Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi văn 9

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi văn – Lý luận văn học

Tác phẩm tự sự không chỉ phản ánh cái phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động của
con người. Nó cũng phản ánh thế giới bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ của con
người nữa”
(Theo Lí luận văn học – Phương Lựu (chủ biên) NXBGD năm 2000)
Em hiểu ý kiến trên như thế nào?
BÀI HS PHAN THU HIỀN
Mỗi thể loại văn học có một đặc trưng riêng của nó. Mặc dù cùng biểu hiện tư tưởng,
tình cảm, những tác phẩm trữ tình lại khác với tác phẩm tự sự. Nếu ở tác phẩm trữ tình, thế giới
chủ quan của con người, tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩa được trình bày trực tiếp và làm thành nội
dung chủ yếu thì tác phẩm tự sự phản ánh đời sống con người qua tính khách quan của nó
thông qua nhân vật cụ thể được miêu tả cả bên trong lẫn bên ngoài. Vì vậy, có thể nhận xét một
điều là: “tác phẩm tự sự không chỉ phản ánh cái phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành
động của con người. Nó cũng phản ánh thế giới bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ
của con người nữa”.
Tác phẩm văn học nói chung là một loại hình nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu sáng
tác, là một phương thức để con người nhận thức, khám phá thế giới, trong đó nó đặc biệt quan
tâm tới thế giới của con người với tất cả sự phong phú, tinh vi, đa dạng không bao giờ khám
phá hết được. Văn học tồn tại dưới hình thức những tác phẩm cụ thể, tùy thuộc vào tính chất và
phương thức biểu hiện mà người ta phân chia tác phẩm văn học ra những thể loại riêng, trong
đó có tác phẩm tự sự. Tác phẩm tự sự được xây dựng nên từ nhiều yếu tố, mà nhân vật là yếu tố
trung tâm của thể loại này. Xây dựng nhân vật là công việc quan trọng hàng đầu của nhà văn.
Tên tuổi của nhà văn thường được gắn liền với tên tuổi của những nhân vật điển hình trong tác
phẩm của họ. Nói đến Vũ Trọng Phụng là ta nhớ đến Xuân tóc đỏ, nói đến Nam Cao, ta lập tức
liên tưởng đến Chí Phèo, bá Kiến, Lão hạc… Những nhân vật như thế đã gây cho người đọc
cảm tưởng đó là những con người thật, thậm chí còn thật hơn cả những con người thật đang có
mặt ngoài đời. Chúng không còn là những nhân vật trong sách mà chính là những con người
bằng xương bằng thịt từ tác phẩm bước ra ngoài đời, sống như những con người đang sống
xung quanh ta. Người đọc sau khi gấp sách lại vẫn còn thấy nhân vật đsng có mặt đâu đó, tiếp
tục cuộc sống ngoài đời của chúng. Nhân vật văn học là sản phẩm của trí tưởng tượng , sáng
tạo của nhà văn. Người đọc sở dĩ nhận ra được nhân vật là do nhân vật thường có tên, lai lịch,
ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, ý chí, cảm xúc… Các yếu tố này được thể hiện bằng nhiều
chi tiết cụ thể, sinh động, gợi cảm. Do đó, nhà văn khi xây dựng nhân vật tập trung vào 2 phần
chính, đó là “cái phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động” và “thế giới bên trong bao
gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ của con người”. Cái phần tồn tại vật chất bên ngoài ấy có thể
hiểu là những thứ được biểu hiện ra bên ngoài nhân vật, mà trong đó, hành động là yếu tố rõ nét
hơn cả. Hành động của nhân vật là những việc làm bộc lộ tính cách hay đánh dấu sự thay đổi về
tính cách của nhân vật. Đối với Chí Phèo, đó là hành động chửi bới, đập đầu, rạch mặt ăn vạ, đó
là những biểu hiện bên ngoài của một kẻ tha hóa về đạo đức, đang rơi vào tình thế bi kịch
không lối thoát. Đó còn là hành động ngăn cản mối tình chớm nở của người bà cô Thị Nở.
Thông qua đó, nhà văn giúp người đọc hiểu rõ hơn về hình ảnh của một bà cô già góa chồng
với đầu óc, tư tưởng mê muội, cổ hủ, với những lễ giáo phong kiến ngặt nghèo. Hay để nói cô
Tấm hiền lành, chăm chỉ, người ta kể cô chăm bắt tép trong khi Cám vẫn mải bắt bướm, hái
hoa… Từ những hành động, những việc làm cụ thể đó, người đọc phần nào đã hình dung được
bản chất, tính cách nhân vật mà nhà văn đã xây dựng trong tác phẩm của mình.
Nhân vật tự sự được khắc họa một cách khá đầy đặn, nhiều mặt và toàn diện hơn các nhân vật
trữ tình và kịch là do tác phẩm tự sự không bị hạn chế về không gian và thời gian, nó có thể kể
về những miền đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng, kể lại những sự kiện đã xảy ra hàng bao thế
hệ, hàng chục, hàng trăm năm trôi qua. Do vậy, nhân vật tự sự được miêu tả một cách toàn
diện, không chỉ phần bên ngoài mà còn cả những điều không thể nói ra, những ý nghĩ, tình
cảm, cảm xúc thầm kín, mong manh nhất. Nội tâm nhân vật cũng là một thế giới sinh động và
phong phú hơn cả. Đó là thế giới riêng của tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ, đặc biệt là những thay
đổi trong ý thức, thái độ sống và tâm lí nhân vật qua các giai đoạn. Thông qua những cảm xúc
mong manh đó, nhà văn bộc lộ quan điểm cuộc sống và quan điểm nghệ thuật của bản thân. Đó
có thể là tâm trạng háo hức đời đoàn tàu đêm từ Hà Nội đi qua cảu hai chị em Liên và An trong
truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Thông qua đó, nhà văn thể hiện niềm xót thương vô
hạn đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh không bao giờ biết được ánh sáng và hạnh phúc.
