Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 268

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

Giáo trình
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI

NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ


Hà Nội - 2015

1
2
LỜI NÓI ĐẦU

Quản lý nhà nước về thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong
việc định hướng, điều tiết, kích thích và kiểm soát các hoạt động thương
mại và quan hệ thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế. Đây là học
phần được đưa vào giảng dạy tại Trường Đại học Thương mại nhằm đáp
ứng nhu cầu đào tạo sinh viên chuyên ngành Kinh tế thương mại và một
số chuyên ngành khác thuộc khối ngành Kinh tế và Quản trị kinh doanh.
Học phần cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản, cần thiết và có
hệ thống về quản lý nhà nước đối với thương mại trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Giáo trình được biên soạn dựa trên cơ sở Chương trình học phần đã
được Hội đồng khoa học và đào tạo nhà trường phê duyệt, dựa vào kết
quả nghiên cứu, giảng dạy của tập thể giáo viên và phát triển Tập bài
giảng Quản lý nhà nước về thương mại của Bộ môn Kinh tế thương mại
(Lưu hành nội bộ từ năm 2006), có tham khảo các tài liệu của các tác
giả trong và ngoài nước, cập nhật bổ sung kiến thức mới phù hợp với
quá trình đổi mới nền kinh tế và hội nhập ở nước ta.
Giáo trình Quản lý nhà nước về thương mại bao gồm 9 chương do
TS. Thân Danh Phúc làm chủ biên. Các chương 1, 2, 3, 4 giới thiệu tổng
quan về học phần, các kiến thức nền tảng về quản lý thương mại vĩ mô
như các khái niệm, đặc điểm, chức năng, vai trò, các nguyên tắc, phương
pháp quản lý nhà nước về thương mại, bộ máy tổ chức quản lý chuyên
ngành. Chương 5, 6, 7, 8 là các kiến thức liên quan đến các nội dung cơ
bản thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của quản lý nhà nước, các công cụ
chủ yếu nhà nước sử dụng để quản lý nhà nước về thương mại. Chương
cuối đề cập đến những vấn đề cơ bản về quan điểm, định hướng và giải
pháp đổi mới quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta trong quá trình
hội nhập quốc tế.

3
Các tác giả biên soạn bao gồm:
1. TS. Thân Danh Phúc, Chủ biên và biên soạn các chương 1, 2, 3,
5, 7, 9.
2. PGS.TS. Hà Văn Sự, biên soạn các chương 4, 6, 8.
Bộ môn Kinh tế thương mại, Khoa Kinh tế - Luật và các tác giả xin
chân thành cảm ơn Lãnh đạo nhà trường, Hội đồng Khoa, Hội đồng
Khoa học và Đào tạo nhà trường, các đồng nghiệp đã giúp đỡ, đóng góp
ý kiến cho chúng tôi trong quá trình biên soạn giáo trình này. Chúng tôi
xin phép và chân thành cảm ơn các tác giả của những tài liệu tham khảo
được sử dụng trong giáo trình.
Quản lý nhà nước về thương mại là học phần thuộc các môn khoa
học kinh tế còn mới mẻ. Tuy các tác giả có nhiều cố gắng trong biên
soạn, nhưng không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong nhận
được những ý kiến đóng góp để hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau.

TM. BỘ MÔN KINH TẾ THƯƠNG MẠI


VÀ CÁC TÁC GIẢ

TS. Thân Danh Phúc

4
MỤC LỤC

Lời nói đầu 3


Chương 1
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỌC PHẦN 13
1.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA HỌC PHẦN 13
1.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỌC PHẦN 17
1.3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA HỌC PHẦN 18
1.4. KẾT CẤU HỌC PHẦN 19

Chương 2
BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 21
2.1. BẢN CHẤT VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI 21
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 21
2.1.2. Đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước về thương mại 29
2.2. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 32
2.2.1. Chức năng định hướng phát triển thương mại thông qua công cụ
kế hoạch hóa 33
2.2.2. Tạo lập khung pháp lý và môi trường kinh doanh cho các chủ thể
hoạt động thương mại 34
2.2.3. Tổ chức và phối hợp các hoạt động quản lý thương mại 36
2.2.4. Lãnh đạo, điều khiển các hoạt động thương mại 37
2.2.5. Kiểm tra, giám sát các quan hệ trao đổi, các hoạt động thương mại 38
2.3. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 39
2.3.1. Định hướng, hướng dẫn hoạt động của các chủ thể trao đổi 39
2.3.2. Tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh 40
2.3.3. Hỗ trợ các doanh nghiệp và giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp thương mại 41

5
2.3.4. Điều tiết các quan hệ thị trường, các hoạt động thương mại 42
2.3.5. Giám sát thực hiện, xử lý và điều chỉnh các giải pháp,
chính sách quản lý thương mại 44

Chương 3
CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI 47
3.1. CÁC QUY LUẬT KINH TẾ VÀ SỰ VẬN DỤNG
TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 47
3.1.1. Các quy luật kinh tế chủ yếu và sự tương tác của các quy luật đó
trong nền kinh tế thị trường 47
3.1.2. Cơ chế vận dụng các quy luật trong quản lý kinh tế 51
3.2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI 52
3.2.1. Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế, thống nhất quản lý
thương mại bằng chính sách, pháp luật, quy hoạch và kế hoạch 53
3.2.2. Tập trung và dân chủ 55
3.2.3. Kết hợp quản lý thương mại theo ngành và lãnh thổ 57
3.2.4. Kết hợp hợp lý bảo vệ, phát triển thị trường nội địa với mở cửa
thị trường và hội nhập quốc tế 59
3.2.5. Đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của quản lý 61
3.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 63
3.3.1. Phương pháp kinh tế 64
3.3.2. Phương pháp giáo dục, thuyết phục 66
3.3.3. Phương pháp hành chính 67

Chương 4
HỆ THỐNG TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 71
4.1. CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 71
4.1.1. Phân cấp quản lý nhà nước về thương mại 71
4.1.2. Chính phủ 76

6
4.1.3. Các cơ quan của Chính phủ 78
4.1.4. Bộ quản lý ngành 79
4.1.5. UBND các cấp 86
4.2. HỆ THỐNG TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CHUYÊN NGÀNH
THEO CÁC LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI 97
4.2.1. Đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa 97
4.2.2. Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ 97
4.2.3. Bộ máy quản lý thị trường 99
4.3. CÔNG TÁC CÁN BỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 106
4.3.1. Vai trò của công tác cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước
về thương mại 106
4.3.2. Đào tạo và sử dụng cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước
về thương mại 109

Chương 5
NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 115
5.1. THEO ĐỐI TƯỢNG QUẢN LÝ 115
5.1.1. Quản lý, kiểm soát hàng hoá lưu thông và dịch vụ cung ứng
trên thị trường 115
5.1.2. Quản lý thương nhân, kiểm soát hoạt động và giao dịch thương mại
của các chủ thể kinh doanh 118
5.1.3. Quản lý và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại 119
5.1.4. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ, quy định chính sách,
pháp luật về thương mại đối với các chủ thể trao đổi hàng hóa
và dịch vụ 121
5.1.5. Đấu tranh chống buộn lậu, gian lận thương mại và kinh doanh hàng giả,
hàng cấm, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà kinh doanh, lợi ích
của Nhà nước và người tiêu dùng 122
5.1.6. Các nội dung quản lý khác 123
5.2. THEO CHỨC NĂNG QUẢN LÝ 123
5.2.1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức chỉ đạo
thực thi chính sách, pháp luật đối với các lĩnh vực thương mại 123

7
5.2.2. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch,
các chương trình, dự án và kế hoạch phát triển thương mại 125
5.2.3. Ban hành các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, cấp giấy
chứng nhận và quản lý, kiểm soát chất lượng hàng hoá trao đổi,
dịch vụ cung ứng trên thị trường 128
5.2.4. Thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến các văn bản quy phạm
pháp luật và tình hình thực thi chính sách, pháp luật đối với các
lĩnh vực thương mại 130
5.2.5. Cấp phép kinh doanh và thu hồi các loại giấy phép kinh doanh 131
5.2.6. Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý
các vi phạm pháp luật đối với các lĩnh vực thương mại 132
5.2.7. Tổ chức bộ máy quản lý, phân công trách nhiệm và phối hợp
thực thi chính sách, pháp luật đối với các lĩnh vực thương mại 133
5.3. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN LÃNH THỔ (THEO PHÂN CẤP CHO ĐỊA PHƯƠNG 133
5.3.1. Ban hành các văn bản cụ thể hóa và triển khai hướng dẫn thực thi
chính sách, pháp luật nhà nước về thương mại trên địa bàn 134
5.3.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
và chương trình dự án phát triển thương mại, thị trường của địa phương 135
5.3.3. Tổ chức bộ máy quản lý, phân công trách nhiệm và phối hợp
thực thi chính sách, pháp luật về thương mại trên địa bàn 135
5.3.4. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết các khiếu nại, tranh chấp thương mại
và xử lý các vi phạm quy định chính sách, pháp luật về thương mại
trên địa bàn 136
5.3.5. Nội dung quản lý khác 137

Chương 6
PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI 139
6.1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI 139
6.1.1. Khái niệm và phân loại 139
6.1.2. Vai trò của pháp luật về thương mại 142

8
6.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH KHUNG KHỔ PHÁP LÝ VỀ THƯƠNG MẠI 149
6.2.1. Hệ thống các quy phạm pháp luật quốc gia 149
6.2.2. Các định chế thương mại quốc tế 152
6.3. HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI 155
6.3.1. Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về thương mại 155
6.3.2. Thực thi pháp luật về thương mại. 158
6.3.3. Khung pháp lý cơ bản đối với thương mại hàng hóa và thương mại
dịch vụ ở Việt Nam 162

Chương 7
KẾ HOẠCH HÓA THƯƠNG MẠI 169
7.1. TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH HÓA THƯƠNG MẠI 169
7.1.1. Khái niệm và sự cần thiết của kế hoạch hóa thương mại 169
7.1.2. Vị trí và vai trò của kế hoạch hóa thương mại 171
7.1.3. Các nguyên tắc và nội dung của kế hoạch hóa thương mại 173
7.1.4. Quy trình kế hoạch hóa thương mại 175
7.1.5. Quá trình kế hoạch hóa thương mạị 175
7.2. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI 177
7.2.1. Khái niệm chiến lược phát trển thương mại 177
7.2.2. Phân loại chiến lược phát triển thương mại 178
7.2.3. Các quan điểm và nguyên tắc cơ bản của chiến lược
phát triển thương mại 180
7.2.4. Quá trình hoạch định chiến lược phát triển thương mại 181
7.3. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI 183
7.3.1. Khái niệm quy hoạch phát triển thương mại 183
7.3.2. Phân loại quy hoạch phát triển thương mại 184
7.3.3. Căn cứ và nguyên tắc cơ bản của quy hoạch phát triển thương mại. 185
7.3.4. Phương pháp dự báo trong quy hoạch phát triển thương mại 186

9
7.4. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI 5 NĂM VÀ HÀNG NĂM 189
7.4.1. Khái niệm kế hoạch phát triển thương mại 5 năm và hàng năm 189
7.4.2. Nhiệm vụ và yêu cầu 190
7.4.3. Nội dung và phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm, hàng năm 191
7.4.4. Tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm và hàng năm 193
7.5. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HÓA THƯƠNG MẠI 193
7.5.1. Sự cần thiết đổi mới công tác kế hoạch hóa thương mại 193
7.5.2. Những xu hướng đổi mới công tác kế hoạch hóa thương mại 194

Chương 8
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 199
8.1. TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI 199
8.1.1. Khái niệm, vai trò của chính sách quản lý nhà nước về thương mại 199
8.1.2. Nguyên tắc cơ bản của chính sách quản lý nhà nước về thương mại 206
8.1.3. Phân loại chính sách quản lý nhà nước về thương mại 209
8.1.4. Đặc điểm và vai trò một số chính sách kinh tế, thương mại chủ yếu 212
8.2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN TRONG CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 221
8.2.1. Quy định chính sách về hàng hóa, dịch vụ được phép kinh doanh
và cấm kinh doanh 221
8.2.2. Quy định chính sách đối với thương nhân, thương quyền 225
8.2.3. Quy định chính sách xúc tiến thương mại 228
8.2.4. Quy định chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại 230
8.2.5. Quy định các biện pháp điều tiết thị trường, quản lý và kiểm soát
thương mại trong nước và xuất nhập khẩu 232
8.2.6. Các quy định chính sách khác (như chống buôn lậu, gian lận
thương mại; kinh doanh hàng giả, hàng nhái, bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ và lợi ích người tiêu dùng; phát triển thương mại miền núi,
biên giới, hải đảo;...) 233

10
8.3. PHỐI HỢP VỀ TỔ CHỨC VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI 233
8.3.1. Phân công, phân cấp và phối hợp tổ chức công tác hoạch định
và triển khai thực thi chính sách quản lý nhà nước về thương mại 233
8.3.2. Phối hợp về chính sách quản lý ngành Thương mại
với các ngành kinh tế khác, giữa Trung ương và địa phương 234
8.3.3. Phối hợp với các nước đối tác trong quản lý nhà nước về thương mại 235

Chương 9
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 239
9.1. SỰ CẦN THIẾT TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI TRONG BỐI CẢNH MỚI CỦA HỘI NHẬP 239
9.1.1. Các chủ trương, nghị quyết của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế 240
9.1.2. Thành tựu và hạn chế của hội nhập quốc tế 241
9.1.3. Bối cảnh mới thời gian tới 242
9.2. QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI 243
9.2.1. Chuyển đổi nhanh, mạnh hơn nữa sang quản lý nhà nước
thống nhất bằng các chiến lược, quy hoạch, chính sách
và pháp luật về thương mại 243
9.2.2. Tách chức năng quản lý nhà nước về thương mại ra khỏi chức năng
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Đẩy mạnh cải cách
hành chính và đơn giản hoá, thuận lợi hoá các thủ tục, quy trình
liên quan tới thương mại 245
9.2.3. Xây dựng đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống buôn lậu, kinh doanh hàng giả,
kém chất lượng, không đảm bảo vệ sinh, an toàn và các hoạt động
kinh doanh trái pháp luật khác 247
9.2.4. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp với cam kết
mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế, đồng thời bảo vệ vững chắc
thị trường nội địa. 249
9.2.5. Sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp quản lý và tăng cường
phối hợp quản lý. Coi trọng điều tiết thị trường, thương mại bằng kinh tế 250

11
9.3. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI 251
9.3.1. Đổi mới công tác kế hoạch hoá thương mại 251
9.3.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp về thương mại 252
9.3.3. Đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thương mại 254
9.3.4. Nâng cao hiệu lực thực thi chính sách, luật pháp về thương mại 256
9.3.5. Tăng cường công tác cán bộ quản lý nhà nước về thương mại 257
9.4. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI 258
9.4.1. Đổi mới tư duy, nhận thức tầm nhìn 258
9.4.2. Đổi mới căn cứ, nguyên tắc, nội dung, phương pháp
và quy trình quản lý 259
9.4.3. Đổi mới về nội dung phân công, phân cấp và phối hợp quản lý 261
9.4.4. Tăng cường công tác thông tin, dự báo và xây dựng hệ thống
dữ liệu phục vụ hoạch định chính sách, chiến lược
và quy hoạch thương mại 262
9.4.5. Nâng cao chất lượng các nguồn lực, phương tiện, công nghệ
kỹ thuật quản lý 263
9.4.6. Nâng cao chất lượng thẩm định các quyết định, hiệu lực thực thi
chính sách, pháp luật về thương mại 263
9.4.7. Đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thương mại
và công tác cán bộ 264

12
Chương 1
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU HỌC PHẦN

1.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA HỌC PHẦN


Quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước
từ hoạt động lập pháp, hành pháp đến tư pháp. Nhưng giáo trình này tập
trung chủ yếu hoạt động quản lý nhà nước về thương mại của bộ máy
hành pháp và định hướng phạm vi nghiên cứu là ở Việt Nam. Những vấn
đề hoạt động ban hành văn bản pháp luật về thương mại và hoạt động tư
pháp đối với đối tượng quản lý thương mại của Nhà nước trình bày có
giới hạn.
Quản lý nhà nước về thương mại là bộ phận quan trọng của quản lý
nhà nước về kinh tế. Quản lý nhà nước về thương mại là một khoa học,
có đối tượng nghiên cứu là các mối quan hệ tương tác giữa các thực thể
có liên quan tới hoạt động thương mại và quản lý hoạt động thương mại
của một quốc gia.
- Thực thể trong quản lý nhà nước về thương mại bao gồm hệ thống
quản lý và hệ thống bị quản lý. Hệ thống quản lý bao gồm các cơ quan
quyền lực nhà nước tham gia quản lý thương mại của một nước và hệ
thống bị quản lý bao gồm các đối tượng quản lý.
Cơ quan quản lý nhà nước về thương mại được hình thành từ Trung
ương đến địa phương theo quy định của pháp luật phù hợp với quyền lực
của Nhà nước về quản lý kinh tế. Cơ quan quản lý nhà nước về thương
mại bao gồm cơ quan của Chính phủ, bộ quản lý chuyên ngành thương
mại và các bộ liên quan quản lý ngành hàng hóa đặc thù, quản lý ngành
dịch vụ, Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan chuyên môn quản lý

13
thương mại của địa phương trên địa bàn lãnh thổ theo quy định của
pháp luật.
Đối tượng của quản lý nhà nước về thương mại rất rộng, giáo trình
này tập trung chủ yếu vào 3 bộ phận sau: các thương nhân và hoạt động
thương mại của họ; các hàng hoá lưu thông, các dịch vụ cung ứng trên thị
trường; kết cấu hạ tầng thương mại. Trong các đối tượng của quản lý nhà
nước về thương mại, thương nhân là những người hoạt động độc lập,
thường xuyên chuyên mua hàng để bán kiếm lời, là bộ phận trọng yếu.
Họ là người giữ vị trí trung gian, kết nối sản xuất với tiêu dùng. “Thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh” (Khoản 1, Điều 6, Luật Thương mại 2005). Thương nhân bao
gồm cả tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài phải có năng lực hành
vi thương mại và thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý thương mại theo quy
định của pháp luật. Hành vi và hoạt động của thương nhân có ảnh hưởng
trực tiếp, to lớn đến sản xuất và đời sống xã hội. Ngoài thương nhân
thuần tuý trao đổi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, các đối tượng
chịu sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước về thương mại còn bao gồm các
nhà sản xuất (khi mua vật tư, nguyên liệu, thiết bị, máy móc,... và bán
các hàng hoá thành phẩm do họ sản xuất ra), những người tiêu dùng khi
mua hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Bộ phận thứ 2 của đối tượng
quản lý nhà nước về thương mại là các hàng hóa lưu thông và dịch vụ
cung ứng trên thị trường. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại,
trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong các ngành nghề, trên các địa bàn, dưới
các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm (Khoản 2,
Điều 6, Luật Thương mại 2005). Như vậy, quản lý nhà nước đối với
thương nhân và hoạt động thương mại của họ gắn liền với quản lý hàng
hóa lưu thông, dịch vụ cung ứng trên thị trường theo quy định của pháp
luật. Nhà nước có quy định cụ thể về quản lý, kiểm soát hàng hóa, dịch
vụ cấm kinh doanh, hàng hóa và dịch vụ kinh doanh có điều kiện hoặc
hạn chế kinh doanh theo luật định phù hợp với từng giai đoạn phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Bộ phận thứ 3 là quản lý kết cấu hạ tầng

14
thương mại bao gồm chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm
logistic, sàn giao dịch,... và hạ tầng thương mại điện tử.
Nhà nước sử dụng các nguyên tắc, phương pháp và công cụ khác
nhau để quản lý thương mại nhằm đạt mục tiêu. Trong đó pháp luật là
công cụ thể hiện các chuẩn mực xử sự, điều chỉnh các hành vi của các
quan hệ kinh tế, thương mại; kế hoạch hóa thương mại là công cụ thể
hiện ý chí, ý đồ, định hướng và mục tiêu của quản lý nhà nước đối với
thương mại cũng như nền kinh tế trong từng giai đoạn phát triển; chính
sách là công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm và các biện pháp của Nhà
nước trong điều tiết, kích thích các thương nhân, doanh nhân và hoạt
động thị trường trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội.
- Ngoài ra, thực thể trong nội hàm quản lý nhà nước về thương mại
còn bao gồm các thiết chế xã hội khác như văn hoá, tôn giáo, dân tộc,
giáo dục. Các thiết chế xã hội này cũng được nhà nước sử dụng cùng với
các định chế kinh tế, thương mại để tác động đến thương nhân, các tổ
chức và cá nhân khác có tham gia hoạt động thương mại và thị trường.
- Nhà nước tác động đến các thương nhân và đối tượng trên nhằm
thực hiện các định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn trên cơ sở tôn trọng yêu cầu của những quy luật khách quan,
trong đó có những quy luật cơ bản của kinh tế thị trường như quy luật giá
trị, cung cầu và cạnh tranh. Để định hướng, điều tiết cũng như kiểm soát
hoạt động thương mại của thương nhân và các đối tượng khác tham gia
thị trường, cơ quan quản lý nhà nước về thương mại tác động tới họ bằng
các thiết chế quyền lực nhà nước, các phương thức và công cụ quản lý
khác nhau như đã nêu trên. Các thương nhân và đối tượng quản lý đó
cũng tác động trở lại cơ quan quản lý nhà nước nhằm đảm bảo đáp ứng
các điều kiện, môi trường kinh doanh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp về kinh
doanh cũng như lợi ích tiêu dùng của họ khi mua hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường.
Do vậy, học phần Quản lý nhà nước về thương mại nghiên cứu các
mối quan hệ tương tác giữa các thực thể liên quan đến thương mại thông

15
qua sử dụng hệ thống các nguyên tắc, phương pháp và các công cụ quản
lý như luật pháp, chính sách, kế hoạch, quy hoạch và chiến lược phát
triển thương mại để tác động vào các đối tượng quản lý.
Nhà nước không chỉ là người tác động tới các doanh nghiệp, các tổ
chức, cá nhân tham gia hoạt động trao đổi, mua bán trên thị trường, mà
còn tiếp nhận những tác động ngược từ các chủ thể kinh tế đó. Nhà nước
trong quá trình quản lý còn chịu ảnh hưởng của các tác nhân từ môi
trường, các thiết chế xã hội trước khi ra quyết định tác động tới thương
nhân và các đối tượng khác hoạt động thương mại trên thị trường. Học
phần còn nghiên cứu tính quy luật của các quan hệ tác động và xu hướng
sử dụng các công cụ, phương pháp quản lý của các cơ quan quyền lực
nhà nước đối với thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ kinh tế chủ yếu được
phản ánh thông qua thị trường và trao đổi thương mại. Các mối quan hệ
trao đổi kinh tế, thương mại ngày càng phát triển trong điều kiện hội
nhập và cạnh tranh quốc tế. Thương mại là khái niệm rộng, không chỉ
bao gồm lĩnh vực trao đổi mua bán hàng hoá, mà còn cả cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại,... và nhượng quyền các sản phẩm của
hoạt động sở hữu trí tuệ. Thương mại liên quan tới hầu hết các lĩnh vực
của đời sống kinh tế, xã hội. Do vậy, quản lý nhà nước về thương mại có
vị trí ngày càng quan trọng trong quản lý của Nhà nước về kinh tế, có vai
trò to lớn đối với quá trình hội nhập và phát triển của tất cả các quốc gia
trên thế giới.
Ngày nay, phát triển thương mại của mỗi nước trong bối cảnh hội
nhập phải đảm bảo sự tăng trưởng ổn định lâu dài và bền vững, gắn sự
phát triển kinh tế thương mại với tiến bộ, công bằng xã hội và nâng cao ý
thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường, giữ gìn các giá trị văn hóa, đảm bảo
an ninh, chủ quyền. Do vậy, quản lý nhà nước đối với thương mại đang
đặt ra những vấn đề cần phải đổi mới từ tư duy đến tổ chức và các
phương pháp, công cụ quản lý như một tất yếu khách quan. Quản lý nhà
nước về thương mại không chỉ là công việc riêng của mỗi quốc gia, mà

16
còn là hoạt động liên quan tới bên đối tác, tới các khối kinh tế, thương
mại trong sự liên kết và phối hợp quản lý mang tính khu vực và toàn cầu.
Điều đó vừa tạo ra những cơ hội, nhưng đồng thời vừa đưa đến những
thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế, thương mại cũng như công
tác quản lý nhà nước của mỗi quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế.

1.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỌC PHẦN


Quản lý nhà nước về thương mại là học phần thuộc hệ thống các
môn khoa học xã hội dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng và lịch
sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời khi
nghiên cứu các phương pháp, công cụ và nội dung của quản lý nhà nước
về thương mại phải dựa vào quan điểm, đường lối đổi mới kinh tế, mở
cửa thị trường và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước.
Các phương pháp cụ thể thường sử dụng trong nghiên cứu học phần
là phương pháp phân tích, luận giải, dẫn chiếu, điều tra xã hội học,
thống kê kinh nghiệm và đặc biệt là phương pháp nghiên cứu, phân
tích hệ thống.
Thương mại được xem như một hệ thống mở luôn có tác động qua
lại với môi trường và vận động không ngừng trong quá trình phát triển.
Quản lý nhà nước về thương mại cũng bao gồm các hệ thống cụ thể: Các
cơ quan quản lý nhà nước về thương mại từ Trung ương đến địa phương
là hệ thống chỉ huy, điều khiển, kiểm soát và các doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân tham gia vào quan hệ trao đổi, giao dịch mua bán trên thị trường.
Nghiên cứu hệ thống này phải đặt trong mối quan hệ với các cơ quan
quản lý khác có liên quan tới thương mại như kế hoạch - đầu tư, tài chính
- ngân hàng, tài nguyên - môi trường, văn hóa - du lịch, lao động - các
vấn đề xã hội,... Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại, đội ngũ thương
nhân, doanh nhân, chủ thể khác tham gia thị trường là đối tượng quản lý
của Nhà nước. Hai hệ thống này cũng như mỗi hệ thống con trong từng
hệ thống luôn có sự tương tác lẫn nhau trong suốt quá trình vận động của
lưu thông hàng hoá, của trao đổi và cung ứng dịch vụ trên thị trường.

17
Các hệ thống trên và tác động của cơ quan quản lý nhà nước đối với
thương mại luôn ở trạng thái động trong mối quan hệ với những thay đổi
của môi trường kinh doanh, của bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và
quốc tế. Những vấn đề thuộc nội dung quản lý nhà nước về thương mại,
những lĩnh vực, khu vực thương mại, các chủ thể kinh doanh thuộc các
thành phần kinh tế, các loại hàng hóa và dịch vụ, loại hình kết cấu hạ
tầng thương mại, những phương pháp và công cụ quản lý cụ thể thể hiện
tính thời sự, bức xúc khác nhau được trình bày hợp lý trong các chương
mục của học phần hoặc các đề tài thảo luận, nghiên cứu khoa học của
sinh viên.

1.3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA HỌC PHẦN


Mục tiêu học phần: Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản
đối với quản lý của Nhà nước về thương mại. Giúp sinh viên có khả năng
vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn để phân tích, đánh giá công
tác quản lý nhà nước về thương mại của Việt Nam. Cụ thể:
Cung cấp những kiến thức cơ bản, kiến thức nền và chuyên sâu đối
với quản lý nhà nước về thương mại bao gồm: các khái niệm và đặc
điểm, các chức năng và vai trò, các nguyên tắc và phương pháp quản lý
của Nhà nước về thương mại, tổ chức bộ máy và trách nhiệm của cơ
quan quản lý ngành, các cấp quản lý, nội dung hoạt động quản lý nhà
nước và các công cụ chủ yếu của quản lý nhà nước về thương mại.
Giúp sinh viên có được kỹ năng tư duy, phương pháp nghiên cứu,
phân tích và đánh giá vai trò của quản lý nhà nước về thương mại, việc
thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan chuyên môn trong
công tác quy hoạch phát triển thương mại, hoạch định và tổ chức thực thi
chính sách, pháp luật của Nhà nước về thương mại; có kỹ năng truyền
thông, phổ biến, giới thiệu chính sách, pháp luật về thương mại, nghiên
cứu và phân tích tác động của các chính sách cũng như các phương pháp
và công cụ quản lý khác của Nhà nước đối với sự phát triển thương mại
Việt Nam.

