RĂNG HÀM MẶT


ĐẾN MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI
PGS.TS. Võ Trương Như Ngọc
ThS. Lương Minh Hằng

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Trình bày được các giả thuyết giải thích vai trò quan trọng của thẩm mỹ răng
hàm mặt
2. Trình bày được sự tác động của thẩm mỹ răng hàm mặt đến một số vấn đề tâm
lý và xã hội
NỘI DUNG HỌC TẬP
Đại cương
Tại sao thẩm mỹ răng hàm mặt quan trọng và nó ảnh hưởng thế nào đến tâm lý
và xã hội? Tại sao một số khuôn mặt được coi là hấp dẫn trong khi những khuôn mặt
khác thì không? Trong bài này, chúng tôi tập trung phân tích các vấn đề này.
1. Các giả thuyết giải thích vai trò quan trọng của thẩm mỹ răng hàm mặt
Có ba giả thuyết để giải thích sự hấp dẫn của các đặc điểm trên khuôn mặt:
- Những nguồn gốc từ tâm lý học tiến hóa, trong đó thừa nhận rằng một vài điểm
thẩm mỹ khuôn mặt là dấu hiệu của những gene phù hợp – những cái được gọi là “học
thuyết gene tốt”.
- Những “giả thuyết về nhận thức”, trong đó thừa nhận rằng bộ não con người
được trang bị với những cơ chế cụ thể để xác định hình mẫu về khuôn mặt của “nam”
và “nữ”, và rằng vẻ đẹp khuôn mặt có liên quan đến mức độ khác biệt giữa khuôn mặt
quan sát được và hình mẫu.
- Giải trình xã hội: theo giả thuyết này việc đạt được nhận thức về thẩm mỹ
khuôn mặt là thông qua các chuẩn mực về xã hội và văn hóa, các chuẩn mực này sẽ
thay đổi theo thời gian và xã hội.
Cả 3 giả thuyết giải thích về tầm quan trọng của thẩm mỹ khuôn mặt chỉ giải
thích những hiện tượng mà chưa đưa ra được kiểm chứng. Những bằng chứng được
trích dẫn để giải thích cho giả thuyết này thường có thể được sử dụng để giải thích cho
giả thuyết khác.
Giả thuyết về gene tốt
Trung tâm của giả thuyết gene tốt gồm 2 giả định: thẩm mỹ khuôn mặt có liên
quan đến kiểu hình của từng cá nhân và những người có sự thẩm mỹ lớn hơn thì có
sức sống mạnh hơn những người ít hấp dẫn. Những người ủng hộ học thuyết này trích
dẫn những bằng chứng cho thấy khuôn mặt “Averageness” hấp dẫn hơn, và mặt đối
xứng cũng thẩm mỹ hơn mặt không đối xứng, đề xuất rằng cả 2 đối xứng và trung bình

74
cho một gene miễn phí từ sự đột biến. Hơn nữa, Symons cho rằng, khuôn mặt
“Averageness” có thể liên quan nhất với hiệu suất của nhiệm vụ nhai và thở, do đó sẽ
được ưa chuộng trong quá trình tiến hóa.
Giả thuyết về nhận thức
Theo giả thuyết về nhận thức và theo Jean Piaget, tư duy con người phát triển
bằng cách đầu tiên xác định một hình mẫu của từng cấu trúc. Ví dụ, một đứa trẻ có thể
bắt đầu bằng cách vẽ một "hình mẫu" của một ngôi nhà có chứa những yếu tố mà bé
quan niệm là cần thiết cho một ngôi nhà; ngay sau đó, kiến thức và quan niệm về
“nhà” của trẻ bị sửa chữa thông qua kinh nghiệm, chúng có thể phát triển các ý tưởng
bao gồm các loại khác nhà ở. Trong cùng một cách, các giả thuyết về nhận thức cho
rằng các trẻ định nghĩa các khái niệm về “khuôn mặt” theo một nguyên mẫu đơn giản.
Mặt nguyên mẫu hoặc “Averageness” được coi là hấp dẫn vì nó sẽ gợi ra phản hồi
mạnh mẽ từ hệ thống cảm nhận, vì nó liên quan chặt chẽ nhất với khái niệm “cốt yếu”
của một khuôn mặt. Thêm bằng chứng ủng hộ giả thuyết này là trẻ nhỏ nhìn lâu hơn
những gương mặt hấp dẫn, đó là nguyên mẫu và do đó dễ dàng hơn để phân loại.
Cả hai lý thuyết gen tốt và lý thuyết nhận thức về thẩm mỹ khuôn mặt đều dựa
trên bằng chứng cho thấy rằng “Averageness” hấp dẫn. Langlois và Roggman mã hóa
sinh viên đại học nam và nữ có nguồn gốc Tây Ban Nha và châu Á và hỏi người lớn
đánh giá mức độ hấp dẫn của cả hai khuôn mặt cá nhân, rồi sau đó máy tính tạo ra
hình ảnh hỗn hợp. Cả hai mặt hỗn hợp nam và nữ được đánh giá hấp dẫn hơn so với
hầu như tất cả các khuôn mặt cá nhân, bao gồm các vật liệu tổng hợp. Ngoài ra, các
gương mặt hỗn hợp trở nên hấp dẫn hơn nhiều khuôn mặt đã được nhập vào. Alley và
Cunningham rút ra kết luận, tuy nhiên, mặc dù “averageness” là hấp dẫn, nó không
phải là hấp dẫn nhất, hơn nữa, hình ảnh hỗn hợp được đặc trưng bởi một “trung tâm
mô mềm” tác động cũng như màu da mịn đồng nhất, với một mức độ cao của tính đối
xứng trên khuôn mặt. Perrett và cộng sự cũng lập luận chống lại tầm quan trọng áp đảo
của “averageness”, bằng cách chứng minh rằng một khuôn mặt bắt nguồn từ các tổng
hợp của 60 phụ nữ được đánh giá là kém hấp dẫn hơn so với một gương mặt đại diện
cho trung bình của 15 gương mặt nữ hấp dẫn nhất từ cùng một nhóm. Ngoài ra, vật
liệu tổng hợp hấp dẫn có thể được làm hấp dẫn hơn bằng cách phóng đại sự khác biệt
hình dạng từ mẫu có ý nghĩa. Họ kết luận rằng các kiểu hình mặt hấp dẫn không hoàn
toàn 'Averageness' và sự chênh lệch trung bình nhỏ làm tăng cường sức hấp dẫn.
Kết luận, rõ ràng rằng trong khi ‘averageness’ có vai trò quan trọng trong việc
phân hạng sự hấp dẫn, những đặc điểm khác có thể tăng cường ảnh hưởng của
‘averageness’, đặc biệt là trong những thử nghiệm có liên quan tới sức trẻ. Thảo luận
tiếp theo về tầm quan trọng của tính trẻ trong sự hấp dẫn sẽ ở bên dưới.
Thẩm mỹ và sự cân xứng khuôn mặt
Chắc chắn sự đối xứng của cơ thể con người có liên quan với sức hấp dẫn.
Perrett và cộng sự cho rằng việc tăng mức độ đối xứng trong phạm vi một khuôn mặt
(trong khi giữ kết cấu da không đổi) tăng mức độ về hấp dẫn cho cả khuôn mặt nam và
nữ. Các nhà tâm lý học tiến hóa đã cho rằng đối xứng có thể là một chỉ số về khả năng
chịu đựng áp lực môi trường, lý do là không đối xứng sẽ phát sinh bệnh tật hoặc chấn
thương.
Sự hấp dẫn của khuôn mặt và các yếu tố gợi sự trẻ trung
75
Đặc điểm khuôn mặt có nét trẻ trung - đặc điểm thường gặp nhất ở trẻ nhỏ, có
đôi mắt to, làn da mịn màng và mũi nhỏ, các yếu tố này làm tăng sự hấp dẫn, điều này
có thể bởi vì các yếu tố này thúc đẩy nuôi dưỡng. Tương tự như vậy, hàm răng trắng
đều được đánh giá là hấp dẫn hơn so với răng tối màu, đặc biệt răng trở thành màu
vàng hơn theo tuổi.
Kết luận: có thể thấy rằng sự hấp dẫn trên khuôn mặt có liên quan với mức độ
‘averageness’ nào đó và cả sự đối xứng, mặc dù những điểm nổi bật có thể làm cho
khuôn mặt xuất hiện hấp dẫn hơn, đặc biệt nếu chúng có liên quan với sự trẻ trung. Lý
do cho sự ưa thích của các nhà quan sát là không rõ ràng, mặc dù họ là nguồn gốc của
nhiều lý thuyết được thảo luận.
2. Tác động giữa thẩm mỹ răng hàm mặt và các yếu tố tâm lý xã hội
Bề ngoài khuôn mặt đóng một vai trò quan trọng trong sự tương tác của con
người. Trong trường hơp không có các thông tin khác, khuôn mặt hấp dẫn được sử
dụng như một hướng dẫn để suy ra một loạt các đặc điểm về một người, bao gồm cả
nhân cách, toàn diện, xã hội, năng lực tư duy và sức khỏe tinh thần. Tác động của bề
ngoài lên nhận thức về các đặc điểm cá nhân không giới hạn trong các buổi gặp đầu -
những nhận thức như thế có một sự tác động lâu dài. Hơn nữa, cá nhân được đánh giá
là hấp dẫn có cuộc sống thành công hơn và có giá trị bản thân lớn hơn cá nhân kém
hấp dẫn. Bề ngoài răng hàm mặt tốt được cho là một yêu cầu của uy tín nghề nghiệp
trong một số nhóm chuyên nghiệp.
Một yếu tố quan trọng của bề ngoài mặt là sự xuất hiện của miệng và răng.
Trong tình huống mặt đối mặt, các nghiên cứu về chuyển động mắt cho thấy mắt chủ
yếu nhìn mắt và các khu vực của miệng người đối diện, ít thời gian dành sự quan sát
cho những điểm nổi bật khác. Một nghiên cứu đánh giá sự hài lòng với nụ cười và
những ảnh hưởng của chúng tới hành vi xã hội và tâm lý, sự tự tin về nụ cười dựa trên
bộ câu hỏi như sau:
Câu hỏi Trả lời
1. Bạn có hài lòng về nụ cười của bạn không? a. Rất hài lòng
b. Hài lòng
c. Không hài lòng
2. Theo bạn điều gì chưa thỏa đáng về nụ cười của a. Hình dạng môi
bạn (có thể 1 hay nhiều lựa chọn) b. Màu răng
c. Hình dạng răng
d. Kích thước răng
e. Vị trí răng hoặc cách sắp xếp
răng
f. Màu lợi và vị trí của lợi
3. Bạn có thấy mình cố không để lộ răng khi bạn a. Có
cười không b. Không

76
4. Bạn có thấy thoải mái khi cười lộ hết hàm răng a. Có
không b. Không
5. Bạn có thích ngắm răng của mình trong gương, a. Có
ảnh và video không b. Không
6. Bạn có từng nhận thức được những quan điểm a. Có
khác nhau của mọi người về nụ cười của bạn không b. Không