Qua đó, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao
khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang
chôn vùi họ. Hay đó cũng có thể là tâm trạng của Chí Phèo vào buổi sáng hôm sau khi đã tỉnh
rượu, hắn bắt đầu có những cảm xúc của một con người, lần đầu tiên sau khi ra tù, Chí biết xúc
động trước những âm thanh bình dị của đời thường.
Chí nhớ về quá khứ, liên tưởng đến hiện tại và lo cho tương lai sau này. Chính những cảm xúc,
những suy nghĩ đó đã cho thấy Chí Phèo đã được thức tỉnh và mong muốn được sống của một
con người bình thường. Từ đây, nhà văn Nam Cao muốn khẳng định phẩm chất tốt đẹp và bản
chất lương thiện của con người ngay cả khi họ đã bị vùi dập, mất đi cả nhân hình lẫn nhân tính.
Nhà văn khi xây dựng nhân vật nhằm mục đích thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm cũng như
thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Bên cạnh việc tạo dựng hình tượng nhân vật thông qua
các hành động, việc làm cụ thể hay thế giới nội tâm tinh thần phong phú, nhà văn còn miêu tả,
xây dựng thêm nhiều yếu tố khác như ngoại hình, ngôn ngữ, mối quan hệ của nhân vật để làm
cho các hình tượng trong tác phẩm thêm màu sắc và sinh động hơn. Ngoại hình là dáng vẻ bên
ngoài của nhân vật được nhà văn miêu tả trực tiếp trong tác phẩm, nhằm biểu hiện một phần
tính cách, tâm hồn và số phận của nhân vật. Một Chí Phèo với cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo
trắng hớn, cái mặt đen lại rất câng câng, hai mắt gờm gớm, cái ngực phanh ra đầy những nét
chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy… Thoạt nhìn vẻ bề ngoài đó, người đọc
đích thị sẽ nhận xét đó là một kẻ côn đồ hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, là con quỷ dữ của
làng Vũ Đại. Hay là hình ảnh một người đàn bà hàng chài xấu xí đã ngoài bốn mươi, “người
cao lớn với những đường nét thô kệch”, “ khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới,
tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Đó là diện mạo của một người phụ nữ lam lũ, nhọc
nhằn vì phải mưu sinh trên biển cả, sống nghèo đói trên chiếc thuyền với đàn con đông đúc và
một ông chồng cục tính, thường xuyên đánh đạp vợ con. Chỉ với một số những đường nét phác
họa bên ngoài mà đã làm cho hình tượng nhân vật dần rõ ràng và nổi bật hơn trong con mắt của
bạn đọc.
Trong số những yếu tố tạo nên một tác phẩm tự sự, thì ngôn ngữ là một yếu tố quyết định đến
sự thành công của tác phẩm, nhất là thể loại truyện. Nó là phương thức cơ bản để nhà văn bộc
lộ chủ đề, tư tưởng tác phẩm, để nổi bật lên tính cách của nhân vật và thuyết phục người đọc
đồng tình với mình về cách đánh giá đối với những hiện tượng và con người được miêu tả. Như
Go-rơ-ki đã từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Nam Cao khi mở đầu truyện
ngắn “Chí Phèo” đã đưa vào tiếng chửi đời, chửi trời và chửi người của nhân vật Chí Phèo để
giúp người đọc tiếp xúc trực tiếp với nhân vật. Thông qua tiếng chửi ấy, chân dung của Chí
Phèo được hiện lên một cách chân thực, là một kẻ có tâm hồn dị hợm, méo mó, một nạn nhân
đau khổ mang trong mình nỗi cô đơn, trống rỗng, tuyệt vọng, bị cự tuyệt quyền làm người. Sức
nặng của ngôn ngữ là yếu tố chính để tạo nên sức ám ảnh của nhân vật trong lòng người đọc.
Nhà văn xây dựng nhân vật của mình trong các mối quan hệ của nó, mối quan hẹ giữa nhân vật
với nhân vật như của Chí Phèo với Bá Kiến, của chị Dậu và cụ Nghị hay của 2 chị em Liên và
An với mẹ con chị Tí… Bên cạnh đó, còn có mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh sống,
như Chí Phèo, thị Nở với hoàn cảnh xã hội của làng Vũ Đại, một xã hội thực dân nửa phong
kiến với những lễ giáo phong kiến lạc hậu, một xã hội đã đẩy con người vào tình trạng túng
quẫn, bần cùng và lưu manh hóa. Đặt nhân vật trong các mối quan hệ của nó, nhà văn muốn
thông qua đó để tô đậm hơn bức chân dung của nhân vật và làm sáng rõ chủ đề của tác phẩm.
Nhân vật là yếu tố trung tâm trong tác phẩm tự sự, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Để
làm cho hình tượng nhân vật nổi bật và sống động, nhà văn luôn có sự kết hợp hài hòa giữa yếu
tố bên ngoài với nội tâm bên trong của nhân vật. Đây là hai nhân tố có tính chất thống nhất hữu
cơ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau đê góp phần hoàn thiện nhân vật và thể hiện nội dung
của tác phẩm. Bằng chứng là khi xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn
Tuân không chỉ miêu tả vẻ hiên ngang, khí phách bên ngoài nhân vật mà còn giới thiệu đó là
một con người tài hoa, viết chữ đẹp, có cái tâm cao cả, một thiên lương trong sáng. Chính sự
kết hợp giữa hành động, dáng vẻ bề ngoài với cốt cách tâm hồn cao đẹp bên trong đã đưa Huấn
Cao trở thành một nhân vật lí tưởng, tỏa sáng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, mỗi nhà
văn lại có một cá tính sáng tạo khác nhau. Họ không bao giờ lặp lại chính mình hay lặp lại
người khác. Tùy vào từng tác phẩm cụ thể, vào dụng ý nghệ thuật mà nhà văn có những cách
kết hợp giữa yếu tố bên ngoài và bên trong khác nhau. Nếu trong “Hai đứa trẻ”, nhà văn Thạch
Lam nghiêng về yếu tố nội tâm của hai nhân vật Liên và An để phát hiện và nâng niu những
ước mơ đổi thay cuộc sống, thì trong tiểu thuyết “Số đỏ”, nhà văn Vũ Trọng Phụng chủ yếu xây
dựng hình ảnh Xuân tóc đỏ thông qua dáng vẻ bề ngoài của một tên ma cà bông đầu đường xợ
chợ lố lăng, dị hợm, chuyên gia dối trá, bịp bợm. Từ đó để nhà văn mở rộng ra bản chất của xã
hội cũ – một xã hội “chó đểu”, Tây Tàu nhố nhăng, trắng đen lẫn lộn…
Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần mà mỗi nhà văn đã cất công ấp ủ, thai nghén bao ngày
để cho ra đời, là hình thức phản ánh con người và hiện thực đời sống xuất phát từ cảm xúc
huyết mạch và lí tưởng của tác giả. Thông qua nhân vật trong tác phẩm, nhà văn gửi gắm vào
trong đó tư tưởng, tình cảm cũng như quan niệm của mình về con người, cuộc sống và xã hội.