18
Nhiệm vụ học phần: Giới thiệu một cách có hệ thống những kiến
thức cơ bản, tổng quan có tính nguyên lý của quản lý nhà nước về thương
mại theo mục tiêu đã xác định và vận dụng những kiến thức cơ bản đó
một cách phù hợp vào thực tiễn của quản lý nhà nước về thương mại ở
Việt Nam. Ngoài ra, học phần còn giới thiệu các quan điểm, định hướng
cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về thương mại của Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Những kiến thức chuyên sâu về
quản lý nhà nước đối với thương nhân trong nước và nước ngoài, đối với
trao đổi thương mại ở thị trường trong nước và xuất nhập khẩu, đối với
các loại hạ tầng thương mại cụ thể sẽ được nghiên cứu trong các chuyên
đề hoặc học phần chuyên sâu khác.

1.4. KẾT CẤU HỌC PHẦN


Học phần Quản lý nhà nước về thương mại bao gồm 9 chương:
Chương 1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu học phần
Chương 2. Bản chất và vai trò của quản lý nhà nước về thương mại
Chương 3. Các nguyên tắc và phương pháp quản lý nhà nước về
thương mại
Chương 4. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thương mại
Chương 5. Nội dung quản lý nhà nước về thương mại
Chương 6. Pháp luật về thương mại
Chương 7. Kế hoạch hoá thương mại
Chương 8. Chính sách quản lý nhà nước về thương mại
Chương 9. Đổi mới quản lý nhà nước về thương mại trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế

19
20
Chương 2
BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ
CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI

Chương này giới thiệu tiếp cận nghiên cứu quản lý và các khái niệm
cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế và thương mại. Quản lý nhà
nước về thương mại là một bộ phận của quản lý nhà nước về kinh tế. Do
vậy, nó có quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế - xã hội. Cách nhìn về thương mại và đặc điểm có tính đặc thù
của quản lý thương mại so với sản xuất trong chương này sẽ cho thấy
trách nhiệm của Nhà nước về quản lý thương mại với nội hàm rộng và
phạm vi cũng rất khác nhau. Chức năng và vai trò của quản lý nhà nước
về thương mại cũng là một trong những nội dung chính của chương. Nhà
nước thực hiện đúng đắn và đầy đủ các chức năng quản lý thì sẽ thể hiện
tốt các vai trò quản lý đối với thương mại của đất nước.

2.1. BẢN CHẤT VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a. Khái niệm quản lý và quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý là một hiện tượng khách quan trong mọi hình thái kinh tế -
xã hội. Nó xuất hiện là tất yếu do lao động mang tính tập thể và các hoạt
động mang tính cộng đồng, xã hội quyết định. Các Mác đã chỉ rõ: “Bất
kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào đó mà được tiến
hành trên quy mô tương đối lớn, ở mức độ nhiều hay ít đều cần có sự
quản lý nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện những
chức năng chung”. Ông đã hình dung quản lý giống như công việc của
người nhạc trưởng trong một dàn hợp xướng. “Một nhạc công tự điều
khiển mình, nhưng một dàn nhạc cần phải có nhạc trưởng”[1].

21
Có nhiều cách trình bày, diễn đạt khác nhau về khái niệm quản lý,
nhưng phổ biến có 2 cách tiếp cận sau:
Tiếp cận thứ nhất: Quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản lý
tổ chức, điều hành, tác động có định hướng, có chủ đích một cách khoa
học và nghệ thuật vào đối tượng quản lý nhằm đạt kết quả tốt nhất theo
mục tiêu đã đề ra thông qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ
quản lý thích hợp.
Tiếp cận thứ hai: Quản lý được hiểu là một hệ thống, bao gồm các
thành tố: đầu vào, đầu ra, quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra, môi
trường và mục tiêu của quản lý. Các yếu tố trên luôn tác động qua lại lẫn
nhau. Một mặt, chúng đặt ra các yêu cầu, những vấn đề quản lý phải giải
quyết. Mặt khác, chúng ảnh hưởng tới hiệu lực và hiệu quả của quản lý.
Hai cách tiếp cận trên được nghiên cứu và vận dụng không chỉ trong
lĩnh vực quản lý kinh tế, mà cả trong các lĩnh vực khác như văn hóa và
xã hội, an ninh và quốc phòng, không chỉ giới hạn nghiên cứu trên tầm vĩ
mô, mà cả phạm vi các đơn vị vi mô là tổ chức, doanh nghiệp.
Quản lý nhà nước: là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động
của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự
pháp luật nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
[2] và các mục tiêu đã xác định trong từng giai đoạn phát triển của
đất nước.
Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng được thực hiện thông qua hoạt
động của cả 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp,
quản lý nhà nước được giới hạn ở hoạt động quản lý có tính chất nhà
nước được thực hiện bởi cơ quan hành pháp (Chính phủ) nhằm đạt tới
các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra.
Quản lý nhà nước về kinh tế: “Đó là quá trình tác động có tổ chức và
bằng quyền lực của Nhà nước tới nền kinh tế nhằm sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực trong và ngoài nước, tận dụng tốt nhất các cơ hội có thể có

22
để đạt mục tiêu đã xác định về phát triển kinh tế của đất nước trong từng
giai đoạn”[3].
Để tác động đến các hoạt động trong nền kinh tế, nhà nước bằng
quyền lực của mình theo quy định của hiến pháp phải kiến tạo bộ máy tổ
chức, phân công và phân cấp, phân quyền và phân nhiệm cho các cơ
quan quản lý cũng như quy định sự phối hợp, đồng thời xây dựng các
nguyên tắc, phương pháp, hình thức và công cụ quản lý phù hợp với thể
chế kinh tế, chính trị - xã hội đã xác lập.
Quá trình tác động của các cơ quan quản lý nhà nước tới các chủ thể
tiến hành các hoạt động kinh tế là mang tính liên tục trong điều kiện môi
trường luôn thay đổi. Do tính 2 mặt của kinh tế thị trường có cả ưu điểm
và khuyết tật, hội nhập có cả cơ hội và thách thức nên không phải các
chủ thể kinh tế lúc nào cũng tự điều chỉnh các hoạt động theo đúng mục
tiêu và định hướng của Nhà nước. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước cần
phải nhận thức đúng đắn các quy luật và xu hướng vận động của các
quan hệ, các quá trình kinh tế để xác lập cơ chế quản lý, phương thức tác
động cho thích hợp, xử lý tốt các mâu thuẫn mới mang lại hiệu quả, đạt
được mục tiêu.
Quản lý nhà nước về kinh tế chính là sự tác động của hệ thống quản
lý (hay chủ thể quản lý là Nhà nước) lên hệ thống bị quản lý (hay khách
thể quản lý là nền kinh tế) nhằm hướng sự vận hành của nền kinh tế theo
các mục tiêu đặt ra [4]. Trong thực tiễn quản lý nhà nước về kinh tế còn
được cụ thể hoá theo các lĩnh vực, các mặt cụ thể của quản lý. Đó là một
hệ thống tổng thể bao gồm các yếu tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp,
nguyên tắc tổ chức, cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ quản lý cũng
như môi trường của hoạt động kinh tế,... Theo cách tiếp cận này, quản lý
nhà nước về kinh tế là sự tác động của Nhà nước vào cả quá trình hoặc
vào từng thành tố của quá trình làm cho quá trình đó vận động tới mục
tiêu. Mỗi thành tố là một lĩnh vực quản lý chức năng (như tài chính,
thương mại, kế hoạch, đầu tư, tổ chức, nhân sự...), có ảnh hưởng tới toàn
bộ hệ thống và kết quả của hoạt động hoặc quá trình kinh tế nói chung.

23
Dù có tiếp cận nghiên cứu khác nhau, nhưng bản chất của quản lý
nhà nước về kinh tế đó là tác động của Nhà nước vào kinh tế thông qua
việc sử dụng quyền lực nhà nước nhằm đạt mục tiêu. Quyền lực nhà
nước thể hiện ở thẩm quyền và trách nhiệm của hệ thống quản lý (cơ
quan quản lý nhà nước về kinh tế) khi sử dụng các công cụ, nguyên tắc,
phương pháp, hình thức quản lý để tác động đến hệ thống bị quản lý (các
đối tượng quản lý - tổ chức, cá nhân và các hoạt động kinh tế của họ)
nhằm làm cho nền kinh tế vận hành theo định hướng, mục tiêu đã đặt ra.
Suy cho cùng là nhà nước quản lý những con người hoạt động kinh tế và
thông qua con người để thực hiện các nhiệm vụ và đạt được các mục tiêu
đã xác định trong từng giai đoạn. Vấn đề tác động tới ai, tới cái gì, như
thế nào, bằng cách nào, mức độ, tính chất ra sao và hướng tới mục tiêu
mang lại những lợi ích gì... là những câu hỏi chủ yếu liên quan tới biểu
hiện cụ thể nội dung quản lý nhà nước về kinh tế trong từng giai đoạn
phát triển của đất nước.
Quản lý nhà nước về kinh tế khác cơ bản với quản trị kinh doanh của
doanh nghiệp trên các mặt sau:
Thứ nhất, về chủ thể quản lý: Quản lý nhà nước về kinh tế là công
việc, hoạt động của Nhà nước, còn quản trị kinh doanh của doanh nghiệp
là công việc, hoạt động của doanh nhân.
Thứ hai, về phạm vi quản lý: Quản lý nhà nước về kinh tế là Nhà
nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quản lý tất cả đội ngũ doanh
nhân và kiểm soát, giám sát hoạt động của họ, còn doanh nhân thì quản
lý doanh nghiệp của chính mình.
Thứ ba, về mục tiêu quản lý: Nhà nước quản lý kinh tế nhằm mục
tiêu mang lại lợi ích cho toàn dân, cho xã hội và cộng đồng trong đó, lợi
ích kinh tế gắn liền hữu cơ với các lợi ích khác. Còn mục tiêu quản trị
kinh doanh của doanh nhân là theo đuổi lợi ích của chính mình, của
doanh nghiệp, cơ bản là lợi ích về kinh tế, tức lợi nhuận hoặc giá trị
doanh nghiệp.

24
Thứ tư, về công cụ và phương pháp quản lý: Nhà nước sử dụng tổng
hợp các công cụ, phương pháp, nguyên tắc và hình thức quản lý khác
nhau để thực hiện mục tiêu trên cơ sở sứ mạng và quyền lực nhà nước
theo quy định của pháp luật (theo Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ),
trong đó cưỡng chế thực thi pháp luật là đặc trưng quyền lực của Nhà
nước. Còn đối với doanh nhân, quản trị doanh nghiệp chủ yếu bằng các
công cụ kích thích, biện pháp thuyết phục trên cơ sở các thỏa thuận dân
sự và dựa trên các quy chế hoặc điều lệ hoạt động của doanh nghiệp.
b. Quản lý nhà nước về thương mại
- Khái quát các cách tiếp cận nghiên cứu về thương mại dưới góc
độ kinh tế và quản lý.
Thương mại là một loại hoạt động kinh tế (hay còn gọi là hoạt động
thương mại), bao gồm hoạt động mua bán hàng hoá của thương nhân,
hoạt động mua các yếu tố đầu vào và bán sản phẩm hàng hoá ở đầu ra
của nhà sản xuất, hoạt động mua hàng hoá của người tiêu dùng và các
dịch vụ thương mại khác. Trong đó, thương nhân (nhà thương mại) là
người chuyên mua hàng để bán kiếm lời một cách độc lập, thường xuyên.
Đây chính là chức năng thuần túy của thương nhân. Theo thời gian, cùng
với quá trình phát triển của phân công lao động xã hội và sản xuất hàng
hoá, thương nhân ngày càng phát triển thúc đẩy sự ra đời của ngành
Thương mại. Tuy nhiên, hoạt động trao đổi mua bán không chỉ do
thương nhân thực hiện, trên thị trường còn có sự tham gia trao đổi của
các nhà sản xuất, các tổ chức và cá nhân khác. Ngày nay, hội nhập kinh
tế quốc tế cho thấy khái niệm thương mại theo cách tiếp cận này đã mở
rộng đối tượng trao đổi ra cả sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và sản phẩm
của hoạt động sở hữu trí tuệ. Theo cách tiếp cận này, chức năng thương
mại chính là chức năng của thương nhân thực hiện trao đổi mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường để kiếm lời. Quản lý nhà nước về
thương mại, do vậy, luôn phải quản lý, kiểm soát thương nhân và các
hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của họ.

25
Thương mại còn được hiểu là một ngành kinh tế (kỹ thuật) của nền
kinh tế quốc dân, được cấu trúc bởi hệ thống thương nhân (các tổ chức,
cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên). Sự phát triển của
ngành Thương mại, do vậy được phản ánh qua sự lớn mạnh, trưởng
thành của đội ngũ thương nhân cả về số và chất lượng, sự đa dạng về cơ
cấu các loại hình và lĩnh vực hoạt động, sự liên kết hợp tác trong sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa thương nhân và các chủ thể hoạt động thương mại
khác trên thị trường. Ngành Thương mại phải định hướng phát triển hệ
thống thương nhân cùng với các loại hình kinh doanh và kết cấu hạ tầng
thương mại để tổ chức các hoạt động trao đổi diễn ra phù hợp với xu
hướng và quy luật vận động của sự phát triển kinh tế, của thị trường. Do
vậy, chức năng của quản lý nhà nước về thương mại là kiến tạo khung
pháp lý, môi trường kinh doanh và kết cấu hạ tầng thương mại, định
hướng, điều tiết và kiểm soát hệ thống thương nhân cùng các hoạt động
trao đổi thương mại của các chủ thể kinh tế trên thị trường một cách có
kế hoạch và hiệu quả.
Thương mại còn là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, nên
luôn có sự tương tác hoạt động với các ngành thuộc khâu phân phối, lưu
thông (như tài chính, ngân hàng, giá cả và các ngành dịch vụ khác), với
các ngành sản xuất hàng hoá vật chất như nông nghiệp, công nghiệp và
tiêu dùng. Chức năng thương mại trong trường hợp này là liên kết, nối
liền sản xuất với tiêu dùng, thúc đẩy tái sản xuất xã hội phát triển (trong
phạm vi quốc gia, cũng như khu vực hoặc toàn cầu). Do vậy, quản lý nhà
nước về thương mại phải phối hợp liên ngành, đặc biệt coi trọng phối
hợp quản lý giữa các quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế.
- Thương mại là khái niệm có nội hàm rất rộng không chỉ bao hàm
các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ, mà còn bao hàm hoạt
động trao đổi các dịch vụ nhượng quyền liên quan tới quyền sở hữu trí
tuệ. Đó còn là lĩnh vực hoạt động kinh tế rộng lớn liên quan tới quản lý
và phát triển đội ngũ thương nhân, hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại,
các dịch vụ thương mại. Trong quá trình hội nhập vùng giao thoa, giáp
ranh và hội tụ giữa hoạt động của ngành Thương mại với hoạt động của

26
các ngành kinh tế khác có xu hướng tăng lên. Với tư cách là đối tượng
của quản lý nhà nước về thương mại, cần tập trung nghiên cứu trên một
số phạm vi chủ yếu sau:
+ Hoạt động thương mại và các dịch vụ mang tính thương mại.
+ Thương nhân, các tổ chức và cá nhân khác (kể cả trong nước và
nước ngoài) với tư cách là các chủ thể của hoạt động trao đổi thương mại
trên thị trường.
+ Hàng hóa lưu thông, dịch vụ cung ứng trên thị trường: về số
lượng, chất lượng, giá cả và nguồn gốc xuất xứ.
+ Hạ tầng thương mại bán buôn, bán lẻ, kho cảng, bến bãi, chợ,
trung tâm thương mại, siêu thị,... và hạ tầng thương mại điện tử.
- Quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại là một bộ phận hợp thành của quản
lý nhà nước về kinh tế, đó là sự tác động có hướng đích, có tổ chức của
các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại đến các đối tượng quản lý
là thương nhân và chủ thể kinh tế khác cùng với hoạt động trao đổi mua
bán của họ thông qua việc sử dụng các công cụ, chính sách, nguyên tắc
và phương pháp quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đặt ra trong từng giai đoạn
phát triển.
Quản lý nhà nước về thương mại bao giờ cũng là một quá trình thực
hiện và phối hợp bốn loại chức năng cơ bản: hoạch định, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước.
Các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại là người ra quyết định,
người tổ chức, điều hành và tác động tới các doanh nghiệp, các tổ chức
cá nhân tiến hành hoạt động thương mại trên phạm vi thị trường cả nước,
thị trường từng địa phương cũng như thị trường ngoài nước theo phạm vi
phân công, phân cấp quản lý.
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều hành và quản lý
thương mại thông qua 3 loại cơ chế tác động, đó là cơ chế định hướng

27
hoạt động đầu tư, kinh doanh thương mại của các đơn vị, doanh nghiệp
thông qua công cụ chiến lược, quy hoạch, các chương trình và kế hoạch
phát triển thương mại, cơ chế điều tiết nhằm điều chỉnh phân bổ nguồn
lực và các hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu thông qua công cụ chính
sách, luật pháp về thương mại, đòn bảy kinh tế như thuế, tỷ giá, lãi
suất,... và cơ chế cưỡng bức bắt buộc thực thi các quy định của pháp luật
liên quan đến các lĩnh vực thương mại.
Sự tác động của các cơ quan quản lý nhà nước đến các thương nhân,
đến người bán, người mua luôn đặt trong mối quan hệ với điều kiện hội
nhập, môi trường trong nước và quốc tế cụ thể. Các điều kiện về môi
trường và hội nhập trong từng giai đoạn phát triển đều chứa đựng các cơ
hội và thách thức đối với thương mại cũng như công tác quản lý nhà
nước. Do vậy, nhà nước cần phải có cơ chế, chính sách hợp lý nhằm khai
thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, quốc tế đầu tư vào
thương mại, tận dụng tốt nhất các cơ hội và phòng ngừa, hạn chế rủi ro từ
hội nhập kinh tế và do khuyết tật của kinh tế thị trường tạo ra.
Quản lý nhà nước về thương mại đều hướng tới mục tiêu chung là
thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo sự tiến bộ và
công bằng xã hội, giữ gìn môi trường và an ninh với những biểu hiện cụ
thể trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai
đoạn. Đồng thời phải hướng tới mục tiêu riêng về tăng trưởng thương
mại trên thị trường nội địa, xuất nhập khẩu, về cải thiện cán cân thương
mại, cán cân thanh toán, về phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, loại
hình kinh doanh, đội ngũ thương nhân, hệ thống phân phối,... và thỏa
mãn tốt nhất nhu cầu ngày càng tăng lên của xã hội về hàng hóa, dịch vụ,
bảo vệ lợi ích kinh doanh hợp pháp và lợi ích của người tiêu dùng.
Nhìn chung, các mục tiêu của quản lý nhà nước về thương mại được xác
định phù hợp và đều phải hướng tới thực hiện các mục tiêu về phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Quản lý nhà nước về thương mại có quan hệ phụ thuộc, không tách
rời và ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến quản lý nhà nước về kinh tế.

28
Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường và giai đoạn đầu của hội
nhập, nội hàm thương mại bao quát hầu hết các khía cạnh về quan hệ và
hợp tác kinh tế. Các chính sách thuế, lãi suất, giá, tỷ giá,... là các chính
sách kinh tế, là công cụ để nhà nước quản lý kinh tế, đồng thời đó cũng
là chính sách công cụ trong quản lý nhà nước về thương mại. Do vậy,
hiệu lực của quản lý nhà nước về thương mại được tăng cường sẽ đồng
thời tác động tích cực đến quản lý và sự phát triển các ngành kinh tế khác
cũng như hiệu quả quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngược lại, quản
lý nhà nước về thương mại chịu tác động trực tiếp của quản lý nhà nước
về kinh tế. Nếu các chính sách kinh tế trên bất hợp lý sẽ gây tác động xấu
đến thị trường, thương mại, gây tổn hại tới sự phát triển kinh tế - xã hội.
Do vậy, phải xử lý tốt mối quan hệ phụ thuộc và tương tác lẫn nhau giữa
cái chung và cái riêng, giữa tổng thể và bộ phận trong quản lý nhà nước
về kinh tế và thương mại.

2.1.2. Đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại vừa phản ánh những đặc điểm
chung của quản lý kinh tế trên tầm vĩ mô, vừa thể hiện nét đặc thù.
a. Những đặc điểm chung của quản lý kinh tế
(1) Mọi loại hình quản lý kinh tế đều bao gồm 2 hệ thống: Cơ quan
quản lý nhà nước và đối tượng quản lý; (2) Con người là trung tâm của
quản lý nằm ở cả 2 hệ thống, do vậy, mọi loại hình quản lý suy cho cùng
là quản lý con người, do con người và vì con người; (3) Quản lý bao giờ
cũng có sự trao đổi thông tin và liên hệ ngược, nếu không có thông tin sẽ
mất đi linh hồn của quản lý kinh tế; (4) Quản lý luôn có khả năng thích
nghi với sự thay đổi của môi trường; (5) Quản lý kinh tế luôn hướng vào
mục tiêu xác định và phải có giải pháp để thực hiện mục tiêu đã vạch ra.
b. Tính đặc thù của quản lý nhà nước về thương mại
- Quản lý nhà nước về thương mại có tính đặc thù thể hiện ở mục
tiêu và các công cụ, phương tiện sử dụng nhằm đạt mục tiêu.

29
Mục tiêu của quản lý nhà nước về thương mại gắn liền với quá trình
kinh tế - xã hội, các lợi ích cần phải đạt được từ thương mại trong từng
giai đoạn cụ thể. Mục tiêu của quản lý nhà nước về thương mại bị chi
phối bởi mục tiêu của quản lý kinh tế - xã hội mà Đảng, Nhà nước đã
vạch ra. Mục tiêu tổng quát của quản lý nhà nước về thương mại phù hợp
với mục tiêu quản lý kinh tế là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định, bền
vững và đảm bảo vấn đề an sinh, sự tiến bộ, công bằng xã hội [4]. Mục
tiêu trực tiếp của quản lý nhà nước về thương mại là nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế và sức cạnh tranh, phát triển thương mại bền vững. Mục tiêu
đó thể hiện ở các chỉ tiêu tăng trưởng thương mại về số lượng và chất
lượng, về cơ cấu thương mại và thị trường, về cán cân thương mại, về
phát triển các nguồn lực thương mại (cơ sở vật chất, hạ tầng và nhân
lực), về thỏa mãn nhu cầu của xã hội, của các tầng lớp dân cư trong từng
thời kỳ.
Để đạt mục tiêu trên, quản lý nhà nước về thương mại cần phải có
quá trình tổ chức, vận hành công nghệ và kỹ thuật kinh doanh, phải sử
dụng các công cụ, phương tiện mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành
để tác động đến đối tượng quản lý là người bán, người mua, điều tiết hoạt
động thương mại của họ theo định hướng mục tiêu, phù hợp với lợi ích
mong muốn trong mỗi thời kỳ. Vấn đề lợi ích và quan hệ lợi ích giữa các
bên, các chủ thể trao đổi thương mại được xem trọng hàng đầu trong
quản lý, trong khi đó đối với các lĩnh vực sản xuất (chẳng hạn trong công
nghiệp), các liên kết về kỹ thuật được coi trọng trước tiên trong quản lý
và là nền tảng mang lại các giá trị, các lợi ích về kinh tế. Dễ dàng nhận
thấy, các nước có trình độ phát triển công nghệ, kỹ thuật sản xuất khác
nhau, nhưng vẫn phát triển quan hệ thương mại rất tốt bởi họ tìm được
lợi ích kinh tế từ khai thác lợi thế so sánh của mỗi bên trong thương mại
quốc tế.
Quản lý nhà nước về thương mại bao gồm quản lý các chủ thể của
hoạt động thương mại (gồm thương nhân là chủ yếu, ngoài ra còn có các
nhà sản xuất khi mua các yếu tố “đầu vào” phục vụ sản xuất, bán các
thành phẩm ở “đầu ra” và một bộ phận người tiêu dùng với tư cách là

30
người mua hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu đời sống). Quản lý,
kiểm soát các hoạt động trao đổi mua bán của họ gặp nhiều khó khăn, do
luôn di biến động và diễn ra cả bên ngoài cơ sở kinh doanh thương mại.
Quản lý cơ sở hạ tầng, phương tiện kỹ thuật và công nghệ kinh doanh
thương mại tương đối phức tạp. Phải đảm bảo các quy chuẩn kỹ thuật về
hạ tầng thương mại và đặc biệt coi trọng chất lượng các dịch vụ thương
mại. Nếu so sánh với quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực sản xuất,
trong hoạt động sản xuất không hàm chứa các hoạt động và hành vi của
người mua và người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đó; chủ thể của hoạt
động kinh tế chỉ bao gồm các nhà sản xuất và hoạt động của họ chỉ diễn
ra trong các cơ sở sản xuất. Quản lý nhà nước đối với sản xuất, do vậy
quan trọng là quản lý các nguồn lực, tài nguyên sử dụng trong sản xuất
cũng như các hoạt động sản xuất của những người lao động bên trong cơ
sở sản xuất đó. Điều khác biệt cơ bản nữa là quản lý nhà nước đối với
các tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, dịch vụ, bao bì; các quy chuẩn kỹ
thuật liên quan quá trình sản xuất, còn trong thương mại là quản lý các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các hạ tầng thương mại; các điều
kiện hoạt động của thương nhân; tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa và dịch
vụ, nhãn hiệu và xuất xứ hàng hóa đưa vào lưu thông, dịch vụ cung ứng
trên thị trường.
- Quản lý nhà nước về thương mại bao gồm nhiều hoạt động không
chỉ mang tính chuyên ngành, mà còn mang tính liên ngành trong cả khâu
phân tích, hoạch định, ban hành các văn bản quản lý và khâu tổ chức
thực thi (phổ biến, giới thiệu chính sách, pháp luật, các định chế kinh tế,
thương mại và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong việc chấp hành
pháp luật đối với các lĩnh vực thương mại). Nó liên quan tới nhiều
ngành, nhiều cấp và đòi hỏi phải có sự phối hợp quản lý liên ngành (giữa
thương mại với đầu tư, tài chính, ngân hàng, hải quan, nông nghiệp, công
nghiệp, tài nguyên, môi trường, công an, kiểm sát, tòa án,...), phải phối
hợp giữa các cấp quản lý (cơ quan quản lý thương mại của Trung ương
và địa phương) và phải có quy định đầu mối và phối hợp quản lý cụ thể,
rõ ràng. Không phải mọi hàng hóa lưu thông, dịch vụ cung ứng trên thị

31
trường đều tập trung vào đầu mối quản lý nhà nước là bộ quản lý ngành
thương mại. Một số hàng hóa đặc thù, có tính chất riêng hoặc không trao
đổi thông thường, nhà nước có quy định riêng về kinh doanh và trách
nhiệm quản lý nhà nước.
- Trong điều kiện mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, đối
với các nước mới ở giai đoạn đầu của quá trình đó thì hội nhập về thương
mại có vị trí trọng yếu, bởi hầu hết nội hàm của hội nhập kinh tế được thể
hiện ở hội nhập thương mại (về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí
tuệ). Hội nhập tốt về thương mại sẽ tạo tiền đề để chuyển sang và phát
triển các giai đoạn tiếp sau của hội nhập kinh tế. Do vậy, quản lý nhà
nước về thương mại phải định hướng đúng các tuyến hội nhập, các lĩnh
vực, hình thức và mức độ hội nhập để đàm phán, tham gia ký kết các
thỏa thuận, các hiệp định thương mại có lợi, tận dụng tốt cơ hội và tác
động tích cực từ hội nhập. Đồng thời, lường trước những khó khăn, thách
thức để có chính sách, giải pháp để vượt qua. Quản lý nhà nước về
thương mại trong điều kiện hội nhập phải phù hợp với các cam kết WTO
và các cam kết quốc tế khác, cần có sự tham gia quản lý không chỉ các
cấp, các ngành, mà còn cả cộng đồng các doanh nghiệp, đội ngũ thương
nhân và những người dân, người tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ (mà đại
diện của họ là hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội thương mại, hiệp hội bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng). Phải tăng cường phối hợp giữa các quốc
gia, các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và quốc tế trong đàm phán
ký kết hiệp định và thực hiện các cam kết đã ký, xử lý phù hợp những
tranh chấp thương mại và vấn đề phát sinh trong quá trình hội nhập.