7. Nụ cười của bạn có khiến bạn nghĩ đến đặc điểm a. Có


giới tính hay không b. Không
8. Bạn có muốn răng bạn đẹp hơn không a. Có
b. Không
9. Răng của bạn chính là lý do khiến bạn không hài a. Có
lòng về ngoại hình của mình b. Không
Kết quả cho thấy: một trong những ấn tượng của người đối diện là nụ cười, đa
phần các cá nhân đều hài lòng về nụ cười của mình, nhưng màu sắc răng lại khiến họ
không hài lòng nhiều nhất và muốn cải thiện để họ có thể tự tin hơn. Tiếp sau đó là sự
không hài lòng về kích thước răng, vị trí răng, hình thể răng, hình dạng môi, ít được
quan tâm nhất là màu sắc và trị trí của lợi. Và nó dẫn đến nhu cầu điều trị thẩm mỹ
tăng lên trong cộng đồng. Phần lớn đối tượng được điều tra đề mong muốn có răng tốt
hơn. Sự xuất hiện những kiểu mẫu hàm răng đẹp là một yếu tố không thể tách rời để
đánh giá một khuôn mặt đẹp. Thẩm mỹ răng hàm mặt có tác động tích cực lên sự tự tin
của bệnh nhân và nâng cao chất lượng cuộc sống trong thế kỷ XXI. Kết quả là tỷ lệ
phần trăm số người hài lòng với nụ cười tăng lên, họ thích thể hiện răng của mình khi
mỉm cười, thích ngắm răng của mình trong gương, video và ảnh. Điều này phù hợp với
thực tế rằng lòng tự trọng cao có liên quan đến thực tiễn phản ảnh tự tin. Và ngày nay
không chỉ nữ giới mới quan tâm đến thẩm mỹ răng hàm mặt, nam giới cũng có nhu
cầu rất lớn với thẩm mỹ khuôn mặt. Có thể nói rằng thẩm mỹ răng hàm mặt có những
tác động đáng kể đối với xã hội học, sức khỏe tâm lý và được phản ảnh trong hành vi
của các cá nhân, có ảnh hưởng lớn đến sự tự tin của mỗi con người.
Có những bằng chứng thực nghiệm cho thấy sự bất thường của răng - mặt nhìn
thấy được có thể có một tác dụng làm suy yếu về sự hấp dẫn trên khuôn mặt. Dị
thường có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các cá nhân ở cả trẻ em và thanh niên.
Trong những nghiên cứu này, có thể nhìn thấy khớp cắn phía trước, ví dụ chen chúc
nặng và khe hở đường giữa rộng, được coi là có ảnh hưởng bất lợi đối với một người
đang cảm thấy thành công xã hội, đặc trưng bởi sự thông minh, sắc đẹp, tầng lớp xã
hội và hấp dẫn tình dục. Tương tự như vậy, răng tự nhiên và nhô ra trung bình thì ưa
thích so với răng bị lùi sau, thậm chí ở cả mức độ móm. Trong nghiên cứu thực
nghiệm bằng cách sử dụng sửa đổi hình ảnh kỹ thuật số, nó đã được chỉ ra rằng ảnh
hưởng của xã hội về răng miệng bị phụ thuộc bởi các yếu tố chẳng hạn như sự hiện
diện của sâu răng có thể nhìn thấy, vị trí mức độ của tổn thương có thể khiến cho mỗi

77
cá nhân mất tự tin, lung túng, ngại giao tiếp, tránh cười dẫn đến căng thẳng tâm lý và
giảm chất lượng cuộc sống.

Hình 8.1: Sự thay đổi khuôn mặt bệnh nhân sau khi có sự tác động của thẩm mỹ răng
hàm mặt
Tuy nhiên, điều này không xuất hiện trong tất cả trường hợp, ví dụ như những
trẻ có bất thường lớn trên khuôn mặt như trẻ có khe hở môi và vòm miệng. Liu và
cộng sự thấy không có sự khác biệt trong chất lượng cuộc sống bình thường giữa các
cá nhân có những bất thường sọ mặt với các nhóm bình thường, mặc dù có một số
khác biệt lớn về các biện pháp vệ sinh răng miệng. Locker và cộng sự thấy rằng sự tự
bảo vệ sức khỏe răng miệng cao hơn ở các cá nhân có sự bất thường trên khuôn mặt.
Topolski và cộng sự thấy rằng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình tốt hơn
trong nhóm có con đã có khe hở môi và vòm miệng. Tương tự như vậy Marcusson và
cộng sự thấy rằng chất lượng cuộc sống có tăng ở các cá nhân có sứt môi và hở vòm vì
họ sử dụng thời gian giải trí vào cuộc sống xã hội của họ.
Có thể kết luận rằng: những người có ít bệnh lý răng hàm mặt được đánh giá là
có thẩm quyền xã hội nhiều hơn, có năng lực trí tuệ tốt hơn và có điều chỉnh tâm lý tốt
hơn. Tác động của thẩm mỹ răng hàm mặt lên nhận thức về các đặc điểm cá nhân có
thể thay đổi tùy theo từng giai đoạn của cuộc sống, độ tuổi và điều kiện kinh tế, truyền
thống văn hóa và nền tảng xã hội.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


1. Trình bày giả thuyết về nhận thức để giải thích vai trò quan trọng của thẩm mỹ
răng hàm mặt.
2. Trình bày những ảnh hưởng của răng-miệng đến các yếu tố tâm lý xã hội.

78
nhân. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền cho xã hội nhiệm vụ phối hợp, tham gia khi có
thể để bảo vệ an toàn và tính mạng của y bác sĩ khi đang làm nhiệm vụ. Mục đích của
báo chí là phải điều chỉnh hành vi của cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân thay đổi theo những
chuẩn mực đạo đức được xã hội đã thừa nhận chứ không đi theo một chiều.
Trong giai đoạn đất nước đang phát triển, nhiều bệnh mới xuất hiện, nhiều biến
chứng khó kiểm soát dẫn đến những hậu quả khôn lường, bác sĩ cũng phải bó tay. Bên
cạnh đó, sự phát triển khoa học kỹ thuật chưa cao, chưa đồng bộ, thiếu máy móc công
nghệ hiện đại để phục vụ việc khám chữa bệnh gây quá tải, chưa đáp ứng được nhu
cầu khám chữa bệnh cũng là một sự thiệt thòi cho các bác sĩ, đặc biệt ở các bệnh viện
tuyến dưới. Vì vậy rất cần sự chia sẻ, cảm thông của cộng đồng, xã hội đối với công
việc của bác sĩ.
Mối quan hệ giữa bác sĩ và xã hội, cộng đồng là quan hệ đa chiều và chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố kinh tế thị trường. Bác sĩ là một thành viên
của cộng đồng, là một công dân của xã hội. Ngoài vai trò của một công dân, bác sĩ còn
có đạo đức, lương tâm, trách nhiệm của ngành y. Bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho cộng
đồng, và được cộng đồng hợp tác cùng bảo vệ. Mỗi người dân khoẻ mạnh sẽ góp phần
làm cộng đồng khoẻ mạnh, xã hội phát triển. Mỗi người dân có trách nhiệm hỗ trợ bác
sĩ bảo vệ sức khoẻ cho bản thân và cho toàn xã hội.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


1. Trình bày các tiêu chí về đạo đức y học trong mối quan hệ giữa bác sĩ và đồng
nghiệp? Lấy ví dụ và phân tích.
2. Nêu và phân tích vai trò và trách nhiệm của Bác sĩ trong xã hội, cộng đồng?
3. Phụ trách nhóm và các thành viên trong nhóm có nhiệm vụ và những tiêu chí
đạo đức nào? Bác sĩ có thể ủy quyền chăm sóc người bệnh trong những trường hợp
nào và cần tuân thủ những nguyên tắc gì?
4. Bác sĩ phải đối xử công bằng với đồng nghiệp và chia sẻ thông tin với đồng
nghiệp như thế nào?
5. Trình bày ảnh hưởng và tác động của xã hội cộng đồng đối với bác sĩ? Theo
em, bác sĩ có quyền được bảo vệ khi đang làm nhiệm vụ hay không? Vì sao?

142
Bài 12
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CHUYÊN BIỆT
NGÀNH RĂNG HÀM MẶT
PGS.TS. Võ Trương Như Ngọc
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1) Trình bày được vấn đề đạo đức trong việc công bố và sử dụng một số hóa chất
điều trị bệnh lý răng hàm mặt.
2) Trình bày được vấn đề đạo đức trong quảng cáo răng hàm mặt.
3) Trình bày được vấn đề đạo đức trong công nghiệp vật liệu răng hàm mặt.
NỘI DUNG HỌC TẬP
Giới thiệu
“Lần đầu tiên bạn chấp nhận nhân nhượng trong vấn đề đạo đức sẽ luôn khó
khăn. Lần sau nó sẽ trở nên dễ dàng” (J.R. Ewing, Dallas).
Micheal Josephson từng nói trên Đài tiếng nói Quốc gia vào khoảng những năm
1990: “Dù trong kinh doanh, trong chính trị hay trong pháp luật thì đạo đức vẫn là đạo
đức, không hề có sự khác biệt nào cả”. Josephson, người sáng lập Viện Đạo đức
Joseph & Edna, và là người bình luận thường xuyên về vấn đề đạo đức ở Hoa Kỳ, đã
đưa vấn đề đạo đức trong công việc để bàn luận. Những hiểu biết vấn đề đạo đức được
áp dụng trong răng hàm mặt là nền tảng cho tồn tại của nghề và là mắt xích quan trọng
trong chuỗi “luật bất thành văn” trong cộng đồng chung. Tự do nghề nghiệp phụ thuộc
vào lòng tin cộng đồng – lòng tin mà ngày nay đang bị thách thức, đặc biệt trong lĩnh
vực đạo đức và răng hàm mặt thẩm mỹ.
1. Gian lận
Gian lận là một vấn đề nhức nhối đang nhận được sự quan tâm của nhiều ngành,
không chỉ trong ngành y mà còn trong nhiều ngành khác như báo chí và chính trị. Ví
dụ như vụ tin tặc điện thoại năm 2012 tại Mỹ, sự thúc đẩy của cuộc cạnh tranh về tin
tặc điện thoại truyền thông dẫn đến sự đóng cửa của tờ báo nổi tiếng nhất Anh quốc –
News of the World – do hãng truyền thông lớn của Úc Rupert Murdoch. Ở thời đại
báo chí, chúng ta vẫn đang mong ngóng kết quả xét xử tội ác từ các cuộc điều tra của
cảnh sát.
Trong những năm gần đây, chúng ta thấy một số nhà báo như Jayson Blair từ
chối nhà xuất bản danh giá “New York Times” để viết truyện. Chúng ta cũng đã chứng
kiến tất cả những thứ giả dối bị lật tẩy trên mạng Internet. Một vài ngôi sao thể thao đã
không còn được tin tưởng, thậm chí cả người thắng cuộc đua vòng quanh nước Pháp
“Tour de France” – Floyd Landis và huyền thoại Lance Armstrong, sau này cũng thừa
nhận sử dụng doping và các dược phẩm bổ sung bị cấm khác, sau đó đã bị tước danh
hiệu. Hãng dược phẩm lớn chi tiền để phát chương trình quảng cáo thuốc của họ trên
đài phát thanh, nhưng trên thực tế thì họ lại không hề tiết lộ cho người nghe sự thật về
thuốc của họ. Các trường đại học cũng đang gian lận ở tất cả các mức độ: giảng viên
dưới áp lực đạt thành tích, sinh viên cố vào được một trong những trường danh giá