Chẳng hạn Chí Phèo là hiện thân cho một kiếp người lương thiện bị chà đạp, làm biến dạng cả
về nhân hình lẫn nhân tính. Số phận bi kịch của Chí là lời tố cáo, lên án xã hội áp bức, phi nhân
tính đã chà đạp lên con người, đẩy con người vào bước đường cùng, đồng thời thể hiện lòng
yêu thương của nhà văn đối với những nạn nhân trong xã hội đó. Đây chính là nội dung tư
tưởng mà Nam Cao có dụng ý gửi gắm vào khi xây dựng nên hình ảnh nhân vật Chí Phèo trong
tác phẩm cùng tên của mình.
Tác phẩm tự sự là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt nội dung và hình thức, mà
trong đó nhân vật là yếu tố trung tâm và quan trong hàng đầu. Để khắc họa thành công một
nhân vật tự sự, nhà văn luôn phải có sự kết hợp hài hòa, thống nhất giữa yếu tố vật chất tồn tại
bên ngoài và thế giới nội tâm, tinh thần phong phú bên trong của nhân vật. Nhờ sự hớp kệp
khéo léo và tài tình đó mà yếu tố nhân vật trong tác phẩm tự sự luôn được nổi bật, tỏa sáng và
ghi dấu sâu sắc trong lòng người đọc.
Đề bài 2: “Làm thơ là cân một phần nghìn 0milligram quặng chữ” (Mai-a-cop-ki). Anh
chị hiểu ý kiến trên như thế nào. Chứng minh qua một số bài thơ anh chị đã học hoặc đọc
thêm.
Bài làm

Thơ ca chính là sự kết tinh giữa chữ tình và cái tài của thi nhân. Tình chính là tâm sơ
còn cái tài lại là cái cách biểu đạt qua từng con chữ. Để có thể chạm vào vào trái tim người đọc
thì mỗi tác phẩm không chỉ mang theo tâm tình, nỗi lòng, tình yêu của tác giả mà nó còn là sự
chắt lọc, trau chuốt trên từng vần thơ, câu chữ. Nhà thơ vỹ đại của văn học Xô Viết Mai-a-cop-
ki từng cho rằng “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ”. Câu nói ấy là bàn về
trách nhiệm của người làm thơ và đặc điểm của ngôn từ, bởi thơ ca cũng như văn chương nói
chung đều bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực và được xây dựng bằng vật liệu ngôn từ. Người
nghệ sĩ luôn phải dùng tài nghệ của chính mình để biến ngôn ngữ đời thường thành ngôn ngữ
văn học, để có thể tạo nên những câu thơ không chỉ đẹp riêng về ngôn ngữ mà còn đẹp về cả ý
tứ câu thơ.
Trong văn học, ngôn ngữ luôn là yếu tố đầu tiên, nó giống như màu sắc trong hội họa,
âm thanh trong âm nhạc. Để tạo nên một tác phẩm độc đáo cần các nhà thơ cần trải qua quá
trình lao động nhọc nhằn, như người đào vàng, tìm ngọc, đãi từ kho quặng chữ thô ráp mơi có
thể lấy ra một viên ngọc chữ nghĩa tinh khôi. Nhiều khi khát cháy trên sa mạc ngôn từ vẫn chưa
tìm được thứ báu vật thiêng liêng ấy. Bởi thơ không chỉ có nghĩa mà chủ yếu là tình, là hồn, là
những khái niệm ai cũng biết nhưng để lý giải, khai thác một cách triệt để là vô cùng khó.
Trong thơ có hơi thở, có hồn, có trái tim, có sự chiêm nhiệm, từng trải mà thấm nhuần. Sẽ rất
khó để có thể đạt tới sự thấu tỏ tuyệt đối về cảm xúc và ý tứ, về những lung linh của con chữ,
về tiết tấu nhịp điệu mang dấu ấn văn hóa, lịch sử, phong tục, thói quen. Trong sự lao động của
nhà thơ luôn có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật luôn có sự
giày vò về ngôn từ. Thành công của một tác phẩm phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ, sự trau
chuốt tỉ mỉ về câu từ của tác giả; viết sao cho hay, viết sao cho đúng mà vẫn giữ được nét đẹp
ngôn từ luôn là phương châm sáng tạo của người viết.Trách nhiệm của các văn nghệ sỹ trước
thời đại và cuộc sống là phải thấu hiểu con người.
Tài năng của người nghệ sỹ trước hết là cách sử dụng ngôn từ. Mà ngôn ngữ thơ chính là
ngôn từ, câu chữ được người nghệ sĩ mã hóa, chắt lọc từ đời sống, tạo nên tinh hoa nghệ thuật
đặc sắc. Việc lựa chọn từ ngữ đòi hỏi người nghệ sĩ tốn rất nhiều công sức để tìm cho ra được
những từ ngữ có khả năng biểu đạt cao nhất ý muốn diễn tả. Ngôn ngữ văn học phải chính xác
và tinh luyện, tạo nên hình tượng trong tác phẩm. Chính vì thế, nó không trừu tượng mà có tính
chất cảm tính cụ thể, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc thông qua việc biểu đạt suy
nghĩ tính cách nhân vật hay thái độ và quan niệm của tác giả. Ngôn từ không phải chỉ để diễn
đạt một hành động, sự việc đang được nói đến, mà còn nói thêm nhiều điều sắp xảy ra. Có khi,
ngôn từ là một lá thư, một lời nhắn nhủ, một lời tâm sự của tác giả về đời, về người, về thời đại.