2.2. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI


Chức năng của quản lý nhà nước về thương mại chính là những đặc
trưng riêng của quyền lực nhà nước trong việc sử dụng các nguyên tắc,
công cụ, phương pháp tác động một cách có lựa chọn vào thương mại và
thị trường theo các mục tiêu đã xác định trong từng giai đoạn. Chức năng
hình thành và tồn tại một cách khách quan, nó quy định các nhiệm vụ
hoặc hoạt động quản lý nhà nước về thương mại. Tuy nhiên, nhiệm vụ

32
hay các hoạt động quản lý thương mại cụ thể của Nhà nước có thể thay
đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của môi trường chính trị, kinh tế và xã
hội trong từng giai đoạn. Các chức năng của quản lý nhà nước về
thương mại bao gồm:

2.2.1. Chức năng định hướng phát triển thương mại thông qua
công cụ kế hoạch hóa
Kế hoạch hoá thương mại là toàn bộ quá trình hoạch định và triển
khai thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát
triển thương mại của quốc gia bao gồm phạm vi của cả nước, của từng
địa phương, từng vùng và theo từng ngành hàng, ngành dịch vụ phù hợp
với yêu cầu, mục tiêu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế.
Nhà nước thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chương
trình phát triển thương mại để định hướng phát triển thương mại của đất
nước trong từng thời kỳ, hướng dẫn hoạt động thương mại và đầu tư của
các chủ thể tham gia thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế.
Kế hoạch hóa thương mại giúp các doanh nghiệp có sự lựa chọn và quyết
định đúng đắn chiến lược, chính sách và kế hoạch sản xuất kinh doanh
trong từng giai đoạn phát triển.
Các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền
tiếp cận thông tin từ các công cụ kế hoạch hoá như: các chiến lược và dự
báo phát triển kinh tế, thương mại và thị trường; các quy hoạch mạng
lưới thương mại, hệ thống thị trường, hệ thống thương nhân và kênh
phân phối; các chương trình, dự án phát triển hạ tầng thương mại, phát
triển dịch vụ xúc tiến hỗ trợ thương mại và cạnh tranh; các kế hoạch,
nhiệm vụ và mục tiêu phát triển thương mại trong từng thời kỳ,... Đó là
những định hướng cơ bản và quan trọng, là những thông tin cần thiết cho
việc hoạch định chiến lược, chính sách kinh doanh và tổ chức các hoạt động
đầu tư, trao đổi thương mại hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp.
Trong những năm qua, công tác kế hoạch hóa thương mại ở nước ta
đã có nhiều thay đổi tích cực đáp ứng yêu cầu phát triển thương mại theo

33
kinh tế thị trường và hội nhập. Thể hiện ở chỗ, nhà nước đã xây dựng và
ban hành nhiều công cụ quản lý mang tính định hướng như:
- Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ.
- Đề án phát triển thương mại trong nước.
- Đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước và tập trung phát triển
thương mại nông thôn.
- Đề án xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia.
- Quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới chợ trên phạm vi toàn
quốc.
- Các chương trình xúc tiến thương mại, xuất khẩu hàng năm.
- Chương trình phát triển chợ biên giới.
- Chương trình người Việt ưu tiên dùng hàng Việt, đưa hàng hóa về
nông thôn, miền núi,...
- Kế hoạch phát triển thương mại hàng năm.
- Và quy hoạch phát triển hạ tầng thương mại của các địa phương.
Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại, cần phải đổi
mới nhận thức về kế hoạch hoá, cải tiến nội dung, phương pháp và hoàn
thiện bộ máy kế hoạch hoá thương mại, tăng cường các phương tiện kỹ
thuật và nâng cao trình độ nguồn nhân lực làm công tác chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển thương mại, nhất là trong bối cảnh hội nhập
và cạnh tranh quốc tế hiện nay. Nhà nước cung cấp thông tin về kế hoạch
hóa, nhất là các thông tin dự báo cho các doanh nghiệp phải đầy đủ, rõ
ràng, kịp thời và chính xác.

2.2.2. Tạo lập khung pháp lý và môi trường kinh doanh cho các
chủ thể hoạt động thương mại (gọi chung là doanh nghiệp)
Nhà nước soạn thảo, ban hành khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ và
thống nhất, bảo đảm môi trường pháp lý minh bạch, bình đẳng, ổn định

34
vững chắc giúp các doanh nghiệp có thể dự đoán được, yên tâm đầu tư
kinh doanh và hoạt động lâu dài.
Khung pháp lý bao gồm hệ thống các luật lệ, các quy định chính
sách, các định chế cần thiết khác cũng như bộ máy tổ chức để thực thi
pháp luật và giải quyết tranh chấp thương mại. Khung pháp lý còn bao
gồm các chế định nhằm thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế thể hiện
trong các hiệp định mà nhà nước đã ký kết hoặc điều ước quốc tế đã
tham gia. Như vậy, việc nhà nước tạo ra khung pháp lý và cung cấp các
thông tin hướng dẫn về thủ tục, quy trình thương mại cũng có ý nghĩa tạo
lập môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp. Như vậy, khung pháp lý về
thương mại bao gồm các yếu tố pháp luật, chế định trong nước và quốc tế
về thương mại hoặc có liên quan tới thương mại.
Hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại phụ thuộc rất lớn vào mức
độ đổi mới hệ thống pháp luật và hoàn thiện khung pháp lý, tính minh
bạch và rõ ràng, tính thống nhất và đồng bộ trong quy định của luật pháp
về vấn đề sở hữu, sự vận hành tốt của cơ chế cưỡng bức thi hành luật,
tính hợp lý của các quy trình công nghệ và kỹ thuật, mức độ đơn giản
hóa các thủ tục hành chính trong thương mại. Các vấn đề trên có ảnh
hưởng đến chi phí hoạt động kinh doanh và sự vận hành có hiệu quả của
thị trường. Nhà nước là người thực hiện sứ mạng tạo lập và phát triển thị
trường, chủ động kết hợp thị trường với các công cụ kế hoạch hoá
thương mại.
Những năm qua, nhà nước đã không ngừng sửa đổi và hoàn thiện hệ
thống luật pháp phù hợp với xu hướng và các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế. Điển hình của những nỗ lực đổi mới hệ thống luật pháp và chính
sách quản lý ở nước ta là trước và sau khi gia nhập WTO. Hàng loạt các
luật mới được ban hành và luật cũ được sửa đổi nhằm tạo khung pháp lý
đầy đủ, toàn diện phù hợp với quy định quốc tế về quản lý nhà nước đối
với cả thương mại hàng hoá, dịch vụ, thương mại liên quan đầu tư và
hoạt động sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế về tính đồng bộ,
thống nhất và hiệu lực thực thi pháp luật, thủ tục hành chính còn rườm

35
rà, làm mất nhiều thời gian và chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Do
vậy, nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với các
doanh nghiệp, xóa bỏ những can thiệp hành chính làm hạn chế sự phát
triển thị trường, cần phải tạo mọi điều kiện để thị trường vận hành tốt
hơn, hiệu quả hơn trong quá trình hội nhập.

2.2.3. Tổ chức và phối hợp các hoạt động quản lý thương mại
Nhà nước thiết lập hệ thống tổ chức quản lý về thương mại từ Trung
ương đến địa phương và sử dụng bộ máy này để xây dựng các công cụ
định hướng, tạo lập khung pháp lý để quản lý thương mại. Đồng thời nhà
nước sử dụng quyền lực và sức mạnh của bộ máy tổ chức để triển khai
thực hiện những hoạt động thuộc về chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước đối với các lĩnh vực thương mại, nhằm đưa chính sách, pháp luật
vào thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp, biến chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển thương mại thành hiện thực. Do vậy, nhà nước không
chỉ là người tổ chức, mà còn là người phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữa các cơ quan của Chính phủ,
các chính quyền địa phương để quản lý kinh tế, thương mại.
Hoạt động thương mại rất đa dạng, diễn ra trên phạm vi cả nước và
từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, ở cả thị trường trong và ngoài
nước, liên quan tới quản lý của nhiều bộ, ngành và các cấp chính quyền
địa phương. Do vậy, nhà nước phải có cơ chế phối hợp giữa các cơ quan
quản lý về thương mại các cấp Trung ương và địa phương (tỉnh/thành
phố), giữa các ngành thương mại, dịch vụ với các ngành sản xuất trong
nền kinh tế. Trong thương mại quốc tế, chức năng này được thể hiện ở sự
phối hợp về tổ chức quản lý giữa các quốc gia có quan hệ thương mại
song phương hoặc trong quan hệ thương mại của từng khối kinh tế nhằm
đảm bảo thực hiện các cam kết đã ký kết, thúc đẩy thương mại phát triển.
Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải tạo lập cơ cấu tổ chức bộ
máy quản lý thương mại phù hợp, trao quyền và phân công nhiệm vụ rõ
ràng giữa các cơ quan, bộ quản lý ngành ở Trung ương cũng như các sở

36
quản lý ngành ở địa phương, quy định phân cấp quản lý và sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại.
Chức năng này còn bao gồm việc bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực mang tính chuyên nghiệp cao, đủ khả năng đáp ứng yêu
cầu và các nhiệm vụ của công tác quản lý nhà nước về thương mại đặt ra
trong thời kỳ hội nhập.

2.2.4. Lãnh đạo, điều khiển các hoạt động thương mại
Nhà nước là người đại diện quyền lợi hợp pháp của mọi chủ thể
tham gia thị trường, đảm bảo thực thi quyền kinh doanh của các doanh
nghiệp bằng luật pháp, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát
độc quyền. Một mặt, nhà nước hướng dẫn, kích thích các doanh nghiệp
hoạt động theo định hướng đã vạch ra. Mặt khác, nhà nước phải điều tiết
thị trường, can thiệp khi cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, duy
trì sức mạnh nền tài chính quốc gia, giữ vững sức mua của tiền tệ, bảo
đảm lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng. Khi thực hiện chức
năng này, nhà nước là người ra các quyết định (ban hành các văn bản
chính sách và pháp luật) để lãnh đạo, điều khiển các chủ thể tham gia thị
trường cùng các hoạt động thương mại của họ.
Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để
điều tiết thị trường và quan hệ thương mại, xử lý mâu thuẫn của các quan
hệ đó. Những biện pháp khuyến khích hay hạn chế trong thương mại
quốc tế thường được sử dụng là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan.
Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật để ràng buộc quan hệ trao đổi,
mua bán của các chủ thể kinh doanh trên thị trường, không phân biệt đó
là nhà kinh doanh trong nước hay nước ngoài. Để điều tiết thị trường,
nhà nước trong nhiều trường hợp phải sử dụng thực lực kinh tế của mình
để điều hoà cung cầu, ổn định giá cả thị trường, nâng cao sức mua xã hội.
Nhà nước còn sử dụng các biện pháp hành chính, các công cụ mang tính
kỹ thuật khác để tác động vào thị trường và các quan hệ trao đổi nhằm
đạt mục tiêu.

37
Trong quá trình điều khiển hệ thống kinh tế và thương mại quốc gia,
nhà nước chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh
tế về thông tin, về kỹ thuật, về kết cấu hạ tầng của thị trường. Nhà nước
là người trực tiếp quản lý các doanh nghiệp nhà nước và bảo vệ kinh tế
nhà nước đúng pháp luật nhằm chống thất thoát, tham nhũng, đảm bảo
sinh lợi và tăng thu cho ngân sách. Nhà nước nên ít tham gia vào những
lĩnh vực mà thị trường vận hành tốt, có hiệu quả và nên tham gia nhiều
hơn vào các lĩnh vực mà không thể dựa vào thị trường. Khi cần thiết can
thiệp vào thị trường, nhà nước cần song hành với các lực lượng thị
trường, doanh nghiệp hoặc thông qua họ để điều tiết, can thiệp chứ
không phải chống lại thị trường.

2.2.5. Kiểm tra, giám sát các quan hệ trao đổi, các hoạt động
thương mại
Mọi chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đều
phải tuân thủ luật pháp và các quy định chính sách của Nhà nước liên
quan tới thương mại. Nhà nước có chức năng kiểm tra, giám sát các quan
hệ trao đổi, các hoạt động buôn bán trên thị trường giữa các bên thông
qua bộ máy tổ chức và sử dụng các phương pháp, công cụ, phương tiện
khác nhau.
Nhà nước có trách nhiệm giám sát hoạt động của các chủ thể kinh
doanh cũng như việc chấp hành các chế độ quản lý của các chủ thể đó
(như đăng ký kinh doanh, tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh, an toàn của
sản phẩm, các quy định môi trường, nghĩa vụ nộp thuế,...). Nhà nước
kiểm soát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước để đảm bảo sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực, tài sản của quốc gia cho các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ.
Công tác kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo sự vận hành thị trường
thông suốt, liên tục theo đúng quỹ đạo, đúng trật tự luật pháp, đồng thời
phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật
(như buôn bán hàng cấm, kinh doanh các dịch vụ không được phép, hàng

38
hóa, dịch vụ chất lượng kém, không an toàn, gian lận thương mại, buôn
lậu, làm hàng giả, cạnh tranh không lành mạnh, lập các báo cáo về tài
chính sai sự thật, các hoạt động lừa đảo,...) hoặc những khiếm khuyết từ
các quy định chính sách của Nhà nước đã ban hành. Từ đó đưa ra các
quyết định điều chỉnh (như giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử
phạt theo các quy định hành chính, pháp luật) hoặc sửa đổi, bổ sung, điều
chỉnh chính sách thích hợp nhằm tăng cường hiệu quả của quản lý nhà
nước về thương mại. Đây chính là 2 mục tiêu cơ bản của chức năng kiểm
tra, giám sát trong quản lý nhà nước về thương mại.
Ngoài ra, nhà nước còn phải kiểm tra, đánh giá thực lực của hệ
thống tổ chức bộ máy quản lý thương mại các cấp cũng như năng lực của
đội ngũ cán bộ công chức thực thi công vụ trong từng giai đoạn để có
những giải pháp đổi mới và tăng cường cho phù hợp với sự thay đổi của
môi trường kinh doanh, phù hợp với định hướng, mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.

2.3. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI


Thông qua việc thực hiện tốt các hoạt động theo chức năng trên, nhà
nước sẽ thể hiện được vai trò quản lý thương mại trên các mặt sau đây:

2.3.1. Định hướng, hướng dẫn hoạt động của các chủ thể trao đổi
Nhà nước định hướng, hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt
động đầu tư và kinh doanh trên thị trường nội địa và quốc tế, nhằm khai
thác có hiệu quả cơ hội thị trường, tiềm năng của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế cho sự phát triển thương mại. Từ đó góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống dân cư và nâng cao phúc
lợi xã hội.
Vai trò định hướng, hướng dẫn của Nhà nước trong lĩnh vực thương
mại được thể hiện thông qua các chiến lược, quy hoạch, các chương trình
mục tiêu, các dự án, kế hoạch và chính sách phát triển thương mại. Nhờ
vậy, các doanh nghiệp mới có cơ sở để tính toán, lựa chọn các quyết định
đầu tư và kinh doanh theo các ngành hàng, các nhóm sản phẩm dịch vụ,

39
theo phạm vi thị trường và theo độ dài thời gian cũng như liên kết, liên
doanh với các đối tác một cách hợp lý.
Để giúp doanh nghiệp có định hướng đầu tư và kinh doanh đúng
đắn, các văn bản kế hoạch hoá và chính sách thương mại cũng như pháp
luật của Nhà nước cần phải minh bạch, rõ ràng, thống nhất và đồng bộ.
Cần có sự hướng dẫn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước để doanh
nghiệp dễ dàng tiếp cận các thông tin về chiến lược, chính sách, quy
hoạch, chương trình dự án và thông hiểu các quyết sách của Nhà nước.
Chất lượng của công cụ kế hoạch hoá, chính sách và bộ máy tổ chức
trong quản lý nhà nước về thương mại được tăng cường mới tạo niềm tin,
sự yên tâm cho các doanh nghiệp trong tính toán, quyết định phương án
đầu tư, sản xuất kinh doanh và lập nghiệp lâu dài.

2.3.2. Tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh


Môi trường kinh doanh và cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào các
quy định chính sách, luật pháp và thủ tục hành chính. Các thông tin về kế
hoạch hoá thương mại nếu bị thiên lệch trong quá trình phổ biến cho các
doanh nghiệp, các quy định chính sách nếu phân biệt đối xử không công
bằng sẽ bóp méo cạnh tranh. Thủ tục hành chính rườm rà, khung khổ
pháp lý nếu không đầy đủ, đồng bộ, nhất quán và minh bạch sẽ gây trở
ngại cho thương mại trên nhiều mặt, dẫn đến cả tổn thất về vật chất, tài
chính và tinh thần. Do vậy quản lý nhà nước đóng vai trò rất quan trọng
trong việc tạo lập, cải thiện môi trường kinh doanh, nhất là trong điều
kiện môi trường kinh doanh luôn có sự vận động biến đổi không ngừng.
Nhà nước tạo lập và cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh
nghiệp thông qua khai thông các quan hệ thương mại, làm thông thoáng
sự giao lưu hàng hoá trong nước và quốc tế, nhờ thiết lập khung khổ
pháp lý về thương mại đầy đủ, đồng bộ hơn, bình đẳng và tiến bộ hơn
bao gồm các quy định chính sách, pháp luật, các điều kiện thực thi cam
kết đã ký về mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế, đảm bảo mở rộng
thương quyền và sự bình đẳng cho các doanh nghiệp.

40
Nhà nước vừa là người ban hành các chính sách, pháp luật, vừa là
người chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nhằm đưa chúng vào thực tiễn
kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong quá trình đó, nhà nước đã sử
dụng quyền lực, sứ mạng và khả năng của mình để kiến tạo môi trường
kinh doanh. Nếu môi trường kinh doanh phù hợp, nghĩa là có sự đồng
thuận, thống nhất giữa nhà nước và doanh nghiệp, trong trường hợp này
Chính phủ đã ủng hộ thị trường, tôn trọng và phát huy tính hiệu quả của
thị trường.
Để tạo ra môi trường kinh doanh phù hợp trong điều kiện hội nhập
và cạnh tranh ở mức độ cao hiện nay, khi mục tiêu của doanh nghiệp có
nhiều di động, đòi hỏi các nhà quản lý vĩ mô phải đổi mới nhận thức và
tư duy về các công cụ, chính sách quản lý, nâng cao trình độ, năng lực và
phẩm chất trong việc ra quyết định cũng như phối hợp lãnh đạo, điều
hành hoạt động kinh tế, thương mại.

2.3.3. Hỗ trợ các doanh nghiệp và giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp thương mại
Các doanh nghiệp đều là “một thực thể sống” trong nền kinh tế, họ
cũng cần những sự trợ giúp nhất định. Nhà nước bằng quyền lực, trách
nhiệm và khả năng của mình hỗ trợ cho các doanh nghiệp phù hợp với
thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ. Nhà nước có thể hỗ trợ cho
mọi người dân và doanh nghiệp về ý chí làm giàu, hỗ trợ về tri thức, về
vốn, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ và thông tin, các hỗ trợ về xúc
tiến thương mại, đầu tư, các thủ tục hành chính để giúp doanh nghiệp ở
những giai đoạn, hoàn cảnh và trường hợp khác nhau trong quá trình hoạt
động. Đặc biệt, là khi họ đối mặt với những khó khăn, thách thức từ môi
trường kinh doanh luôn biến động. Tuy nhiên, những hỗ trợ phải có chọn
lọc và hợp lý, phù hợp với xu hướng hội nhập và cam kết đã ký. Những
hỗ trợ mang tính trợ cấp bóp méo thương mại và cạnh tranh sẽ bị loại bỏ
trong xu hướng hội nhập và phát triển.
Hoạt động thương mại đòi hỏi doanh nhân phải có nhiều tố chất,
điều kiện nhưng có những vấn đề chỉ nhà nước mới có thể giải quyết

41
được cho nhà kinh doanh như an ninh thương mại hoặc phần lớn vốn, tài
sản công do nhà nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng thương mại. Nhà nước là
chỗ dựa tin cậy và tốt nhất cho các doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh, cạnh tranh cùng tồn tại và phát triển.
Nhà nước là người trực tiếp can thiệp và giải quyết các mâu thuẫn
trên thị trường. Chỉ nhà nước chứ không phải thị trường mới có khả năng
và cần thiết phải giải quyết các mâu thuẫn giữa các chủ thể kinh doanh
với nhau trong mua và bán; trong nhập khẩu và xuất khẩu; giữa kinh
doanh đúng đắn, trung thực và kinh doanh gian lận, trốn thuế; giữa kinh
doanh hàng thật, hàng hóa pháp luật không cấm với kinh doanh hàng giả,
hàng cấm; mâu thuẫn giữa chủ doanh nghiệp và các nhân viên; giữa
thương mại và môi trường,...
Nhà nước dựa vào các chuẩn mực về luật pháp, các định chế cần
thiết để thực hiện và giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hệ
thống bộ máy tổ chức gồm tòa án và các cơ quan cưỡng chế thi hành
luật. Trong nền kinh tế thị trường, phần lớn các giao dịch được thực hiện
dựa trên cở sở hợp đồng. Khi những định chế, các luật lệ quy định rõ
ràng quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm, vấn đề sở hữu và cơ chế cưỡng bức
vận hành tốt sẽ giảm thấp chi phí vận hành kinh doanh và hoạt động thị
trường sẽ hiệu quả hơn, giảm bớt các tranh chấp thương mại.

2.3.4. Điều tiết các quan hệ thị trường, các hoạt động thương mại
Các quan hệ thị trường, các hoạt động trao đổi tự nó không phải bao
giờ cũng cân đối và hiệu quả. Theo quy luật thị trường, các chủ thể kinh
doanh luôn quan tâm tới việc bố trí, di chuyển nguồn lực đến nơi có điều
kiện sản xuất và thương mại thuận lợi, bán được giá cao, tìm kiếm nhiều
lợi nhuận, dẫn đến phân bổ nguồn lực tập trung quá lớn, mất cân đối.
Trong khi đó, một bộ phận dân cư, thu nhập thấp (nhất là ở khu vực “đói
và nghèo”), các nhà kinh doanh không muốn tới hoặc tới đó rất ít, vì
không thể tìm kiếm được lợi nhuận. Do vậy, nhà nước phải điều tiết các
quan hệ trao đổi, các hoạt động thương mại nhằm hạn chế nhược điểm
trên để đảm bảo tính cân đối và hiệu quả phân phối tổng sản phẩm xã

42
hội, để mọi người dân đều được hưởng lợi từ kết quả và thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội.
Nhà nước một mặt hướng dẫn, khuyến khích các doanh nghiệp hoạt
động theo định hướng thông qua chiến lược, quy hoạch, các chương trình
dự án và kế hoạch vĩ mô đã vạch ra. Mặt khác, nhà nước phải điều tiết thị
trường khi cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì sức mạnh
nền tài chính quốc gia, giữ vững sức mua của tiền tệ, bảo đảm lợi ích của
người sản xuất và người tiêu dùng.
Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để
điều tiết thị trường và thương mại, xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các
quan hệ trao đổi. Những biện pháp khuyến khích hay hạn chế thương mại
thường được sử dụng là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan. Để
điều tiết thị trường, trong nhiều trường hợp nhà nước phải sử dụng thực
lực kinh tế nhà nước để điều hoà cung cầu, ổn định giá cả thị trường,
nâng cao sức mua xã hội. Nhà nước còn sử dụng các biện pháp hành
chính, các công cụ mang tính kỹ thuật khác để tác động vào thị trường và
các quan hệ trao đổi thương mại.
Nhà nước không chỉ điều tiết các quan hệ trao đổi để bảo đảm kinh
doanh bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh, mà còn điều chỉnh các quan
hệ lợi ích khác của các chủ thể tham gia thị trường như quan hệ về tiền
công và tiền lương giữa chủ doanh nghiệp và nhân viên, quan hệ về phân
chia lợi tức trong doanh nghiệp, quan hệ về nghĩa vụ doanh nghiệp đóng
góp vào ngân sách nhà nước khi kinh doanh, sử dụng tài sản công và làm
ô nhiễm môi trường,...
Xu hướng nhà nước sẽ dần thoát ra khỏi hoạt động kinh doanh,
nhưng vai trò quản lý thương mại của Nhà nước phải được tăng cường để
nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường, sử dụng thị trường và kinh tế
thị trường phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, khu vực tư nhân không chỉ được
khuyến khích phát triển mà còn được sử dụng nhiều hơn trong các lực

43
lượng kinh tế điều tiết thị trường, kể cả tham gia vào cung cấp các dịch
vụ hạ tầng thương mại, các dịch vụ công và các dịch vụ xã hội khác.

2.3.5. Giám sát thực hiện, xử lý và điều chỉnh các giải pháp
chính sách quản lý thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại bao giờ cũng hướng tới mục tiêu
cụ thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Do vậy,
thông qua thực hiện các chức năng quản lý, nhà nước sẽ phát huy được
vai trò giám sát, kiểm tra và phát hiện những biểu hiện sai lệch, những
mâu thuẫn hoặc bất hợp lý trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật
về thương mại đối với các chủ thể kinh doanh. Từ đó đưa ra các giải
pháp xử lý hoặc điều chỉnh phù hợp nhằm khắc phục những hạn chế và
thúc đẩy thị trường, thương mại phát triển đạt được mục tiêu đã đặt ra.
Các mục tiêu của thương mại mang tính bền vững bao gồm mục tiêu
về kinh tế, về xã hội, về môi trường và văn hóa, về an ninh và chủ quyền,
trong đó mục tiêu kinh tế không chỉ là số lượng mà còn thể hiện ở chất
lượng của tăng trưởng thương mại. Kiểm soát và điều chỉnh việc thực
hiện mục tiêu phát triển thương mại đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các
cấp và các ngành, giữa Trung ương và địa phương, giữa trong nước và
quốc tế, nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thương mại dịch vụ,
trong các hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Để tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của Nhà nước đối với
việc thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại, đòi hỏi bộ máy tổ
chức và nhân sự phải phù hợp, kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ nhiệm
vụ kiểm soát phải được tăng cường. Đồng thời phải kết hợp hệ thống
kiểm soát với các hệ thống khác của quản lý nhà nước như hệ thống
thông tin, hoạch định, kiểm toán, thanh tra,... liên quan đến lĩnh vực
thương mại, phải phối hợp với cơ chế giám sát của người dân và các hiệp
hội.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, nhiều loại hình kinh doanh
mới xuất hiện, tác động của thương mại ngày càng ảnh hưởng lớn đến

44
vấn đề xã hội, môi trường và an ninh. Những vấn đề về sở hữu trí tuệ,
đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với cộng
đồng, môi trường ngày càng trở nên quan trọng và mang tính thời sự.
Quản lý nhà nước không chỉ đòi hỏi nâng cao năng lực bộ máy, cán bộ
và phương tiện kỹ thuật, mà còn đặt ra yêu cầu đối với cán bộ quản lý
phải có đủ phẩm chất để đương đầu với những thách thức mới, ngày càng
phức tạp trong quá trình hội nhập. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu
công tác quản lý nói chung, thanh tra, giám sát nói riêng và xử lý các bất
hợp lý, các vi phạm, đồng thời làm tốt trách nhiệm tư vấn, đề xuất các
kiến nghị cho quyết định điều chỉnh chính sách của Nhà nước về quản lý
kinh tế, thương mại.
Để thực hiện tốt các chức năng trên, đòi hỏi nhà nước (cụ thể là
Chính phủ) phải cụ thể hóa thành các nhiệm vụ và giao cho các cơ quan
quản lý chuyên ngành thương mại theo quy định của pháp luật (Luật Tổ
chức Chính phủ). Chính phủ phải có văn bản pháp quy quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của Bộ quản lý ngành Thương mại về trách nhiệm quản lý
nhà nước. Thực hiện tốt chức năng trên và các nhiệm vụ được cụ thể hóa,
nhà nước sẽ thể hiện được sứ mạng và phát huy vai trò quản lý vĩ mô về
thương mại trong quá trình hội nhập và phát triển.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Phân tích khái niệm và sự cần thiết của quản lý nhà nước về
thương mại. Vì sao phải tăng cường quản lý nhà nước về thương mại ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay?
2. Phân tích đặc điểm của quản lý nhà nước về thương mại. Ý nghĩa
thực tiễn nghiên cứu các đặc điểm đó trong hoạch định chính sách và quy
hoạch phát triển thương mại của nước ta.
3. Phân tích những chức năng cơ bản của quản lý nhà nước về
thương mại. Liên hệ thực tiễn thực hiện chức năng đó của các cơ quan
quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta.

