Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

MỤC LỤC

A. Mở đầu………………………………………………………………… 2
B. Nội dung……………………………………………………………….. 3
I. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận………………………………....3
1. Các quan điểm về lợi nhuận trước Mác……………………………. 3
1.1. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương……………. 3
1.2. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng nông………………. 3
1.3. Quan điểm về lợi nhuận của trường phái cổ điển Anh………….... 4
2. Học thuyết của Mác về lợi nhuận…………………………………... 5
2.1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa………………………………... 5
2.2. Bản chất của lợi nhuận………………………………………….... 6
2.3. Tỉ suất lợi nhuận………………………………………………….. 7
2.4. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất…………………………. 8
2.5. Các hình thức lợi nhuận………………………………………….. 9
2.5.1. Lợi nhuận công nghiệp……………………………………… 9
2.5.2. Lợi nhuận thương nghiệp…………………………………… 9
2.5.3. Lợi nhuận ngân hàng………………………………………. 10
2.5.4. Lợi tức cho vay…………………………………………….. 10
2.5.5. Địa tô………………………………………………………..10
II. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam…… 10
1. Sơ lược về nền kinh tế thị trường………………………………… 10
2. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam……….
11
3. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam…...12
3.1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển……………… 12
3.2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển…………………12
3.3. Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội……………......13
3.4 Lợi nhuận trong quan hệ kinh tế quốc tế………………………... 13
C. Kết luận……………………………………………………………… 15
Tài liệu tham khảo……………………………………………………….16

1
MỞ ĐẦU
Năm 1986, Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung kế
hoạch hóa, bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Trong quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, một loạt những phạm trù mới xuất hiện khác
hẳn với nền kinh tế bao cấp trước đây, đặc biệt là phạm trù lợi nhuận. Mọi
doanh nghiệp khi kinh doanh đều hướng tới mục tiêu cao nhất là lợi nhuận,
nó phản ánh cả về mặt lượng và chất toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá
trình sản xuất và kinh doanh. Lợi nhuận là căn cứ, là tín hiệu báo cho các
doanh nghiệp biết mình phải sản xuất loại hàng hóa - dịch vụ nào, với số
lượng bao nhiêu, sản xuất vào thời diểm nào, bán ở đâu, với giá bao
nhiêu…
Với tầm quan trọng như vậy, phạm trù lợi nhuận đã được các nhà kinh
tế từ trước đến nay quan tâm nghiên cứu để làm rõ các vấn đề về nguồn
gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế. Mỗi người có quan
điểm lập trường khác nhau, song nó phần nào đã thể hiện được các vấn đề
cơ bản của lợi nhuận. Trong đó phải kể đến C.Mác, ông đã nghiên cứu một
cách khoa học và sâu sắc về phạm trù này. Với chúng ta, đặc biệt là các nhà
kinh tế, nhà kinh doanh việc nghiên cứu lợi nhuận là cần thiết giúp cho các
doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định đúng đắn, tạo điều kiện phát huy
các tác động tích cực và hạn chế mặt trái của lợi nhuận.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa, một trong những vấn đề quan trọng cần phải làm là phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
Nhà nước để phát triển nền kinh tế đất nước. Trong quá trình này, phạm trù
lợi nhuận cần phải được nghiên cứu, vận dụng sao cho hợp lí để việc phát
triển kinh tế phải đi đôi với việc ổn định và thực hiện công bằng xã hội.
Với những kiến thức đã được học, em chọn viết đề tài nghiên cứu về
nguồn gốc, bản chất của lợi nhuân và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam.