Mặt khác, ngôn từ còn thể hiện phong cách hành văn, phong cách nghệ thuật của người viết,
hay còn thể hiện khả năng sáng tạo của người cầm bút. Chính vì vậy, vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ
luôn giữ vai trò quyết định nên vẻ đẹp cho tác phẩm. Với “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu mỗi
từ ngữ, chất liệu làm nên hình thức, vỏ bọc bên ngoài luôn được ông trau chuốt, mài giũa; đồng
thời tình cảm, tư tưởng về con người, thiên nhiên cũng được ông bộc lộ đầy đủ, chân thực và
sâu sắc qua tác phẩm của mình. Trong kiệt tác Vội vàng, từng câu, từng chữ đều chở nặng ý vị
tuyên ngôn, mang đậm tư tưởng mới mẻ và tràn đầy chất Xuân Diệu. Mở đầu bài thơ, thể ngũ
ngôn truyền thống đã làm bật lên cái khát khao sống mãnh liệt, điên cuồng của thi sĩ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Thật kì lạ, thi vị biết bao! Cái ước muốn, khát khao của Xuân Diệu là những ước muốn hết
sức phi lý, ngông cuồng: tước đoạt quyền của tạo hóa, cưỡng lại quy luật tự nhiên. Không phải
vì ghét mùa xuân, cũng chẳng bởi ghét “màu nắng” hay “hương gió” mà là nhà thơ muốn “tắt,
buộc” tất cả. Đơn giản chỉ vì ông khát khao giữ cho vẻ đẹp mãi mãi lên hương, tỏa sắc giữa
cuộc đời, bất tử hóa cái đẹp của vạn vật thiên nhiên. Mong muốn ấy càng trở nên tha thiết hơn
bao giờ hết bởi nhà thơ sử dụng liên tiếp hai chữ ‘đừng” chứa đựng một nguyện vọng sâu sắc.
Có lẽ vì quá đỗi say mê, ham sống đến tột cùng, đến vô biên mà thi nhân trở nên tham lam, ích
kỷ, muốn giữ lại vẻ dẹp, sự sống của tạo vật cho riêng mình. Thế nên mới có cảm giác âu lo, sợ
hãi, nuối tiếc thể hiện trong từng câu chữ. Với cách sử dụng từ có chọn lựa tỉ mỉ, đọc lên câu
thơ của Xuân Diệu ta không hề nhìn thấy sự thô kệch của lòng tham mà dường như ta nhận ra
được ước muốn táo bạo của tác giả dù nó đi ngược với quy luật đất trời.
Nhắc tới ngôn từ, phải kể đến Nguyễn Du “Bậc thầy về ngôn từ”, đến với đoạn “Chị em
Thúy Kiều”, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của chủ
thể trữ tình mà còn thấy được cách sử dụng ngôn từ tài tình của tác giả:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.”
Ví như hai từ “đầy đặn, nở nang” trong câu thơ “Khuôn trăng đầy đặn/ Nét ngài nở nang”
khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân, hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn
trịa, đầy đặn phúc hậu như vầng trăng cũng như cả nét ngài uốn cong thanh tú của nàng Vân mà
đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận, của cuộc đời nàng. Với miệng cười tươi thắm như
hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây,
làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của
những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý
phái.Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng lại tạo nên sự hoà hợp, êm dịu: “ mây
thua, tuyết nhường”. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính
cách điềm đạm. Còn với Kiều, Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thúy Vân để bẫy vẻ đẹp của
Kiều. Tài liệu của thầy Phan Danh Hiếu. Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc họa chân
dung tuyệt mỹ của giai nhân:” Làn thu thủy, nét xuân sơn,hoa ghen,liễu hờn…” Với bút pháp
ước lệ ,lí tường hóa,Kiều hiện ra trong mắt người đọc bằng hình ảnh của một thiếu nữ có đôi
mắt long lanh,bình lặng; nét mày thanh tú như dáng núi mùa xuân.Thật là một dung nhan sắc
sảo mặn mà,vừa có duyên lại vừa có hồn. Nhưng vẻ đẹp ấy lại đẹp đến độ sắc nước hương trời,
chim sa cá lặn, nghiêng nước nghiêng thành khiến cho hoa ghen liễu hờn… Qua bức chân dung
này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân
dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách số phận, cuộc đời nàng sẽ có nhiều khổ đau, trắc
trở. Là một nghệ sĩ về ngôn từ, Nguyễn Du không sử dụng thi liệu cổ một cách máy móc, rập
khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn. Nhà thơ đã tạo nên những từ ngữ rất riêng, rất
Nguyễn Du nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc, đi vào hàng triệu trái tim.
Với con người, ánh sáng là những gì tốt đẹp nhất, soi rọi tâm hồn con người và thay đổi nó.
Còn với Tố Hữu, ánh sáng chính là lí tưởng cách mạng – “ánh sáng” đã giúp ông tìm ra lối đi
cho mình:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim.”
Khổ đầu tiên ca ngợi lí tưởng và nói lên tình yêu với lí tưởng cách mạng. Tác giả khẳng định lí
tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng tỉnh, bừng sáng tâm hồn và trí tuệ nhà thơ.