45
4. Phân tích vai trò của quản lý nhà nước về thương mại. Liên hệ
thực tiễn về các chính sách, giải pháp điều tiết thị trường, khuyến khích
thúc đẩy phát triển thương mại nước ta.
5. Phân tích vai trò của quản lý nhà nước đối với tạo lập môi trường
kinh doanh và hỗ trợ phát triển thương mại. Liên hệ thực tiễn vai trò đó
của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
6. Phân tích vai trò của Nhà nước đối với công tác kiểm tra, kiểm
soát và xử lý vi phạm pháp luật về thương mại. Liên hệ thực tiễn công
tác quản lý thị trường ở nước ta hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Các Mác - Ph.Ăng ghen, Toàn tập, Tập 23, trang 342 (Tiếng Nga).
2. Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước, tập 1, trang 407.
3. GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn, PGS.TS. Mai Văn Bưu (2008), Giáo
trình Quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
4. GS.TSKH. Lương Xuân Quỳ (2006), Quản lý nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
NXB Lý luận chính trị.

46
Chương 3
CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI

Chương này giới thiệu nội dung các quy luật kinh tế chủ yếu của nền
kinh tế thị trường, quan hệ tương tác của chúng. Nhận thức và vận dụng
đúng đắn các quy luật đó có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng các
nguyên tắc, phương pháp quản lý cũng như ra quyết định quản lý của
Nhà nước về kinh tế và thương mại. Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước
về thương mại vận hành bao giờ cũng phải tuân theo những nguyên tắc,
quy tắc cơ bản nhất định và tương tác đến các đối tượng quản lý bởi các
phương pháp thích hợp. Nguyên tắc quản lý được hình thành từ nhận
thức nội dung các quy luật kinh tế, xã hội khác nhau và nó là tiền đề để
xây dựng, sử dụng các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế, thương
mại. Nghiên cứu chương này, người học sẽ nắm được những nội dung cơ
bản của từng nguyên tắc, các đặc điểm của từng phương pháp quản lý
nhà nước về thương mại và có thể vận dụng, liên hệ thực tiễn quản lý
thương mại trong từng giai đoạn phát triển.

3.1. CÁC QUY LUẬT KINH TẾ VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG


QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
3.1.1. Các quy luật kinh tế chủ yếu và sự tương tác của các quy
luật đó trong nền kinh tế thị trường
a. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là một trong các quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế
thị trường. Quy luật giá trị đòi hỏi hàng hoá được sản xuất và trao đổi
phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, tức chi phí bình
quân của xã hội. Việc trao đổi mua bán hàng hoá phải tuân theo nguyên
tắc ngang giá.

47
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, là mức tiền mà người
mua phải trả cho người bán với những điều kiện mua bán nhất định
theo sự thoả thuận giữa người bán và người mua về một loại hàng hóa
và dịch vụ.
Cơ sở của giá cả là giá trị, tuy nhiên giá cả lại có khả năng tách rời
giá trị (cao hơn hoặc thấp hơn giá trị) do ảnh hưởng của quan hệ cung
cầu và cạnh tranh, do tác động từ các chính sách của Nhà nước, nhưng
chúng không thể tách rời giá trị một cách vô hạn mà xoay quanh giá trị.
Trong một thời điểm cụ thể, xét với một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nhất
định, giá cả có thể tách rời giá trị. Nhưng nếu xét đối với tất cả các loại
hàng trong cùng một thời điểm hoặc xét với một loại hàng cho cả một
thời kỳ rất dài thì tổng số giá cả bao giờ cũng tương xứng với tổng số
giá trị.
Sự vận động của giá cả thị trường xoay quanh giá trị hàng hoá là
biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị cùng với sự tác động đồng thời
của nhiều quy luật khác mà trong đó phải đặc biệt nhấn mạnh tới quy luật
cung cầu.
b. Quy luật cung cầu
Cầu là lượng hàng hoá và dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn
sàng mua với các mức giá khác nhau trong một thời kỳ nhất định với
điều kiện các nhân tố khác không thay đổi.
Cung là lượng hàng hóa và các dịch vụ mà người bán có khả năng
bán và sẵn sàng bán ra thị trường với các mức giá khác nhau trong một
thời kỳ nhất định với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi.
Quan hệ cung cầu là mối quan hệ kinh tế lớn nhất, cơ bản nhất của
thị trường, nó phản ánh mối quan hệ giữa nhu cầu có khả năng thanh
toán và khả năng cung ứng về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Thực
chất mối quan hệ này là quan hệ giữa người mua và người bán, giữa hàng
và tiền, giữa sản xuất và tiêu dùng trong điều kiện tồn tại sản xuất
hàng hóa.

48
Quy luật cung cầu quy định cung và cầu luôn có xu hướng vận động
xích lại với nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường và gắn liền với nó
là sự vận động của giá cả thị trường theo xu hướng xích lại gần với giá cả
bình quân.
Trên thị trường giá cả vận động gắn chặt với sự vận động của quy
luật cung cầu. Giá cả tương xứng với giá trị ở điểm cân bằng cung cầu
(hay cân bằng thị trường), lớn hơn giá trị khi cung nhỏ hơn cầu và thấp
hơn giá trị của nó khi cung lớn hơn cầu.
Cần hiểu cân đối cung cầu là sự phù hợp giữa cung và cầu không chỉ
về số lượng mà cả về cơ cấu. Sự phù hợp này còn phải thích hợp theo cả
không gian và thời gian... Một sự cân đối như vậy rất khó đạt được trong
thực tế, vì thế trên thị trường hiện tượng mất cân đối cung cầu là phổ
biến và tuyệt đối còn hiện tượng cân đối chỉ là tạm thời, ngẫu nhiên. Nó
ảnh hưởng làm biến động giá cả, nhờ vậy mà thị trường có thể chỉ huy
được nền kinh tế theo cơ chế riêng của nó.
c. Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh tồn tại khách quan cùng với sự tồn tại của thị trường và
trở thành quy luật kinh tế của thị trường. Sự tồn tại các chủ thể kinh tế
độc lập và mâu thuẫn về lợi ích giữa họ là nguồn gốc của cạnh tranh.
Quy luật cạnh tranh tạo môi trường và động lực thúc đẩy việc nâng
cao hiệu quả sản xuất và sự quan tâm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu tiêu
dùng xã hội. Động lực cạnh tranh của những người kinh doanh là lợi
nhuận tối đa còn động lực cạnh tranh của người tiêu dùng là thoả mãn
các nhu cầu cá nhân với chi phí thấp nhất.
Quy luật cạnh tranh đòi hỏi việc sản xuất kinh doanh phải tạo ra các
hàng hoá có chất lượng ngày càng phải cao hơn, chi phí ngày càng thấp
và có khả năng cạnh tranh với các hàng hoá khác cùng loại.
Quy luật cạnh tranh biểu hiện thông qua sự cạnh tranh giữa người
bán và người mua, giữa nội bộ những người bán và nội bộ những người
mua dưới nhiều hình thức và biện pháp khác nhau.

49
Cạnh tranh giữa những người mua thường xuất hiện trong trường
hợp khan hiếm hàng hóa, nó làm tăng giá cả và có lợi cho người bán.
Ngược lại, sự cạnh tranh giữa những người bán thường xuất hiện trong
trường hợp dư thừa hàng hóa, nó làm giảm giá cả và có lợi cho người
mua. Những sự cạnh tranh trên sẽ ảnh hưởng tới tương quan cạnh tranh
giữa người mua và người bán, dẫn đến việc hình thành giá cả và quy định
các điều kiện mua bán hàng hóa trên thị trường.
Cạnh tranh tồn tại khách quan vì thế không thể loại bỏ hoặc né tránh
mà cần phải chấp nhận cạnh tranh, tạo cơ chế khuyến khích cạnh tranh và
kiểm soát cạnh tranh.
Ngoài ra còn rất nhiều các quy luật khác (về kinh tế - xã hội, về tự
nhiên, công nghệ - kỹ thuật, về tư duy và ý chí của con người) cần vận
dụng trong quản lý kinh tế và thương mại.
d. Biểu hiện tương tác giữa các quy luật giá trị, cung cầu và cạnh
tranh trên thị trường
- Quy luật giá trị phản ánh quan hệ giữa giá cả, giá trị có thể ăn khớp
(giá cả tương ứng với giá trị) và tách rời nhau (giá cao hoặc thấp hơn giá
trị). Nếu như quy luật giá trị giải thích sự vận động của giá cả hàng hoá,
thì quy luật cung cầu lại giải thích sự vận động của quan hệ giữa cung và
cầu theo 2 trạng thái ăn khớp (cân đối) hay không ăn khớp (mất cân đối).
Trên thị trường sự hoạt động của 2 quy luật giá trị và quy luật cung cầu
được thể hiện ở quan hệ tương tác liên tục giữa cung cầu với giá cả, giá
trị của hàng hoá, dịch vụ. Hiện tượng phổ biến do cơ chế hoạt động,
tương tác của các quy luật này trên thị trường là:
+ Tương tác của cung cầu đối với giá: cung vượt cầu giá cả thị
trường giảm xuống, cung không kịp cầu giá cả sẽ tăng lên, trường hợp
cung cầu ăn khớp, cân đối, giá cả trở về "điểm cân bằng" nên thị trường
ổn định hơn (cả về cung cầu và giá).
+ Tương tác của giá đến cung cầu: giá tăng kích thích tăng cung,
nhưng hạn chế cầu, ngược lại giá giảm sẽ kích cầu nhưng không kích

50
cung, mà làm giảm cung. Giá cả ổn định, dao động ít quanh "điểm cân
bằng" sẽ giúp ổn định thị trường và các quan hệ cung cầu.
- Quy luật cạnh tranh với quy luật giá trị và cung cầu
Quy luật cạnh tranh giải thích các hiện tượng cạnh tranh giữa nội bộ
bên bán, bên mua hoặc giữa bên bán và bên mua diễn ra trên thị trường
vừa tác động đến cung cầu, vừa tác động đến giá cả.
Sự tương tác giữa các quy luật trên được thể hiện ở chỗ: nếu cạnh
tranh diễn ra ở bên cung (do dư cung so với cầu) thường dẫn đến giảm
giá bán, cạnh tranh ở bên cầu (do cung không kịp cầu) sẽ làm tăng giá
mua, còn cạnh tranh giữa bên bán và bên mua cũng với tương tác của
quan hệ cung cầu làm giá dịch chuyển về "điểm cân bằng" thị trường.
Như vậy cạnh tranh làm thay đổi giá cả theo các xu hướng khác nhau
(cao hơn, thấp hơn hoặc tiếp cận mức giá ở "điểm cân bằng"), cạnh tranh
có khả năng kích cung, kích cầu thị trường. Mặt khác giá cả cũng tác
động trở lại đối với cạnh tranh: nếu giảm giá thường thúc đẩy cạnh tranh
hơn, kích cầu và thu hút khách hàng, tăng giá thì ngược lại. Cung cầu ổn
định thường ít tác động đến cạnh tranh và ngược lại.
Các quy luật tương tác qua lại, liên tục với nhau trên thị trường biểu
hiện qua tác động của các quan hệ cung cầu, giá cả và cạnh tranh. Hiện
tượng phổ biến là cung cầu tách rời nhau, giá cả vận động xoay quanh
giá trị (điểm cân bằng thị trường), cạnh tranh luôn diễn ra giữa các bên
tham gia thị trường.

3.1.2. Cơ chế vận dụng các quy luật trong quản lý kinh tế
Cơ chế vận dụng các quy luật là quá trình bắt đầu từ nhận thức các
quy luật và sự hoạt động, tương tác khách quan của các quy luật đó để
xây dựng các nguyên tắc, các yếu tố, điều kiện môi trường, các chính
sách và hệ thống quản lý nhằm phát huy tác dụng của các quy luật đó,
hướng sự vận động của nền kinh tế đạt tới mục tiêu (tăng trưởng, cạnh
tranh và hiệu quả).

51
Nhận thức quy luật là nhận biết tính đúng đắn các mối liên hệ bản
chất và hiện tượng, quan hệ nhân quả từ các quy luật kinh tế. Người ta có
thể nhận biết quy luật thông qua kinh nghiệm thực tiễn và sự trải nghiệm
hoặc nghiên cứu, học tập một cách có hệ thống những lý luận khoa học
và các thử nghiệm bởi các phương tiện kỹ thuật hiện đại và các mô hình
toán kinh tế. Nhận thức đặc điểm của các quy luật kinh tế là rất quan
trọng. Các quy luật kinh tế hoạt động và phát huy tác dụng đều phải
thông qua hoạt động của con người. Hơn nữa chúng phát huy tác dụng
trong sự tương tác với các quy luật khách quan khác (ví dụ, 3 quy luật
giá trị, cung cầu và cạnh tranh không bao giờ tách rời nhau, luôn tương
tác lẫn nhau như đã trình bày ở trên).
Tổ chức hệ thống bộ máy quản lý, hình thành các điều kiện, cơ chế
thích hợp để các quy luật có thể hoạt động và phát huy tác dụng. Tìm
cách loại bỏ những ách tắc trong tổ chức và quản lý gây cản trở hoặc hạn
chế sự hoạt động của các quy luật kinh tế (chẳng hạn các quy định liên
quan tới độc quyền của doanh nghiệp nhà nước cản trở cạnh tranh, các
quy định về giá thoát ly các nguyên tắc thị trường, các quy định về sản
xuất và trao đổi không bám sát quan hệ cung cầu, hoặc các can thiệp của
Nhà nước vào thị trường nặng về mệnh lệnh hành chính, áp đặt chủ
quan,... không tuân theo quy luật thị trường).

3.2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ


NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI
Nguyên tắc quản lý là các quy tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn hay chuẩn
mực hành vi mà cơ quan quản lý nhà nước các cấp đối với các lĩnh vực
thương mại phải tuân thủ. Các nguyên tắc quản lý thương mại do con
người đặt ra trên cơ sở nghiên cứu và vận dụng yêu cầu các quy luật
khách quan, đó không phải là những suy nghĩ hay ý muốn chủ quan. Các
nguyên tắc quản lý thương mại phải phù hợp với các mục tiêu quản lý,
phản ánh đúng tính chất các quan hệ quản lý, đảm bảo tính hệ thống, ổn
định và nhất quán. Nó là cơ sở để hình thành các phương pháp quản lý
nhà nước về thương mại.

52
Các chủ thể kinh doanh cũng phải quán triệt, nhận thức và vận dụng
đúng đắn các nguyên tắc đó trong công tác quản trị doanh nghiệp hay
quản trị hoạt động kinh tế của mình, chứ không phải chỉ thuần tuý dựa
vào các nguyên tắc của thị trường.
Các nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước về thương mại bao
gồm:

3.2.1. Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế, thống nhất quản
lý thương mại bằng chính sách, pháp luật, quy hoạch và kế hoạch
a. Cơ sở:
Đường lối chính trị của Đảng cầm quyền bao giờ cũng được thể hiện
cụ thể trong lãnh đạo các hoạt động về kinh tế. Trên cơ sở đường lối
chính trị, nhà nước xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong từng giai đoạn cụ thể. Do vậy, Đảng lãnh đạo về đường lối
chính trị luôn được thể hiện trong nội dung quản lý, điều hành các hoạt
động kinh tế của Nhà nước bằng các công cụ, các chính sách quản lý
kinh tế cụ thể, thích hợp. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp khi nghiên
cứu nguyên tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại, phải đảm
bảo sự thống nhất giữa lãnh đạo chính trị của Đảng với quản lý, điều
hành và kiểm soát các hoạt động thương mại, thị trường của Nhà nước.
Hoạt động thương mại trong phạm vi quốc gia phản ánh rất nhiều
các mối quan hệ kinh tế đa dạng, phức tạp, khác nhau trong lĩnh vực trao
đổi hàng hoá, dịch vụ. Các mối quan hệ đó hình thành nên các dòng lưu
thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường nội địa và quốc tế. Do
vậy, cần phải có sự quản lý thống nhất các hoạt động trên của Nhà nước
để duy trì trật tự thị trường, kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trao đổi mua bán. Sự quản lý thống nhất của Nhà nước về
thương mại chỉ có thể bằng chính sách, pháp luật mới đảm bảo sự phù
hợp, đáp ứng yêu cầu của hội nhập và phát triển. Ngoài ra, thống nhất
quản lý bằng quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, thương mại giúp

53
các nhà kinh doanh yên tâm đầu tư và hoạt động lâu dài tại thị trường
Việt Nam.
b. Biểu hiện:
- Sự thống nhất lãnh đạo của Đảng thể hiện cả về chính trị và kinh
tế, không tách rời hoặc đối lập nhau (không chỉ có vậy mà còn thống nhất
về xã hội, quốc phòng và an ninh).
Trong thực tiễn, sự thống nhất về chính trị và kinh tế biểu hiện ở
mức độ cao thấp rất khác nhau, nhưng xu hướng chung là những bất
đồng về chính trị đều gây nên những trở ngại thậm chí là thất bại trong
các đàm phán, hợp tác về phát triển kinh tế, thương mại. Ở đâu và khi
nào có sự thống nhất cao giữa chính trị và kinh tế, thì tình hình phát triển
kinh tế, thương mại được thúc đẩy, khả quan hơn và đạt hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế đa dạng, nhiều chiều, nhiều tầng nấc
khác nhau hiện nay, các nước vẫn có thể tìm thấy sự thống nhất cao về
kinh tế, về lợi ích thương mại nhờ tìm ra những điểm tương đồng, gạt
qua những bất đồng, mặc dù nền tảng chế độ chính trị vẫn có sự khác
biệt cơ bản. Những yếu tố chính trị càng thể hiện nhiều hơn, sâu hơn
trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại thay thế cho cách thức giải quyết
vấn đề kinh tế, thương mại chỉ thuần tuý do thị trường chi phối, quyết
định như trước đây.
- Nhà nước thống nhất quản lý thương mại bằng hệ thống chính
sách, luật pháp và các công cụ kế hoạch hóa thương mại (như quy hoạch
và kế hoạch phát triển), thể hiện:
Tất cả các chủ thể kinh doanh của các thành phần kinh tế, cùng các
hoạt động thương mại của họ trên thị trường (kể cả tổ chức, cá nhân
người nước ngoài hoạt động tại Việt Nam) đều phải đặt dưới sự quản lý,
kiểm soát của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Các chủ thể hoạt động thương mại đều phải tuân thủ các quy định
của pháp luật, các chính sách, các quy hoạch, các định hướng chiến lược,

54
các kế hoạch phát triển kinh tế, thương mại của quốc gia mà nhà nước đã
phê duyệt, ban hành.
Phải đảm bảo sự thống nhất trong điều hành và phối hợp giữa các cơ
quan quản lý nhà nước về thương mại, đảm bảo tính thống nhất và hiệu
lực của hệ thống tổ chức quản lý thương mại ở các cấp theo luật định,
thống nhất thực hiện chế độ trách nhiệm người đứng đầu (trước đây là
chế độ thủ trưởng).
c. Yêu cầu:
Thống nhất các mục tiêu chính trị với kinh tế, thương mại với kinh
tế - xã hội và các mục tiêu khác. Nâng cao năng lực chuyên môn về kinh
tế, thương mại và tố chất chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Hệ thống chính sách, pháp luật phải thống nhất, ổn định và nhất
quán. Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại,
chương trình dự án phải rõ ràng, công khai, minh bạch.
Nhà nước phải thống nhất hướng dẫn thực thi chính sách, pháp luật,
quy hoạch và có giải pháp ngăn chặn, xử lý chủ thể kinh doanh, cán bộ
quản lý vi phạm theo các chế tài của quy định pháp luật.

3.2.2. Tập trung và dân chủ


a. Cơ sở:
Tập trung và dân chủ là 2 mặt của một thể thống nhất, đó là nguyên
tắc quan trọng nhất của quản lý nhà nước về kinh tế nói chung cũng như
quản lý thương mại nói riêng.
Hoạt động thương mại diễn ra trên phạm vi cả nước và từng địa
phương, trong cả phạm vi thị trường nội địa và quốc tế, cần thiết vừa
phải có lãnh đạo, chỉ huy tập trung thống nhất, thể hiện trong các định
hướng, hướng dẫn pháp luật và chính sách điều tiết vĩ mô, kiểm soát của
Nhà nước, vừa phải mở rộng quyền dân chủ, tự quyết và tự chịu trách
nhiệm cho địa phương, cho các doanh nghiệp. Mỗi địa phương có những

55
đặc thù về lợi thế so sánh, những đặc sắc về văn hóa, khác biệt về tập
quán tiêu dùng,... nên phải trao quyền và đề cao trách nhiệm của địa
phương đối với công tác quản lý trên địa bàn được phân công. Hơn nữa
hoạt động thương mại là của các doanh nhân, của những người bán và
người mua, nên họ có quyền và phải trao quyền tự quyết trong kinh
doanh và đầu tư vào những lĩnh vực, sản phẩm mà pháp luật không cấm,
họ có quyền tham gia đóng góp ý kiến vào các chủ trương, chính sách,
hoàn thiện hệ thống luật pháp, họ có quyền đòi hỏi nhà nước phải bảo vệ
lợi ích chính đáng cho họ và giải quyết hài hòa lợi ích giữa nhà nước,
cộng đồng doanh nhân và xã hội.
Tập trung để đảm bảo quản lý, lãnh đạo và điều hành của Nhà nước
thống nhất về thương mại trong cả nước, nhưng dân chủ lại đảm bảo sự
tự do sáng tạo và tính chủ động cho địa phương quản lý thương mại theo
địa bàn lãnh thổ. Do vậy, phải kết hợp cả hai hướng trên để vừa khai thác
lợi thế, vừa bổ sung những hạn chế của từng xu hướng khi quản lý
thương mại.
b. Biểu hiện:
- Tập trung quản lý thống nhất ở Trung ương đối với những quyết
định quan trọng về kinh tế, thương mại mang tầm quốc gia và quốc tế,
đồng thời mở rộng quyền tự chủ, tự quyết định cho các địa phương đối
với những vấn đề kinh tế, thương mại mà Trung ương không cần nắm,
không thể quản lý hoặc trực tiếp quản lý sẽ kém hiệu quả.
- Tập trung sự quản lý thương mại trong bộ máy cơ quan nhà nước
có thẩm quyền riêng của cá nhân (đi kèm trách nhiệm người đứng đầu)
và thẩm quyền chung của tập thể. Dân chủ còn liên quan tới việc mở
rộng quyền tham gia vào các quyết định quản lý nhà nước của mọi người
dân, người tiêu dùng và các doanh nhân (tức là dân chủ cho mọi chủ thể
tham gia trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, chứ không chỉ dân
chủ đối với bộ máy quản lý thương mại cấp dưới hoặc dân chủ trong tập
thể của hệ thống lãnh đạo).

56
c. Yêu cầu:
Tập trung phải kết hợp dân chủ hoá trong quản lý. Đề cao trách
nhiệm người đứng đầu. Tránh lãnh đạo tập thể chung chung và trách
nhiệm quản lý nhà nước về thương mại chỉ thuộc về tập thể.
Phân công và phân cấp, cùng kiến tạo bộ máy quản lý nhà nước về
thương mại phải hợp lý. Quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm theo phân
công và mối quan hệ phối hợp, hợp tác theo “chiều ngang” giữa Bộ quản
lý chuyên ngành thương mại với các bộ quản lý ngành khác ở Trung ương,
Sở quản lý chuyên ngành thương mại với các Sở quản lý ngành khác ở
địa phương (tỉnh, thành phố), quan hệ theo “chiều dọc” theo ngành
giữa Bộ với Sở quản lý chuyên ngành về thương mại trong cả nước.
Không quản lý tập trung, toàn diện, tuyệt đối, phải tạo điều kiện cho
cơ quan cùng cấp, cấp dưới, các địa phương chủ động và sáng tạo giải
quyết các vấn đề thuộc phạm vi của họ. Chống tập trung quan liêu, áp
đặt, chuyên quyền, độc đoán và chống lạm dụng dân chủ phi tập trung,
tản mạn, cục bộ, vô kỷ luật, vô chính phủ.

3.2.3. Kết hợp quản lý thương mại theo ngành và lãnh thổ
a. Cơ sở:
Quản lý thương mại theo ngành là quản lý nhà nước theo một lĩnh
vực chuyên môn hoá, đặc thù chuyên ngành trong phạm vi cả nước để
đảm bảo tính tập trung thống nhất. Tuy nhiên, hoạt động thương mại
thường diễn ra ở từng khu vực địa lý, phạm vi không gian cụ thể khác
nhau của các địa phương, vùng lãnh thổ, nên phải đặt dưới sự quản lý
toàn diện của địa phương.
Quản lý thương mại theo lãnh thổ là một bộ phận của quản lý toàn
diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên một địa bàn. Nó cho phép khai thác
các nét đặc thù, lợi thế riêng về kinh tế, thương mại của từng địa phương
hoặc vùng lãnh thổ bằng cơ chế chính sách thích hợp. Mặt khác, quản lý
thương mại theo địa phương hay vùng còn do phân cấp trong quản lý nhà
nước dựa trên nguyên tắc tập trung và dân chủ. Do vậy, trong các chính

57
sách và biện pháp quản lý nhà nước về thương mại, bên cạnh những quy
định chung cần phải có những quy định cụ thể, riêng biệt về kinh tế,
thương mại đối với những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu biểu, đặc
trưng của địa phương, tức là phải có sự kết hợp quản lý theo ngành và
lãnh thổ.
b. Biểu hiện:
Nội dung cơ bản của quản lý theo ngành là định hướng chiến lược,
quy hoạch phát triển thương mại của cả nước (bao gồm cả thị trường nội
địa và xuất nhập khẩu, phát triển hạ tầng, các loại hình thương mại,... đội
ngũ thương nhân), xây dựng cơ chế, chính sách thương mại phù hợp hệ
thống pháp luật trong nước, quốc tế và cam kết hội nhập nhằm thúc đẩy
tự do hoá thương mại, bảo vệ sản xuất và thị trường nội địa hợp lý theo
định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển. Phối hợp các ngành khác
xây dựng khung pháp lý và đưa chính sách, pháp luật vào thực tiễn
thương mại của cả nước. (Hiện nay ở Việt Nam trách nhiệm quản lý nhà
nước về thương mại theo ngành thuộc Bộ Công Thương).
Quản lý theo lãnh thổ có nội dung quy hoạch, xây dựng và phát triển
hạ tầng thương mại của địa phương hoặc vùng, cụ thể hóa chính sách
thương mại của quốc gia, huy động và phát triển các nguồn lực để thực
thi trách nhiệm quản lý thương mại trên địa bàn lãnh thổ. Địa phương có
thể xây dựng những chính sách, quy định đặc thù của lãnh thổ (tuỳ theo
phân cấp và thẩm quyền trách nhiệm được cấp trên giao) nhằm khai thác
tiềm năng, lợi thế so sánh về kinh tế, thương mại trên địa bàn. Phối hợp
sở, ban ngành thương mại với sở, ban các ngành khác trong công tác
quản lý nhà nước trong phạm vi lãnh thổ. Trách nhiệm chính của địa
phương là xây dựng các văn bản để triển khai thực thi chính sách, pháp
luật theo hướng dẫn của cấp trên và ngành, tổ chức triển khai thực hiện
hướng dẫn, tuyên tuyền, phổ biến chính sách, pháp luật và kiểm tra, kiểm
soát các hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ, ngăn chặn và xử lý các vi
phạm pháp luật của các chủ thể kinh doanh trên địa bàn lãnh thổ. (Trách
nhiệm quản lý thương mại ở các địa phương cấp tỉnh/thành phố trực

58
thuộc Trung ương ở Việt Nam hiện nay thuộc về UBND tỉnh/ thành phố,
trong đó, Sở Công thương là cơ quan chuyên môn quản lý thương mại).
c. Yêu cầu:
Để thực hiện sự kết hợp đó, cần có sự phân công rõ ràng và quy định
trách nhiệm tham gia quản lý song trùng, quy định về sự hợp tác, bàn bạc
trong trường hợp cơ quan quản lý ngành hoặc chính quyền địa phương ra
quyết định. Bất cứ trường hợp nào ra quyết định bỏ qua ý kiến của phía
bên kia đều dẫn đến những trục trặc, gây khó khăn trở ngại cho sự phát
triển thương mại và làm giảm hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Không được bỏ trống nhiệm vụ hoặc quản lý chồng chéo giữa ngành
và cấp chính quyền trên địa bàn lãnh thổ. Thiết kế bộ máy tổ chức phù
hợp với yêu cầu của quá trình hội nhập và phát triển, nhất là quản lý kinh
tế, thương mại đối với vùng lãnh thổ không phải địa giới hành chính của
một địa phương.