143
nhất thế giới – Harvard, bằng cách sử dụng văn bản giả, và trưởng khoa tuyển sinh của
một trường đỉnh cao khác – Học viện Công nghệ Massachusetts, đã bị buộc từ chức
khi bà thừa nhận đã làm giả bằng giáo dục của mình. Đây chỉ là một trong vô số gian
lận được phát hiện trên cộng đồng
2. Hồi cứu về những vụ bê bối
Một vài vụ gian lận nghiêm trọng nhất trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có lẽ
liên quan đến việc làm giả dữ liệu hoặc phát minh trong những công bố khoa học. Một
tờ báo không thể bị vạch trần khi mà những thiếu sót vẫn còn được che giấu, nhiều
trường hợp sau đó được giảm mức độ tổn hại so với những gì đã gây ra. Ví dụ Andrew
Wakefield - trong một bài báo đăng trên tạp chí y học Lancet cho rằng có một mối liên
hệ giữa vắc xin sởi, quai bị, rubella (MMR) và bệnh tự kỷ. Do đó nhiều bậc cha mẹ
trên toàn thế giới đã từ chối tiêm vắc xin cho con họ dựa trên nghiên cứu này. Một số
nghiên cứu sau đó đã thất bại trong việc mô phỏng lại kết quả của Wakefied, và họ tìm
ra rằng Wakefield đã phạm phải hành vi đạo đức sai trái nghiêm trọng trong nghiên
cứu và đã trừng phạt anh ta. Tờ Lancet đã rút lại bài báo đó. Nhưng có bao nhiêu đứa
trẻ đã mắc dị tật hoặc thậm chí đã tử vong do những hành động của Wakefield gây ra?
Sau đó là nghiên cứu được tiến hành bởi Jodbo (Na-uy), người đã chỉ ra rằng
thuốc chống viêm làm giảm nguy cơ mắc ung thư miệng, tuy nhiên kết luận của ông ta
dựa trên những dữ liệu giả.
3. Vấn đề không công bố rõ ràng các tác dụng phụ của thuốc
Vào năm 2009, công ty dược phẩm lớn nhất thế giới, Pfizer, nhận tội tại tòa án vì
đã phá vỡ luật tiếp thị thuốc Bextra. Công ty này đã chấp nhận mức phạt 1.195 tỷ đô
la, cộng thêm hơn 1 tỷ để giải quyết khiếu nại dân sự liên quan đến việc tiếp thị Bextra
và các thuốc khác.
Các công ty dược phẩm có được doanh thu khổng lồ dựa trên kết quả của những
cuộc thử nghiệm lâm sàng và có một sự cám dỗ rõ ràng nhằm che giấu những thứ
ngoài ý muốn xuất hiện để tạo ra kết quả như mong muốn, để gửi đi những “câu
chuyện” dựa trên những phát minh không chuẩn.
Hãng dược phẩm cũng nhân cơ hội che giấu đi các kết quả thất bại để cho ra mắt
những sản phẩm một cách tốt đẹp nhất. Các công ty dược cũng được biết đến với các
vụ kiện để ngăn chặn những nhà nghiên cứu công bố dữ liệu không có lợi chưa được
biết đến.
4. Việc sử dụng các hoá chất và qui trình xử lý có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ
con người
Như chúng ta đã biết, hiện nay, hàng ngày nhiều nơi bác sĩ răng hàm mặt vẫn
đang sử dụng một cách rộng rãi các độc chất như Asenic, Formol, Thuỷ ngân… để
chữa tuỷ và trám răng. Các độc chất này ảnh hưởng trực tiếp đến con người như thế
nào? Qui trình xử lý các độc chất này khi lấy bỏ ra các túi rác ra sao. Việc xử lý rác
thải vẫn chưa được quản lý chặt chẽ, điều đó có thể ảnh hưởng đến môi trường sống và
cụ thể là ảnh hưởng đến chính loài người chúng ta.
5. Đạo đức và phạm vi pháp luật

144
Những ví dụ trên chỉ là một hạt cát trong sa mạc của gian lận bị lật tẩy, ngăn
chặn và trừng trị là việc chúng ta đang đấu tranh và thực hiện ngày hôm nay. Đã có
một vụ bê bối gian lận liên quan đến một nửa lớp ở một vài trường răng hàm mặt ở Mỹ
năm 2006 và những năm sau đó. Đại học Harvard gần đây cũng tuyên bố rằng có hơn
100 sinh viên đã bị điều tra vì gian lận. Liệu rằng những đứa trẻ có lớn lên với suy
nghĩ đó là những thói quen bình thường. Như Chamber đã nói: “Chúng ta đã đạt đến
một tập thể gian lận mạn tính cấp độ thấp có giới hạn”.
Trong cuốn sách, “Lợi ích và danh vọng (Profit with Honor)”, của Daniel
Yankelovich, viết rằng: “Sức sống của xã hội phụ thuộc vào những quy chuẩn đạo
đức. Những quy chuẩn đạo đức này quan trọng hơn rất nhiều so với luật pháp. Luật
pháp chỉ đạt mức quy chuẩn đạo đức rất thấp”. Yankelovich cho rằng “một người có
thể hành động đúng luật và vẫn không hành động đúng đạo đức”. Vì thế, có thể nói
rằng quy chuẩn đạo đức trở thành nguyên tắc đạo đức lấp đầy những khoảng trống của
luật pháp, luật pháp không thể hoàn toàn quyết định hành vi xã hội.
6. Đạo lý quy chuẩn đạo đức trong răng hàm mặt
Về những nguyên tắc chuẩn mức đạo đức thì bác sĩ Răng Hàm mặt cũng như bác
sĩ nói chung đều có những qui chuẩn đạo đức chung. Ở Việt Nam, Bộ y tế cũng đã có
ban hành những qui chuẩn về đạo đức cho ngành y mà tất cả bác sĩ đều phải tuân theo.
Hiện nay chúng ta chưa có qui chuẩn riêng cho bác sĩ răng hàm mặt nên chúng tối
muốn giới thiệu thêm qui chuẩn đạo đức cho nha sĩ do Hiệp hội nha khoa Hoa Kỳ
(ADA) ban hành để bạn đọc tham khảo.
Bộ quy chuẩn do ADA thảo luận gồm 5 nguyên tắc làm nền tảng cho các nhiệm
vụ của nha sĩ:
• Bệnh nhân tự quyết
• Không ác ý
• Từ thiện
• Công bằng
• Trung thực
Năm nguyên tắc trên thống nhất với nhau. Tuy nhiên, những nguyên tắc trên chỉ
mang tính hướng dẫn chứ không liên quan đến việc cấp chứng chỉ hành nghề hay xét
xử những việc làm sai trái hoặc thậm chí trục xuất thành viên đó ra khỏi hội.
* Bệnh nhân tự quyết
Bác sỹ Răng hàm mặt có trách nhiệm tôn trọng quyền tự quyết và quyền được
giữ bí mật của bệnh nhân. Nghĩa vụ ấy phải được bắt đầu thực hiện từ đội ngũ chăm
sóc sức khỏe chuyên nghiệp, bao gồm cả khi bác sỹ Răng hàm mặt tiếp xúc với bệnh
nhân. Bác sỹ Răng hàm mặt có thể biểu lộ thái độ áp đặt với bệnh nhân, người không
thể hoặc không sẵn sàng đưa ra câu hỏi với bác sỹ về điều trị và thường đồng ý với
những cái đã được đưa ra. Tình huống đó ngày nay rất khác. Bệnh nhân được giáo dục
tốt hơn về sức khỏe răng miệng và trong mỗi trường hợp Bác sỹ Răng hàm mặt đưa ra
nhiều phương án điều trị một cách cởi mở và trung thực. Tuy nhiên, có những ví dụ rõ
ràng rằng bệnh nhân quyết định theo định hướng hơn là quyết định tự chủ. Quyết định

145
theo định hướng là lựa chọn điều trị rõ ràng, cái mà Bác sỹ Răng hàm mặt mong muốn
hơn là bệnh nhân, thường vì lý do kinh tế.
Hướng dẫn lựa chọn theo cách này, bất kể lý do gì ngoài việc quan tâm đến lợi
ích lâu dài của bệnh nhân, là vi phạm nguyên tắc tự chủ của bệnh nhân. Như Ozar và
Sokol đặt ra: " Bác sỹ Răng hàm mặt có thể giải thích các phương án điều trị khác
nhau một cách thuyết phục theo cách mà họ chọn”. Thậm chí điều đó trở thành sự
đồng ý thích hợp, khi thông tin được cung cấp đầy đủ, thì tỷ lệ cao bệnh nhân không
hiểu rõ về cách thức nên đã đồng ý. Vì thế, trách nhiệm lựa chọn phương án điều trị
hợp lý đặt nặng lên người Bác sỹ Răng hàm mặt.
* Không ác ý
Nguyên tắc thứ hai là không ác ý – nghĩa là không gây hại. Nha sĩ có trách
nhiệm rõ ràng là chữa bệnh, chứ không phải gây hại, bảo vệ phúc lợi cho bệnh nhân,
ghi nhận phạm vi kỹ năng và kiến thức của mình, tìm kiếm lời khuyên và chỉ dẫn bệnh
nhân tới một chuyên gia hoặc một nha sĩ khác nếu vấn đề nằm ngoài lĩnh vực chuyên
môn của mình. Nếu bệnh nhân không nhận được thông tin thích hợp, bệnh nhân có thể
lựa chọn một phương án giải quyết thẩm mỹ bằng cách mài bỏ hết các răng để có một
nụ cười đẹp trong khi đó có cách khác ít xâm lấn hơn có thể đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ
đó, như vậy có nghĩa là bệnh nhân đã bị làm hại, đặc biệt là trong thời gian dài. Như
Bader và Shugars đặt ra: “Ngầm hiểu, nếu không nói thẳng ra, thừa nhận rằng bất kỳ
điều trị nào cũng mang lại lợi ích, hoặc ít nhất cũng là đúng, lớn hơn bất kỳ hậu quả
tiêu cực nào của điều trị… nói tóm lại điều trị vẫn tốt hơn là không điều trị”.
* Từ thiện
Nguyên tắc thứ ba là từ thiện, tức là làm việc tốt. Nghề răng hàm mặt có trách
nhiệm hành động vì lợi ích của người khác và nâng cao phúc lợi cho bệnh nhân. Khi
một bác sỹ Răng hàm mặt điều trị, nên luôn luôn cân nhắc liệu rằng bệnh nhân sẽ tốt
hơn so với không điều trị hay không. Một người có thể xuất hiện để làm “việc tốt”
bằng việc đạt được cải thiện diện mạo trong thời gian ngắn nhờ điều trị thẩm mỹ
chẳng hạn, nhưng nếu kết quả là phải lấy đi khá nhiều tổ chức cứng và sau đó cần phải
điều trị tủy hoặc thêm điều trị phục hình, bệnh nhân đó không được phục vụ tốt. Tác
giả người Anh Martin Kelleher đã viết về vấn đề nghiêm trọng này trong “Tương lai
châu Âu” (European perspective). Ông đã phát minh ra cụm từ “quá sản men răng” để
mô tả tình trạng ảo tưởng bệnh nhân có quá nhiều men răng (để biện hộ cho việc lấy đi
quá nhiều men răng được thấy trong các điều trị thẩm mỹ) và “bệnh thiếu hụt sứ”
(porcelain deficiency disease) để mô tả tình trạng ảo tưởng bệnh nhân yêu cầu lấy đi
rất nhiều men răng tự nhiên để thay bằng phục hình sứ. Hiện tượng này được dẫn
chứng trong nhiều năm qua. Đây là các dữ liệu hài hước khi minh chứng cho những
những điều trị quá đáng trong các bài giảng răng hàm mặt.
* Công bằng
Nguyên tắc thứ tư là công bằng. Bác sỹ Răng hàm mặt có trách nhiệm công bằng
trong việc thảo luận với bệnh nhân và trong hành động của họ. Nếu bác sỹ Răng hàm
mặt không đặt quyền lợi của bệnh nhân lên trước tiên thì họ không làm tròn bổn phận.
Nguyên tắc này thường xuyên bị vi phạm bởi hình thức quảng cáo và kế hoạch điều
trị, nơi mà ranh giới giữa thẩm mỹ và kinh tế có thể dẫn đến sự thúc đẩy cho những lợi
ích trước mắt hơn là sức khỏe lâu dài.
146
* Trung thực
Nguyên tắc thứ năm là trung thực, áp dụng trong giao tiếp giữa bác sĩ Răng hàm
mặt và bệnh nhân. Sự vi phạm phổ biến nhất trong việc quảng cáo và được tìm thấy
trên các website của bác sĩ Răng hàm mặt. Bác sĩ Răng hàm mặt có thể cố gắng chứng
minh “khoa học” không bằng chứng, ví dụ như răng hàm mặt thần kinh cơ mà trong
đó có nói đến sự ủng hộ như một sự “biện minh” để tiến hành phục hình toàn hàm
không cần thiết. Hoặc họ thuyết phục chống việc sử dụng amalgam cho điều trị phục
hồi, cố gắng thuyết phục bệnh nhân thay thế mối trám hợp kim amalgam đang còn tốt
bằng Composit. Tình trạng vi phạm trực tiếp quan điểm của ADA là cách sử dụng
amalgam trong răng hàm mặt, trong khi việc sử dụng amalgam kéo dài nhiều thời gian
hơn dự kiến, không có lý do để loại bỏ phục hồi bằng amalgam trừ một lượng rất nhỏ
bệnh nhân dị ứng.
7. Đạo đức trong quảng cáo răng hàm mặt
Quảng cáo là một cách thức hữu ích trong thương mại, cung cấp thông tin về các
công việc cá nhân, đưa ra những dịch vụ mà công chúng có thể muốn sử dụng. Người
ta nói rằng, càng nhiều thông tin sẵn có, bệnh nhân càng chuẩn bị tốt hơn việc họ sẽ
làm gì, trên thực tế đó là một quyết định mua bán sức khỏe của mình. Do vậy, tại sao
họ không nên có những thông tin về trình độ đào tạo của đội ngũ bác sĩ ? Kĩ thuật của
các phòng khám họ dự định đến? Phương thức điều trị nào họ nên lựa chọn? Đó có
phải là một phần của thông tin thỏa thuận? Chắc chắn, hệ thống luật pháp Mỹ đã nhận
ra rằng quảng cáo đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin mà bệnh
nhân có thể cần. Vấn đề xuất hiện khi quảng cáo trở nên không đúng sự thật, đến nỗi
mà người bệnh đối mặt với nguy cơ lựa chọn sai lầm.
Kể từ khi ủy ban thương mại liên bang Mỹ (FTC) bắt đầu phá vỡ những hạn chế
tự áp đặt trong quảng cáo của bác sĩ răng hàm mặt (được hình thành bởi Hội đồng bác
sĩ răng hàm mặt trong nước), vai trò của quảng cáo trong nghề nghiệp đã mang nặng
vấn đề cảm xúc và chính trị. Một bên, Hội đồng nhà nước (thường có sự tham gia của
một lượng lớn các bác sĩ răng hàm mặt) đang cố gắng bảo vệ quyền lợi cho các cử tri
của họ. Mặt khác, Ủy ban thương mại liên bang và tòa án có ý muốn bảo vệ công
chúng khỏi những hành động tiềm ẩn lợi ích cá nhân của Hội đồng nhà nước và các
bác sĩ răng hàm mặt, những người có thể phân vân giữa quảng cáo đạo đức và quảng
cáo phi đạo đức. Sự thúc đẩy cạnh tranh cũng là một mục tiêu của quảng cáo và ủy ban
thương mại liên bang Mỹ.
Trong một bài báo mang tên “đạo đức và quảng cáo”, Geofrey Klempner đã viết
ra ba điều có thể đưa ra để chống lại các nhà quảng cáo.
- Họ bán cho chúng ta những giấc mơ, dụ dỗ chúng ta phân vân giữa mơ mộng
và thực tế.
- Họ xúi giục những ham muốn của chúng ta về những thứ có hại cho chúng ta.
- Họ điều khiển chúng ta để chúng ta muốn những thứ mà chúng ta không thực
sự cần.
Liệu chúng ta có muốn bất cứ một đặc điểm nào ở trên liên quan đến nghề
nghiệp của chúng ta? Tôi nghĩ rằng câu trả lời chắc chắc là “không”. Tuy nhiên, trong
thời buổi đỉnh cao của cuộc cách mạng thẩm mỹ những năm 1990 - 2000 thậm chí là
147
bây giờ, một số thành phần trong ngành của chúng ta cũng đã vi phạm một số lỗi trên,
đó là những người đang nỗ lực để phóng đại bản thân thành những chuyên gia trong
lĩnh vực răng hàm mặt thẩm mỹ.
Cuộc chiến chống lại quảng cáo ở Mỹ đã diễn ra nhưng lại bị đánh bại bởi những
người phản đối nó khi FTC ra điều luật rằng bác sĩ răng hàm mặt nên được cho phép
để quảng cáo, quảng cáo là không sai trái và không dối trá. Hội đồng nhà nước sau đó
đã cố gắng để điều chỉnh vấn đề này nhưng nhận thấy rằng luật lệ này đã quá lỏng lẻo.
Quảng cáo được coi như là tự phóng đại và không mang tính nghề nghiệp. Họ thu hút
khách hàng bằng việc khơi dậy lòng tham hư ảo của họ. Một số hướng bệnh nhân làm
những thứ mà họ không thực sự cần, và trong nhiều trường hợp nó có hại đến sức khỏe
răng miệng lâu dài. Mặc dù không có tính nghề nghiệp, không có tính đạo đức nhưng
nó vẫn hợp pháp. Trong những ngày đầu của răng hàm mặt, không có quảng cáo trên
những tấm danh thiếp và không có tên của phòng khám hay bác sĩ răng hàm mặt trên
những bản in phát miễn phí. Việc đó được kéo dài một thời gian trước khi chúng ta
chạm đến tình trạng như bây giờ, mỗi bác sĩ răng hàm mặt đều muốn cung cấp một số
thông tin bản thân.
Ví dụ quảng cáo của Victorian-era dưới đây, từ năm 1885 đến 1895. Một số bức
tranh có thể được xem như dối trá và vô đạo đức.