“Bừng” – ánh sáng phát ra đột ngột, ánh sáng của ngày hè đầy nồng nàn và rạng rỡ. Hình ảnh
“mặt trời chân lí chói qua tim” là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ, táo bạo, giàu ý nghĩa thẩm mĩ
mà rất chính xác, gợi cảm. Mặt trời là nguồn sáng rực rỡ, chói chang và duy nhất đem lại sự
sống cho muôn loài. Hình ảnh “mặt trời chân lí” đi liền với nhóm từ “chói qua tim” đã diễn rả
được niềm vui rất đỗi thiêng liêng và sức xuyên thấu kì diệu, mạnh mẽ của lí tưởng Đảng đối
với tình cảm, nhận thức của người chiến sĩ. Hai động từ mạnh “bừng” và “chói” gây ấn tượng
đến thị giác độc giả. Nghe có gì đó đến rất đột ngột, nhưng cũng đến rất phô trương, rất mãnh
liệt khiến người ta không thể kháng cự. Như một sức mạnh vô hình đang lao đến, Tố Hữu khiến
lí tưởng cách mạng trở nên to lớn, mang tầm vóc vĩ đại, bừng sáng chói chang.
Trong khi đó, Nguyễn Duy lại xem ánh sáng của vầng trăng – tức ánh trăng, là người bạn
tri kỉ, nghĩa tình, cũng vừa là một quan tòa phê phán, lên án sự bội bạc của nhân vật trữ tình:
“ Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Ánh trăng trước sau vẫn vậy, dân dã, mộc mạc, bình dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn một
cách trong sáng vô tư, mặc cho thời gian trôi, không gian biến đổi, mặc cho bạn bè xưa ai đó
quay lưng. Nhưng đó là chất thử, chất xúc tác, khơi gọi niềm xúc động, tạo sự sám hối, đánh
thức lương tâm ở con người. Cái giật mình được diễn tả trong đoạn thơ thể hiện sự bừng tỉnh
đáng quý, cần có để làm người, lại vừa là từ rất đắc, cô đọng suốt cả bài thơ. Giật mình vì nhận
ra trước đây mình đã quá vô tình, giật mình vì nhận ra trăng vẫn im lặng và bao dung như thế,
giật mình vì ăn năn hối hận đã quên nghĩa thủy chung, Giờ đây, con người đã tìm được con
đường trở về với chính con người mình trước đây, đã tìm lại được những tháng ngày tình nghĩa
đã vô tình quên lãng.
Qua bốn bài thơ “Vội vàng”, “Truyện Kiều”, “Từ ấy” và “Ánh trăng”, ta thấy được giá trị
ngôn ngữ của bài thơ, đồng thời cảm nhận được sức lay động và rung động mãnh liệt, quảng
đại của ngôn từ. “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.”(Mayakovsky) Ngôn
ngữ thơ ca phải tinh luyện nhưng cần sáng tạo đẻ có thể tạo dấu ấn riêng. Ngôn ngữ ấy cũng
phải hàm súc, căn cứ vào chủ thể trữ tình để miêu tả nhưng cũng không thể khô khan.Công việc
sáng tác là một quá trình gian khổ, vất vả nhưng cũng rất đáng quý. Tài liệu của thầy Phan
Danh Hiếu. Từ xa xưa, những lời hát trong bài ca lao động của người nguyên thuỷ, những lời
cầu nguyện, mong ước điều tốt lành cho mùa màng đến những lời niệm chú có thể coi như hình
thức đầu tiên của thơ.
Trải qua thời gian, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca ngày càng phát triển và hoàn thiện tựa như
những nguồn nước mát trong nảy sinh từ cội nguồn sáng tạo sâu thẳm vô tận. Chính vì vậy,
ngôn ngữ thơ ca không phải là vẻ đẹp của đồ trang sức hay trò chơi phù phiếm, mà là vẻ đẹp
tỏa ra từ tâm hồn và ánh lên từ cuộc sống, thông qua sự mài dũa và tinh luyện của nhà thơ. Nhà
thơ không ngừng sáng tạo, gọt giũa, nhào luyện để tạo nên giá trị về nghệ thuật ngôn từ tạo nên
ngôn ngữ để sáng tạo thơ ca. Ngôn ngữ thơ ca phải tinh luyện, mới mang được dấu ấn sáng tạo
riêng của người nghệ sĩ.
Đề 3: Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng: “Một bài thơ hay là hay ở tình ý, hay ở chữ tiếng, hay ở
sự việc, hay ở nhạc điệu”. Còn nhà văn Nguyễn Tuân lại cho rằng: Thơ là mở ra được một
cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín. Anh (chị) hiểu hai
ý kiến trên như thế nào? Hãy làm rõ cách hiểu của mình qua một vài bài thơ Mới đã học, đã
đọc.
DÀN Ý

I. MỞ BÀI: dẫn dắt vấn đề lý luận thơ và đưa vào hai ý kiến của Xuân Diệu và Nguyễn Tuân.
II. THÂN BÀI
1. Giải thích ý kiến:
– Ý kiến thứ nhất: “Một bài thơ hay là hay ở tình ý, hay ở chữ tiếng, hay ở sự việc, hay ở nhạc
điệu”.
+ Hay của thơ trước hết là hay ở tình cảm con người (tình ý), là sự rung động của trái tim trước
sự việc.
+ Hay của thơ là hay ở cách dùng từ, nhãn tự, hay ở tiếng. Bởi vậy lựa chọn ngôn ngữ, “quặng
chữ” cho thơ là rất quan trọng.
+ Cuối cùng hay của thơ là hay ở nhạc điệu, tính nhạc, âm điệu của thơ.
=> Thực chất ý kiến này bàn về ba góc độ của thơ hay: tình ý – ngôn từ – nhạc điệu.
– Ý kiến thứ hai: “Thơ là mở ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn
như là bị phong kín.”
+ Thơ ca là thế giới của tâm hồn. Tâm hồn lại là thứ riêng tư, khép kín – “phong kín”. Và chỉ
có thơ ca mới có sức gợi mở vô cùng, để khơi dậy điều “phong kín” ấy, mang đến điều mới mẻ
độc đáo.
=>Thực chất ý kiến này bàn về khả năng khơi dậy của Thơ.
2. Chứng minh hai ý kiến
2.1. “Một bài thơ hay là hay ở tình ý, hay ở chữ tiếng, hay ở sự việc, hay ở nhạc điệu” – Đây là
một định nghĩa về thơ hay của Xuân Diệu.
– Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua cách tổ chức
ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm…(dẫn chứng)
– Câu thơ hay bao giờ cũng là câu thơ giàu sức gợi. Gợi ý và gợi tình. Đọc thơ hay, người ta
thấy được cả sự rung động của thi sĩ. (dẫn chứng)
– Từ ngữ trong thơ vô cùng quan trọng vì nó là linh hồn của câu thơ, bài thơ. Trong quan niệm
của thơ Đường thì từ ngữ là “nhãn tự”, trong quan niệm hiện đại, Mai-a-cop-ki cho rằng đó là
“quặng chữ” và “Làm thơ là cân một phần nghìn miligram quặng chữ”. (dẫn chứng) Tài Liệu
Thầy Phan Danh Hiếu

– Nhạc điệu trong thơ cũng rất quan trọng vì nó tạo nên giai điệu cho bài thơ. Bởi vậy, nhiều
nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình thức nghệ thuật để tạo nên giai điệu cho riêng mình.
Lâu dần, giai điệu quen thuộc sẽ thành phong cách của nhà thơ. (dẫn chứng)
2.2. Bàn về sự độc đáo của thơ, Nguyễn Tuân nhấn mạnh: “Thơ là mở ra được một cái gì đó mà
trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín”
– Thơ là tiếng nói về thế giới tâm hồn đầy riêng tư, bí mật của con người. Cảm xúc trong thơ là
cảm xúc riêng, nỗi niềm riêng, mà nếu nhà thơ không giãi bày thì mãi mãi là một vương quốc
bí mật.
– Vì cuộc sống được thể hiện trong thơ là cuộc sống được phản chiếu qua thế giới cảm xúc của
nhà thơ, in đậm một cách nhìn, một cách cảm mới mẻ, độc đáo. (Dẫn chứng)
– Cảm xúc trong thơ bao giờ cũng tìm đến với một cách thể hiện tương ứng đầy sáng tạo,
không lặp lại. (Dẫn chứng)
3. Bàn luận
Cả hai ý kiến đều bàn về thơ, một ý kiến bàn về thơ hay, một ý kiến bàn về sự độc đáo
của thơ và thế giới cảm xúc. Tuy hai ý kiến bàn về hai lĩnh vực khác nhau của thơ nhưng đều
góp phần làm nổi bật cái hay, cái đẹp của thơ.
III. KẾT BÀI

Đề 4: Lời Tựa tập thơ Trung Hoa Cổ kim hoàn ca tập viết: Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở
hoa nơi từ ngữ. Anh (chị) nghĩ thế nào về ý kiến này.
BÀI LÀM
Chenier đã từng nói: “Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới là thi sĩ”.
Một bài thơ có giá trị, ấy là khi nó bao quát và thể hiện được tư tưởng cảm xúc của người nghệ
sĩ, ấy là khi nó viết lên bằng những dòng thơ, những câu thơ chân thành, sâu lắng, tất cả đều bắt
nguồn từ thẳm sâu trái tim người viết. Trong bài tựa của tập thơ cổ Trung Hoa Cổ kim hoàn ca
tập ta như hiểu thêm giá trị của thơ ca Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ
Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho
những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là
ước mơ cao đẹp mà con người luôn muốn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự
bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phát của những tình cảm mãnh liệt. Ta tìm
đến một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với
họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu trong từng lời thơ con chữ. “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở
hoa nơi từ ngữ”. Là một thể loại nằm trong phương thức trữ tình, thơ tác động đến người đọc
bằng khả năng, sức gợi sâu xa, bằng cảm xúc mãnh liệt, bằng sự rung động của hình thức, từ
ngữ. Sức sống của thơ là ở giá trị tư tưởng, cũng như gốc rễ sâu xa của thể loại này là ở lòng
người. Giá trị ấy quy định nội dung, sức sống của thơ, tạo ra sự đồng điệu giữa tâm hồn người
viết và tâm hồn bạn đọc. Như một cây cổ thụ có sức sống lâu bền và gắn bó mật thiết với cuộc
sống con người, thơ ca “nở hoa nơi từ ngữ.” Là kết tinh của những gì đẹp đẽ nhất, tinh tuý nhất,
cảm xúc tư tưởng của người nghệ sĩ đã thăng hoa thành những vần thơ, lời thơ có giá trị. Rõ
ràng, trong khi nội dung tư tưởng cũng như tâm hồn của thơ ca nghệ thuật được ví như rễ cây
hút dinh dưỡng nơi lòng đất, là bộ phận quan trọng nhất nhưng lại ẩn mình kín đáo nhất, khó
nhìn thấy và nắm bắt thì yếu tố từ ngữ hình thức lại được xem là kết tinh đẹp đẽ nhất, là thành
quả của quá trình lao động sáng tạo không ngừng, là yếu tố quan trọng để ta cảm nhận vẻ đẹp
của bài thơ. Khẳng định giá trị của thơ ca, nói lên đặc điểm của thể loại này cũng là khi người
viết muốn đề cao giá trị nội dung và hình thức trong văn chương nghệ thuật.
“Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Trở về với những trang thơ trong phong
trào thơ mới, ta không quên một tiếng thơ “rạo rực băn khoăn” – Xuân Diệu. Là người chịu ảnh
hưởng rõ rệt của văn hoá phương Tây, Xuân Diệu đã đem vào làng thơ Việt Nam bấy giờ một
hình thức một giọng điệu mới mẻ, với cách thể hiện hình ảnh rất Tây, nhưng ẩn chứa đằng sau
đó vẫn là một tâm hồn thơ, cảm xúc thơ chân thành da diết.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Người đọc như bị hút hồn, lôi cuốn bởi lối thơ dồn dập của Xuân Diệu, như được thả lòng mình
đắm say chốn “thiên đường” nơi mặt đất, như cảm phục một lối thơ rất riêng của thi sĩ, với
những sự vật, hình ảnh lãng mạn, tràn trề nhựa sống như được phơi bày lên trang thơ. Rõ ràng,
hình thức thơ là sự kết tinh đẹp đẽ nhất, là thành quả lao động nghệ thuật không ngừng nghỉ của
thi sĩ. Thế nhưng, xuất phát điểm sâu xa, điều làm nên giá trị, sức sống cho tác phẩm thơ Xuân
Diệu lại khởi phát “từ lòng người” từ tâm hồn, từ tư tưởng của người viết. Thời gian trôi qua,
Xuân Diệu với các tác phẩm của mình đã chứng tỏ được sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc.