3.2.4. Kết hợp hợp lý bảo vệ, phát triển thị trường nội địa với
mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế
a. Cơ sở:
Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, thị trường trong nước và
thị trường nước ngoài ngày càng có sự thống nhất trong sự tương tác qua
lại lẫn nhau. Thị trường trong nước là tiền đề cho mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu và thị trường ngoài nước tác động bổ sung, hỗ trợ thúc
đẩy thị trường trong nước phát triển.
Bảo vệ sản xuất trong nước và thị trường nội địa là xu hướng của
mọi quốc gia do yêu cầu phát triển các ngành sản xuất mới, quản lý trao
đổi các sản phẩm nhạy cảm, do hoạt động thương mại và cạnh tranh
không lành mạnh, do yêu cầu bảo vệ kinh doanh nhỏ, bảo vệ lợi ích
người tiêu dùng, do những hạn chế khác từ tác động của môi trường kinh
doanh. Tuy nhiên, bảo vệ thị trường nội địa, sản xuất trong nước phải
hợp lý, có chọn lọc và thời hạn theo đúng cam kết hội nhập đã ký kết.

59
Để bảo vệ thị trường nội địa, chính sách thương mại thường sử dụng các
công cụ, biện pháp có ý nghĩa như các rào cản ngăn chặn sự xâm nhập
hàng hóa của nước ngoài không phù hợp, gây tổn thất về kinh tế, môi
trường, vấn đề sức khoẻ con người,.. và kiểm soát các dịch vụ không
lành mạnh cũng như các hạn chế đối với nhà cung cấp dịch vụ của
nước ngoài.
b. Biểu hiện:
Mức độ mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế không có khuôn mẫu
chung cho mọi quốc gia, nhưng mỗi nước đều phải nghiên cứu kinh
nghiệm quốc tế và xu hướng phát triển để vận dụng cho phù hợp. Mở cửa
thị trường, hội nhập được thể hiện trong các chính sách thương mại của
quốc gia thông qua việc dỡ bỏ hoặc giảm thấp các rào cản đối với thương
mại và đầu tư. Kết quả của việc thực thi chính sách thương mại trong
trường hợp này được thể hiện trên tầm vĩ mô ở “độ mở” của nền kinh tế
(so sánh kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP).
Bảo vệ sản xuất, thị trường trong nước phù hợp với các điều kiện
được phép và phù hợp với cam kết hội nhập về thời hạn, đối với những
ngành hàng, nhóm sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và nội dung sử dụng các
biện pháp phòng vệ hoặc hàng rào kỹ thuật thích hợp.
c. Yêu cầu:
Hội nhập, mở cửa thị trường phải có lộ trình, có kế hoạch, thể hiện
đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng. Bảo vệ thị trường nội địa có thời hạn,
hợp lý và đúng pháp luật, thông lệ và cam kết quốc tế.
Giữa bảo vệ thị trường nội địa với mở cửa thị trường, hội nhập quốc
tế vừa có sự thống nhất, nhưng vừa mâu thuẫn nhau. Do vậy, trong quản
lý nhà nước về thương mại cần phải xử lý đúng đắn tính thống nhất và
mâu thuẫn đó, luôn coi kết hợp bảo vệ thị trường, sản xuất nội địa với mở
rộng và phát triển thị trường ngoài nước là nguyên tắc của hội nhập vào
“sân chơi” chung của khu vực và toàn cầu.

60
3.2.5. Đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của quản lý
a. Cơ sở:
Kinh tế thị trường đều có cả ưu điểm, ưu thế lẫn nhược điểm, khuyết
tật. Hội nhập khu vực và toàn cầu chứa đựng cả những cơ hội lớn và
thách thức không nhỏ, với cả hai xu hướng tác động tích cực, tiêu cực
khác nhau. Vì vậy, quản lý nhà nước về kinh tế, thương mại phải đảm
bảo tính hiệu lực, hiệu quả mới có khả năng thích nghi khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới. Khắc
phục những mặt trái của kinh tế thị trường, tận dụng cơ hội, vượt qua trở
ngại, khó khăn thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển
trong hội nhập.
b. Biểu hiện:
Các quyết định quản lý của Nhà nước về thương mại thể hiện tính
hiệu lực lý thuyết ở thời gian có hiệu lực thi hành của các văn bản chính
sách, pháp luật mà nhà nước đã ban hành.
Tính hiệu lực của quản lý nhà nước về thương mại còn phải được thể
hiện trên thực tế ở việc ra các quyết định quản lý đó của Nhà nước có
được thực thi ở các cơ quan chức năng có thẩm quyền, trách nhiệm và sự
chấp nhận của đối tượng quản lý hay không. Điều quan trọng là hiệu lực
thực tế khi văn bản quản lý đó đi vào thực tiễn kinh tế và kinh doanh như
thế nào. Nếu quyết định quản lý không được chuyển tới đối tượng quản
lý kịp thời hoặc đối tượng quản lý không chấp nhận, không thực thi hoặc
thực thi rất chậm, điều đó có nghĩa quản lý nhà nước về thương mại
không có hiệu lực hoặc kém hiệu lực.
Tính hiệu quả của quản lý thể hiện ở mức độ thành công hay kết quả
mang lại so với phí tổn nguồn lực đã bỏ ra nhờ có các chính sách, biện
pháp hoặc công cụ quản lý của Nhà nước tác động tới thương mại, thị
trường. Tuy nhiên rất khó có thể đo lường các đại lượng trên, nhất là phí
tổn các nguồn lực. Bởi cả các kết quả cũng như phí tổn nguồn lực của

61
quản lý đều có “tính kép”. Sở dĩ như vậy là vì kết quả đạt được do tác
động từ chính sách không chỉ có thương mại được hưởng lợi, mà còn có
hiệu ứng lan toả đến các lĩnh vực khác trong nền kinh tế, tương tự chi phí
bỏ ra không chỉ dành riêng cho chính sách về thương mại và hơn nữa
người ta không thể đo trực tiếp chi phí chính sách, mà chỉ có thể xác định
các giá trị tổn thất, mất mát có thể có do rủi ro chính sách đã lựa chọn để
so sánh với giá trị, lợi ích đạt được từ chính sách đó.
Tính hiệu quả có quan hệ thuận với tính hiệu lực của quản lý. Hiệu
quả của quản lý nhà nước cao hay thấp cũng cho thấy hiệu lực của quản
lý nhà nước mạnh hay yếu và ngược lại. Trên thực tế, hiệu quả của quản
lý nhà nước được nhận biết trực tiếp qua hiệu lực thực hiện các công cụ,
chính sách hoặc biện pháp quản lý của Nhà nước. Nó có đáp ứng mục
tiêu hay không và đạt mục tiêu quản lý thương mại như thế nào. Các
chuyên gia thường đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước thông qua kết
quả hay lợi ích ròng đạt được từ thương mại. Mặt khác hiệu quả quản lý
nhà nước về thương mại còn được đánh giá gián tiếp thông qua tăng
trưởng kết quả và hiệu quả kinh doanh, hiệu quả hoạt động thương mại
nói chung của các doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh thuộc các thành
phần kinh tế trong từng thời kỳ.
Hiệu quả của quản lý nhà nước về thương mại phụ thuộc vào mức
độ chuẩn xác của việc ra quyết định và hiệu suất triển khai thực hiện
quyết định đó của Nhà nước (02 nhóm yếu tố này có tương tác với nhau,
đều ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, cần nghiên cứu để định lượng hóa).
Nếu quyết định quản lý đúng, hiệu suất triển khai cao thì hiệu quả sẽ cao
và ngược lại, nếu ra quyết định sai, triển khai mạnh mẽ, tích cực sẽ gây
ra tổn thất lớn hoặc nghiêm trọng cho nền kinh tế và đời sống xã hội.
Trường hợp quyết định đúng, hiệu suất triển khai thực hiện thấp thì hiệu
quả thấp, trường hợp quyết định sai nhưng triển khai có giới hạn thì mức
độ tổn thất nhỏ hoặc không đáng kể (xem bảng).

62
Bảng phân tích các trường hợp hiệu quả của quản lý nhà nước

Ra q.định
Đúng Sai
HS tr.khai
Cao Hiệu quả cao Hiệu quả thấp

Thấp Tổn thất lớn (nghiêm trọng) Thiệt hại mức độ (thấp)

c. Yêu cầu:
Để quản lý nhà nước về thương mại có hiệu lực, hiệu quả cao cần
chú trọng đến chất lượng của các quyết định và tính hợp lý của bộ máy tổ
chức cũng như năng lực, độ tin cậy của đội ngũ cán bộ, công chức trong
việc triển khai đưa các quyết định quản lý đó vào đời sống của cộng đồng
kinh doanh và người tiêu dùng, dân cư.
Các quyết định quản lý nhà nước phải đảm bảo kết hợp các mục tiêu,
hài hòa các lợi ích, có tính ưu tiên, ưu đãi trong những trường hợp, đối
tượng, lĩnh vực kinh doanh và phạm vi thị trường cụ thể, phải cân đối
giữa mục đích và phương tiện, các nguồn lực sử dụng, thời gian, chương
trình, kế hoạch để triển khai thực hiện mục tiêu. Phải làm tốt công tác
truyền thông, giáo dục để đối tượng của quản lý thông hiểu, chuyển biến
nhận thức chấp nhận tác động từ các chính sách hoặc biện pháp quản lý
của Nhà nước.

3.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ


THƯƠNG MẠI
Các phương pháp quản lý nhà nước về thương mại là tổng thể những
cách thức tác động có chủ đích của Nhà nước đối với chủ thể kinh doanh,
hệ thống thương mại, các quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các vấn
đề khác có liên quan tới thương mại nhằm thực hiện mục tiêu đã xác định
trong từng giai đoạn cụ thể.

63
Phương pháp quản lý rất đa dạng và có ý nghĩa quan trọng, ảnh
hưởng đến thành công hay thất bại của các hoạt động quản lý. Các
phương pháp quản lý thích hợp sẽ khơi dậy những ý tưởng hay, kích
thích sự năng động, sáng tạo của doanh nhân, tạo ra động lực thúc đẩy
con người, khai thác triệt để mọi cơ hội và tiềm năng của hệ thống
thương mại, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực từ bên ngoài đến mục
tiêu, lợi ích của quản lý.
Quản lý thương mại là quá trình thực hiện và phối hợp các chức
năng quản lý theo các nguyên tắc đã xác định. Nhưng các nguyên tắc đó
chỉ được vận dụng và thể hiện thông qua các phương pháp quản lý nhà
nước về thương mại cụ thể. Các nguyên tắc quản lý thương mại là những
quy tắc phải tuân thủ, thi hành và tương đối ổn định trong quá trình quản
lý, nhưng các phương pháp quản lý lại có sự vận dụng linh hoạt cho phù
hợp với từng hoàn cảnh môi trường, với từng trường hợp, các tình huống
và đặc điểm của đối tượng quản lý nhất định. Do vậy, phải quán triệt các
nguyên tắc, phải vận dụng các phương pháp một cách sáng tạo, linh hoạt
trong cơ chế tác động của quản lý nhà nước đến các lĩnh vực thương mại
nhằm đạt mục tiêu tốt nhất.
Các phương pháp chủ yếu của quản lý nhà nước về thương mại bao
gồm:

3.3.1. Phương pháp kinh tế


Phương pháp kinh tế trong quản lý nhà nước về thương mại là tổng
thể các cách thức, biện pháp mà nhà nước sử dụng để tác động vào lợi
ích kinh tế các chủ thể tham gia hoạt động thương mại trên thị trường
nhằm đạt mục tiêu.
Thực chất của phương pháp này là nhà nước sử dụng các đòn bảy
kinh tế với tư cách là động lực tác động vào lợi ích kinh tế của các chủ
thể sản xuất kinh doanh. Có thể nói đặc điểm của phương pháp này là
“dùng kinh tế” để “tác động vào kinh tế” (một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp).

64
Nhà nước sử dụng động lực kinh tế, các kích thích lợi ích vật chất để
khuyến khích và thu hút các nhà đầu tư vào các chương trình, dự án về
thương mại, thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu thương mại cũng như
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Các đòn bẩy và biện pháp kinh tế, nhà nước thường sử dụng để tác
động vào doanh nghiệp trong quản lý thương mại gồm: thuế và phí, lãi
suất tín dụng, giá cả, tỷ giá hối đoái, hỗ trợ vật chất khác (tài trợ vốn,...).
Ngoài các đòn bảy kinh tế trên, nhà nước còn sử dụng các định mức kinh
tế - kỹ thuật (như tiêu hao vật tư, nguyên nhiên liệu, phụ liệu, khấu hao
tài sản, trang thiết bị, máy móc, chi phí quảng cáo,...), các định mức
khoán (doanh thu, chi phí) để tác động vào hoạt động của doanh nghiệp,
kích thích các nhà sản xuất, thương nhân phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ
giá thành, giảm thấp chi phí lưu thông, cung ứng dịch vụ, nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả kinh doanh.
Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế để khuyến khích hoặc điều
tiết hạn chế thương mại đối với hàng hoá, dịch vụ cụ thể tùy thuộc vào
định hướng mục tiêu và hiện trạng cũng như xu hướng phát triển thị
trường. Sự tác động của Nhà nước bằng phương pháp kinh tế một cách
đúng đắn sẽ tạo động lực thúc đẩy phát triển thương mại, phát triển kinh
tế - xã hội. Nó cũng cho phép giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa
nhà nước với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người lao động, giữa
thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, giữa kinh tế với xã hội
và môi trường.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế của nước ta, phương pháp quản lý nhà nước về thương mại bằng kinh
tế có ý nghĩa rất quan trọng, bởi sự tác động trực tiếp của nó vào lợi ích
kinh tế của các chủ thể kinh doanh, nên nó rất nhạy bén, linh hoạt, tạo
động lực và phát huy được tính chủ động, sự sáng tạo của doanh nghiệp
và người lao động, của các cơ sở sản xuất kinh doanh.

65
3.3.2. Phương pháp giáo dục, thuyết phục
Phương pháp giáo dục là cách thức nhà nước tác động vào tư duy,
suy nghĩ, nhận thức và tình cảm của đối tượng quản lý là các doanh nhân,
những nhà sản xuất và người tiêu dùng với tư cách là các chủ thể tham
gia thị trường, thực hiện các giao dịch thương mại và hành vi trao đổi
hàng hóa, dịch vụ nhằm đạt mục tiêu.
Phương pháp này tác động đến các khía cạnh tâm lý xã hội, đời sống
tinh thần của con người nhằm nâng cao sự hiểu biết, làm chuyển biến
một cách tự giác, tích cực, chủ động và có trách nhiệm trong việc thực
hiện các nhiệm vụ được doanh nghiệp giao cho hoặc hướng hành vi của
người bán, người mua theo quy định của pháp luật, các tập quán, thông lệ
kinh doanh hoặc định hướng mà nhà nước đã đề ra.
Đặc điểm chung của phương pháp giáo dục, thuyết phục là không
mang tính bắt buộc, tác động đến con người một cách từ từ, chuyển biến
tích cực nhận thức (và sự hiểu biết đúng sai, tốt xấu, lợi hại, cơ hội, rủi
ro,... đối với các hành vi thương mại) sang hành động. Phương pháp này
luôn gắn liền giáo dục với thuyết phục nhằm nâng cao hiểu biết, ý thức
trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại,
làm chuyển biến hoạt động của họ theo mục tiêu quản lý đặt ra, trên cơ
sở tôn trọng định hướng nhà nước đã xác định, các quy định chính sách,
pháp luật, cũng như các giá trị văn hoá, đạo đức kinh doanh.
Để thực hiện phương pháp này, nhà nước phải sử dụng bộ máy tổ
chức quản lý thích hợp, hệ thống truyền thông dưới các hình thức khác
nhau và phối hợp với các lực lượng khác để giáo dục, động viên doanh
nhân trong và ngoài nước tích cực tham gia đầu tư, kinh doanh, phát triển
kinh tế để làm giàu, góp phần xóa đói, giảm nghèo và cải thiện đời sống
người lao động, bảo vệ môi trường,... trong khuôn khổ chính sách và luật
pháp về kinh tế, thương mại.
Cơ quan thực thi quản lý nhà nước về thương mại phải kiên trì
thuyết phục, thường xuyên giáo dục cán bộ, viên chức, doanh nghiệp,
người dân, người tiêu dùng có được những hiểu biết cần thiết và nâng

66
cao nhận thức về thị trường, thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Đặc biệt là tăng cường truyền thông để cho mọi doanh nghiệp, người dân
và các đơn vị, tổ chức, cá nhân nắm vững những cam kết mở cửa thị
trường về hàng hóa, dịch vụ khi gia nhập WTO và các tuyến hội nhập
khác, hướng dẫn những thay đổi về quy định chính sách, luật pháp trong
nước cũng như các nước đối tác thương mại của Việt Nam.
Hiện nay, những tác động không thuận, tiêu cực của hội nhập có xu
hướng gia tăng như: buôn bán hàng cấm, buôn lậu, gian lận thương mại,
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không đảm
bảo chất lượng, hàng nông sản không đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, hàng công nghiệp không an toàn cho người sử dụng, các vật tư,
hoá chất độc hại, bị cấm gây tác động xấu đến môi trường và sức khoẻ
con người, động thực vật có gây bệnh dịch,... Do vậy, phương pháp giáo
dục, thuyết phục để các chủ thể kinh doanh chấp hành luật pháp, định
hướng nhân văn hành vi trao đổi kinh tế vì con người, cho con người, vì
cộng đồng người tiêu dùng và xã hội có ý nghĩa rất quan trọng. Nó cần
phải được coi trọng và đầu tư quan tâm đúng mức, phải tạo ra đội ngũ có
năng lực, phương pháp và phẩm chất cùng phương tiện vật chất, kỹ thuật
hỗ trợ thích hợp, sự phối hợp với các phương pháp khác trong quản lý
nhà nước để tạo ra cơ chế tác động có hiệu quả đến thị trường và
thương mại.

3.3.3. Phương pháp hành chính


Phương pháp hành chính trong quản lý nhà nước về thương mại là
cách thức nhà nước tác động một cách trực tiếp, có tính bắt buộc đối với
các chủ thể hoạt động thương mại bằng các quy định pháp luật, chính
sách và các quy định hành chính khác nhằm đạt mục tiêu.
Đặc điểm cơ bản, khác biệt với các phương pháp khác trong quản lý
nhà nước về thương mại là tính bắt buộc hay cưỡng chế. Các đối tượng
quản lý phải chấp hành nghiêm minh, ngay lập tức các quy định và tác
động mang tính hành chính của Nhà nước thể hiện ở các văn bản quy

67
phạm pháp luật về thương mại mà nhà nước đã ban hành. Nếu các đối
tượng quản lý vi phạm sẽ bị xử lý.
Sử dụng phương pháp này, tính quyền lực của các cơ quan quản lý
nhà nước về thương mại cũng được thể hiện rõ. Tuy nhiên, tính quyền
lực đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chỉ được phép
đưa ra các tác động hành chính đúng với thẩm quyền. Như vậy, phương
pháp hành chính mang tính cưỡng chế, bắt buộc đối tượng quản lý phải
phục tùng các yêu cầu, các quy định, tác động hành chính của các cơ
quan quản lý nhà nước về thương mại.
Phương pháp này có vai trò quan trọng trong việc góp phần thiết lập
trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực thương mại và kết nối các phương pháp
quản lý khác của Nhà nước về thương mại.
Cần nhận thức rõ và đúng đắn sự khác biệt của các phương pháp
quản lý về tính chất (bắt buộc hay tự nguyện, cách thức sử dụng quyền
lực trong quản lý), vai trò tác động (trực tiếp hay gián tiếp, làm chuyển
biến ngay hay từ từ hành động của đối tượng), nội dung tác động
(bằng vật chất, kinh tế hay bằng tinh thần, niềm tin hay các quy định
hành chính).
Cả 3 phương pháp trên đều cần thiết và thể hiện mức độ quan trọng
khác nhau tùy thuộc vào đối tượng, hoàn cảnh môi trường và mục tiêu
quản lý thương mại cụ thể trong từng giai đoạn phát triển. Trong thực tế,
lựa chọn phương pháp nào là chủ đạo hay sử dụng kết hợp các phương
pháp quản lý thương mại phải thật sự khách quan, vừa thể hiện tính khoa
học, vừa thể hiện tính nghệ thuật trong quản lý, điều hành. Để quản lý
thương mại thành công, nhà nước thường sử dụng kết hợp 3 phương
pháp trên, bởi mỗi phương pháp quản lý đều có không chỉ ưu điểm và
cần thiết cho quản lý, mà còn có những hạn chế nhất định, sử dụng đồng
thời 3 phương pháp sẽ bổ sung cho nhau, nâng cao được hiệu lực và hiệu
quản quản lý.
Trong quá trình quản lý thương mại, không được tuỳ tiện áp dụng
các phương pháp theo ý muốn chủ quan của người lãnh đạo, quản lý.

68
Có như vậy mới có thể đạt được hiệu quả mong muốn trong quản lý nhà
nước về thương mại.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Trình bày khái quát nội dung và cơ chế hoạt động của các quy luật
giá trị, cung cầu và cạnh tranh. Vì sao phải nghiên cứu và vận dụng các
quy luật kinh tế đó trong quản lý nhà nước về thương mại?
2. Quản lý nhà nước về thương mại cần phải tuân theo các nguyên
tắc cơ bản nào? Vận dụng nguyên tắc thống nhất quản lý nhà nước về
thương mại ở nước ta được thể hiện như thế nào?
3. Nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm những vấn đề gì?
Để vận dụng tốt nguyên tắc này trong thực tế quản lý nhà nước về
thương mại cần phải đáp ứng các yêu cầu gì?
4. Nguyên tắc tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước về
thương mại được thể hiện như thế nào? Cần phải làm gì để vận dụng tốt
nguyên tắc này trong quản lý thương mại ở nước ta?
5. Vì sao phải kết hợp quản lý thương mại theo ngành với địa
phương (lãnh thổ)? Cần phải nhận thức và vận dụng nguyên tắc này như
thế nào trong quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta hiện nay?
6. Trình bày khái niệm, nội dung và tác động của các phương pháp
quản lý nhà nước về thương mại. Vì sao trong thực tiễn phải sử dụng kết
hợp các phương pháp quản lý nhà nước về thương mại?
7. Phân tích những đặc điểm chủ yếu và chỉ ra sự khác biệt giữa các
phương pháp kinh tế, giáo dục và hành chính trong quản lý nhà nước về
thương mại. Ý nghĩa nhận thức sự khác biệt đó trong quản lý nhà nước
về thương mại.

69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn, PGS.TS. Mai Văn Bưu, (2008) Giáo trình
Quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
2. TS. Trang Thị Tuyết, (2004) Giáo trình Quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực kinh tế, NXB Giáo dục.
3. GS.TSKH. Lương Xuân Quỳ, (2006) Quản lý nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, NXB Lý luận chính trị.

70
Chương 4
HỆ THỐNG TỔ CHỨC BỘ MÁY
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI

Nội dung chương giới thiệu những vấn đề có tính nguyên lý về phân
cấp quản lý nhà nước, hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về thương mại
từ Trung ương đến địa phương, trong đó chủ yếu là của các cơ quan
hành pháp gồm hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
bộ máy tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó nghiên
cứu bộ máy quản lý nhà nước về thương mại ở các lĩnh vực: Thương mại
hàng hóa, thương mại dịch vụ. Đồng thời cung cấp những kiến thức cơ
bản về công tác cán bộ trong quản lý nhà nước về thương mại, đặc biệt
là đào tạo và sử dụng cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về
thương mại. Tổ chức tốt hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về thương
mại là một nội dung quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của
công tác quản lý nhà nước về thương mại.

4.1. CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI


4.1.1. Phân cấp quản lý nhà nước về thương mại
a. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước về thương mại
Trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, mỗi cấp có vị trí, vai
trò, chức năng và nhiệm vụ nhất định. Cấp Trung ương không thể giải
quyết tất cả mọi vấn đề và cấp địa phương cũng không thể đảm nhận
những nhiệm vụ hay nắm giữ quyền hạn vượt quá phạm vi và khả năng
của mình. Vì vậy, phân cấp quản lý là một tất yếu khách quan. Phân cấp
trong quản lý nhà nước thường được thể hiện ở hai nội dung là chuyển
giao thẩm quyền cho cấp dưới và xác định thẩm quyền của mỗi cấp trong
đó. Hay phân cấp được hiểu là việc chuyển giao nhiệm vụ, thẩm quyền
từ cơ quan quản lý nhà nước cấp trên xuống cơ quan quản lý cấp dưới

71
nhằm đạt mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả quản lý. Phân cấp quản lý
nhà nước một mặt thể hiện sự phân cấp giữa Trung ương với chính quyền
cấp tỉnh, mặt khác còn bao hàm việc phân cấp giữa các cấp chính quyền
địa phương với nhau trong hoạt động quản lý nhà nước.
Theo đó, phân cấp quản lý nhà nước về thương mại có thể được hiểu
là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên
cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với
năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng,
hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về thương mại.
Phân cấp quản lý nhà nước về thương mại bởi vậy là sự phân chia phạm
vi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà mỗi cơ quan, mỗi cấp trong hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại phải đảm nhận
thực hiện.
b. Mục tiêu và nguyên tắc phân cấp trong quản lý nhà nước về
thương mại
Mục tiêu của phân cấp quản lý nhà nước về thương mại là nhằm quy
định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp
trong hệ thống quản lý nhà nước về thương mại; phát huy tính năng
động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính
quyền địa phương trong quản lý nhà nước về thương mại; góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước đối với thương
mại của từng địa phương và lợi ích tổng thể nền kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, để đạt được mục tiêu này việc phân cấp phải đảm bảo những
nguyên tắc sau:
- Bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước. Quản lý nhà
nước là sản phẩm của sự phân công lao động nhằm phối hợp và liên kết
hoạt động của các cấp, các ngành, của tổ chức, cá nhân để đạt được sự
phát triển tối ưu cho tổng thể nền kinh tế - xã hội. Bởi vậy, trong phân
cấp quản lý nhà nước về thương mại, các chủ thể quản lý dù có chức
năng, nhiệm vụ cụ thể ở phạm vi và quy mô khác nhau, song tất cả cùng
hướng tới mục tiêu chung của sự phát triển thương mại và nền kinh tế -

72
xã hội đất nước. Có những vấn đề quản lý thương mại phân cấp cho địa
phương, cũng có những vấn đề chỉ Trung ương mới có thẩm quyền quyết
định, có những vấn đề quản lý thương mại bởi các tổ chức dân sự hoặc
doanh nghiệp, nhưng quyền lực của Nhà nước là thống nhất. Chính phủ
thống nhất quản lý thương mại bằng chính sách, pháp luật, chiến lược,
quy hoạch và các hoạt động thanh tra, kiểm tra.
- Bảo đảm tính hiệu quả. Phân cấp là một quá trình bắt đầu từ việc
thử nghiệm hoặc rà soát chức năng, nhiệm vụ của từng cấp quản lý nhằm
phát hiện khả năng, tính hợp lý của mỗi cấp quản lý khi đảm nhiệm công
việc, hoạt động thuộc nội dung quản lý nhà nước. Do vậy, việc giao
nhiệm vụ, quyền hạn cho chủ thể quản lý thương mại phải xuất phát từ
tính hiệu quả, phải hướng vào cấp thực hiện tốt nhất, có nghĩa cấp nào có
khả năng đạt được mục tiêu, chất lượng và yêu cầu quản lý với hiệu quả
cao nhất thì nên giao nhiệm vụ tương ứng cho cấp đó.
- Bảo đảm tính phù hợp. Phân cấp quản lý nhà nước về thương mại
trước hết phải phù hợp với trình độ phát triển thương mại và kinh tế - xã
hội của đất nước trong từng giai đoạn. Theo nguyên tắc này, phân cấp
quản lý nhà nước về thương mại sẽ diễn ra theo hướng: Một số lĩnh vực
quản lý nhà nước sẽ không nhất thiết phải “nhà nước hoá” mà trái lại sẽ
xã hội hoá, thị trường hóa để phát huy tính tích cực của các thiết chế của
xã hội dân sự, của kinh tế thị trường. Theo đó, một số nội dung quản lý
về thương mại có thể chuyển giao cho các chủ thể phi nhà nước, các tổ
chức xã hội hoặc các doanh nghiệp. Nhiệm vụ của Nhà nước sẽ tập trung
vào hoạch định chính sách, thanh tra và kiểm tra việc thực hiện và xử lý
vi phạm, giải quyết tranh chấp... trong các quan hệ thương mại diễn ra
trên thị trường.
Bên cạnh đó, phân cấp quản lý nhà nước về thương mại còn phải
đảm bảo sự phù hợp với đặc thù của từng nội dung và lĩnh vực quản lý.
Điều này bảo đảm phát huy tính chuyên nghiệp và đặc thù, cũng như
đảm bảo tính thống nhất trong quản lý. Mỗi nội dung và lĩnh vực quản lý
yêu cầu phải có phương thức và cơ chế quản lý phù hợp. Thực tế, trong