148
“Hệ thống thân răng hoàn hảo và điều tri răng hàm mặt không đau”. Một số ảnh
khác mang đến hi vọng “nhổ răng không đau” trong khi có lẽ chỉ là “trám lỗ sâu với
mức đau tối thiểu”.
Ngày nay bác sĩ răng hàm mặt không còn sản xuất những tờ quảng cáonhư vậy,
những quảng cáo đáng phải đặt ra những câu hỏi về tiêu chuẩn cho các bác sĩ răng
hàm mặtấy, đó là những thứ in trên mặt sau hóa đơn của cửa hàng bách hóa hoặc bên
hông của xe quảng cáo.
Ngày nay, dạng phổ biến nhất của quảng cáo là những website được thiết kế và
quản lý tốt. Những website này thể hiện sự đáng tin cậy của bác sĩ răng hàm mặtvà đội
ngũ nhân viên. Thêm một vài thông tin mang tính giáo dục, nó có thể là một sự quảng
cáo rất tích cực cho bác sĩ và phòng khám răng hàm mặt. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ răng
hàm mặt đã phóng đại mang tính sai lầm và lừa dối. Dường như chỉ có một ranh giới
mỏng manh giữa nghề nghiệp và thương mại, ít nhất là trong tiêu chuẩn của quảng
cáo. Có những quảng cáo cho răng hàm mặt thẩm mỹ được đặt giữa những lời chào
hàng giảm mỡ bụng và xăm hình nghệ thuật. Đó có đúng là điều chúng ta muốn công
chúng nhìn nhận nghề nghiệp của chúng ta. Một số bác sĩ răng hàm mặt giới thiệu là tu
nghiệp từ nước ngoài về nhưng sự thật thì ngoại ngữ không thể giao tiếp, những hình
ảnh minh hoạ chỉ là những chuyến đi hội thảo do các công ty tổ chức. Những hình ảnh
bắt tay chụp ảnh chung với các giáo sư nổi tiếng được mang ra để giới thiệu với bệnh
nhân mình là học trò của giáo sư ấy.
Bất cứ hình thức quảng cáo nào đi chăng nữa thì cũng không thể hiệu quả chính
bằng niềm tin của bệnh nhân đối với bác sĩ, và cái để tạo niềm tin đó chính là hiệu quả
và hiệu xuất điều trị mà bác sĩ mang lại cho bệnh nhân và gia đình bệnh nhân.

149
7.1. Sự tin tưởng
Điều cốt lõi của đạo đức trong quảng cáo cho ngành răng hàm mặt nằm ở ba vấn
đề, đầu tiên là sự tin tưởng. Sự tin tưởng là nền tảng cơ bản nhất của bất cứ phòng
khám nào và nên được hình thành dựa trên mối quan hệ thoải mái giữa bác sĩ răng
hàm mặt và người bệnh. Không có nó, giống như khi người ta mua một chiếc ô tô, một
quan hệ đối lập sẽ được hình thành và cả hai bên đều không cảm thấy vui vẻ khi mỗi
bên đều cố gắng kiếm lợi nhuận cho mình. Người mua muốn một chiếc xe tốt nhất có
thể với giá thấp nhất có thể, trong khi đó người bán đang cố gắng móc túi nhiều tiền
nhất mà anh ta có thể.
Sự tin tưởng cho phép bác sĩ răng hàm mặt hoàn thành kế hoạch điều trị tốt nhất
cho bệnh nhân, và bệnh nhân cũng cảm thấy thoải mái khi nhận được sự điều trị ấy.
Mối quan hệ đối lập cũng không thể tồn tại trong răng hàm mặt. Nhưng khi mà nhiều
nhà quản lí và nhân viên được đào tạo để bán được nhiều dịch vụ hoặc cảnh bệnh nhân
ngã giá cho các dịch vụ là kết quả không thể tránh khỏi của quảng cáo, nó đã diễn ra từ
rất sớm khi người ta dùng những tờ quảng cáo trước đây. Có thể nói ngày nay yếu tố
tin tưởng trong mối quan hệ bệnh nhân và bác sĩ đang được thử thách một cách khắc
nghiệt, làm cho nghề nghiệp của chúng ta ngày càng bị xã hội chỉ trích và nhắc đến
vấn đề y đức.
7.2. Những tuyên bố gây hiểu nhầm
Sau sự tin tưởng, cần hạn chế nhất các yêu cầu gây hiểu nhầm nghiêm trọng
trong ngành. Thường thì, những dự định ban đầu chỉ là làm cho bệnh nhân tin rằng bác
sĩ X giỏi hơn bất cứ bác sĩ răng hàm mặt nào trong một lĩnh vực đặc biệt nào đó. Điều
này vi phạm vấn đề đạo đức nghề nghiệp vì nói xấu người khác và những nhận xét
không có bằng chứng. Với vấn đề đồng nghiệp, bất cứ một nỗ lực nào chứng minh
mình vượt trội hơn đồng nghiệp đều là sai, và tất nhiên không mang tính nghề nghiệp,
thậm chí là phi đạo đức.
7.3. Tiêu đề
Thành phần cốt lõi thứ ba của đạo đức trong quảng cáo đó là nói ra nhưng phải
có năng lực chuyên môn và khả năng thực hiện, và không ám chỉ một ai là chuyên gia
nếu người đó không có khả năng như vậy. Trong cuộc đua để theo đuổi các nguyên tắc
kinh doanh (chính ra không nên áp dụng trong lĩnh vực sức khỏe), rất nhiều đồng
nghiệp của chúng ta đã vượt quá ranh giới ấy. Công chúng thường không nghi ngờ và
không hiểu rõ về các lĩnh vực chuyên sâu, do đó dễ dàng bị lừa dối bởi sự phóng đại.
Ví dụ như một phòng khám gọi là “trung tâm chuyên gia implant” nhưng lại không có
một bác sĩ răng hàm mặt nào thực sự chuyên về implant, như thế có thể nói đó là một
sự lừa dối. Vấn đề nằm ở câu hỏi: Liệu công chúng có bị nhầm lẫn khi nghĩ rằng
những bác sĩ răng hàm mặt trong quảng cáo trên thực sự là chuyên gia trong lĩnh vực
ấy? Do vậy nếu quảng cáo không đúng sự thật thì có thể nói đó là quảng cáo phi đạo
đức.
7.4. Trung thực và thành thật
Trách nhiệm của bác sĩ răng hàm mặt là làm hết kĩ năng và năng lực của mình
với một thái độ trung thực và thành thật, không đưa ra bất cứ gợi ý nào mà có thể làm
bệnh nhân đưa ra các yêu cầu có nghi vấn về lĩnh vực đạo đức. Những tuyên bố chủ