2
NỘI DUNG
I. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
1. Các quan điểm về lợi nhuận trước Mác.
1.1. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai
cấp tư sản, ra đời trong thời kì tan rã của phương thức sản xuất phong kiến,
phát sinh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chuyển từ kinh tế hàng
hóa giản đơn sang kinh tế thị trường.
Học thuyết kinh tế trọng thương đánh giá cao vai trò của lưu thông và
tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải. Học thuyết này cho rằng
lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông, mua bán trao đổi sinh ra. Nó là kết quả
của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có. Nhưng trong giai đoạn
này các nhà kinh tế học chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông hàng hóa và lưu
thông tiền tệ. Vì vậy ở giai đoạn đầu, các nước tư bản đã đưa ra các chính
sách làm tăng của cải tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền không ra nước ngoài,
tập trung buôn bán để nhà nước dễ kiểm tra, bắt buộc các thương nhân
nước ngoài tập trung buôn bán phải dùng số tiền mà họ có mua hết hàng
hóa về nước họ… Ở giai đoạn sau, họ dùng chính sách xuất siêu để có
thêm chênh lệch, mang tiền ra nước ngoài để thực hiện mua rẻ bán đắt…
Với những chính sách đưa ra nhằm đạt lợi ích trên chỉ mang tính chất
bề mặt nông cạn, chứng tỏ quan điểm về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa
có “chiều sâu” thực chất. Chính điều này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong
nền kinh tế, đòi hỏi phải thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần túy,
phải phân tích kinh tế xã hội với tư cách là một chỉnh thể.
1.2. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng nông.
Học thuyết kinh tế của phái trọng nông ra đời với việc lý tưởng hóa
nông nghiệp, coi nông nghiệp là nguồn gốc của cải duy nhất làm giàu cho
xã hội và là cho xã hội loài người phát triển. Học thuyết kinh tế trọng nông
đã sai lầm cho rằng lợi nhuận chỉ có thể được tạo ra duy nhất từ lĩnh vực

3
nông nghiệp. Các nhà trọng nông ở Pháp, tiêu biểu là A.R.J. Turgot, trên cơ
sở lý thuyết sản phẩm thuần túy đã đưa ra lý thuyết tiền lương và lợi nhuận.
Theo Turgot, tiền lương của công nhân là thu nhập theo lao động, còn sản
phẩm thuần túy là thu nhập của nhà tư bản và được gọi là lợi nhuận. Lợi
nhuận là thu nhập không lao động của nhà tư bản do công nhân lao động
tạo ra. Ngoài ra Turgot cũng đề cập đến nguyên lí về sự bình quân hóa tỉ
suất lợi nhuận trong các ngành khác nhau. Ông nói những tư bản bằng nhau
thì đem lại thu nhập bằng nhau, không kể chúng đầu tư vào ngành nào.
Như vậy, chủ nghĩa trọng nông đã diễn tả được một khía cạnh là lợi
nhuận do công nhân tạo ra, nhưng họ đã sai lầm trong việc giải thích bản
chất lợi nhuận và hoàn toàn đứng trên quan điểm của giới tư sản khi trả
công thấp cho công nhân nhằm chiếm đoạt lượng sản phẩm thuần túy dư ra.
1.3. Quan điểm về lợi nhuận của trường phái cổ điển Anh.
Trường phái kinh tế chính trị cổ điển Anh ra đời vào thời kì tích lũy tư
bản đã kết thúc và thời kì sản xuất TBCN bắt đầu. Giai cấp tư sản đã nhận
thức được rằng “muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê
của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những người
giàu”.
Theo C.Mác, kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh bắt đầu từ
Wiliam Petty và kết thúc ở David Ricardo.
Wiliam Petty (1623-1687): Lý thuyết địa tô - lợi tức của W.Petty được
xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị lao dộng. Ông đã tìm thấy nguồn gốc
của địa tô ở trong lĩnh vực sản xuất. Ông định nghĩa địa tô là số chênh lệch
giữa giá trị sản phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm chi phí tiền lương, chi
phí giống má). Thực chất địa tô là giá trị dôi ra ngoài tiền lương, tức là sản
phẩm của lao động thặng dư. Ông nghiên cứu chi tiết địa tô chênh lệch và
chỉ ra là các mảnh ruộng xa gần khác nhau mang lại thu nhập khác nhau.
Ông coi lợi tức là tô của tiền và cho rằng nó lệ thuộc vào mức địa tô.
Adam Smith (1723-1790): Theo ông, lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ
hai vào sản phẩm của lao động, là một trong những nguồn gốc đầu tiên của