73
quản lý nhà nước về thương mại, một số nội dung và lĩnh vực quản lý
nhà nước đặt ra nhu cầu tập trung hoá quyền lực ở mức độ cao nhằm bảo
đảm tính thống nhất, trong khi một số lĩnh vực khác lại đòi hỏi quá trình
không những phi Trung ương hoá, phi tập trung hoá mà còn có thể áp
dụng cơ chế chuyển giao mạnh mẽ một số thẩm quyền quản lý cho các tổ
chức xã hội. Vì vậy, việc phân cấp quản lý nhà nước về thương mại phải
phản ánh đầy đủ những đặc thù và yêu cầu đối với nội dung và lĩnh vực
quản lý.
- Phù hợp với đặc điểm của đơn vị hành chính - lãnh thổ. Đơn vị
hành chính - lãnh thổ là địa bàn được hình thành dựa theo các tiêu chí đa
dạng như yếu tố dân cư, địa lý, diện tích, địa bàn nông thôn, đô thị, đồng
bằng, vùng biên giới, miền núi, hải đảo... Sự đặc thù của đối tượng và địa
bàn quản lý chi phối tính chất nhiệm vụ, nội dung và phương thức quản
lý nhà nước. Trong quản lý nhà nước về thương mại, phân cấp quản lý
nhà nước phải bảo đảm sự phù hợp của từng loại hay nhóm đơn vị hành
chính - lãnh thổ để quản lý và có chính sách phát triển hiệu quả thị
trường và thương mại phù hợp với những đặc trưng của đơn vị hành
chính - lãnh thổ đó. Trong một số trường hợp, phân cấp quản lý về
thương mại phải tính đến có quy chế đặc thù cho những đơn vị hành
chính - lãnh thổ đặc biệt, như: Vùng sâu vùng xa; vùng miền núi, biên
giới, hải đảo; vành đai kinh tế; tam, tứ giác phát triển kinh tế;...
c. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước về thương mại
Sản phẩm cuối cùng của quá trình phân cấp quản lý nhà nước về
thương mại là một hệ thống quy định pháp luật về phân định thẩm quyền
của cơ quan quản lý nhà nước về thương mại các cấp và cơ chế thực hiện
những thẩm quyền đó. Như vậy, suy cho cùng, phân cấp quản lý nhà
nước về thương mại bao gồm các nội dung cụ thể như sau:
- Xác định những thẩm quyền đặc biệt của Trung ương trong việc
quản lý nhà nước về thương mại đối với những nội dung, lĩnh vực hoạt
động thương mại cụ thể nhằm bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà
nước; Các loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt, nhạy cảm; những lĩnh vực

74
thương mại trên các địa bàn trọng yếu; những liên kết, hội nhập kinh tế
tầm chiến lược quốc gia là những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định
của Trung ương.
- Xác định những thẩm quyền riêng của từng cấp chính quyền trong
quản lý thương mại theo hiệu quả và sự tối ưu mà cấp đó có khả năng đạt
được mục tiêu và nhiệm vụ quản lý được giao.
- Xác định thẩm quyền chung của hai (hoặc một số) cấp chính quyền
và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện thẩm quyền chung đó trong quản
lý thương mại. Thực tiễn quản lý nhà nước về thương mại cho thấy
không loại trừ sự tác động của một số chủ thể lên cùng một đối tượng và
khách thể quản lý. Trong trường hợp này, không nên tuyệt đối hoá việc
phân định thẩm quyền theo nghĩa “mỗi việc chỉ do một chủ thể đảm
nhiệm”. Vấn đề đặt ra là cần xác định phạm vi trách nhiệm của mỗi chủ
thể “đồng quản lý” và có cơ chế quản lý thích hợp.
- Quy định các điều kiện về tài chính, tổ chức, nhân sự để bảo đảm
thực hiện thẩm quyền được phân định, đặc biệt là những thẩm quyền mới
được chuyển giao cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại theo
phân cấp.
- Xác định cơ chế giám sát, kiểm tra việc thực hiện thẩm quyền và
coi đó là kết quả của phân cấp quản lý nhà nước về thương mại.
Ở nước ta, việc phân cấp quản lý thương mại phải dựa vào Luật tổ
chức Chính phủ và các văn bản pháp luật khác có liên quan quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ngành
(Bộ Công Thương) cũng như của cơ quan chuyên môn (Sở Công
Thương) thuộc UBND cấp tỉnh và (Phòng Công Thương) thuộc UBND
cấp huyện. Phân cấp phải đảm bảo thực hiện tốt nhất nhiệm vụ quản lý
nhà nước về thương mại trên cơ sở phát huy tối đa điều kiện, khả năng
của mỗi cơ quan, mỗi cấp. Trong đó, Trung ương thực hiện việc quản lý
vĩ mô về thương mại của cả nước, địa phương quản lý thương mại trên
phạm vi địa bàn lãnh thổ theo phân cấp.

75
Có thể khái quát việc phân cấp quản lý nhà nước về thương mại ở
nước ta theo mô hình tổ chức quản lý sau:

CHÍNH PHỦ

Bộ Công Thương,
các Bộ, cơ quan
ngang Bộ liên quan
UBND Tỉnh/Thành phố
(trực thuộc TW)

Sở Công Thương

UBND Huyện/Quận/
Thị xã/Thành phố
(trực thuộc tỉnh)

Phòng Công Thương

UBND Xã/Phường/
Thị trấn

Mô hình: HỆ THỐNG TỐ CHỨC QUẢN LÝ THƯƠNG MẠI

4.1.2. Chính phủ


Ở nước ta, theo Hiến pháp 2013 (Chương VII, Điều 94), Chính phủ
của Nhà nước Việt Nam được định nghĩa: “Là cơ quan hành chính Nhà

76
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”[1]. Chính phủ là
một thiết chế chính trị và hành chính Nhà nước nắm quyền hành pháp,
với các chức năng cơ bản là: Thống nhất việc quản lý thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại của Nhà nước; Quyền lập quy để thực hiện các luật do quyền lập
pháp định ra; Quyền quản lý các công việc hàng ngày của Nhà nước;
Quyền tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước và quản lý nhân sự của bộ
máy đó; Chức năng tham gia quá trình lập pháp.
Cơ cấu Chính phủ gồm có: Thủ tướng Chính phủ; Các Phó Thủ
tướng; Các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Ở lĩnh vực quản lý kinh tế, trong đó có thương mại, Chính phủ có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN;
Củng cố và phát triển kinh tế Nhà nước, nhất là những ngành và lĩnh vực
then chốt để đảm bảo vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân; Củng
cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả; Tạo điều kiện để
các thành phần kinh tế khác phát triển;
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, 5 năm, hàng
năm trình Quốc hội; Chỉ đạo thực hiện các kế hoạch đó;
- Lập dự toán ngân sách Nhà nước, phân bố ngân sách Nhà nước và
quyết toán ngân sách Nhà nước hàng năm trình Quốc hội; Tổ chức và
điều hành thực hiện ngân sách Nhà nước được Quốc hội quyết định;
- Quyết định chính sách cụ thể, các biện pháp tài chính, tiền tệ, tiền
lương, giá cả;
- Thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu
Nhà nước, tài nguyên quốc gia; thực hành chính sách tiết kiệm;
- Thi hành chính sách bảo vệ, cải tạo, tái sinh và sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên;

77
- Thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát
triển các hình thức quan hệ kinh tế với các quốc gia, tổ chức quốc tế trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, thúc đẩy sản xuất
trong nước, bảo hộ hàng nội địa;
- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê Nhà nước.

4.1.3. Các cơ quan của Chính phủ


Các cơ quan của Chính phủ bao gồm các bộ và cơ quan ngang bộ.
Các cơ quan của Chính phủ gọi tắt là bộ. Bộ là cơ quan nhà nước ở
Trung ương của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện chức năng, nhiệm
vụ quản lý Nhà nước thống nhất đối với ngành hay lĩnh vực trên phạm vi
cả nước.
Có thể chia ra 2 nhóm bộ: Bộ quản lý ngành và bộ quản lý lĩnh vực.
- Bộ quản lý ngành: là cơ quan quản lý nhà nước Trung ương của
Chính phủ theo từng ngành kinh tế, kỹ thuật,... riêng biệt, cụ thể. Ví dụ:
Bộ Thương mại (trước đây) quản lý ngành Thương mại; Bộ Xây dựng
quản lý ngành Xây dựng;.... Tuy nhiên, thực tế hiện nay do cơ cấu lại bộ
máy tổ chức, một bộ có thể quản lý một số ngành, như Bộ Công Thương
quản lý ngành Công nghiệp và Thương mại; Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn quản lý ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản và
một số bộ quản lý đa ngành khác.
- Bộ quản lý lĩnh vực (Bộ chức năng cơ bản): Đó là cơ quan quản lý
nhà nước Trung ương của Chính phủ theo từng lĩnh vực lớn, có tính tổng
hợp như: Kế hoạch - Đầu tư; Tài chính - Tiền tệ; Khoa học - Công nghệ;
Lao động - các vấn đề xã hội.... Các lĩnh vực này liên quan đến hoạt động
của tất cả các bộ, các cấp quản lý nhà nước, các tổ chức trong xã hội và
công dân. Bộ quản lý lĩnh vực có trách nhiệm giúp Chính phủ nghiên cứu
và xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội chung, xây dựng các dự án kế
hoạch tổng hợp và cân đối liên ngành, xây dựng các quy định chính sách,
chế độ chung.

78
4.1.4. Bộ quản lý ngành
Bộ quản lý ngành Thương mại là cơ quan của Chính phủ thực hiện
việc thống nhất quản lý nhà nước về thương mại trong phạm vi cả nước.
Ở nước ta hiện nay, Bộ quản lý ngành Thương mại là Bộ Công Thương.
Bộ Công Thương có chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp và
thương mại. Đối với quản lý nhà nước về lĩnh vực thương mại, Bộ có
chức năng quản lý thương mại và thị trường trong nước, xuất nhập khẩu,
thương mại biên giới, phát triển thị trường ngoài nước, quản lý thị
trường, xúc tiến thương mại, thương mại điện tử, dịch vụ thương mại, hội
nhập kinh tế quốc tế, quản lý cạnh tranh, áp dụng các biện pháp tự vệ,
chống bán phá giá, chống trợ cấp và quản lý dịch vụ công trong ngành,
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Về nhiệm vụ và quyền hạn, theo quy định của Chính phủ tại Nghị
định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công
Thương [3], được cụ thể như sau:
1. Trình Chính phủ các dự án Luật, Pháp lệnh, các dự thảo Nghị
quyết, Nghị định, cơ chế, chính sách, dự án, đề án, văn bản quy phạm
pháp luật khác về ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo
phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
2. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực
hiện chiến lược, quy hoạch phát triển tổng thể; chiến lược, quy hoạch
ngành; quy hoạch vùng, lãnh thổ và các chương trình phát triển, chương
trình mục tiêu quốc gia, chương trình kinh tế - kỹ thuật, các dự án quan
trọng thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực do Bộ quản lý.
3. Phê duyệt chiến lược, quy hoạch, chương trình phát triển ngành
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, các dự án đầu tư theo phân cấp
và ủy quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm tra, hướng dẫn
việc thực hiện sau khi được phê duyệt.

79
4. Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị và các văn bản khác về
quản lý nhà nước đối với ngành do Bộ quản lý; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi
quản lý của Bộ; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
thương mại.
5. Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia, định mức kinh tế - kỹ thuật trong ngành thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ; tổ chức quản lý, hướng dẫn, kiểm tra đối với ngành nghề
kinh doanh có điều kiện thuộc ngành thương mại theo danh mục do
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định.
6. Cấp, điều chỉnh, thu hồi, gia hạn giấy phép, giấy chứng nhận kinh
doanh có điều kiện thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy
định của pháp luật.
7. Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan xây dựng
kế hoạch dự trữ quốc gia về xăng dầu, vật liệu nổ công nghiệp và các dự
trữ khác theo quy định của Chính phủ.
8. Về thương mại địa phương:
a) Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển thương mại địa phương trong phạm vi cả nước; hướng dẫn triển
khai sau khi được phê duyệt;
b) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy chế quản lý, quy hoạch
phát triển thương mại trên phạm vi cả nước;
c) Tổ chức phổ biến kinh nghiệm về quản lý, áp dụng khoa học công
nghệ, đầu tư, đào tạo, cung cấp thông tin, triển lãm, hội chợ, quảng bá
sản phẩm cho các cơ sở kinh doanh thương mại ở địa phương;
d) Tổng hợp chung về phát triển thương mại địa phương trong phạm
vi cả nước.

80
9. Về thương mại và thị trường trong nước:
a) Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về phát triển thương
mại và thị trường trong nước; về bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, các
mặt hàng thiết yếu cho miền núi, hải đảo, đồng bào dân tộc theo quy định
của pháp luật; về phương thức giao dịch và loại hình kinh doanh theo
quy định của pháp luật;
b) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành chỉ đạo, điều tiết lưu thông
hàng hóa trong từng thời kỳ, thúc đẩy phát triển thương mại và thị trường
trong nước (bao gồm cả thị trường hàng hóa và dịch vụ thương mại có
liên quan);
c) Theo dõi, kiểm tra hoạt động thương mại và thị trường trong nước
trên phạm vi cả nước đối với hàng hóa, dịch vụ thương mại.
10. Về xuất nhập khẩu hàng hoá, thương mại biên giới và phát triển
thị trường ngoài nước:
a) Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu hàng
hoá, thương mại biên giới và phát triển thị trường ngoài nước;
b) Quản lý về xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái
nhập, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hoá, thương mại biên giới, hoạt động
ủy thác, uỷ thác xuất khẩu, uỷ thác nhập khẩu, đại lý mua bán, gia công,
xuất xứ hàng hoá;
c) Ban hành các quy định về hoạt động dịch vụ thương mại, dịch vụ
phân phối từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài; quản
lý hoạt động của các văn phòng, chi nhánh của thương nhân nước ngoài
tại Việt Nam theo quy định của pháp luật;
d) Tổng hợp tình hình, kế hoạch xuất nhập khẩu hàng hoá và thương
mại biên giới theo quy định của pháp luật.

81
11. Về thương mại điện tử
a) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình cấp có thẩm
quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền kế hoạch, chương trình
phát triển thương mại điện tử; kiểm tra, hướng dẫn triển khai sau khi
được phê duyệt;
b) Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền cơ chế khuyến khích, hỗ trợ và định hướng phát triển thương
mại điện tử.
12. Về quản lý thị trường:
a) Hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định của
pháp luật về kinh doanh, lưu thông hàng hoá, các hoạt động thương mại
trên thị trường, hàng hoá và hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ
thương mại; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định;
b) Kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hoá công nghiệp lưu thông
trên thị trường; phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc kiểm
tra, kiểm soát việc thực hiện quản lý an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực
được phân công theo quy định của pháp luật;
c) Chủ trì, phối hợp hoạt động với các ngành, địa phương trong việc
chống đầu cơ, buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng cấm,
gian lận thương mại và các hành vi kinh doanh khác trái quy định của
pháp luật.
13. Về quản lý cạnh tranh, phòng vệ thương mại và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng:
a) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức
thực hiện các quy định về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp;
đề xuất áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại và các biện pháp tự
vệ đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngoài, hàng hoá
nhập khẩu của nước ngoài vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng theo quy định của pháp luật;

82
b) Tổ chức điều tra, xử lý, giải quyết khiếu nại các vụ việc cạnh
tranh; chuyển cơ quan có thẩm quyền về xử lý các vụ việc vi phạm Luật
Cạnh tranh theo quy định của pháp luật;
c) Tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách, các quy định về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.
14. Về xúc tiến thương mại:
a) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng kế
hoạch, chương trình xúc tiến thương mại quốc gia hàng năm và tổ chức,
hướng dẫn, kiểm tra theo quy định của pháp luật;
b) Hướng dẫn, kiểm tra về nội dung, điều kiện hoạt động quảng cáo
thương mại, thương hiệu, hội chợ, triển lãm thương mại, khuyến mại,
trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ ở trong và ngoài nước theo quy
định của pháp luật;
c) Quản lý nguồn ngân sách nhà nước cho các hoạt động xúc tiến
thương mại hàng năm;
d) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan thực hiện
Chương trình Thương hiệu quốc gia theo quy định của pháp luật.
15. Về hội nhập kinh tế quốc tế:
a) Xây dựng, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách hội nhập kinh tế
quốc tế; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra việc thực
hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;
b) Tổng hợp, xây dựng phương án và tổ chức nghiên cứu, đề xuất
đàm phán, ký hoặc gia nhập các điều ước quốc tế song phương, đa
phương hoặc khu vực về thương mại trong phạm vi thẩm quyền theo quy
định của pháp luật; đàm phán các thoả thuận thương mại tự do; đàm phán
các hiệp định hợp tác kinh tế quốc tế, các thoả thuận mở rộng thị trường
giữa Việt Nam với các nước, các khối nước hoặc vùng lãnh thổ;
c) Đại diện lợi ích kinh tế quốc tế của Việt Nam, đề xuất phương án
và tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan đến kinh tế và thương

83
mại quốc tế của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và
các tổ chức, diễn đàn kinh tế quốc tế khác theo phân công của Thủ tướng
Chính phủ.
16. Hướng dẫn hoạt động thương mại của các thương nhân Việt
Nam ở nước ngoài, các tổ chức xúc tiến thương mại, trung tâm giới thiệu
sản phẩm hàng hóa ở nước ngoài có sự tham gia của thương nhân và cơ
quan nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật; phối hợp với Bộ
Ngoại giao quản lý công tác chuyên môn của bộ phận làm công tác kinh
tế, thương mại tại các Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.
17. Tổng hợp, phân tích và cung cấp thông tin về thương mại, thị
trường, thương nhân trong và ngoài nước phục vụ các cơ quan Đảng,
Nhà nước và các tổ chức kinh tế.
18. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại theo quy
định của pháp luật; làm đầu mối tổng hợp và báo cáo về sử dụng nguồn
vốn ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành thương mại,
đầu tư của ngành thương mại ra nước ngoài.
19. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
lộ trình phát triển khoa học công nghệ của ngành; tổ chức thực hiện các
hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ
về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
20. Về dịch vụ công:
a) Quản lý nhà nước các dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;
b) Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn, quy trình, quy chuẩn, định mức
kinh tế - kỹ thuật đối với hoạt động tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc
ngành, lĩnh vực;

84
c) Hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức thực hiện dịch vụ công theo quy
định của pháp luật.
21. Thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp khác theo quy định của pháp luật.
22. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đối với hội, các tổ chức phi
Chính phủ thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của
pháp luật.
23. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực và xử lý vi phạm pháp luật theo chức năng quản lý
nhà nước của Bộ.
24. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành
chính của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành
chính nhà nước đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
25. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên
chức; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ,
khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi
quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
26. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân
sách được phân bổ theo quy định của pháp luật.
27. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ giao và theo quy định của pháp luật.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy Bộ Công Thương, hình thành những bộ
phận chức năng giúp lãnh đạo Bộ quản lý ngành theo các khối: Đơn vị
quản lý nhà nước, thương vụ và đơn vị sự nghiệp, được thể hiện ở sơ đồ
dưới đây:

85
LÃNH ĐẠO BỘ

Đơn vị quản lý nhà nước Thương vụ Đơn vị sự nghiệp

Khối Thị trường CA-TBD - Khối Viện


Khối Thị trường châu Âu - Khối Trường
Khối vụ
Khối Thị trường châu Mỹ - Khối Trung tâm
Khối Tổng cục, Cục
Khối Thị trường châu Phi, - Khối Đơn vị
Tây Á, Nam Á báo chí

Sơ đồ: TỔ CHỨC BỘ CÔNG THƯƠNG

4.1.5. UBND các cấp


UBND các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước về thương mại trên
địa bàn lãnh thổ địa phương theo quy định của pháp luật, sự phân cấp của
Chính phủ.
Quản lý nhà nước về thương mại tại địa phương ở nước ta hiện nay
có 2 cấp: 1) Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh);
2) Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh hoặc thành phố (gọi
chung là huyện) theo Thông tư Liên tịch số 07/2008/TTLT-BCT-BNV
ngày 28/05/2008 của Bộ Công Thương và Nội vụ Hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về công
thương thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện [6]. Tại mỗi cấp, UBND là cơ
quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thương mại tại địa
phương cấp đó. Giúp việc cho UBND các cấp trong việc quản lý nhà
nước về thương mại có các cơ quan chuyên môn về công thương. Cụ thể:

86
a. Quản lý nhà nước về thương mại ở cấp tỉnh:
Chức năng của Sở Công Thương:
Sở Công Thương là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, có chức
năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về công nghiệp và thương mại trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Đối với quản lý nhà nước về lĩnh vực thương mại, Sở Công Thương có
chức năng quản lý lưu thông hàng hóa trên địa bàn tỉnh, xuất nhập khẩu,
xúc tiến thương mại, quản lý thị trường, quản lý cạnh tranh, bảo vệ người
tiêu dùng, dịch vụ thương mại, thương mại điện tử, hội nhập và dịch vụ
công thuộc phạm vi quản lý của Sở.
Sở Công Thương chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp về hoạt động,
tổ chức và biên chế của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra
và hướng dẫn của Bộ Công Thương về chuyên môn, nghiệp vụ.
Sở Công Thương là một cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành
công nghiệp và thương mại, có vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý
kinh tế tại địa phương. Hoạt động quản lý nhà nước của Sở Công Thương
cùng với quản lý các ngành khác có vai trò thúc đẩy kinh tế - xã hội địa
phương phát triển, góp phần hình thành các loại thị trường, thúc đẩy
chuyển dịch và hoàn thiện cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Sở Công Thương đối với quản lý
thương mại:
1. Trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh:
a) Dự thảo quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm; chủ
trương, chính sách, chương trình, biện pháp, quy định cụ thể về phát triển
ngành thương mại trên địa bàn;
b) Dự thảo các quyết định, chỉ thị thuộc thẩm quyền ban hành của
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực thương mại;
c) Dự thảo quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Chi cục Quản lý thị trường theo quy định của Chính phủ,

87
hướng dẫn của Bộ Công Thương và các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền;
d) Dự thảo quy định về tiêu chuẩn chức danh đối với trưởng, phó các
đơn vị thuộc Sở Công Thương; tham gia dự thảo quy định tiêu chuẩn
chức danh lãnh đạo phụ trách lĩnh vực công thương của Phòng Công
Thương thuộc Ủy ban nhân dân huyện, Phòng Kinh tế thuộc Ủy ban
nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
2. Trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh:
a) Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể các đơn vị thuộc
Sở Công Thương quản lý thương mại theo quy định của pháp luật;
b) Dự thảo các quyết định, chỉ thị cá biệt thuộc thẩm quyền ban hành
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực thương mại.
3. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình và các quy
định về phát triển thương mại sau khi được phê duyệt; thông tin, tuyên
truyền, hướng dẫn, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh vực thương mại.
4. Giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thẩm định thiết kế cơ sở các dự án
đầu tư xây dựng các công trình phát triển ngành thương mại trên địa bàn
tỉnh theo phân cấp; thẩm định, cấp, sửa đổi, bổ sung, gia hạn và thu hồi
các loại giấy phép, chứng nhận kinh doanh thuộc phạm vi trách nhiệm
quản lý của Sở Công Thương theo quy định của pháp luật, sự phân công
hoặc uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
5. Về thương mại nội địa:
- Tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính
sách phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng thương mại bán buôn, bán lẻ,
bao gồm: các loại hình chợ, các trung tâm thương mại, hệ thống các siêu
thị, hệ thống các cửa hàng, hợp tác xã thương mại, dịch vụ thương mại;
hệ thống đại lý thương mại, nhượng quyền thương mại và các loại hình
kết cấu hạ tầng thương mại khác;

88
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan hướng dẫn và tổ
chức thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích mở rộng mạng lưới kinh
doanh, phát triển các tổ chức liên kết lưu thông hàng hoá, hình thành các
kênh lưu thông hàng hoá ổn định từ sản xuất đến tiêu dùng trên địa
bàn tỉnh;
- Triển khai thực hiện cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ
trợ sản xuất, kinh doanh và đời sống đối với đồng bào dân tộc miền núi,
vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh (như cung cấp các mặt hàng thiết
yếu, hỗ trợ lưu thông hàng hoá và dịch vụ thương mại...);
- Tổng hợp và xử lý các thông tin thị trường trên địa bàn tỉnh về tổng
mức lưu chuyển hàng hoá, tổng cung, tổng cầu, mức dự trữ lưu thông và
biến động giá cả của các mặt hàng thiết yếu, các mặt hàng chính sách đối
với đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đề xuất với cấp có
thẩm quyền giải pháp điều tiết lưu thông hàng hóa trong từng thời kỳ.
6. Về xuất nhập khẩu:
- Tổ chức thực hiện các chính sách, kế hoạch, chương trình, đề án
phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá; phát triển dịch vụ xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hoá trên địa bàn tỉnh;
- Quản lý hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thương nhân nước
ngoài không có đại diện tại Việt Nam trên địa bàn tỉnh.
7. Về thương mại biên giới (đối với các tỉnh có biên giới):
- Tổ chức thực hiện các chính sách phát triển thương mại biên giới,
bao gồm: buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch và buôn bán qua
biên giới của thương nhân trên địa bàn;
- Phối hợp cơ quan có liên quan tổng hợp tình hình hoạt động các
khu kinh tế cửa khẩu; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, biện pháp
đẩy mạnh thương mại biên giới cho phù hợp với thực tế trên địa bàn.