150
quan về chất lượng dịch vụ hoặc chất lượng tương đối của điều trị nên được tránh
không nhắc đến. Ví dụ nhiều phòng khám cố gắng tránh xa chuyện này bằng cách chỉ
gọi mình là “răng hàm mặt tiên tiến”, trong khi mọi người lại chỉ tìm kiếm trên
internet những bác sĩ răng hàm mặt tự gọi mình là “bác sĩ răng hàm mặt thẩm mỹ hàng
đầu”. Làm sao chúng ta biết rằng họ là tốt nhất? Vậy thì những đồng nghiệp khác nên
gọi mình là gì? Cũng có thể là chất lượng dịch vụ ở một phòng khám nào đó tốt hơn
các phòng khám ở vùng lân cận, nhưng làm sao chứng minh được điều đó khi không
có chứng cứ xác thực nào.
Trong chính sách về quảng cáo, cộng đồng nha sĩ Mỹ (ACD) cũng đã nhấn mạnh
trách nhiệm của công chúng là phải xem xét lại các chỉ định nếu như chú ý thấy trong
thông tin quảng cáo chứa những điểm nghi vấn như “chứa sự đề cập đến hay ám chỉ về
chất lượng dịch vụ răng hàm mặt nói chung hay một mảng nào đó hơn những phòng
khám khác mà điều này là không được xác minh chính xác”. ADA cũng đã làm rõ điều
này khi tuyên bố rằng: “Để phục vụ công chúng một cách hợp lí, bác sĩ răng hàm mặt
nên giới thiệu mình theo cách mà có thể xây dựng được hình ảnh nghề nghiệp. Bác sĩ
răng hàm mặt không nên xuyên tạc trình độ đào tạo hay năng lực của mình bằng bất cứ
hình thức nào, điều này có thể dẫn đến hiểu nhầm cả các thông tin liên quan. Dù rằng
bất cứ bác sĩ răng hàm mặt nào cũng có thể quảng cáo, nhưng không bác sĩ răng hàm
mặt nào có quyền quảng cáo hay lôi kéo bệnh nhân bằng bất cứ hình thức giao tiếp
nào, mà có thể gây hiểu nhầm hoặc sai lệch các thông tin ở các mặt khác”.
7.5. Chất lượng và bằng cấp
Việc để những chữ cái thể hiện trình độ bằng cấp nhưng lại không liên quan đến
y tế sau tên của mình là một cách khác có khả năng gây hiểu nhầm cho công chúng. Ở
Mỹ, nha sĩ có thể được mang danh là “bác sĩ” hay “nha sĩ”, hoặc một trong những
bằng cấp thường thấy như bác sĩ răng hàm mặt(Doctor of dental Surgegy - DDS) hay
bác sĩ phẫu thuật (Doctor of medicine surgegy – DMS) (chứ không như chúng ta
thường thấy, bác sĩ và bằng cấp thêm, như thế là dư thừa), thêm vào một bằng cấp cao
hơn nào như thạc sĩ khoa học (master of sience - MSc) hoặc tiến sĩ (PhD), những thứ
được trao tặng có liên quan đến lĩnh vực y tế. Do đó bác sĩ y khoa (medical doctor -
MD) là chấp nhận được, còn những từ viết tắt khác chỉ được chấp nhận nếu như có
liên quan đến răng hàm mặt hay y tế. Tương tự như vậy, tiến sĩ trong lĩnh vực nghiên
cứu vi khuẩn trong môi trường miệng có thể được đề cập đến nhưng không dành cho
những người nghiên cứu lí thuyết. Đó là điều hiển nhiên.
Việc sử dụng các bằng cấp không liên quan đến y tế khi công bố cho cộng đồng
có thể dẫn đến hiểu nhầm bởi vì công chúng thường cho rằng những bằng cấp này liên
quan đến chất lượng của bác sĩ răng hàm mặt và phòng khám.
Rõ ràng, một người chỉ được sử dụng những bằng cấp và giải thưởng trong lĩnh
vực y tế, thực hành y tế, và không phải là các bằng cấp “công nghiệp” khác. Một vài
năm trước, một tác giả thường xuyên viết cho tạp chí của hiệp hội răng hàm mặt Hoa
Kỳ đã thêm bằng thạc sĩ sau tên của anh ấy trên tựa đề của một bài báo. Từ
MA(Master of Arts) ấy sau đó bỗng nhiên biến mất (trong khi từ đó là được phép) và
các bài báo vẫn tiếp tục được xuất bản đã đặt ra một câu hỏi. Thực ra bằng cấp ấy đã
được trao đổi từ một bằng cấp ngành khác nhưng được sử dụng để đánh bóng tên tuổi