4
thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi. Khác với chủ nghĩa trọng
thương, A.Smith cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao
động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận tăng hay giảm phụ
thuộc vào sự giàu có tăng hay giảm của xã hội. Ông thừa nhận sự đối lập
giữa tiền công và lợi nhuận. Ông đã tìm thấy tỉ suất lợi nhuận trên cơ sở
cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỉ suất lợi nhuận giảm dần.
Hạn chế của A.Smith là không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng
dư và lợi nhuận, do đó không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu
thông, nên ông cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh
vực lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau.
David Ricardo (1772-1823): Ông cho rằng lợi nhuận là phần giá trị
thừa ra ngoài tiền công, nhưng chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư.
Nhưng trước sau ông nhất quán cho rằng giá trị lao động là do công nhân
tạo ra lớn hơn số tiền công mà họ nhận được, và lợi nhuận là lao động
không được trả công của công nhân. D.Ricardo đã có những nhận xét tiến
gần đến lợi nhuận bình quân, ông cho rằng những tư bản cổ đại thường
bằng nhau và đem lại lợi nhuận như nhau, nhưng ông không chứng minh
được.
2. Học thuyết của Mác về lợi nhuận.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ
điển, Mác đã phát triển nó một cách xuất sắc, làm rõ bản chất của lợi
nhuận.
2.1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Để tạo ra giá trị hàng hóa cần phải chi một số lao động nhất định là
lao động quá khứ và lao động hiện tại.
Lao động quá khứ là giá trị của tư liệu sản xuất (c). Giá trị của tư liệu
sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân được bảo tồn và di chuyển vào
giá trị của sản phẩm mới.
Lao động hiện tại là lao động tạo ra giá trị mới (v+m). Giá trị mới này
là do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao dộng.

5
Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động
cộng thêm giá trị thặng dư.
Trên thực tế, nhà tư bản ứng tư bản để sản xuất hàng hóa tức là họ ứng
ra một số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Do đó
nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản, chứ không tính đến hao
phí hết bao nhiêu lao động xã hội. C.Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất
tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là k.
k=c+v
Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị của hàng hóa, bù
lại giá cả của những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá cả của sức lao
động đã được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa ấy. Nói ngắn gọn chi phí sản
xuất là chi phí về tư bản bất biến và tư bản khả biến mà nhà tư bản bỏ ra để
sản xuất hàng hóa.
Khi xuất hiện chi phi sàn xuất tư bàn chũ nghĩa thì giá trị hàng hóa G=
c + v + m sẽ chuyển thành G = k + m.
So sánh giữa chi phí sản xuất xã hội chủ nghĩa với giá trị của hàng
hóa: xét về mặt lượng, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi
phí thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng hóa là giá trị hàng hóa; xét về
mặt chất, nó nói lên chi phí của nhà tư bản để sản xuất ra hàng hóa, còn giá
trị hàng hóa nói lên chi phí thực tế của xã hội để sản xuất ra hàng hóa.
Chi phí sản xuất có vai trò quan trọng: là giới hạn để tư bản bù đắp
vốn về giá trị và hiện vật, đảm bảo điều kiện cho tái sản xuất trong kinh tế
thị trường; tạo cơ sở cho cạnh tranh, là căn cứ quan trọng cho cạnh tranh về
giá bán hàng giữa các nhà tư bản, là cơ sở để tính toán lỗ lãi trong sản xuất
kinh doanh.
2.2. Bản chất của lợi nhuận.
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản
xuất có một khoản chênh lệch. Do đó sau khi bán hàng hóa (bán ngang
giá), nhà tư bản không những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà còn thu