Điều gì đã làm nên giá trị của thơ ca, nếu không phải là tư tưởng cảm xúc, ý nghĩa sâu xa trong
từng tác phẩm. Điều gì đã làm nên sức sống mãnh liệt ấy nếu không phải là một niềm khát khao
sống, khát khao tình yêu, hạnh phúc đến vồ vập, đến mạnh mẽ.
Hãy sát đôi đầu hãy kề đôi ngực
Hãy trộn vào nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt.
Và ta khẳng định rằng Xuân Diệu làm thơ cũng là bộc lộ chính nỗi lòng mình, cảm xúc của
mình, mạnh mẽ mà thật chân thành sâu sắc.
Lecmotôp đã từng tâm sự: “Có những đêm rất khổ, không ngủ được, mắt rực cháy và thổn
thức, khi đó tôi viết”. Bởi “thơ ca luôn khởi phát từ lòng người”. Tiếp nhận tác phẩm ta tìm đến
với vẻ đẹp hình thức, ngôn từ nhưng để thấu hiểu, đồng cảm với cảm xúc thơ, nỗi niềm thơ, câu
chữ và ta đã tìm thấy tâm trạng thơ qua từng tác phẩm. Vẫn còn đó con người thơ Hàn Mặc Tử
trong Đây thôn Vĩ Dạ.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Rõ ràng, khi viết những dòng thơ này, Hàn Mặc Tử đang phải sống trong sự đau đớn, dằn
vặt cả về thể xác lẫn tâm hồn. Mòn mỏi ngóng trông một không gian, một bóng hình chỉ kịp
hiện về trong hồi ức, ấy cũng là khi mặc cảm chia lìa đang trào dâng trong tâm hồn thi sĩ. Mượn
hình thức thơ để biểu đạt nội dung thơ để nói lên tâm trạng nỗi lòng mình, đằng sau những câu
thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ, ta nhận ra cả một cảm xúc thơ đang đau đớn, xót xa đến tủi phận.
“Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”, thơ ca là tiếng lòng của người nghệ sĩ và
được thể hiện thông qua hình thức thơ đặc biệt ấn tượng. Chính hình thức đã biểu hiện nội dung
thơ. Từ ngữ là kết tinh đẹp đẽ nhất, tinh tuý nhất trong quá trình lao động nghệ thuật để làm ra
tác phẩm của người nghệ sĩ. Cả Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử đều đã tạo cho mình một lối thơ riêng
biệt, với hình ảnh, từ ngữ ấn tượng, có sức gợi sâu xa. Nhưng xuất phát điểm trong tác phẩm
của từng thi sĩ vẫn là cảm xúc nỗi niềm thơ chỉ có thể bộc lộ qua trang viết
“Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”, khẳng định giá trị của thơ ca cũng như
mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, một lần nữa ta hiểu thêm đặc trưng của thể loại trữ
tình này, đúng như một nhà văn đã khẳng định: “Những tác phẩm lớn đều xuất phát từ trái tim”.

ĐỀ 5: Giải thích ngắn gọn ý kiến của nhà thơ Xuân Quỳnh: “Thơ đối với cuộc sống quý
như con gái đối với gia đình, cái để cho người ta làm quen là nhan sắc, nhưng cái để sống
với nhau lâu dài là đức hạnh”.
BÀI LÀM
Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho
những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ – là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là
ước mơ cao đẹp con người luôn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng cháy
của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phá của những tình cảm mãnh liệt. Ta tìm đến với
một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ
trong giây phút lắng lòng ẩn sâu ở từng lời thơ, câu chữ. Khẳng định sức sống lâu dài của văn
chương nghệ thuật mà nội dung tư tưởng của tác phẩm là yếu tố quyết định, nhà thơ Xuân
Quỳnh nói: Thơ đối với cuộc sống quý như con gái đối với gia đình, cái để cho người ta làm
quen là nhan sắc, nhưng cái để sống với nhau lâu dài là đức hạnh
Không biết thơ ca đã đi vào cuộc sống của con người từ khi nào, chỉ biết rằng, khi tìm đến
với thơ ca, ấy là khi con người đang khát khao một nhu cầu tự bộc lộ, giãi bày. Thơ ca đã trở
thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống tâm hồn mỗi người, làm cho “con người đi từ chân
trời của một người đến với chân trời của nhiều người” (Pôn Êluya). “Thơ đối với cuộc sống quý
như người con gái đối với gia đình”, dường như đó là quan hệ khăng khít, gắn bó không thể
tách rời. Thơ ca và cuộc đời như người phụ nữ trong gia đình, bàn tay ấy chăm chút, vun vén
cuộc sống cũng như thơ ca bồi đắp thêm cho tâm hồn con người bao cảm xúc và rung động tinh
tế. Là một thể loại nằm trong phương thức trữ tình, nhưng bản chất của thơ lại rất đa dạng và
phong phú. Thơ tác động đến người đọc bằng sức gợi sâu xa, bằng những cảm xúc mãnh liệt,
và có khi bằng sự rung động bởi ngôn từ giàu nhạc điệu, mà như Xuân Quỳnh nói: “Cái để cho
người ta làm quen là nhan sắc, nhưng cái để sống với nhau lâu dài lại là đức hạnh”. Nhan sắc là
hình thức bên ngoài, đây là yếu tố đầu tiên tác động đến người khác, là ấn tượng ban đầu. Ta
tìm đến với một bài thơ và yêu thích nó, có khi là bởi ta yêu thứ cảm xúc mãnh liệt của người
nghệ sĩ thể hiện trong tác phẩm. Thế nhưng ở đây, Xuân Quỳnh muốn nhấn mạnh đến nội dung
tư tưởng của thơ, cái mà nữ thi sĩ gọi là “đức hạnh” của người con gái, phẩm chất tính cách
luôn là yếu tố quyết định đến giá trị của con người, và thơ ca cũng vậy. Trau chuốt, tô vẽ hình
thức, nhưng điều làm nên sức sống cho văn chương nghệ thuật thì lại ẩn sâu bên trong vẻ bề
ngoài ấy. Lêôna đơ Vanhxi từng nói: “Thi ca là một bức hoạ để cảm nhận thay vì để ngắm”. Rõ
ràng, hình thức bên ngoài là yếu tố tác động đến ấn tượng ban đầu của người đọc, nhưng để
khẳng định sức sống, giá trị của một tác phẩm, thì nội dung tư tưởng vẫn luôn được đặt lên
hàng đầu.