151
và chất lượng của tác giả. Và sự sai phạm này là vấn đề lớn như chúng ta đã nói,
nhưng lại không đủ nghiêm trọng để tạp chí có thể mất đi một nguồn bài viết như vậy.
7.6. Cộng đồng nha sĩ Mỹ
Cộng đồng nha sĩ Mỹ, một tổ chức uy tín, đã đi đầu trong việc thúc đẩy đạo đức
trong nghề nghiệp. Vị trí của nó trong quảng cáo rất rõ ràng: trong khi nhận ra rằng
quảng cáo là hợp pháp, cộng đồng nha sĩ Mỹ không khuyến khích hoặc ủng hộ những
quảng cáo bởi nha sĩ, và cảm thấy rằng bất cứ hình thức quảng cáo nào của nha sĩ cũng
làm giảm giá trị của nghề nghiệp, không mang lại lợi ích tốt nhất cho nghề nghiệp và
không phù hợp với nhận thức nghề nghiệp.
Tuy nhiên, hội đồng cũng nhận ra rằng quảng cáo là tất yếu và khi được thực
hiện hợp lí có thể giúp mọi người hiểu rõ hơn về những dịch vụ răng hàm mặt có sẵn
cho họ và làm sao để tiếp cận với chúng. Hội đồng răng hàm mặt Mỹ tuyên bố rằng
quảng cáo nên được thiết kế để tăng sự tự tin của người dân với răng hàm mặt và với
các bác sĩ nha nói riêng, và không nên làm họ nhầm lẫn bằng bất cứ cách nào. Đặc biệt
là quảng cáo nên tránh tạo ra những mong đợi sai lầm về những kết quả điều trị tuyệt
vời và không nên nhắm vào nỗi sợ hãi của người dân.
Quảng cáo trong răng hàm mặt đều có những điểm tốt và xấu khác nhau. Về mặt
tích cực, nha sĩ có thể đưa thông điệp của mình ra rộng khắp và bệnh nhân có thể có
lợi từ những thông tin đáng quan tâm về trình độ của nha sĩ, kỹ năng và sở trường. Mặt
khác, quảng cáo có thể làm nghề nghiệp như một cuộc giao dịch. Nhầm lẫn, hiểu sai
và lừa dối không chỉ ảnh hưởng đến một nha sĩ nhất định, mà nó còn lan ra nhiều
người khác trong nghề. Quảng cáo nên chuyên nghiệp, trung thực mang tính cung cấp
thông tin và chính xác để thực sự truyền đạt được ý nghĩa của một nghề truyền thông,
mục đích của nó là phục vụ công chúng. Lòng tin và sự tự chủ, đã trở thành một luật
bất thành văn, đã được các đồng nghiệp trước đó của chúng ta xây dựng rất khó khăn.
7.7. Xuất bản răng hàm mặt
Trong khi đã được chú ý nhiều đến việc những nhà nghiên cứu không trung thực
và không đạo đức bởi làm vội vàng, thiếu kiểm soát thậm chí bịa số liệu, cũng có
những người cố gắng đưa ra những xuất bản mang tính thương mại nhưng lại làm
chúng trông như một báo cáo khoa học. Tác giả đưa vào một vài tham khảo để làm bài
báo trông có vẻ khoa học và chuẩn mực giống như đã được hội đồng thẩm định để che
đậy mục đích thật sự. Cũng như vây, rất nhiều bài báo trên các tạp chí là bịa đặt bởi
những công ty vật liệu răng hàm mặt. Một loạt các bác sĩ răng hàm mặt được trả tiền
để in tên mình trên bài báo mà mình không viết hoặc tham gia và không chứng thực
nội dung.
Một số quảng cáo được tài trợ bởi một vài bác sĩ răng hàm mặt thích quảng bá,
điều này có thể dễ dàng tìm thấy. Ví dụ một người tự giới thiệu là “bác sĩ răng hàm
mặt phục hình và thẩm mỹ duy nhất với chứng chỉ thật”. Điều đó có nghĩa những
người khác là giả? Những mẩu quảng cáo trên chắc chắn không trung thực.
7.8. Sao chép
Sao chép và kéo dài một nghiên cứu thành nhiều ấn phẩm là một vấn đề đạo đức
nghiêm trọng trong xuất bản răng hàm mặt ngày nay. Mọi người nhận thức được sự dễ
dàng trong việc sao chép một bài báo từ trên mạng. Rất nhiều thông tin miễn phí sẵn
152
có và có thể được chuyển vào thành một tài liệu của tác giả khác với một hình thức
trình bày khác. Những sai lầm hoặc sao chép có mục đích như vậy là đạo văn và phi
đạo đức.
Xuất bản kép cũng là một vi phạm đạo đức nghiêm trọng khác. Tức là hai bài
báo giống hệt nhau được chuẩn bị và nộp cho hai tạp chí khác nhau, đặc biệt khi người
ta đã phải kí vào một bản thỏa thuận nói rằng tác phẩm này chưa được xuất bản hay
nộp cho một nơi nào khác. Năm 1988, chủ biên của tạp chí Quintessence International,
trở thành người có liên quan trong một vụ việc xuất bản kép trắng trợn. Một đồng
nghiệp đã nộp đồng thời cùng một bản nghiên cứu vào cùng một thời điểm cho
Quintessence International và một tạp chí khác, Gerodontics. Tác giả của bài báo đó từ
chối rằng những bài báo đó là giống hệt nhau, và cho rằng người bên tạp chí
Gerodontics hướng vào thành phần dân số già hơn. Không khó để nhận ra những sự
giải thích trên, số liệu và phần lớn của bài báo là tương tự giống nhau. Đó là việc tác
giả của bài báo là cố vấn cho một công ty chuyên sản xuất bàn chải đánh răng được đề
cập đến trong bài báo, sau đó có một sự xung đột về lợi ích rõ ràng nhưng không được
đề cập. Cả hai bài báo sau đó đều bị rút lại.
Những trường hợp nghiêm trọng hơn trong hành vi nghiên cứu đã được thảo
luận trước đó.
8. Đạo đức trong ngành công nghiệp vật liệu răng hàm mặt
Đạo đức của việc chế tạo và buôn bán vật liệu răng hàm mặt là gì? Ranh giới để
bạn quyết định khi nào thì buôn bán những sản phẩm đặt vào cơ thể con người?
Có rất nhiều công ty chế tạo vật liệu răng hàm mặt, từ các tập đoàn quốc tế tới
những công ty gia đình nhỏ. Những vật liệu răng hàm mặt từ những cơ sở sản xuất có
trụ sở tại Mỹ được bán khắp thế giới, do đó có thể nói nó có ảnh hưởng toàn cầu.
Ngành công nghiệp chế tạo vật liệu răng hàm mặt trong những thập kỉ gần đây đã đánh
dấu những thành công vượt bậc nhưng cũng có những thất bại đáng kể. Ai có thể quên
được Antglass (là loại Polyglass đầu tiên) khi sử dụng đã gây nên một rắc rối lớn. Rất
nhiều bác sĩ răng hàm mặt đã bị những tổn hại tài chính lớn để khắc phục sai lầm mặc
dù lỗi lầm không phải do họ. Sau đó “composite đông đặc” – một bước tiến sai lầm
của các nhà sản xuất, những người muốn nhanh chóng thay thế thị trường amalgam
bằng nhựa composite, vật liệu mang tính thương mại và đã thất bại ở những bản thử
nghiệm đầu tiên. Chúng ta đều biết rõ rằng những vật liệu này không thể đông đặc
theo cách mà amalgam đông đặc. Vậy mà quảng cáo đã thổi phồng lên rằng “thực sự
đông đặc”. Một dẫn chứng khác, khi giới thiệu nó vào năm 1997, có thể hàn một lỗ
hàn lớn, rộng và sâu 5mm, đây là một sự so sánh không công bằng với những vật liệu
khác, và trong 16 năm tiếp theo, công ty vẫn luôn nhắc lại khẳng định đó trong thị
trường vật liệu. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng loại sản phẩm này chỉ hàn
được lỗ hàn sâu 2,53mm, thí nghiệm của Knoop chứng tỏ điều đó. Nếu đặt trực tiếp,
nó không thể đặt được với độ sâu này.
Đây là những dẫn chứng cổ điển về việc các nhà sản xuất thúc đẩy việc sử dụng
vật liệu của họ mà không đưa ra được các bằng chứng chứng minh chất lượng của nó.
Với việc kiểm soát hợp lí, sẽ không có những sai lầm này trên thị trường. Thử
nghiệm trước nên được tiến hành chặt chẽ để tránh các thiếu sót rõ ràng như vậy và
kéo dài được tuổi thọ của vật liệu trong môi trường miệng, buộc các nhà máy phải tự
153
tiến hành các thử nghiệm thích hợp trước khi tung ra thị trường. Thực tế không phải
luôn luôn như vậy, bằng việc thất bại, sự thực hành của chúng ta đã trở thành những
thử nghiệm cơ bản cho những vật liệu mới. Việc thích ứng của chúng ta là phi đạo đức
dưới áp lực cạnh tranh. Do đó nhiều sản phẩm tồn tại một thời gian rất ngắn trên thị
trường sau đó bị rút lại và thay thế bởi một bản sửa đổi cho đến khi nhà sản xuất làm
lại nó tốt nhất. Khi đó, bệnh nhân cần phải thay vật liệu hàn trong khi bác sĩ không biết
giải thích tại sao nó phải bị thay mặc dù mới hàn một tháng trước đó.
Điều đáng chú ý ở đây là nghịch lí của các tiêu chuẩn nghề nghiệp, nó khuyến
khích bác sĩ răng hàm mặt không được chỉ trích công việc của nhau cho người ngoài
biết. Tôi được giáo dục phải tin rằng thật là phi đạo đức khi mình chỉ trích bác sĩ răng
hàm mặt khác trước mặt bệnh nhân của họ, thay vào đó, mình nên gọi cho bác sĩ ấy và
hỏi rõ về việc điều trị. Điều ấy là rất tốt nếu đấy là những trường hợp điều trị không
hợp lí, không tốt hay điều trị quá mức đầu tiên. Nhưng tôi tin rằng cũng bởi các tiêu
chuẩn của nghề nghiệp, các bác sĩ răng hàm mặt buộc phải cảnh báo nếu những trường
hợp trên lặp đi lặp lại. Không làm như thế với tôi lại là phi đạo đức. Bỏ qua cho những
trường hợp điều trị quá mức hay không hợp lí sẽ có khả năng làm hại bệnh nhân đó
hay bệnh nhân tiếp theo tới điều trị, và những điều trị sai một cách hiển nhiên này nên
được báo cáo tới hội đồng răng hàm mặt hoặc cho các cơ quan quản lý.
Kết luận
Điều gì làm nên nghề nghiệp? Theo McCullough, khái niệm của một nghề có thể
được miêu tả như là “công chúng, không vi phạm lời hứa rằng sẽ bỏ qua tư lợi cá
nhân, bỏ qua lợi ích của nhóm bác sĩ để bảo vệ và thúc đẩy lợi ích tốt nhất của những
người phục vụ trong ngành răng hàm mặt”. Nếu chúng ta vi phạm cam kết này, răng
hàm mặt sẽ trở thành thương mại, chúng ta làm việc chỉ để kiếm tiền.
Với sự ra đời của kỹ thuật etching acid và sự phát triển của nhựa composite đầu
tiên bởi Bowen, một mảng của răng hàm mặt bảo tồn và can thiệp tối thiểu có thể được
thực hiện. Bằng việc duy trì tiêu chuẩn của hành vi đạo đức cá nhân, mỗi chúng ta phải
cố gắng để tác động tới thế hệ bác sĩ răng hàm mặt trong tương lai để trở thành các
chuyên gia y tế có đạo đức. Chúng ta nên cỗ vũ thế hệ bác sĩ răng hàm mặt trẻ điều trị
bệnh nhân của họ mà không vi phạm đạo đức nghề nghiệp, để họ hiểu hơn về ranh giới
giữa lợi nhuận và việc chăm sóc bệnh nhân. Bác sĩ răng hàm mặt phải áp dụng tiêu
chuẩn đạo đức vào tất cả những vấn đề liên quan đến chăm sóc sức khỏe và xem sức
khỏe răng miệng của mọi người là một phần trong sức khỏe chung của họ. Như Jon
Huntsman nói trong tựa đề một cuốn sách của ông “người chiến thắng không bao giờ
lừa dối”.
“Có thể không bác sĩ răng hàm mặt nào có khả năng thay đổi mọi thứ trong
nghề nghiệp, nhưng chúng ta có sức mạnh để thay đổi gì đó, và đó là nhiệm vụ của
chúng ta”.
CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ
Câu 1: Trình bày các vấn đề cần có trong quảng cáo thẩm mỹ răng hàm mặt
Câu 2: Trình bày các nguyên tắc cơ bản trong đạo đức răng hàm mặt thẩm mỹ
Câu 3: Trình bày một số chú ý về đạo đức trong ngành sản xuất vật liệu răng hàm mặt
Câu 4: Trình bày một số chú ý về đạo đức trong xuất bản răng hàm mặt
154
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Hinh (2012), Đạo đức nghề Y (Giáo trình dành cho hệ cử nhân),
Trường Đại học Y Hà nội, Viện Đào tạo Y học dự phòng và y tế công cộng, Bộ
môn Y Đức –Y xã hội học. Nhà xuất bản y học.
2. Nguyễn Đức Hinh, Nguyễn Thị Thuý Hạnh, Lê Minh Giang (2012), Đại cương
nhân học và xã hội học y tế (Giáo trình dành dùng cho sinh viên y học dự
phòng và y tế công cộng), Trường Đại học Y Hà nội, Viện Đào tạo Y học dự
phòng và y tế công cộng, Bộ môn Y Đức –Y xã hội học. Nhà xuất bản y học.
3. Phạm Thị Minh Đức (2014), Tâm lý và đạo đức y học (dùng cho đào tạo cử
nhân điều dưỡng), nhà xuất bản giáo dục Việt nam.
4. Nguyễn Huỳnh Ngọc (2015), Tâm lý học, Y học-Y Đức (dùng cho đào tạo Cao
đẳng Y học), Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo- Bộ y tế, Nhà xuất bản giáo
dục Việt nam.
5. Bộ y tế, Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học (2013).
Hướng dẫn quốc giá về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học.
6. American College of Dentists (2012), Ethics handbool for dentists.
7. The Division of Clinical Psychology (2009), The British Psychological Society,
clinical psychology in dentistry, a guide to commissioners of clinical
psychology service
8. Nguyễn Văn Nhận, 2006. Tâm lý học Y học. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 388
trang.
9. Ruth Freeman, 1999. Communicating effectively: some practical suggestions.
British Dental Journal 1999; 187, 240-244p
10. CSDA. Patient communications: A guide for dentists
11. Effective communication and Influence in Dentistry. Course Design and
Workbook Anthony Asquith 2009.
12. Youn-Soo Shim, Ah-Hyeon Kim, Eun-Young Jeon, So-Youn An (2015),
Dental fear & anxiety and dental pain in children and adolescents; a systemic
review, J Dent Anesth Pain Med 2015;15(2):53-61.
13. Bộ Y tế (1996). 12 điều Y đức. Quy định về Y đức.
14. Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1993. Pháp lệnh hành
nghề y dược tư nhân.
15. Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác. 1997. Y huấn cách ngôn - Hải Thượng Y
Tông Tâm Lĩnh. Nhà xuất bản y học, 25-26
16. Nguyễn Văn Tường, Lê Nam Trà, Đỗ Đức Vân và cộng sự. (2006). Đạo đức
trong nghiên cứu y sinh học. Nhà xuất bản y học.
17. Phạm Thị Minh Đức, Trần Thị Thanh Hương, Lê Thu Hòa (2004): Đạo đức
trong thực hành lâm sàng và nghiên cứu y học. Tài liệu giảng dạy của Bộ môn
Giáo dục y học, Trường Đại học Y Hà Nội.

155
MÔ HÌNH RA QUYẾT ĐỊNH ĐẠO ĐỨC TRONG RĂNG HÀM MẶT
VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG THẨM MỸ NHA KHOA
Mã bài giảng: TBL
Đối tượng học tập : Y2RHM
Thời lượng: 02 tiết (100 phút)
Mục tiêu học tập:

1. Nêu được các bước trong mô hình 6 bước ra quyết định đạo đức.
2. Nguyên lý mô hình 4 hộp và các tình huống khó xử trong đạo đức nha khoa.
3. Nêu được các tình huống khó xử chính về đạo đức trong nha khoa.
4. Mô tả được đặc điểm của đạo đức trong thẩm mỹ nha khoa.

A. MÔ HÌNH RA QUYẾT ĐỊNH ĐẠO ĐỨC TRONG RĂNG HÀM MẶT


1. Đại cương

Các mô hình ra quyết định có đạo đức cung cấp một cơ chế gợi ý cho tư duy phản biện và lập kế
hoạch để giải quyết các tình huống khó xử về đạo đức. Mô hình ra quyết định có đạo đức là
một công cụ có thể được sử dụng bởi các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe để giúp phát
triển khả năng suy nghĩ thông qua một tình huống khó xử về đạo đức và đi đến một quyết định
có đạo đức. Một số mô hình được trình bày trong tài liệu đạo đức học, hầu hết đều giống nhau
về thiết kế và nội dung. Mục tiêu của mỗi mô hình là cung cấp một khuôn khổ để đưa ra quyết
định tốt nhất trong một tình huống cụ thể mà nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phải đối
mặt. Hầu hết các mô hình này sử dụng lý luận dựa trên nguyên tắc, một cách tiếp cận có nguồn
gốc từ công trình của các nhà triết học Beauchamp và Childress.
Các mô hình này xem xét các nguyên tắc, nghĩa vụ và giá trị đạo đức. Họ ủng hộ việc sử dụng
các nguồn như bằng chứng đã xuất bản, dữ liệu lâm sàng và tham khảo ý kiến của các đồng
nghiệp trong nha khoa. Một số mô hình này kết hợp bốn, năm hoặc bảy bước để giải quyết tình
huống khó xử nhưng tất cả đều hỗ trợ lý luận cẩn thận thông qua cấu trúc của mô hình quyết
định cho dù là trong thực hành riêng lẻ, cơ sở lâm sàng lớn hay các tổ chức liên quan đến răng
hàm mặt.
Mô hình được đề xuất trong mô-đun này là một cách tiếp cận đơn giản gồm sáu bước dựa trên
tài liệu về việc ra quyết định như Atchison và Beemsterboer diễn giải và được sử dụng từ đầu
những năm 1990 với sinh viên nha khoa và vệ sinh răng miệng trong một khóa học đạo đức kết
hợp. Đây là một cách tiếp cận hợp lý dựa trên lý thuyết và nguyên tắc.Mô hình đã được sơ đồ
hóa như một vòng tròn để nhấn mạnh việc sử dụng thông tin và kinh nghiệm trong quá khứ vào
việc ra quyết định hiện tại và tương lai (Hình 1).

Hình 1. Mô hình ra quyết định 6 bước.

Quá trình ra quyết định rất linh hoạt và phát triển khi thông tin bổ sung trong quá trình ra quyết
định được bộc lộ và khai thác. Các nha sĩ và nhân viên vệ sinh răng miệng phải đối mặt với vô số
câu hỏi cần cân nhắc, đòi hỏi họ phải tuân theo quy tắc đạo đức và các giá trị và niềm tin của
bản thân trước khi đi đến quyết định. Quá trình đánh giá liên quan đến một tình huống khó xử
về đạo đức không khác gì quá trình xảy ra khi người hành nghề phải đối mặt với một vấn đề lâm
sàng hoặc khoa học. Chú ý cẩn thận và phân tích có hệ thống các bằng chứng, dữ kiện và chi tiết
sẽ giúp chuyên gia chăm sóc sức khỏe đưa ra quyết định phù hợp. Áp dụng mô hình ra quyết
định mang lại một công cụ để sử dụng trong suốt cuộc đời nghề nghiệp.