6
được số chênh lệch bằng giá trị thặng dư. Số chênh lệch này C.Mác gọi là
lợi nhuận (kí hiệu là p).
Khi đó giá trị hàng hóa được tính theo công thức: G = k + p (hay giá
trị hàng hóa bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận).
Từ cách tính toán trên, người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch
giữa giá trị hàng hóa bán được với chi phí phải bỏ ra mà không quan tâm
đến nguồn gốc sâu xa của khoản chênh lệch là do giá trị thặng dư chuyển
hóa thành. C.Mác khái quát: “Lợi nhuận là giá trị thặng dư được quan niệm
là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước”. Qua đó ta thấy lợi nhuận chỉ là
hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị thặng dư.
So sánh lợi nhuận với giá trị thặng dư:
Xét về chất, giá trị thặng dư và lợi nhuận có điểm chung là do công
nhân tạo ra, là kết quả bóc lột sức lao động của công nhân: tuy nhiên có sự
khác nhau là giá trị thặng dư là kết quả trực tiếp bóc lột công nhân, còn lợi
nhuận là kết quả của tư bản ứng ra để sản xuất hàng hóa, từ đó che đậy bản
chất bóc lột của nhà tư bản.
Xét về lượng, do p = G - k nên đối với từng nhà tư bản chỉ cần bán
hàng hóa với giá lớn hơn chi phí sản xuất là đã có lợi nhuận, nhưng giá bán
hàng hóa phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và cạnh tranh. Nếu cung lớn hơn
cầu về hàng hóa trên thị trường thì giá bán nhỏ hơn giá trị, lợi nhuận thu
được nhỏ hơn giá trị thặng dư nhà tư bản bóc lột được. Nếu cung nhỏ hơn
cầu thì giá bán lớn hơn giá trị, lợi nhuận lớn hơn giá trị thặng dư. Lợi
nhuận bằng giá trị thặng dư khi cung bằng cầu, giá bán bằng giá cả của
hàng hóa.
Lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn, đó là mục tiêu, động cơ, động lực của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Số lượng lợi nhuận nói lên quy mô của hiệu
quả kinh doanh, thể hiện hiệu quả kinh tế.
2.3. Tỉ suất lợi nhuận.

7
Khi giá trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận thì tỉ suất giá trị thặng
dư biểu hiện trên xã hội là tỉ suất lợi nhuận. Tỉ suất lợi nhuận là tỉ lệ phần
trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của tư bản ứng trước (kí hiệu p’).
m
Công thức tính tỉ suất lợi nhuận: p’ = c+ v x 100%

Tỉ suất lợi nhuận phản ánh mức độ hiệu quả kinh doanh, là động cơ
quan trọng nhất của hoạt động cạnh tranh trong kinh tế thị trường. Các nhà
tư bản muốn làm giàu và làm giàu nhanh cần phải tìm ra cách thức để có
được tỉ suất lợi nhuận cao nhất.
Các nhân tố ảnh hưởng tới tỉ suất lợi nhuận:
Thứ nhất, tỉ suất giá trị thặng dư: sự gia tăng của tỉ suất giá trị thặng
dư sẽ có tác động trực tiếp làm tăng tỉ suất lợi nhuận.
Thứ hai, cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v): tác động tới chi phí sản xuất,
do đó tác động tới lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận.
Thứ ba, tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn thì tỉ lệ giá trị thặng dư
hàng năm tăng lên, do đó tỉ suất lợi nhuận tăng.
Thứ tư, tiết kiệm tư bản bất biến: trong điều kiện tư bản khả biến
không đổi, nếu giá trị thặng dư giữ nguyên, tiết kiệm tư bản bất biến làm
tăng tỉ suất lợi nhuận.
2.4. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh của những người sản xuất
ở các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất (sự dịch chuyển
vốn giữa các ngành). Quá trình dịch chuyển vốn giữa các ngành chỉ tạm
dừng lại khi tỉ suất lợi nhuận của các ngành đều xấp xỉ bằng nhau, tức là
hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân (kí hiệu p ' ).
Tỉ suất lợi nhuận bình quân là tỉ số tính theo phần trăm giữa tổng giá
trị thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa.