89
8. Về thương mại điện tử:
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng hạ tầng
ứng dụng thương mại điện tử trên địa bàn tỉnh;
- Tổ chức triển khai thực hiện chính sách, kế hoạch, chương trình bồi
dưỡng, phát triển nguồn nhân lực phục vụ quản lý thương mại điện tử
trên địa bàn.
9. Về xúc tiến thương mại:
- Tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch, đề án xúc tiến thương
mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
xây dựng và phát triển thương hiệu hàng Việt Nam;
- Tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc đăng ký tổ chức hội
chợ, triển lãm thương mại, khuyến mại cho các thương nhân.
10. Về quản lý thị trường:
- Tổ chức thực hiện công tác quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh theo
quy định của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Công Thương và các cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền;
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực công
thương của các tổ chức, cá nhân kinh doanh trên địa bàn tỉnh; thực hiện
thanh tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật;
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan đấu tranh chống
buôn lậu, buôn bán hàng nhập lậu, hàng cấm, chống sản xuất và buôn
bán hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng vi phạm quy định về sở hữu trí
tuệ; chống các hành vi đầu cơ, lũng đoạn thị trường, gian lận thương mại
của các tổ chức, cá nhân kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
11. Về cạnh tranh, chống độc quyền, chống bán phá giá và chống trợ
cấp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:
- Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về
cạnh tranh, chống độc quyền, chống bán phá giá; chống trợ cấp, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh

90
trên địa bàn tỉnh. Đề xuất với các cơ quan có liên quan sửa đổi bổ sung
các quy định, những văn bản đã ban hành không phù hợp với pháp luật
cạnh tranh;
- Được yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan trong tỉnh, cung cấp
thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ được giao về quy
định của pháp luật về cạnh tranh, chống độc quyền, chống bán phá giá và
chống trợ cấp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
- Thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu, quản lý, cung cấp thông tin về
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường, các doanh nghiệp độc
quyền có trụ sở chính trên địa bàn tỉnh; về các quy tắc cạnh tranh trong
hiệp hội; về các trường hợp miễn trừ.
12. Về hội nhập kinh tế:
- Triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình, biện pháp cụ thể về hội
nhập kinh tế, thương mại quốc tế trên địa bàn tỉnh sau khi được phê duyệt;
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan phổ biến, tuyên
truyền, hướng dẫn thực hiện kế hoạch, chương trình, các quy định về hội
nhập kinh tế, thương mại quốc tế của địa phương.
13. Giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; hướng dẫn và
kiểm tra hoạt động các hội, hiệp hội và tổ chức phi chính phủ trong lĩnh
vực thương mại ở địa phương theo quy định của pháp luật.
14. Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Công Thương quản lý
theo quy định của pháp luật.
15. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại theo quy
định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
16. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ thuộc lĩnh vực thương mại
đối với các Phòng Công Thương thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, Phòng
Kinh tế thuộc Uỷ ban nhân dân quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

91
17. Tổ chức thực hiện kế hoạch nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ trong thương mại thuộc phạm vi quản lý của Sở; hướng
dẫn thực hiện các tiêu chuẩn, quy phạm, định mức kinh tế - kỹ thuật, chất
lượng sản phẩm; xây dựng hệ thống thông tin lưu trữ, cung cấp tư liệu về
thương mại theo quy định của pháp luật.
18. Triển khai thực hiện chương trình cải cách hành chính của Sở
theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính của Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh.
19. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo;
phòng chống tham nhũng, tiêu cực; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong lĩnh vực thương mại theo quy định của pháp luật hoặc theo sự phân
công, phân cấp của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
20. Tổ chức thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực công thương
thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật.
21. Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối
quan hệ công tác của các tổ chức, đơn vị sự nghiệp thuộc Sở; quản lý
biên chế, thực hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, đào
tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên
chức thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật và phân
cấp của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
22. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân
sách được phân bổ theo quy định của pháp luật và phân cấp của Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh.
23. Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình
hình thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án phát triển lĩnh vực
thương mại tại địa phương theo quy định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
và Bộ Công Thương.
24. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao
và theo quy định của pháp luật.

92
Cơ cấu tổ chức bộ máy Sở Công Thương
1. Lãnh đạo Sở:
a) Sở Công Thương có 1 Giám đốc và không quá 3 Phó Giám đốc;
đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh không quá 4 Phó
Giám đốc.
b) Giám đốc Sở là người đứng đầu Sở, chịu trách nhiệm trước Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và trước pháp
luật về toàn bộ hoạt động của Sở.
c) Phó Giám đốc Sở là người giúp Giám đốc Sở, chịu trách nhiệm
trước Giám đốc Sở và trước pháp luật về các nhiệm vụ được phân công;
khi Giám đốc Sở vắng mặt, một phó giám đốc Sở được Giám đốc uỷ
nhiệm điều hành các hoạt động của Sở.
d) Việc bổ nhiệm Giám đốc và Phó Giám đốc Sở do Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ
do Bộ Công Thương ban hành và theo quy định của pháp luật. Việc miễn
nhiệm, cách chức, khen thưởng, kỷ luật và các chế độ chính sách khác
đối với Giám đốc và Phó Giám đốc Sở thực hiện theo quy định của
pháp luật.
2. Cơ cấu tổ chức:
a) Các tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Công Thương:
- Các tổ chức được thành lập thống nhất ở các Sở Công Thương,
gồm: Văn phòng, Thanh tra, Phòng Kế hoạch - Tài chính; Việc thành lập
Phòng Tổ chức cán bộ thuộc Sở hoặc bộ phận tổ chức cán bộ thuộc Văn
phòng Sở do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
- Các tổ chức được thành lập phù hợp với đặc điểm của từng địa
phương, bao gồm: Phòng Quản lý công nghiệp; Phòng Quản lý thương
mại; Phòng Kỹ thuật an toàn - Môi trường; Phòng Quản lý điện năng
hoặc phòng có tên gọi khác.

93
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm, yêu cầu quản lý cụ thể đối với ngành
công thương tại địa phương, Giám đốc Sở Công Thương chủ trì, phối
hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết
định cụ thể tên gọi và số lượng các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
Sở; nhưng số lượng phòng, Văn phòng, Thanh tra không quá 08 đối với
các tỉnh và không quá 09 đối với thành phố trực thuộc Trung ương.
b) Chi cục trực thuộc Sở Công Thương:
- Chi cục Quản lý thị trường.
Chi cục Quản lý thị trường có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài
khoản riêng và có các đội Quản lý thị trường trực thuộc do Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định theo quy định của pháp luật.
c) Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Công Thương:
- Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp;
- Trung tâm Xúc tiến thương mại.
Các tổ chức sự nghiệp nêu trên và các tổ chức sự nghiệp khác (nếu
có) trực thuộc Sở do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo quy định
của pháp luật.
b. Quản lý nhà nước về thương mại ở cấp huyện:
Chức năng Phòng Công Thương
Phòng Công Thương là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, có
chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về
thương mại trên địa bàn. Phòng Công Thương chịu sự quản lý trực tiếp
của UBND cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra
của Sở Công Thương về chuyên môn, nghiệp vụ.
Nhiệm vụ và quyền hạn
1. Trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện dự thảo quyết định, chỉ thị; quy
hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về phát triển công thương

94
trên địa bàn; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải
cách hành chính thuộc lĩnh vực công thương.
2. Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện dự thảo các văn bản
về lĩnh vực công thương thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện.
3. Giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện và chịu trách nhiệm
về việc thẩm định, đăng ký, cấp các loại giấy phép thuộc phạm vi trách
nhiệm và thẩm quyền của Phòng theo quy định của pháp luật và theo
phân công của Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
4. Giúp Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước đối với tổ
chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; hướng dẫn và kiểm tra hoạt động
của các hội và tổ chức phi chính phủ trên địa bàn thuộc lĩnh vực công
thương theo quy định của pháp luật.
5. Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sau
khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về lĩnh vực công thương.
6. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về công thương cho cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn.
7. Tổ chức triển khai, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây
dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và
chuyên môn nghiệp vụ của Phòng.
8. Thực hiện công tác thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình
hình thực hiện nhiệm vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh của ngành công
thương theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Sở Công Thương.
9. Tổ chức, hướng dẫn và thực hiện chính sách khuyến khích các tổ
chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân đầu tư phát triển công nghiệp, mở
rộng sản xuất - kinh doanh; tổ chức các hoạt động dịch vụ tư vấn chuyển
giao công nghệ, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại và đào tạo
nguồn nhân lực cho các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc lĩnh vực
công thương.

95
10. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, thanh tra
việc thi hành pháp luật về hoạt động công thương trên địa bàn; giải quyết
khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong hoạt động
công thương trên địa bàn theo quy định của pháp luật và phân cấp của Uỷ
ban nhân dân cấp huyện.
11. Quản lý biên chế, thực hiện chế độ, chính sách, chế độ đãi ngộ,
khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ
đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc Phòng
theo quy định của pháp luật và theo phân công của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện.
12. Quản lý tài chính, tài sản của Phòng theo quy định của pháp luật
và phân cấp của Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
13. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Uỷ ban nhân dân cấp huyện
giao và theo quy định của pháp luật.
Đối với cấp xã/phường, hiện nay không tổ chức cơ quan chuyên
môn quản lý thương mại, chỉ có cán bộ phụ trách thuộc UBND xã. Chức
năng quản lý thương mại trên địa bàn thuộc UBND Xã theo sự chỉ đạo
của UBND Huyện và hướng dẫn, kiểm tra của Phòng Công Thương. Tuy
nhiên, ngày nay với việc Nhà nước đẩy mạnh sự phân cấp quản lý nhà
nước về địa phương, đặc biệt là chính quyền cơ sở, quản lý cấp
xã/phường ngày càng có vị trí quan trọng, như vấn đề giải toả các chợ
cóc, chợ hẻm, sắp xếp các hộ kinh doanh theo quy hoạch và thúc đẩy các
hoạt động thương mại dịch vụ phát triển.
Với vai trò là chính quyền cơ sở, quản lý thương mại cấp xã phải
đảm bảo thực thi có hiệu quả những chủ trương, chính sách, kế hoạch,
quy hoạch của cấp huyện, tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân được
quyền kinh doanh. Nhiệm vụ của quản lý hoạt động thương mại trên địa
bàn xã tập trung vào quản lý các chợ loại 3, các thương nhân kinh doanh
tại chợ, các hộ kinh doanh cá thể (không đăng ký kinh doanh).

96
4.2. HỆ THỐNG TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CHUYÊN
NGÀNH THEO CÁC LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI
4.2.1. Đối với lĩnh vực thương mại hàng hoá
Hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này bao gồm
các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương và ở nước
ta hiện nay, ở Trung ương Bộ Công Thương là cơ quan quản quản lý
chuyên ngành của lĩnh vực thương mại hàng hóa của cả nước.
Về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Công Thương đã được nghiên cứu ở
tiểu mục 4.1.4. Bộ quản lý ngành.
Bên cạnh đó, đối với các hàng hóa đặc thù, Nhà nước giao cho Bộ
khác quản lý như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an,.. nhưng phải phối hợp
với Bộ Công Thương trong quản lý hoạt động xuất nhập khẩu cũng như
lưu thông trên thị trường trong nước.

4.2.2. Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ


Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ bao gồm có nhiều ngành dịch vụ,
như: Du lịch, Ngân hàng, Bưu chính - Viễn thông... Thông thường, với
mỗi ngành đều do một Bộ chuyên ngành quản lý. Ví dụ như ở nước ta
hiện nay: Ngành Bưu chính - Viễn thông thuộc Bộ Thông tin và Truyền
thông quản lý, Ngành Du lịch thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quản lý, Ngành Ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước quản lý,...
Cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực dịch vụ liên quan đến
thương mại ở nước ta bao gồm: Chính phủ, các Bộ (trong đó có các Bộ
quản lý ngành dịch vụ, Bộ Công Thương quản lý nhà nước về dịch vụ
phân phối và thương mại điện tử) và chính quyền các địa phương. Tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ được
hình thành thống nhất từ Trung ương đến địa phương với chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn tương ứng với từng cơ quan và các cấp quản lý
theo quy định của pháp luật.

97
Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ, ngoài thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về dịch vụ phân phối và thương mại điện tử, Bộ Công
Thương phải phối hợp các bộ ngành khác quản lý nhà nước về dịch vụ
khi cung ứng trên thị trường theo quy định của pháp luật như vấn đề
quản lý, kiểm soát giá, chất lượng dịch vụ cung ứng, quản lý các hoạt
động về quảng cáo, vấn đề đàm phán mở cửa thị trường,...
Các Bộ quản lý chuyên ngành dịch vụ có trách nhiệm chỉ đạo toàn
diện các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp, hoạt động kinh doanh
thuộc ngành về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Ví dụ ở nước
ta, đối với ngành Du lịch, Bộ quản lý chuyên ngành là Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch thực hiện quản lý nhà nước đối với ngành theo các nội
dung sau:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
và chính sách phát triển du lịch.
2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động du lịch.
3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch.
4. Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
5. Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch để xây dựng quy
hoạch phát triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du
lịch, đô thị du lịch.
6. Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt động xúc tiến
du lịch ở trong nước và nước ngoài.
7. Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, sự phối
hợp của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước về du lịch.
8. Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động du lịch.
9. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về du lịch.

98
4.2.3. Bộ máy quản lý thị trường
Bộ máy thanh tra thương mại và quản lý thị trường có chức năng
thanh tra, kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm
pháp luật trong hoạt động thương mại ở thị trường trong nước.
Bộ Công Thương chịu trách nhiệm trước Chính phủ lãnh đạo, quản
lý thống nhất lực lượng quản lý thị trường bảo đảm thực hiện tốt chức
năng nhiệm vụ được giao.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý
và chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của lực lượng quản lý thị trường ở địa
phương, đảm bảo việc thi hành pháp luật trong hoạt động thương mại
trên địa bàn tỉnh.
Hệ thống tổ chức quản lý thị trường gồm có:
- Ở cấp Trung ương: Cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Công
Thương.
- Ở cấp tỉnh: Chi cục quản lý thị trường trực thuộc Sở Công Thương.
- Ở cấp huyện, theo yêu cầu cụ thể trên từng địa bàn, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh quyết định việc thành lập các đội quản lý thị trường
trực thuộc Chi cục hoạt động trên địa bàn huyện hoặc liên tỉnh.
Trong bộ máy quản lý thị trường, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục
quản lý thị trường và Chi cục quản lý thị trường bao gồm những nội
dung sau:
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý thị trường (theo Quyết
định số 907/QĐ-BCT của Bộ Công Thương ngày 06/02/2013 về Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý
thị trường thuộc Bộ Công Thương)[4] bao gồm các nội dung sau:
1. Trình Bộ trưởng để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt hoặc ban hành dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ, dự
thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về công tác kiểm tra,

99
kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt
động thương mại theo quy định của pháp luật ở thị trường trong nước.
2. Trình Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền hoặc để Bộ trưởng
trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách, chiến lược phát triển,
chương trình, đề án, dự án, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng
năm về công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các hành
vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp
luật ở thị trường trong nước.
3. Giúp Bộ trưởng chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chương trình, đề án, dự án về công tác kiểm tra, kiểm soát thị
trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương
mại theo quy định của pháp luật ở thị trường trong nước sau khi được
phê duyệt; tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về kiểm tra, kiểm
soát thị trường.
4. Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn chuyên môn,
nghiệp vụ về công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các
vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp
luật ở thị trường trong nước; các văn bản cá biệt, văn bản quy phạm nội
bộ theo quy định của pháp luật.
5. Xây dựng, quản lý và khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu về tình
hình vi phạm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong hoạt động thương
mại theo quy định của pháp luật ở thị trường trong nước; về hoạt động
kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm hành chính của lực lượng quản lý
thị trường cả nước; theo dõi, dự báo, đề xuất giải pháp phòng ngừa và
đấu tranh ngăn chặn.
6. Tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu
tranh chống các vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật.

100
a) Chỉ đạo, hướng dẫn lực lượng quản lý thị trường địa phương trong
công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm
pháp luật trong hoạt động thương mại ở thị trường trong nước và xử lý vi
phạm theo quy định của pháp luật;
b) Trực tiếp kiểm tra hoặc phối hợp với các cơ quan, các lực lượng
chức năng ở Trung ương, địa phương để kiểm tra, xử lý các vi phạm
pháp luật trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật ở thị
trường trong nước;
c) Phối hợp với các tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác đấu
tranh chống buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng kém chất
lượng; chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, vệ sinh an toàn thực phẩm và
các hoạt động sản xuất, kinh doanh khác trái quy định của pháp luật;
d) Thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thương mại, thanh tra
an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật.
7. Giúp Bộ trưởng chủ trì tổ chức sự phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan nhà nước ở các ngành, các cấp có chức năng quản lý thị trường,
chống đầu cơ, buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép; làm nhiệm
vụ cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả, gian lận
thương mại Trung ương.
8. Giúp Bộ trưởng quản lý tổ chức và xây dựng lực lượng quản lý thị
trường.
9. Chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục Quản lý thị trường địa phương thực
hiện chế độ thông tin, báo cáo về nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.
10. Hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của các hội ngành nghề trong
lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát thị trường theo phân cấp của Bộ và quy định
của pháp luật.
11. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn
về các văn bản quy phạm pháp luật và nghiệp vụ, chuyên môn về quản lý
thị trường cho công chức làm công tác quản lý thị trường.

101
12. Tổng hợp, lập báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất, đánh giá tình
hình hoạt động về kiểm tra, kiểm soát thị trường.
13. Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật liên quan đến
hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của Bộ.
14. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị
trường theo phân công của Bộ.
15. Xây dựng và thực hiện chương trình cải cách hành chính của
Cục theo mục tiêu và nội dung Chương trình cải cách hành chính của Bộ.
16. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, công chức, thực hiện chế độ
tiền lương và các chính sách, chế độ đãi ngộ về thi đua, khen thưởng, kỷ
luật, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với công chức thuộc Cục
theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ.
17. Quản lý tài chính, tài sản được giao, tổ chức thực hiện ngân sách
được phân bổ theo quy định của pháp luật.
18. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật và phân
cấp quản lý của Bộ.
19. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng giao và theo quy
định của pháp luật.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của Chi cục Quản lý thị trường các tỉnh.
Chi cục Quản lý thị trường các tỉnh giúp Giám đốc Sở Công Thương
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật
trong hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh giao. Cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của Chi cục Quản lý thị
trường bao gồm các nội dung như sau:
1. Kiểm tra việc thi hành pháp luật và các chính sách, chế độ, thể lệ
trong hoạt động công nghiệp, thương mại của tổ chức, cá nhân trên địa
bàn tỉnh, thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thương mại;

102
2. Đề xuất với Sở Công Thương và Ủy ban nhân dân tỉnh kế hoạch,
biện pháp về tổ chức thị trường, bảo đảm lưu thông hàng hóa theo pháp
luật, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động thương
mại, công nghiệp. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách và pháp
luật về thương mại, công nghiệp cho các tổ chức và cá nhân hoạt động
liên quan đến thương mại, công nghiệp trên địa bàn tỉnh;
3. Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc
ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác
quản lý thị trường;
4. Chỉ đạo các đội quản lý thị trường thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
kiểm soát thị trường; phát hiện hàng nhập lậu, hàng cấm, chống sản
xuất - buôn bán hàng giả và các hành vi kinh doanh trái phép khác;
5. Chỉ đạo các đội quản lý thị trường kiểm tra, phát hiện và xử lý các
vi phạm quy định về thương nhân và hoạt động thương mại theo Luật
Thương mại, bao gồm các nội dung và lĩnh vực:
a) Kinh doanh không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc
không đúng với nội dung ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
b) Hoạt động thương mại khi đã bị đình chỉ hoặc bị tước quyền;
c) Không có trụ sở hoặc cửa hàng, cửa hiệu thương mại; không có
biển hiệu hoặc biển hiệu trái với nội dung được ghi trong giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh;
d) Đặt văn phòng đại diện, chi nhánh không có giấy phép hoặc văn
phòng đại diện, chi nhánh hoạt động trái với nội dung được ghi trong
giấy phép;
e) Kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại mà pháp luật
cấm kinh doanh;

103
f) Vi phạm về điều kiện kinh doanh đối với những hàng hóa, dịch vụ
kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật;
g) Vi phạm các quy định của Nhà nước về thực hiện khung giá, mức
giá; niêm yết giá hàng hóa, giá dịch vụ thương mại;
h) Không thông tin đầy đủ về tính năng và công dụng của hàng hóa,
gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng;
i) Vi phạm các quy định về ghi nhãn hàng hóa;
k) Vi phạm các quy định của Nhà nước về khuyến mại, quảng cáo,
trưng bày giới thiệu hàng hóa, hội chợ, triển lãm thương mại;
l) Vi phạm các quy định về thực hiện chế độ hóa đơn, chứng từ trong
mua - bán và lưu thông hàng hóa;
m) Các hành vi gian lận, lừa dối khách hàng trong mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ thương mại;
n) Vi phạm các quy định của Nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa;
p) Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp;
q) Các hành vi chống kiểm soát viên thị trường đang thi hành công
vụ và các hành vi khác vi phạm pháp luật về thương mại.
6. Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra kiểm soát thị trường
từng thời kỳ báo cáo Sở Công Thương phê duyệt; tổ chức thực hiện kiểm
tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật thương mại đối với các tổ chức,
cá nhân kinh doanh; áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý các vi phạm
hành chính thuộc thẩm quyền của Chi cục, các vụ việc do các đội quản lý
thị trường chuyển lên, chịu trách nhiệm về các quyết định đó.
Đối với các vụ việc ngoài thẩm quyền thì Chi cục trưởng báo cáo
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc Cục trưởng Cục Quản lý thị trường
xử lý.

104
7. Trực tiếp điều hành, chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra hoạt động, kiểm
tra việc chấp hành quy chế công tác quản lý thị trường của các đội quản
lý thị trường và kiểm soát viên quản lý thị trường.
8. Thường trực giúp Giám đốc Sở chủ trì, phối hợp với các cơ quan
liên quan đấu tranh chống buôn lậu, buôn bán hàng nhập lậu, hàng cấm,
chống sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng vi
phạm quy định về sở hữu trí tuệ; chống các hành vi đầu cơ, lũng đoạn thị
trường, gian lận thương mại của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh;
9. Tiếp nhận và giải quyết theo thẩm quyền các đơn thư khiếu nại, tố
cáo về hoạt động kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính của các đội quản
lý thị trường và các hành vi vi phạm pháp luật của kiểm soát viên quản lý
thị trường;
10. Tổng hợp tình hình thực thi pháp luật trên thị trường và hoạt
động kiểm tra, kiểm soát thị trường trên địa bàn tỉnh; thực hiện công tác
thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định của Sở Công
Thương, Cục Quản lý thị trường và Ủy ban nhân dân tỉnh;
11. Quy định chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các
phòng chuyên môn, các đội quản lý thị trường thuộc Chi cục;
12. Quản lý và thực hiện các chế độ chính sách đối với công chức
của Chi cục theo sự phân cấp quản lý cán bộ; tổ chức bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho kiểm soát viên; quản lý tài chính, tài sản, ấn chỉ
được giao theo quy định; xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm các điều
kiện làm việc cần thiết cho hoạt động của toàn Chi cục và quản lý quỹ
chống các hành vi kinh doanh trái pháp luật của lực lượng quản lý thị
trường thuộc Chi cục;
13. Thực hiện các nhiệm vụ khác được Giám đốc Sở Công Thương
và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh giao.

105
4.3. CÔNG TÁC CÁN BỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
THƯƠNG MẠI
4.3.1. Vai trò của công tác cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý
nhà nước về thương mại
a. Đội ngũ cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về
thương mại
Cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước về thương mại là những cán
bộ (công chức, viên chức) làm việc trong lĩnh vực quản lý nhà nước về
thương mại, được bố trí trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại.
Xuất phát từ vị trí công việc, chức năng chuyên môn trong bộ máy
quản lý nhà nước về thương mại, người ta có thể chia hệ thống cán bộ
quản lý nhà nước về thương mại thành 3 nhóm cơ bản sau:
- Cán bộ lãnh đạo: Đây là những cán bộ giữ vị trí chỉ huy trong điều
hành công việc của các cơ quan thuộc bộ máy quản lý nhà nước về
thương mại. Tùy theo tính chất công việc ở các vị trí khác nhau mà người
ta phân cán bộ lãnh đạo ra cán bộ lãnh đạo ở các cấp độ cao thấp khác nhau.
Cán bộ lãnh đạo là những người được quyền ra quyết định quản lý,
chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của đơn vị phụ trách, tổ chức và
điều hành những đơn vị hoặc cá nhân dưới quyền thực hiện công việc.
Cán bộ lãnh đạo được giao những thẩm quyền nhất định, thẩm quyền đó
gắn với chức vụ mà họ đảm nhận. Cán bộ lãnh đạo trong bộ máy tổ chức
quản lý nhà nước về thương mại là bộ phận quan trọng nhất quyết
định đến tính hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về
thương mại.
- Cán bộ chuyên môn (Chuyên gia): Họ là những người có trình độ
chuyên môn kỹ thuật, có khả năng nghiên cứu, đề xuất những phương
hướng, quan điểm và thực thi công việc chuyên môn phức tạp. Họ là
những người tư vấn cho lãnh đạo, đồng thời cũng là những nhà chuyên

106
môn tác nghiệp những công việc đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn
nhất định.
- Cán bộ thi hành công vụ nhân danh quyền lực nhà nước: Là những
người mà bản thân họ không có thẩm quyền ra quyết định như những cán
bộ lãnh đạo. Họ là những người thừa hành công việc, thực thi công vụ.
Họ được trao những thẩm quyền nhất định trong phạm vi công tác của
mình khi làm nhiệm vụ. Ví dụ: Cán bộ làm nhiệm vụ thu thuế, làm thủ
tục xuất nhập khẩu hàng hóa, quản lý thị trường, thực hiện công tác
thanh tra... khi họ thực hiện công vụ, họ có quyền bắt người khác phải
thực hiện luật pháp.
Cán bộ thi hành công vụ là lực lượng đông đảo nhất trong hệ thống
cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về thương mại. Đội ngũ
này trực tiếp thực thi các thủ tục hành chính, bởi vậy trong cải cách thủ
tục hành chính thì đội ngũ này là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng.
b. Vai trò của cán bộ và công tác cán bộ trong bộ máy tổ chức
quản lý nhà nước về thương mại
- Đội ngũ cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về thương
mại là lực lượng quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của hệ
thống quản lý nhà nước về thương mại, hiệu quả kinh tế - xã hội của lĩnh
vực thương mại. Cụ thể:
+ Là người trực tiếp tham gia vào quá trình hoạch định đường lối chính
sách, thể chế và cơ chế quản lý nhà nước về thương mại của đất nước.
+ Là người có khả năng đưa ra phương án tối ưu nhằm sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực trong lĩnh vực thương mại.
+ Là người đại diện cho Nhà nước, là người thực thi công vụ. Lao
động của họ là loại lao động đặc thù mang tính quyền lực và pháp lý
nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trong quản lý nhà nước về
thương mại.
+ Là cầu nối giữa Nhà nước với các thương nhân, người sản xuất và
người tiêu dùng trong nền kinh tế. Hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán

107
bộ quản lý này sẽ quyết định đến hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quản
lý nhà nước về thương mại.
+ Cũng với những vai trò trên mà trong bối cảnh hiện nay đội ngũ
cán bộ quản lý nhà nước về thương mại là một trong những yếu tố quan
trọng nhất đảm bảo sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế, thương
mại của đất nước.
- Vai trò của công tác cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước
về thương mại. Công tác cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước
về thương mại cũng như ở nhiều lĩnh vực quản lý kinh tế khác bao gồm
các nội dung: 1) Công tác kế hoạch hóa đội ngũ cán bộ; 2) Công tác đào
tạo và bồi dưỡng cán bộ; 3) Công tác tuyển dụng, lựa chọn và bổ nhiệm
cán bộ; 4) Công tác đánh giá cán bộ; 5) Công tác sử dụng cán bộ (Sắp
xếp, bố trí cán bộ; Xây dựng môi trường làm việc; Chế độ lương, thưởng
và kỷ luật).
Với những nội dung đó, công tác cán bộ trong bộ máy tổ chức quản
lý nhà nước về thương mại trở thành một nội dung hết sức quan trọng, có
vai trò quyết định đến năng lực và hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước
về thương mại, cụ thể:
+ Làm tốt công tác cán bộ cho phép phát huy được vai trò và đóng
góp của đội ngũ cán bộ quản lý gắn với chức năng, nhiệm vụ mà họ đảm
nhiệm trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về thương mại (như đã
nêu ở trên).
+ Làm tốt công tác cán bộ cho phép đáp ứng kịp thời nhu cầu nguồn
cán bộ cho bộ máy quản lý nhà nước không những về số lượng mà còn
đáp ứng tốt nhu cầu về cơ cấu, chất lượng, đáp ứng được đòi hỏi công
việc trong bối cảnh và tình hình mới mà phát triển thương mại đặt ra.
+ Làm tốt công tác cán bộ là yếu tố tạo ra động lực phấn đấu cho đội
ngũ cán bộ quản lý. Thông qua cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, cơ chế
khen thưởng, đánh giá cán bộ... mỗi cán bộ trong bộ máy quản lý nhà
nước về thương mại phải tự rèn luyện, phấn đấu để đáp ứng được các yêu

108
cầu, tiêu chuẩn cả về phẩm chất chuyên môn, phẩm chất chính trị, bản lĩnh
và năng lực tư duy sáng tạo trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa.
+ Công tác cán bộ là điều kiện quyết định đến thành công của quá
trình đổi mới tư duy quản lý, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng
lực và hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về thương mại. Bởi lẽ, mọi
thành công đều bắt đầu từ yếu tố con người, yếu tố con người là trung
tâm. Lựa chọn, bổ nhiệm và sử dụng đúng người đủ tâm, đủ tầm, phù
hợp với năng lực, sở trường công việc luôn là yếu tố quyết định đến sự
thành công của mọi tổ chức.
+ Công tác cán bộ còn là nguồn gốc tạo ra và thúc đẩy sự đoàn kết,
sự đồng thuận và tinh thần hợp tác, ý thức trách nhiệm của bộ máy quản
lý. Điều này đòi hỏi công tác cán bộ phải được tiến hành bằng những
phương pháp, cách thức phù hợp, hiệu quả và công bằng, đặc biệt phải
tính đến đặc thù của lao động công vụ, lao động trong thời đại kinh tế tri
thức...