2. MÔ HÌNH RA QUYẾT ĐỊNH 6 BƯỚC


a. Bước 1: Xác định Vấn đề hoặc Thế lưỡng nan về đạo đức. Bước 1 là bước quan
trọng nhất trong quy trình vì nhận thức về một vấn đề phải xảy ra để chuyển qua các
bước. Nhiều tình huống không bao giờ được coi là vấn đề đạo đức hoặc tình huống
khó xử. Khi vấn đề đã được nhận ra, người ra quyết định phải trình bày rõ ràng và
ngắn gọn câu hỏi đạo đức, xem xét tất cả các khía cạnh thích hợp của vấn đề. Nếu
d one

Xaidilsemhost trandeco hay


->
câu hỏi đạo đức không đặt các nguyên tắc mâu thuẫn với nhau, thì đó là một vấn đề
đơn giản về đúng và sai và không cần quy trình ra quyết định về đạo đức. Không cần
thực hiện tiếp bước 2 nếu đã xác định rõ ràng đúng sai.
b. Bước 2: Thu thập thông tin. Người ra quyết định phải thu thập thông tin để đưa ra
quyết định sáng suốt. Đây có thể là thông tin thực tế về tình huống khi nó phát triển
và nó có thể đến từ nhiều nguồn. Thông tin về giá trị của các bên liên quan, bao gồm
cả giá trị của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, là cần thiết.
c. Bước 3: Đưa ra các lựa chọn thay thế. Sau khi thu thập tất cả các thông tin cần thiết,
người ta có thể tiến hành bước thứ ba, bao gồm động não để xác định càng nhiều
phương án hoặc phương án càng tốt. Thường thì quyết định tốt nhất không phải là
quyết định đầu tiên xuất hiện trong đầu. Ngoài ra, có xu hướng nghĩ rằng một câu
hỏi chỉ có một câu trả lời. Bước này buộc chúng ta phải dừng lại và xem tình huống
từ mọi góc độ để xác định những gì người khác quan sát như là phương án thay thế
cho vấn đề gặp phải. Cần phải có một tâm hồn khai sáng và cởi mở để nhận ra
thường xuyên hơn một câu trả lời cho một vấn đề tồn tại.
d. Bước 4: Áp dụng các Nguyên tắc Đạo đức cho các Lựa chọn. Tập trung vào các
nguyên tắc đạo đức (bệnh nhân tự quyết, từ thiện, không ác ý, công bằng, trung
thực) và các giá trị và khái niệm đạo đức (chủ nghĩa gia trưởng, tính bảo mật và sự
đồng thuận vv. . ). Nói chung, một hoặc nhiều trong số này sẽ liên quan đến bất kỳ
quyết định đạo đức nào.
Nêu rõ mỗi phương án sẽ ảnh hưởng như thế nào đến nguyên tắc hoặc quy tắc
đạo đức bằng cách phát triển một danh sách các ưu và nhược điểm. Trong cột ưu
điểm, hiển thị các lựa chọn thay thế bảo vệ hoặc giữ cho mỗi nguyên tắc hoặc giá trị
bất khả xâm phạm. Trong cột nhược điểm, hãy nêu cách một phương án thay thế có
thể vi phạm nguyên tắc hoặc giá trị. Làm điều này cho mỗi tùy chọn. Quá trình này
sẽ cho phép bạn xem những nguyên tắc đạo đức nào đang mâu thuẫn trong tình
huống này. Tham khảo quy tắc đạo đức thích hợp để được hướng dẫn. Thường
xuyên thảo luận vấn đề với một đồng nghiệp đáng tin cậy có thể giúp người ta đánh
giá toàn diện hơn về tình huống và các giải pháp tiếp theo.

e. Bước 5: Ra Quyết định. Khi mỗi phương án đã được vạch ra rõ ràng về ưu và nhược
điểm, thì rõ ràng một khuôn khổ hợp lý để đưa ra quyết định. Mỗi lựa chọn sau đó
phải được xem xét lần lượt, chú ý đến số lượng ưu và nhược điểm sẽ tham gia vào
mỗi quyết định. Sau đó, bác sĩ phải cân nhắc mức độ nghiêm trọng của khuyết điểm,
hãy nhớ rằng, với tư cách là một chuyên gia, họ có nghĩa vụ đặt lợi ích của bệnh
nhân lên hàng đầu. Chỉ đơn giản bằng cách xem xét các lựa chọn một cách cẩn thận,
giải pháp tốt nhất cho một tình huống khó xử về đạo đức thường trở nên hiển nhiên.
Trước khi thực hiện quyết định, người hành nghề nên xem lại từng nguyên tắc so với
quyết định để xem liệu quyết định có phù hợp với đánh giá này hay không.
f. Bước 6: Triển khai Quyết định. Bước cuối cùng bao gồm hành động theo quyết định
đã được đưa ra. Quá trình quyết định sẽ vô ích nếu không có hành động nào được
thực hiện. Nhiều quyết định thích hợp không bao giờ được thực hiện vì bước này bị
bỏ qua. Hãy nhớ rằng không có hành động nào thể hiện sự chấp thuận ngầm đối với
một tình huống

3. CÁC MÔ HÌNH QUYẾT ĐỊNH ĐẠO ĐỨC KHÁC.


3.1. Mô Hình Bốn Ô

Một mô hình ra quyết định về đạo đức được sử dụng thường xuyên trong y học được gọi là Mô
hình Jonsen hoặc Mô Hình Bốn Ô. Mô hình này được phát triển bởi Tiến sĩ. Albert Jonsen, Mark
Siegler và William Winslade và đặc biệt hữu ích khi giải quyết các ca bệnh phức tạp. Các tác giả
mô tả khung này như một công việc về đạo đức tương tự như tiếp cận về bệnh sử và thực thể
khi đánh giá bệnh nhân lần đầu. Cách tiếp cận này sắp xếp và hiển thị các dữ liệu và câu hỏi có
liên quan theo một cách sắp xếp bốn miền. 4 ô, góc phần tư hoặc mô hình là: chỉ định y tế,
mong đợi của bệnh nhân, chất lượng cuộc sống và các đặc điểm theo bối cảnh.

Chỉ định Y khoa – Liên quan đến Quyền Không Mong đợi của bệnh nhân- Liên quan đến quyền tự
làm hại, Từ thiện quyết
1.
. Vấn đề răng miệng của bệnh nhân là gì? Vấn đề có Bệnh nhân đã được thông báo về lợi ích và
cấp tính không? Mãn tính? Nghiêm trọng? Có thể rủi ro, hiểu được các thông tin này và được
phục hồi? Nổi bật là vấn đề gì? bệnh nhân đồng ý chưa?
2. Bệnh nhân có đủ năng lực về mặt tinh thần
2. Mục tiêu của việc điều trị là gì? và năng lực pháp lý không, và có bằng
3. Những trường hợp, tình huống nào không được chứng về tình trạng mất khả năng lao động
chỉ định điều trị ? không?
3. Nếu có khả năng về mặt tinh thần, bệnh
4. Xác suất thành công của các lựa chọn điều trị nhân sẽ nêu rõ sở thích điều trị nào?
khác nhau như thế nào? 4. Nếu không có khả năng, bệnh nhân có bày
tỏ sở thích trước không?
5. Tóm lại, bệnh nhân này có thể được hưởng lợi 5. Ai là người đại diện thích hợp để đưa ra
như thế nào khi được chăm sóc y tế và điều dưỡng, quyết định cho bệnh nhân mất khả năng lao
và làm thế nào để tránh được tác hại? động?

Chất lượng cuộc sống_ Liên quan đến Quyền tự Đặc điểm về hoàn cảnh-Liên quan đến Quyền
chủ, Không gây hại, Từ thiện Công bằng

1. Triển vọng, dù có hoặc không điều trị, để trở lại


cuộc sống bình thường, và những thiếu hụt về thể 1. Có các bên nào khác ngoài bác sĩ lâm sàng
chất, tinh thần và xã hội mà bệnh nhân có thể trải và bệnh nhân, chẳng hạn như thành viên gia
qua ngay cả khi điều trị thành công? đình, những người quan tâm đến các quyết
định lâm sàng không?
2. Dựa trên cơ sở nào mà mọi người có thể đánh giá 2. Các giới hạn áp đặt đối với bảo mật của
rằng một số chất lượng cuộc sống sẽ là không mong bệnh nhân bởi lợi ích hợp pháp của bên thứ
muốn đối với một bệnh nhân không thể đưa ra hoặc ba là gì?
bày tỏ một nhận định như vậy? 3. Có các yếu tố tài chính tạo ra xung đột lợi
ích trong các quyết định lâm sàng không?
3. Có những thành kiến nào có thể ảnh hưởng đến 4. Có các vấn đề về phân bổ các nguồn lực y
đánh giá của nơi cung cấp dịch vụ nha khoa về chất tế khan hiếm có thể ảnh hưởng đến các
lượng cuộc sống của bệnh nhân không? quyết định lâm sàng không?
4. Những vấn đề đạo đức nào phát sinh liên quan 5. Có các vấn đề tôn giáo có thể ảnh hưởng
đến việc cải thiện hoặc nâng cao chất lượng cuộc đến các quyết định lâm sàng không?
sống của bệnh nhân? 6. Các vấn đề pháp lý có thể ảnh hưởng đến
các quyết định lâm sàng là gì?
5. Đánh giá chất lượng cuộc sống có đặt ra bất kỳ 7. Có các vấn đề về sức khỏe và an toàn cộng
câu hỏi nào liên quan đến những thay đổi trong kế đồng ảnh hưởng đến các quyết định lâm
hoạch điều trị? sàng không?
8. Có xung đột lợi ích trong các cơ quan hoặc
tổ chức (ví dụ: bệnh viện) có thể ảnh hưởng
đến các quyết định lâm sàng và phúc lợi của
bệnh nhân không?

Đánh giá tầm quan trọng của các sự kiện, ý kiến và hoàn cảnh trong bối cảnh các vấn đề đạo
đức phức tạp là một công việc đầy thách thức và khó khăn. Đây là điều mà khung mô hình ra
quyết định có đạo đức có thể cung cấp cho bác sĩ lâm sàng - một cách tiếp cận để giải quyết vấn
đề.
3.2. Các vấn đề đạo đức chung và tình huống khó xử
Tình trạng khó xử về đạo đức trong nha khoa phổ biến như thế nào? Đó là một câu hỏi rất khó
trả lời vì nhận thức và nhận thức về các vấn đề đạo đức khác nhau ở mỗi cá nhân liên quan.
Không có nghiên cứu hoặc bằng chứng nào ghi lại khối lượng của các vấn đề. Tuy nhiên, Hội
đồng Nha khoa thường viện dẫn đạo đức là nguyên nhân trong các trường hợp được các cơ
quan này xem xét. Mỗi tình huống liên quan đến con người sẽ là duy nhất vì mỗi vấn đề hoặc
tình huống tiến thoái lưỡng nan sẽ có các khía cạnh khác nhau. Danh sách sau đây cung cấp các
danh mục chung đã được thừa nhận là tình huống khó xử về đạo đức trong tài liệu đạo đức nha
khoa.
Các loại tình huống khó xử về đạo đức
• Vi phạm về quyền bảo mật
• Thất bại khi tiết lộ những sai lầm về nha khoa
• Điều trị quá mức và điều trị nha khoa kém chất lượng
• Yêu cầu cung cấp tài liệu gian lận
• Yêu cầu liên quan đến thuốc gây mê
• Yêu cầu điều trị không phù hợp
• Tiếp thị và quảng cáo nha khoa lừa đảo
• Đồng nghiệp thiếu trung thực hoặc không trung thực
• Những thách thức với năng lực và đồng thuận sau khi được giải thích
• Xung đột hoặc hành vi phi đạo đức giữa các bác sĩ lâm sàng
• Những thách thức phát sinh từ các vấn đề quản lý, tài chính hoặc pháp lý

Phạm vi và độ sâu của các vấn đề đạo đức trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc nha khoa sẽ
khác nhau rất nhiều. Nhận thức rõ ràng hoặc nhận thức được rằng một vấn đề đạo đức đang
hiện hữu luôn là bước đầu tiên, tiếp theo là xác định các khía cạnh của vấn đề. Mọi tình huống
lâm sàng đều có khía cạnh đạo đức.