p' =
∑p
x 100%
∑ c +v

8
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh giữa các ngành tất yếu dẫn
đến hình thành lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận
bằng nhau của những tư bản như nhau đầu tư vào các ngành khác nhau.
Công thức tính lợi nhuận bình quân: p = p ' x K, trong đó K là giá trị
tư bản ứng trước.
Sự hình thành lợi nhuận bình quân đã làm cho quy luật giá trị thặng
dư bị biến dạng đi. Quy luật giá trị thặng dư hoạt động trong giai đoạn chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thể hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.
Khi lợi nhuận chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân thì giá trị của
hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất và nó được tính theo công thức:
GCSX = k + p . Giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, điều tiết giá
cả thị trường.
Những điều kiện hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận
bình quân, giá cả sản xuất bao gồm: tư bản tự do di chuyển và sức lao động
tư do di chuyển. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận
bình quân trở thành căn cứ cho các doanh nghiệp lựa chọn ngành, nghè,
phương án kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất.
2.5. Các hình thức của lợi nhuận.
2.5.1. Lợi nhuận công nghiệp.
Lợi nhuận công nghiệp là phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra
trong lĩnh vực công nghiệp và bị nhà tư bản chiếm không. Thời gian lao
động trong ngày của công nhân gồm hai phần: một phần thời gian lao động
công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động,
phần còn lại là phần lao động thặng dư. Khi hàng hóa được bán trên thị
trường thì phần giá trị thặng dư này là lợi nhuận. Lợi nhuận cao luôn là
mục tiêu của nhà tư bản nên nhà tư bản tìm ra hai phương pháp để làm tăng
lợi nhuận là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư
tương đối.
2.5.2. Lợi nhuận thương nghiệp.

9
Lợi nhuận thương nghiệp là phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán
hàng hóa. Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng
dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường
cho nhà tư bản thương nghiệp do nhà tư bản thương nghiệp đã giúp cho
việc tiêu thụ hàng hóa. Nhà tư bản sản xuất bán hàng hóa cho nhà tư bản
thương nghiệp với giá cả cao hơn chi phí sản xuất để đến lượt nhà tư bản
thương nghiệp bán hàng hóa đúng giá trị của hàng hóa.
2.5.3. Lợi nhuận ngân hàng.
Lợi nhuận ngân hàng là chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức
nhân gửi trừ đi các khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng cộng
với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ. Lợi nhuận ngân hàng
ngang bằng với lợi nhuận bình quân, hoạt động theo quy luật tỉ suất lợi
nhuận bình quân.
2.5.4. Lợi tức cho vay.
Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả cho
nhà tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho
nhà tư bản đi vay sử dụng. Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng
dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Phạm trù lợi tức tồn
tại đã che dấu mất thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Nhưng quá trình vận
động của tư bản cho vay đã vạch trần điều đó.
2.5.5. Địa tô.
Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, nhà tư bản
kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân.
Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của
địa chủ. Từ đó ta thấy ngoài lợi nhuận bình quân thì nhà tư bản phải thu
thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài, tức là lợi nhuận siêu
ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định, lâu dài và họ phải trả
cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa.

10
Vậy địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau
khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh
ruộng đất.
II. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1. Sơ lược về nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị
trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản
xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết
của các quy luật thị trường. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh
nhân loại.
Nền kinh tế thị trường có những đặc trưng chung bao gồm:
Thứ nhất, có sự đa dạng các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu.
Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các
nguồn lực xã hội thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận như thị
trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao động, tài chính,...
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh
vừa là môi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
Nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lí, chức năng kinh tế.
Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với
thị trường quốc tế.
2. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường Việt Nam cũng nhắm tới mục đích thu lợi nhuận
nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách thông thường mà xuất phát từ
đặc điểm nước ta là nước xã hội chủ nghĩa. Nước ta theo đuổi lợi nhuận
phải thỏa mãn hai điều kiện: bảo đảm hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh
doanh (tức là sản xuất phải có lãi); kết hợp giải quyết các vấn đề về kinh tế
xã hội để cho nó đảm bảo hiệu quả kinh tế nhưng các lợi ích xã hội vẫn
được duy trì.