“Thơ đối với cuộc sống quý như con gái đối với gia đình, cái để cho người ta làm quen là
nhan sắc, nhưng cái để sống với nhau lâu dài là đức hạnh”. Phát biểu quan điểm này, Xuân
Quỳnh đã lấy tác phẩm của chính mình để chứng minh. Xuân Quỳnh thuộc những thi sĩ làm thơ
như người đàn bà phải sinh con, như cây cối thì phải đơm hoa kết quả. Ta thích thơ Xuân
Quỳnh vì cái vẻ giản dị, đôn hậu của nó. Phải chăng mọi bài thơ của thi sĩ đều như những lời
tâm sự tự nhiên, chân thành, ta như được tiếp xúc với người phụ nữ thật cởi mở, chan chứa
tình yêu hạnh phúc.
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ.
Hình thức thơ giản dị, nó đi vào lòng người đọc và lắng sâu thành khúc hát tình cảm. Xuân
Quỳnh rất ít khi câu nệ hình thức, nhưng người đọc vẫn bị lôi cuốn ấn tượng với lối thơ của thi
sĩ, chân thành mộc mạc như tiếng lòng của một người phụ nữ. Cho dù là thơ thất ngôn hay lục
bát, nó vẫn mang dấu ấn của Xuân Quỳnh, thứ “nhan sắc” chỉ riêng mình thơ thi sĩ đem lại:
Rào rào tiếng những bầy ong
Chuyên cần là tiếng cái tằm nhả tơ
Mẹ còn đang bận đưa ru
Cái hoa bận đỏ, cái hồ bận xanh
Hạt cây đang bận nảy mầm
Con quay quay có một mình ngoài kia
Ngủ đi con hãy ngủ đi
À ơi, cái ngủ đang về cùng con.
(Lời ru trên mặt đất)
Những cảm xúc vui buồn, những tình cảm gắn bó thân thương được nói đến thật nhiều trong
thơ Xuân Quỳnh. Từ lối thơ lục bát nhẹ nhàng như lời ru êm dịu trong Lời ru trên mặt đất hay
(bài thơ này là thơ 5 chữ không phải lục bát) đến lối thơ 5 chữ trong Lòng hay Thuyền và biển,
nó đều thu hút và làm hấp dẫn với người đọc. Thế nhưng, điều làm nên sức sống lâu bền, giá trị
trong thơ Xuân Quỳnh lại ở giá trị tư tưởng, ý thơ, xúc cảm trong thơ. Đó là niềm thương cảm
của người em gái với chị ở phương xa trong Tháng ba viết cho chị, là lòng biết ơn với người
mẹ chồng tần tảo trong Mẹ của anh, là giây phút hồi hộp, hạnh phúc của người phụ nữ khi bắt
đầu làm mẹ, là trạng thái muôn màu của tình yêu nam nữ. Mọi cung bậc cảm xúc đều xuất hiện
trong thơ của Xuân Quỳnh, cái “đức hạnh” trong thơ thi sĩ chính là phẩm chất quý giá của một
người phụ nữ khát khao bộc lộ, giãi bày tất cả. Nồng nàn, tha thiết, đắm say mà vẫn dịu dàng
nữ tính, Xuân Quỳnh đã mang cuộc sống đời thường giản dị vào trong thơ một cách tự nhiên
nhưng vô cùng sâu sắc. Đó là lòng ham sống, khát khao được sống hết mình, sống trọn vẹn.
Ngược thời gian về với những trang thơ trong phong trào Thơ mới, ta không quên một tiếng
thơ “thiết tha, rạo rực, băn khoăn” Xuân Diệu. Là người chịu ảnh hưởng rõ rệt của văn hoá
phương Tây, Xuân Diệu đã đem vào làng thơ Việt Nam bấy giờ một hình thức, giọng điệu mới
mẻ, với những cách thể hiện hình ảnh “rất Tây”.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Hay:
Hãy sát đôi đầu hãy kề đôi ngự
Hãy trộn vào nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay, hãy quấn riết đôi vai
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt
Thời gian đã trôi qua, Xuân Diệu với các tác phẩm của mình đã chứng tỏ được sức sống lâu
bền trong bạn đọc. Điều gì đã làm nên giá trị của thơ ca Xuân Diệu, nếu không phải là tư tưởng,
ý nghĩa sâu xa trong từng tác phẩm. Điều gì đã làm nên sức sống mãnh liệt ấy nếu không phải
là một niềm khát khao sống, khát khao tình yêu, hạnh phúc đến vồ vập, mạnh mẽ. Có thể nói,
đúng như câu nói của Xuân Quỳnh, điều làm nên sức sống của tác phẩm văn học chính là ở
“đức hạnh,” ở phẩm chất, ở giá trị tư tưởng mà người viết muốn gửi gắm.

“Văn tức là người” (Bujjon) và một bài thơ cũng như người con gái, “Thơ đối với cuộc sống
quý như con gái đối với gia đình, cái để cho người ta làm quen là nhan sắc, nhưng cái để sống
với nhau lâu dài là đức hạnh”. Không phủ nhận ý nghĩa của hình thức đối với thơ ca, nhấn
mạnh yếu tố nội dung có vai trò quyết định đối với sức sống của tác phẩm, câu nói của Xuân
Quỳnh cũng là bài học có giá trị trong quá trình lao động và sáng tạo nghệ thuật.

You might also like