KẾT LUẬN:

Các quyết định đạo đức cẩn thận có thể được tạo điều kiện rất nhiều nhờ cấu trúc của một mô
hình ra quyết định có đạo đức. Bước đầu tiên là xác định câu hỏi đạo đức là gì, nhận thức được
điều gì đang bị đe dọa về mặt đạo đức / đạo đức trong một tình huống. Các bước được sắp xếp
để cho phép lập luận và các kỹ năng phản xạ khác dẫn đến phán đoán về những việc phải làm,
dựa trên các sự kiện, giá trị và nguyên tắc. Việc thực hiện một hành động đòi hỏi phải có động
cơ và niềm tin đạo đức để tuân theo tiến trình hành động đã thiết lập.

B. MÔT SỐ ĐẶC ĐIỂM ĐẠO ĐỨC TRONG THẨM MỸ NHA KHOA


1. Đặc điểm về nguyên tắc
Các tiêu chuẩn về đạo đức có thể được coi là một quy chuẩn về phẩm hạnh cá nhân,
đưa ra một tập hợp các nguyên tắc để hướng dẫn hành vi. Tất cả chúng ta, những người
thuộc các ngành nghề chữa bệnh hoặc chăm sóc đều mong muốn chăm sóc bệnh nhân
của chúng ta vì lợi ích tốt nhất của họ, mọi lúc. Đây là nghĩa vụ mà xã hội đặt lên chúng
ta, để đổi lại niềm tin mà xã hội đặt vào tay chúng ta.

Mối quan hệ giữa bác sĩ / bệnh nhân được củng cố bởi một số nguyên tắc cơ bản,
nguyên tắc đầu tiên trong số đó là "lợi ích" - nghĩa là làm điều tốt và hành động vì lợi ích
tốt nhất của bệnh nhân - và "không làm hại" - nghĩa là không gây hại. Nguyên tắc này bắt
nguồn từ lời thề Hippocrate, "Đầu tiên và quan trọng nhất, đừng làm hại". Điều này
được hỗ trợ thêm bởi một nguyên tắc phụ là đi kèm các nguyên tắc nghiêm khắc hơn để
điều trị các điều kiện khó khăn hơn.
Hai từ ‘aesthetic’ và ‘cosmetic’ dường như được sử dụng rất phổ biến trong phẫu thuật
và nha khoa và thường thay thế cho nhau. ‘Cosmetic’ xuất phát từ từ tiếng Hy Lạp
Cosmeticos và thường ngụ ý tạm thời, bề ngoài hoặc có thể đảo ngược. ‘Aesthetic’ bắt
nguồn từ từ tiếng Hy Lạp Aestheticos và liên quan đến nhận thức, triết lý hoặc cấu trúc
của cái đẹp. Với ý nghĩa sâu xa hơn của nó, thuật ngữ ‘thẩm mỹ’ có thể được giới y khoa
ưa chuộng.

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà những kỳ vọng về văn hóa và xã hội khác
nhau liên kết vẻ đẹp và ngoại hình với sự hấp dẫn, tuổi trẻ, thành công và địa vị. Thêm
vào đó, với sự hiện diện của lượng thông tin sẵn có ngày càng tăng nhanh chóng, những
người đang tìm kiếm các thủ thuật thẩm mỹ đã nhu cầu và kỳ vọng ngày càng cao. Họ
cũng có thể coi mình là người tiêu dùng hơn là bệnh nhân. Bởi vì nha khoa thẩm mỹ có
thể được coi là một vấn đề liên quan đến "sức khỏe" của họ, họ coi việc đó là 'quyền'
của họ
2. Đặc điểm về quá trình:
Là nha sĩ, chúng ta gặp vấn đề và tình thế tiến thoái lưỡng nan về đạo đức khi phải đối
mặt với những bệnh nhân yêu cầu các phương pháp điều trị thẩm mỹ hoàn toàn là tự
chọn và không bắt buộc, chỉ đơn thuần là để cải thiện nụ cười hoặc vẻ ngoài. Điều này
đặc biệt xảy ra khi nó không có bất kỳ bệnh tật hoặc khuyết tật hoặc thiếu hụt chức
năng nào. Thực tế là nhiều quy trình có thể gây hại đáng kể và không thể phục hồi đối
với các mô sinh học hiện có. Nó đã được chứng minh rằng có thể loại bỏ tới 30% mô
cứng của răng để chế tạo veneer sứ, và từ 62% đến 73% có thể được loại bỏ trong quá
trình chuẩn bị cho chụp sứ toàn phần ở răng trước.

Có một số câu hỏi để tự hỏi chúng ta. Đầu tiên, chúng ta có đủ năng lực cần thiết để
thực hiện quy trình không? Năng lực có thể được coi là tổng hòa bởi kiến thức nha sĩ có
(phải cập nhật về vật liệu, kỹ thuật và phương pháp cũng như dựa trên bằng chứng) và
kỹ năng nha sĩ được đào tạo (bao gồm đào tạo thích hợp và kinh nghiệm đầy đủ).

Thứ hai, về mặt lập kế hoạch điều trị, có lựa chọn nào khác, ít xâm lấn hơn có thể đạt
được mục tiêu gần như tương tự hoặc tương tự và có thể được xem xét thay thế không?
Kế hoạch có dựa trên những gì là an toàn và thích hợp cho bệnh nhân cụ thể này không?
Phương án nào sẽ khả thi và tồn tại lâu nhất? Phương án nào sẽ gây ra các nguy cơ tối
thiểu trong tương lai? Những vấn đề nguy cơ này có thể được giải quyết như thế nào
nếu và khi chúng phát sinh? Toàn bộ quy trình có được thực hiện bằng các biện pháp và
phương pháp xâm lấn tối thiểu không?

Khi một bệnh nhân yêu cầu một loại điều trị nhất định, sự đồng thuận là một vấn đề
phức tạp. Bệnh nhân có đủ năng lực tinh thần và sự trưởng thành để tiếp thu, lĩnh hội,
phân tích và đánh giá tất cả các thông tin chúng ta đưa ra hay không? Bệnh nhân có đưa
ra sự đồng ý của họ một cách tự do, không có bất kỳ sự ép buộc tiềm thức hay sự ép
buộc tinh vi nào từ phía chúng ta không? Là những người chuyên nghiệp, chúng ta phải
tự đặt ra một số câu hỏi thích hợp cho bản thân.
- Người hành nghề đã đưa ra tất cả các lựa chọn và dữ kiện liên quan về rủi ro / lợi ích
và thất bại / thành công và tác hại tiềm ẩn, theo các tiêu chuẩn nghề nghiệp được chấp
nhận hiện hành?
Thực tế là nha khoa cũng là một ngành kinh doanh đối với nhiều người trong chúng ta.
Do đó có nhiều câu hỏi để hỏi.
-Tôi hoặc bất kỳ người nào trong nhóm của tôi đã làm bất cứ điều gì bằng bất kỳ hình
thức truyền thông nào (bao gồm các giải pháp quảng cáo nào dưới mọi hình thức) để tô
điểm hoặc quảng bá trình độ hoặc khả năng của tôi để khuyến khích việc thực hiện kế
hoạch điều trị được cung cấp?
-Tôi có cảm thấy thoải mái rằng tôi không có xung đột lợi ích về tài chính với những lời
khuyên mà tôi đã đưa ra không?
-Tôi có thể giải thích điều đó cho đồng nghiệp của tôi cũng giống với bệnh nhân không?
-Tôi có thể bảo vệ nó trước cơ quan quản lý nghề nghiệp của mình không?
- Tôi có sẵn sàng thực hiện phương pháp điều trị được đề xuất cho bệnh nhân như cho
bất kỳ thành viên nào trong gia đình thân thuộc của mình không?

Song song với sự gia tăng kiến thức nha khoa, trí thông minh và kỳ vọng của bệnh nhân,
chúng ta đã có sự dịch chuyển trong lĩnh vực y học từ thời đại mà người thầy thuốc với
vai trò bề trên hay tự quyết mà thiếu đi ý kiến của bệnh nhân sang một thời kỳ cộng tác
mà vai trò của bệnh nhân là trung tâm, cùng với ý kiến của bệnh nhân để phối hợp phân
tích đưa ra những quyết định hợp lý nhất. Vì vậy, việc khuyến khích chúng ta sẽ làm việc
trên tinh thần hợp tác hai bên với bệnh nhân để giúp hướng dẫn và cho phép họ đi đến
quyết định đúng đắn và phù hợp, đồng thời tôn trọng quyền tự chủ của họ.

Tuy nhiên, nếu sau khi đã trình bày trung thực và đầy đủ tất cả các thông tin, bệnh nhân
vẫn khăng khăng đòi tiến hành lựa chọn không phù hợp hoặc có hại mà nha sĩ chúng tôi
không đồng ý và không thoải mái khi thực hiện, thì chúng ta không chỉ có quyền từ chối
về mặt chuyên môn mà còn phải cũng cảm thấy tự do và không miễn cưỡng để làm như
vậy. Văn hóa và môi trường ảnh hưởng đến quyết định của bệnh nhân, thì đối với nha sĩ
kinh nghiệm và nền tảng giáo dục cũng ảnh hưởng nhiều đến quyết định của họ.

Điều này là phù hợp nhất khi đối mặt với tình huống khó xử về nghề nghiệp, bởi vì thái
độ và hành vi vượt quá trình độ học vấn và năng lực. Do đó, mức độ của chúng tôi trong
việc có thể tham gia vào công việc thẩm mỹ với bất kỳ nhược điểm nào phải được đánh
giá dựa trên từng trường hợp cá nhân và đặc biệt là vì lợi ích tốt nhất của bệnh nhân.
Điều này cuối cùng trở thành một vấn đề đối với lương tâm cá nhân của chúng ta, được
hướng dẫn bởi la bàn đạo đức nội tại của chúng ta. Điều này rất quan trọng, vì chúng ta
cần duy trì sự tôn trọng và tin tưởng thích hợp của những người mà chúng ta chăm sóc
và chăm sóc, để thuộc về và tiếp tục là một phần của một nghề xứng đáng và cao quý.
Lời khuyên
• Đảm bảo rằng bạn đã bao gồm tất cả các lựa chọn điều trị, ngay cả những lựa chọn mà
bạn có thể không xem xét trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
• Hãy chuẩn bị để giới thiệu bệnh nhân nếu lựa chọn của bệnh nhân được chọn vượt
quá lĩnh vực chuyên môn hoặc kinh nghiệm của bạn.
• Đảm bảo liệt kê những ưu điểm và nhược điểm của tất cả các lựa chọn điều trị.
• Việc tham vấn với bệnh nhân của bạn, theo dõi kế hoạch điều trị bằng văn bản và sau
đó cho phép bệnh nhân có cơ hội thảo luận về kế hoạch đó là một thông lệ tốt.
• Thông lệ tốt cho bệnh nhân là được thông báo về tất cả các chi phí có thể xảy ra không
chỉ cho việc điều trị mà còn cho bất kỳ sự duy trì nào cần thiết trong một khoảng thời
gian.

References
1 Mousavi SR. The ethics of aesthetic surgery. J Cutan Aesthet Surg. 2010 Jan-
Apr;3(1):38–40.2 Edelhoff D, Sorensen JD. Tooth structure removal associated with
various preparation designs for anterior teeth. J Prosth Dent. 2002 87:502–9.3 Kelleher
M, Djemal S, Lewis N. Ethical marketing in ‘aesthetic’ (‘esthetic’) or ‘cosmetic dentistry’
part 1. Dental Update. 2012;June:313–26.

You might also like