11
Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Việt Nam không phải là kết
quả của việc bóc lột sức lao động, không phải là quan hệ người bóc lột
người như trong chủ nghĩa tư bản vì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu xã hội.
Lợi nhuận là số chênh lệch giữa giá cả sản phẩm và giá thành sản phẩm của
xí nghiệp. Nếu trong giá cả sản phẩm bao gồm cả thu nhập thuần túy tập
trung của nhà nước (dưới hình thức thuế chu chuyển) thì số chênh lệch giữa
giá cả hàng hóa và giá thành của nó phải trừ đi thuế chu chuyển. Số còn lại
là lợi nhuận. Do đó trong điều kiện giá cả nhất định, lợi nhuận trực tiếp
phản ánh sự biến động của giá thành sản phẩm. Một phần lợi nhuận được
giữ lại ở xí nghiệp để mở rộng sản xuất, cải thiện điều kiện sinh hoạt và xã
hội của công nhân cũng như để làm tiền thưởng, phần lợi nhuận còn lại thì
nộp vào ngân sách Nhà nước dùng cho nhu cầu toàn quốc.
3. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
3.1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Lợi nhuận là nguồn giàu có của giai cấp tư bản, vì vậy các nhà tư bản
tìm đủ mọi cách để có được nhiều lợi nhuận và chính khoản thu này là
nguyên nhân chính quyết định sự tồn tại phát triển hay sự phá sản của
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì một phần lợi
nhuận sẽ được sử dụng để tái đầu tư, tái mở rộng sản xuất, từ đó doanh
nghiệp sẽ ngày càng phát triển. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì nó sẽ
bị đào thải theo quy luật cúa sự phát triển. Bằng cách áp dụng những tiến
bộ khoa học kĩ thuật trong sản xuất, các nhà tư bản không chỉ thu được lợi
nhuận đơn thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Cho đến nay, cả
nước có 91 tổng công ti Nhà nước gồm 1400 đơn vị sản xuất ra 67% tổng
sản phẩm xã hội.
Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng vận hành công nghệ
mới do đó đòi hỏi họ phải có một trình độ nhất định nào đó thì mới có thể
sử dụng được. Chính vì vậy mà mõi người công nhân phải tự học hỏi để
nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề, nếu không chính họ sẽ bị đào thải.
Còn về phía nhà tư bản, quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao năng lực

12
làm việc của công nhân đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ và trở thành một
yêu cầu tất yếu. Qua đó, trình độ tay nghề của người lao động ngày càng
được nâng cao và nó đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
3.2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau thông qua quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Vì vậy lực lượng sản xuất phát triển kéo theo quan hệ sản xuất phát
triển. Do tác động của lợi nhuận, do sư phân chia lợi nhuận dưới nhiều
hình thức khác nhau, quan hệ sản xuất giữa chủ doanh nghiệp và người lao
động ngày càng thắt chặt hơn.
Bên cạnh đó, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đòi hỏi các nhà kinh tế
phải đảm bảo được tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tức
là phải làm thế nào để với mức chi phí bỏ ra ít nhất sẽ thu về được số lợi
nhuận lớn nhất. Điều đó đòi hỏi phải có tính chuyên môn hóa cao trong
công tác tổ chức quản lí. Các doanh nghiệp bắt đầu cắt giảm biên chế, thu
gọn bộ máy quản lí, phân bổ lại lực lượng lao động một cách cân đối.
Như vậy, với mục tiêu theo đuổi lợi nhuận đã thúc đẩy quan hệ sản
xuất phát triển bắt đầu từ quan hệ sản xuất tự suất tự cung và cho đến nay
thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã rất phát triển.
3.3. Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội.
Như đã biết muốn tái sản xuất mở rộng ngày càng hiện đại thì phải có
nhiều vốn, muốn có vốn phải có tích lũy lâu dài. Do vậy tích lũy vốn gắn
liền với tái sản xuất mở rộng đã trở thành quy luật chung của các hình thái
kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng. Tích lũy vốn thực chất là sự chuyển
hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản mới. Do đó đòi hỏi trong quá
trình sản xuất phải tạo ra được lợi nhuận, lợi nhuận càng cao thì quá trình
tái sản xuất mở rộng diễn ra nhanh hơn với quy mô lớn hơn.
3.4. Lợi nhuận trong quan hệ kinh tế quốc tế.

13
Lợi nhuận là lí do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường.
Nó thúc đẩy quá trình mở rộng và trao đổi hàng hóa cùng khoa học kĩ
thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài
và phát huy lợi thế kinh tế trong nước, làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ
khoa học công nghệ trong nước. Mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng
cường liên doanh, liên kết làm cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc
lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Để phát huy được sự tăng
cường quan hệ kinh tế quốc tế thì đòi hỏi trong các mối quan hệ kinh tế
phải có lợi nhuận. Không có lợi thì không làm, không hợp tác.
Việt Nam bên cạnh việc mở cửa nền kinh tế, còn mở rộng quan hệ với
các nước nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua hàng
chục tỉ đô la đã được đầu tư vào Việt Nam, nhiều khu công nghiệp ra đời
và đang hoạt động có hiệu quả. Ngoài việc hỗ trợ vốn cho phát triển kinh
tế, chúng ta còn kí kết được với các nước phát triển giúp đào tạo đội ngũ
cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi. Việc mở rộng quan hệ các nước phát
triển đã giúp nước ta phát triển nhiều ngành như điện tử, công nghệ thông
tin, ô tô,… tạo ra một tiền đề cho nền công nghiệp phát triển.

14
KẾT LUẬN
Như vậy, trong bài tiểu luận này em đã trình bày hệ thống những vấn
đề cơ bản của lợi nhuận, đó là các quan điểm về lợi nhuận trước Mác, học
thuyết về lợi nhuận của Mác: bản chất, nguồn gốc, các hình thức biểu hiện
của lợi nhuận; vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam. Nghiên cứu vấn đề phạm trù lợi nhuận giúp cho em có một cái nhìn
sâu sắc, hiểu rõ hơn về lợi nhuận. Lợi nhuận không phải là vấn đề cổ xưa
mà là vấn đề kinh tế tồn tại đến nay. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay vấn
đề lợi nhuận cần được quan tâm, tạo ra và sử dụng nó như nào để vừa phục
vụ tốt cho mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường, vừa đảm bảo quyền
lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảm bảo công bằng xã
hội. Lợi nhuận có vai trò tích cực đối với sự phát triền nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Nó là động lực chi phối
hoạt động, phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của các nhà tư
bản. Do đó, vấn đề học tập, nghiên cứu, vận dụng vấn đề lợi nhuận cũng
như các phạm trù khác của chủ nghĩa Mác nhằm góp phần xây dựng thành
công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thành công
trong công cuộc đổi mới đất nước là nhiệm vụ của mỗi sinh viên, của thế
hệ trẻ.

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin,
NXB Chính trị quốc gia sự thật – 2021, trang 110 – 117.
2. PGS.TS. Trần Bình Trọng - Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế -
NXB Đại học kinh tế quốc dân – 2019, trang 121 - 125
3. Karl Marx - Tư bản phê phán khoa kinh tế chính trị tập I, III – NXB
Chính trị quốc gia sự thật – 2019, trang 82 – 100, 132 – 140.
4. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/
mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-
xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam.aspx
5. https://trungtamwto.vn/chuyen-de/24547-doanh-nghiep-co-the-gia-tang-
loi-nhuan-toi-7-8-lan-nho-phat-trien-ben-vung

16

You might also like