4.3.2. Đào tạo và sử dụng cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý


nhà nước về thương mại
a. Những yêu cầu chủ yếu đối với đội ngũ cán bộ trong bộ máy
tổ chức quản lý nhà nước về thương mại
Do vai trò, vị trí công việc đảm nhiệm mà đội ngũ cán bộ trong bộ
máy tổ chức quản lý nhà nước về thương mại phải đáp ứng được những
yêu cầu sau:
- Về phẩm chất chính trị: Thương mại là lĩnh vực quan trọng, tác
động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, bởi vậy cán bộ trong
bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về thương mại phải có quan điểm, lập
trường chính trị vững vàng, kiên định theo đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước khi quyết định chiến lược và
các vấn đề phát triển thương mại trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị
trường và tham gia vào quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa. Có khả năng
tự hoàn thiện, tự đánh giá kết quả công việc của bản thân, của những con

109
người mà mình quản lý theo tiêu chuẩn chính trị. Biết biến nhận thức
chính trị của mình thành nhận thức chính trị của mọi người, tạo lòng tin,
lôi cuốn được mọi người. Mức độ khác nhau đối với yêu cầu này tùy
thuộc vào cấp bậc quản lý của từng loại cán bộ.
- Về năng lực chuyên môn: Ngành thương mại có những tri thức
khoa học mang tính chuyên môn mà cán bộ quản lý ở mỗi vị trí trong đó
phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia. Điều đó đòi hỏi cán bộ trong bộ
máy tổ chức quản lý nhà nước về thương mại phải có những am hiểu
chuyên môn tốt, có đủ tri thức quản lý ngành, lĩnh vực mà mình phụ
trách, đảm nhiệm. Năng lực chuyên môn bao gồm: Những kiến thức và
tài năng trong hoạt động lao động nghề nghiệp, có tư duy hệ thống, có
khả năng giải quyết tối ưu các vấn đề trong quản lý và thực thi công
việc... Năng lực này sẽ giúp cho việc hoạch định chiến lược, chính sách
phát triển ngành đúng hướng và tổ chức thực hiện mục tiêu quản lý
ngành có hiệu quả.
- Về năng lực tổ chức: Tổ chức để thực hiện các công việc chuyên
môn. Đội ngũ cán bộ quản lý phải có khả năng quan sát linh hoạt, nhạy
bén để nắm được các nhiệm vụ từ tổng thể đến chi tiết và biết cách sắp
xếp tổ chức lao động một cách khoa học, xử lý các mối quan hệ trong và
ngoài hệ thống, đánh giá và sử dụng đúng người, đúng việc. Hay nói
cách khác họ phải có khả năng phân tích công việc và sắp xếp con người
hợp lý, tạo ra sự phù hợp để thúc đẩy công việc tiến triển tốt.
- Về phẩm chất đạo đức tác phong: Đạo đức là chuẩn mực hành vi
của con người được xã hội chấp nhận. Cán bộ trong bộ máy tổ chức quản
lý nhà nước về thương mại, trong điều hành công việc phải tuân thủ
những chuẩn mực nhất định về hành vi sinh hoạt, ứng xử, quan hệ được
xã hội đồng tình ủng hộ, đặc biệt là trong giải quyết các vấn đề lợi ích.
Cán bộ quản lý phải có nghệ thuật ứng xử vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết
trong giải quyết các quan hệ quản lý để đạt hiệu quả cao nhất trong thực
hiện mục tiêu của tổ chức.

110
b. Đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ trong bộ máy tổ chức quản lý
nhà nước về thương mại
- Để đảm bảo cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống bộ máy quản lý
hoạt động bình thường và phát triển ổn định, không hụt hẫng, công việc
quan trọng đầu tiên là thực hiện quy hoạch cán bộ. Công việc này theo
trình tự: Dự báo tình hình cán bộ (khả năng biến động về số lượng và
chất lượng cán bộ); Vạch kế hoạch bổ sung, thay thế và luân chuyển cán
bộ; Kế hoạch hóa từng mặt riêng biệt của công tác cán bộ, bao gồm kế
hoạch trẻ hóa đội ngũ cán bộ quản lý, kế hoạch định kỳ nâng cao trình độ
cán bộ đương chức, kế hoạch trước mắt và lâu dài.
- Vấn đề tiếp theo là lựa chọn, đánh giá, đào tạo, nâng cao trình độ
và bố trí, sử dụng cán bộ quản lý.
+ Lựa chọn đúng cán bộ quản lý theo yêu cầu thực tiễn công việc.
Công việc phải tương xứng với năng lực, trình độ và phẩm chất, đảm bảo
người cán bộ quản lý có thể hoàn thành tốt và có cơ hội phát triển. Công
việc phải phản ánh được những kỹ năng quản lý cần thiết (kỹ thuật, quan
hệ, nhận thức, phân tích và giải quyết vấn đề) để thu hút toàn bộ thời
gian, trí lực, sức lực của cán bộ quản lý hướng tới mục tiêu... Công tác
tuyển chọn cán bộ quản lý được thực hiện từ hai nguồn: Bên trong và bên
ngoài hệ thống; sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, như: Thử
nghiệm, quan sát năng khiếu, thi tuyển, trưng cầu ý kiến, bỏ phiếu...
+ Đánh giá cán bộ quản lý là nhận thức và thừa nhận những năng
lực, trình độ, phẩm chất thực có của người cán bộ để xác định những
cống hiến của họ và xác định khả năng tiếp tục sử dụng, bổ nhiệm họ.
Đánh giá cán bộ là chìa khóa của công tác cán bộ, bao gồm nhiều mặt:
Kết quả hoạt động, căn cứ vào những việc đã làm (cả tích cực và tiêu
cực); Nhận xét, kết luận về năng lực, phẩm chất và khả năng so với công
việc đã đảm nhận trên cơ sở các tiêu chuẩn đã đặt ra từ trước.
+ Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhằm đảm bảo cho cán bộ có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của tình

111
hình mới. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý dự bị bằng cách bổ
sung, nâng cao kiến thức và kinh nghiệm đã được tích lũy trước đây của
họ theo trình tự: Đào tạo, bồi dưỡng trước khi làm việc cho bộ máy quản
lý (qua các trường học); Đào tạo, bồi dưỡng thời gian làm việc trong bộ
máy quản lý; Đào tạo trước khi nhận nhiệm vụ mới. Hai phương pháp
đào tạo để nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý là: Thông báo cho người
được đào tạo một số kiến thức mới thông qua các lớp, tọa đàm, phụ đạo;
Tạm thời thay thế vào vị trí mới để thực tập, hoàn thiện những kỹ năng
hiểu biết cần thiết.
+ Bố trí, sử dụng cán bộ quản lý là công việc bổ nhiệm, sắp xếp cán
bộ vào một vị trí cụ thể trong bộ máy quản lý để họ làm việc. Bố trí cán
bộ quản lý phải căn cứ vào khả năng mọi mặt của cán bộ có thể đáp ứng
được những yêu cầu về tiêu chuẩn mà công việc quản lý đòi hỏi, phải
làm cho cán bộ nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm,
quyền hạn và các mối quan hệ công việc để có định hướng công tác lâu
dài. Sau khi bố trí cán bộ quản lý, phải thường xuyên theo dõi kịp thời,
phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu, những trường hợp bố trí không
phù hợp để kịp thời điều chỉnh, hoàn thiện.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Bản chất và những vấn đề đặt ra về phân cấp trong quản lý nhà
nước về thương mại? Liên hệ trong thực tiễn vấn đề này ở nước ta
hiện nay?
2. Phân tích chức năng, vai trò của quản lý nhà nước về thương mại
của Bộ quản lý ngành (Theo Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12
tháng 11 năm 2012 của Chính phủ) ở nước ta hiện nay?
3. Phân tích chức năng và vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước
về thương mại ở địa phương? Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực và
hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về thương mại ở các cấp địa
phương ở nước ta hiện nay?

112
4. Phân tích cơ chế phối hợp giữa Bộ Thương mại với các bộ, ngành
hữu quan, các Bộ quản lý chuyên ngành thuộc các lĩnh vực dịch vụ (Bưu
chính - Viễn thông, Du lịch...) trong quản lý nhà nước về thương mại?
5. Phân tích vai trò và những yêu cầu đặt ra đối với công tác cán bộ
trong bộ máy quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta giai đoạn hiện
nay?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Luật Thương mại năm 2005.
3. Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 của
Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Công Thương.
4. Quyết định số 907/QĐ-BCT của Bộ Công Thương ngày
06/02/2013 về Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Cục quản lý thị trường thuộc Bộ Công Thương.
5. GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn - PGS.TS. Mai Văn Bưu (2008), Giáo trình
quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
6. Thông tư liên tịch số 07/2008/TTLT-BCT-BNV ngày 28 tháng 05
năm 2008 của Bộ Công Thương và Bộ Nội vụ Hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về công
thương thuộc UBND cấp tỉnh và huyện.

113
114
Chương 5
NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI

Chương này giới thiệu những kiến thức căn bản về những nội dung
hoạt động chủ yếu của quản lý nhà nước đối với thương mại theo 2 cách
tiếp cận: Đối tượng quản lý và chức năng quản lý (gắn với quy định
pháp luật hiện hành về thương mại của Việt Nam). Thương mại hoạt
động trên các phạm vi không gian khác nhau, nên nội dung của chương
còn đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn lãnh
thổ thể hiện thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương
(cấp tỉnh) theo phân công, phân cấp của Trung ương.

5.1. THEO ĐỐI TƯỢNG QUẢN LÝ


Theo cách tiếp cận này, phạm vi nội dung quản lý nhà nước về
thương mại chủ yếu nhằm trả lời câu hỏi: quản lý, kiểm soát kinh doanh
những sản phẩm gì? quản lý chủ thể kinh doanh là ai? và quản lý bằng
cách nào, như thế nào? Do vậy, quản lý nhà nước về thương mại thường
bao quát những nội dung cơ bản sau:

5.1.1. Quản lý, kiểm soát hàng hoá lưu thông và dịch vụ cung
ứng trên thị trường
Đây là một nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về thương
mại. Nhà nước phải ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ mà pháp luật
không cấm hoặc cấm kinh doanh trong từng giai đoạn cụ thể để giúp các
doanh nghiệp và chủ thể thương mại định hướng hoạt động đầu tư một
cách chủ động, có kế hoạch. Trong danh mục hàng hóa, dịch vụ được
phép kinh doanh, phải có quy định cụ thể hóa những loại hàng hóa, dịch
vụ kinh doanh có điều kiện và hạn chế kinh doanh.

115
Quản lý, kiểm soát hàng hóa lưu thông và dịch vụ cung ứng trên thị
trường tập trung vào các nội dung chính sau:
a. Quản lý, kiểm soát hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trên thị trường
Quản lý việc cấp phép kinh doanh cho các doanh nghiệp hoạt động
tại thị trường trong nước và doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu;
Kiểm tra thủ tục, quy trình, số lượng cấp phép cho những hàng hoá, dịch
vụ thuộc danh mục được phép kinh doanh, pháp luật không cấm.
Quản lý, kiểm tra các hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện
hoặc hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật; tình hình lưu thông
hàng hoá và cung ứng dịch vụ đó trên thị trường.
Thanh tra và kiểm soát thị trường về các hàng hoá, dịch vụ mà pháp
luật cấm kinh doanh (bao gồm hàng hoá, dịch vụ có nguồn gốc sản xuất
trong nước và nhập khẩu trái phép từ nước ngoài).
Nhà nước có chính sách khuyến khích kinh doanh các sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ mà pháp luật không cấm, tạo điều kiện thuận lợi để đa
dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng phù hợp với yêu cầu của thị
trường trong điều kiện hội nhập. Khuyến khích phát triển sản xuất hàng
hoá, dịch vụ có lợi thế so sánh, các sản phẩm chủ lực, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường
trong nước và xuất khẩu.
Nhà nước có chính sách ưu tiên nhập khẩu hàng vật tư, nguyên liệu,
thiết bị máy móc, chuyển giao công nghệ mà trong nước chưa có khả
năng sản xuất hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường
(kể cả một số hàng tiêu dùng đặc biệt).
Nhà nước cấm lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ gây phương
hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, sức khoẻ con người,
truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc; cấm các hành vi cản trở trao đổi
thương mại và cạnh tranh không hợp pháp trên thị trường.
Trong từng giai đoạn cụ thể, Chính phủ có sửa đổi, bổ sung và công
bố danh mục sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được phép kinh doanh, hạn chế

116
kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện, cũng như danh mục các hàng
hóa, dịch vụ cấm kinh doanh.
b. Quản lý chất lượng hàng hóa lưu thông và dịch vụ cung ứng
trên thị trường
Nhà nước phải xây dựng, ban hành và công bố các quy chuẩn kỹ
thuật và tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
kinh doanh. Ban hành và công bố các quy định hợp chuẩn của các hàng
hóa, dịch vụ theo tiêu chuẩn chất lượng và quy chuẩn kỹ thuật trong
nước. Đây là căn cứ để thẩm định và chứng nhận hàng hóa, dịch vụ hợp
chuẩn, hợp quy.
Tiến hành kiểm tra việc cấp giấy chứng nhận hoặc chứng chỉ chất
lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ được cấp, thẩm định chất lượng
hàng hóa, dịch vụ lưu thông hoặc cung ứng trên thị trường theo các tiêu
chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã công bố.
Nhà nước phải xây dựng các hàng rào kỹ thuật và có biện pháp kiểm
soát, ngăn chặn hàng nhập khẩu chất lượng thấp (kể cả hàng tiêu dùng,
hàng tư liệu sản xuất, dây chuyền công nghệ chuyển giao) để bảo vệ lợi
ích kinh tế trong nước (bao gồm lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp
và người tiêu dùng). Mở cửa thị trường càng sâu, càng rộng không xử lý
tốt nội dung này có thể sẽ để lại hậu quả xấu đối với kinh tế, xã hội, môi
trường và an ninh quốc gia.
Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp ý chí
làm giàu, đầu tư xây dựng thương hiệu, phát triển các sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ có chất lượng cao, vươn lên đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc
tế. Tôn vinh, nêu gương và khen thưởng kịp thời những doanh nghiệp có
hàng hóa, dịch vụ chất lượng tốt, có tính cạnh tranh và hiệu quả thị
trường, kết hợp hài hoà các lợi ích và ổn định lâu dài.
c. Quản lý và kiểm soát giá hàng hóa, dịch vụ
Quản lý đăng ký, niêm yết giá: Nhà nước có quy định quản lý, kiểm
soát việc đăng ký, kê khai và niêm yết giá đối với một số hàng hóa, dịch

117
vụ cụ thể để đảm bảo tính công khai, minh bạch trong giám sát giá của
người mua, người tiêu dùng và giữ ổn định giá cả thị trường.
Kiểm soát giá độc quyền: Nhà nước phải kiểm soát và ngăn chặn các
hành vi thương mại không công bằng và cạnh tranh không lành mạnh
bằng giá do liên kết nhóm, độc quyền nhóm của doanh nghiệp dưới mọi
hình thức nhằm xác lập và duy trì giá độc quyền để kiếm lời.
Kiểm soát chống bán phá giá: Đây là một nội dung rất quan trọng
được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp bán thấp hơn
giá thành để cạnh tranh với hàng hoá được sản xuất từ trong nước. Nhà
nước phải có quy định chính sách, pháp luật về thuế chống bán phá giá
và chuẩn bị tốt lực lượng chức năng có đủ trình độ, năng lực thực thi
quản lý nhà nước về chống bán phá giá để bảo vệ hợp pháp sản xuất và
thị trường trong nước trong quá trình hội nhập.
Kiểm soát để chống và tiến tới xóa bảo hộ cũng như trợ cấp qua giá.
Đặc biệt kiểm soát giá những lô hàng hoá đấu thầu thấp trong các hợp
đồng thương mại, đầu tư gây tổn hại nhiều mặt cho kinh tế - xã hội, an
ninh - quốc phòng.
Kiểm soát giá gắn liền với ngăn chặn hoạt động đầu cơ, lũng đoạn
thị trường, nhất là những vấn đề mới phát sinh trong hội nhập, mở cửa thị
trường như “chuyển giá”, hội chứng “lỗ”.

5.1.2. Quản lý thương nhân, kiểm soát hoạt động và giao dịch
thương mại của các chủ thể kinh doanh
Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng
ký kinh doanh. Quản lý nhà nước đối với thương nhân và các chủ thể
kinh tế khác có hoạt động thương mại gồm một số nội dung chủ yếu sau:
a. Nhà nước quy định các điều kiện, thủ tục đăng ký kinh doanh, cấp
phép hoạt động hoặc chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh cho các
thương nhân và doanh nghiệp có hoạt động thương mại; quy định các

118
nguyên tắc, chuẩn mực điều chỉnh hành vi thương mại của thương nhân
và các chủ thể thương mại khác.
b. Nhà nước đảm bảo quyền bình đẳng của thương nhân, các chủ thể
kinh doanh khác về thương mại và cạnh tranh hợp pháp trước pháp luật.
Nghiêm cấm các hành vi thương mại và cạnh tranh không lành mạnh của
thương nhân cũng như các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường.
c. Nhà nước có chính sách khuyến khích thương nhân trong và ngoài
nước tham gia đầu tư phát triển, làm giàu. Riêng đối với một số hàng
hóa, dịch vụ đặc thù, nhạy cảm có chính sách riêng đối với chủ thể kinh
doanh là doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp nào cũng phải
kinh doanh theo pháp luật, đảm bảo hiệu quả kinh tế và tham gia giải
quyết các vấn đề an sinh xã hội.
d. Nhà nước tạo khung pháp lý và môi trường kinh doanh cho
thương nhân, doanh nhân để tiến hành các giao dịch thương mại, thâm
nhập và phát triển thị trường. Nhà nước phải là người dự báo tốt và cung
cấp thông tin, định hướng cho doanh nghiệp bằng các công cụ thích hợp
như chiến lược, quy hoạch, các chính sách phát triển thị trường,
thương mại.
e. Nhà nước là người đại diện và quản lý hoạt động thương mại của
doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài, quản lý hoạt động của thương
nhân, doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam,... Thương nhân được
hưởng lợi ích xứng đáng từ thành quả kinh doanh do họ tạo ra, nhưng
cũng phải chịu sự điều tiết thu nhập tương thích với ưu đãi từ chính sách
của Nhà nước và sự ủng hộ của người dân, cổ vũ của cộng đồng.
f. Nhà nước kiểm tra hoạt động của thương nhân về đăng ký kinh
doanh, về chấp hành các quy định pháp luật về thương mại, phát hiện,
ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật về thương mại.

5.1.3. Quản lý và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại


Kết cấu hạ tầng thương mại đóng vai trò quan trọng đối với phát
triển thương mại nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Kết cấu

119
hạ tầng thương mại bao gồm hệ thống các chợ bán buôn, bán lẻ, các kho
bãi chứa hàng, các bến cảng, nhà ga, các trung tâm thương mại, siêu thị,
các sàn giao dịch hàng hóa, dịch vụ, các trung tâm logistic, các cửa hàng,
các trung tâm giao dịch xuất nhập khẩu, hội chợ thương mại và hạ tầng
thương mại điện tử. Kết cấu hạ tầng thương mại có quan hệ chặt chẽ với
các kết cấu hạ tầng khác của nền kinh tế như giao thông vận tải, điện
năng, thông tin viễn thông, hải quan, ngân hàng,...
Nội dung quản lý nhà nước đối với kết cấu hạ tầng thương mại tập
trung vào các vấn đề cơ bản sau:
a. Nhà nước phải lập và công bố quy hoạch phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng thương mại chung của cả nước. Các địa phương cũng phải
lập và công bố công khai quy hoạch hạ tầng thương mại trong phạm vi
lãnh thổ cho từng giai đoạn phát triển cụ thể.
b. Nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương
mại như chính sách dành quỹ đất cho phát triển hạ tầng, ưu đãi về thuế,
về vốn vay và lãi suất, hỗ trợ về thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng,
thuận lợi hoá các điều kiện khác liên quan thực hiện dự án như vấn đề
mua bán, nhập khẩu thiết bị, máy móc, chuyển giao công nghệ kỹ thuật,
lựa chọn nhà thầu thi công các hạng mục công trình,... và các dịch vụ bên
ngoài “hàng rào” dự án hạ tầng thương mại.
c. Nhà nước quản lý, giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại theo đúng quy hoạch đã
được phê duyệt. Tăng cường kiểm tra, thẩm định năng lực các đơn vị tư
vấn, giám sát và thi công các công trình dự án để đảm bảo phát triển hạ
tầng thương mại có chất lượng và mang lại hiệu quả.
d. Quản lý, kiểm soát sự vận hành của hệ thống kết cấu hạ tầng
thương mại sau đầu tư theo đúng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và các
quy định khác trong hệ thống chính sách quản lý của Nhà nước về đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật. Phát hiện những bất hợp lý,
tồn tại hoặc nhược điểm của hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại để có

120
biện pháp xử lý hoặc điều chỉnh phù hợp, kịp thời đáp ứng yêu cầu và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

5.1.4. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ, quy định chính
sách, pháp luật về thương mại đối với các chủ thể trao đổi hàng hóa
và dịch vụ
Nhà nước có quy định về tổ chức và nội dung công tác thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành quy định chính sách, pháp luật về thương mại
của thương nhân và các chủ thể thương mại khác cũng như các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về
thương mại.
Một số nội dung kiểm tra, thanh tra chủ yếu:
a. Thanh tra, kiểm tra đăng ký kinh doanh (về thủ tục, quy trình, hồ
sơ và giấy phép kinh doanh đã cấp) có đúng quy định pháp luật không và
có phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại đã phê duyệt
không.
b. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định chính sách, pháp luật
về các hoạt động đầu tư và kinh doanh dịch vụ phân phối, xuất nhập
khẩu, nhượng quyền thương mại, các hoạt động kinh doanh dịch vụ khác.
c. Thanh tra, kiểm tra năng lực kinh doanh, các báo cáo tài chính và
nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước cũng như các giao dịch thương mại
khác có liên quan.
d. Kiểm tra nguồn gốc, xuất xứ, nhãn hiệu hàng hóa và dịch vụ để
chống hàng giả, bảo vệ chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, lợi ích của Nhà
nước, của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
e. Có biện pháp ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm trong kinh
doanh thương mại hàng hóa, dịch vụ theo quy định chính sách, pháp luật
của Nhà nước (xử phạt hành chính, quyết định tạm ngừng kinh doanh,
thu hồi giấy phép hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự).

121
f. Tổ chức thanh tra, kiểm soát phải công bố báo cáo kết quả thanh
tra, xử lý và truyền thông kịp thời bằng các phương tiện thích hợp theo
kế hoạch của công tác thanh tra thương mại.

5.1.5. Đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và kinh
doanh hàng giả, hàng cấm, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà kinh
doanh, lợi ích của Nhà nước và người tiêu dùng
a. Các lực lượng chức năng của Nhà nước phải phối hợp tổ chức
cuộc đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh hàng
giả, kinh doanh trái phép,... của một bộ phận thương nhân và chủ thể hoạt
động thương mại khác trên thị trường.
b. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp trong và ngoài nước
đối với các nhãn hàng hóa, dịch vụ, thương hiệu công ty. Đồng thời
hướng dẫn các doanh nghiệp có biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
và phối hợp cơ quan quản lý nhà nước, các lực lượng xã hội khác trong
cuộc đấu tranh chống kinh doanh hàng giả, hàng nhái vi phạm bản
quyền, xâm phạm lợi ích hợp pháp của nhà kinh doanh, lợi ích của Nhà
nước và người tiêu dùng.
c. Lập lại trật tự, kỷ cương thị trường và củng cố niềm tin của các
nhà kinh doanh, người tiêu dùng vào vai trò quản lý của Nhà nước về
thương mại.
Quá trình hội nhập và mở cửa thị trường có tính hai mặt. Thực tiễn
mặt tiêu cực như các hiện tượng buôn lậu, gian lận thương mại, kinh
doanh hàng giả, hàng cấm và các tội phạm kinh tế khác như rửa tiền, tội
phạm công nghệ cao gia tăng và biểu hiện rất phức tạp. Nó gây ảnh
hưởng lớn và xấu đến sự phát triển lành mạnh của thị trường, nền kinh tế,
xã hội và an ninh. Do vậy, đây là một nội dung mang tính thời sự và
nhiệm vụ rất nặng nề của các lực lượng chức năng thực thi quản lý nhà
nước về thương mại ở nước ta.

122
5.1.6. Các nội dung quản lý khác
Tổ chức và quản lý hoạt động khoa học, công nghệ thương mại;
Tổ chức quản lý đào tạo và bồi dưỡng phát triển nhân lực thương mại;
Hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại và đầu
tư; Kiểm tra thực hiện các điều ước quốc tế đó tham gia và chương trình
đổi mới chính sách, pháp luật liên quan thương mại theo lộ trình của cam
kết hội nhập khu vực và quốc tế,...

5.2. THEO CHỨC NĂNG QUẢN LÝ


Theo chức năng quản lý nhà nước, các nội dung và trách nhiệm quản
lý nhà nước đối với các lĩnh vực thương mại được thể hiện chủ yếu ở
Luật Thương mại. Ngoài ra, một số luật quan trọng khác cũng quy định
nội dung quản lý nhà nước liên quan tới thương mại như Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư và các Luật chuyên ngành về dịch vụ,...
Dưới đây là những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về thương
mại tiếp cận nghiên cứu theo chức năng quản lý (phù hợp với quy định
pháp luật về thương mại của Việt Nam):

5.2.1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức
chỉ đạo thực thực thi chính sách, pháp luật đối với các lĩnh vực
thương mại
a. Nhà nước tạo lập khung pháp lý, môi trường kinh doanh, xác
định địa vị pháp lý của các doanh nghiệp và chủ thể hoạt động thương
mại trên thị trường. Đồng thời tổ chức công bố, truyền thông, giới thiệu
và hướng dẫn các doanh nghiệp về quy định chính sách, luật pháp của
Nhà nước đã ban hành đối với các lĩnh vực thương mại. Vai trò của công
cụ pháp luật không chỉ tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng,
có kỷ cương, trật tự mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp và chủ thể kinh
doanh thương mại nâng cao tính năng động, cạnh tranh và hoạt động hiệu
quả. Nhà nước điều chỉnh hành vi thương mại của các doanh nghiệp, chủ
thể kinh doanh bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Nhà nước xử lý

123
các mâu thuẫn và tranh chấp thương mại bằng các chế tài phù hợp với
quy định luật pháp trong nước và quốc tế.
Khung pháp lý đối với các lĩnh vực thương mại gồm nhiều loại văn
bản pháp luật và pháp quy khác nhau, có thể sắp xếp các bộ phận hợp
thành như sau:
Các loại luật do (Quốc hội) cơ quan lập pháp ban hành như Luật Đầu
tư, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Khoa học & Công nghệ,
Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Đất đai, Luật Tiêu chuẩn & Quy chuẩn kỹ
thuật,...
Các văn bản quản lý, quy định chính sách cụ thể hoá luật do (Chính
phủ) cơ quan hành pháp ban hành dưới dạng nghị định, nghị quyết của
Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng.
Các thông tư hướng dẫn của bộ chuyên ngành, liên bộ, cơ quan
ngang bộ, các quyết định và chỉ thị của Bộ trưởng để thực hiện nghị định
của Chính phủ, quyết định và chỉ thị của Thủ tướng. Ngoài ra còn có các
công văn, các thông báo hướng dẫn của các bộ ngành, cơ quan ngang bộ.
Các văn bản quản lý của các cơ quan tư pháp - Viện Kiểm sát, Toà
án để hướng dẫn, xử lý các tranh chấp thương mại, các tội phạm kinh tế
vi phạm quy định chính sách, pháp luật trong nước và quốc tế về
thương mại.
Các văn bản quản lý, chính sách của địa phương, cụ thể hoá chính
sách của Trung ương và hướng dẫn thực thi quản lý nhà nước về thương
mại trên phạm vị địa bàn theo phân cấp trách nhiệm.
Văn bản quản lý khác như các cam kết hội nhập, các thoả thuận
trong các hiệp định thương mại, đầu tư, các điều ước quốc tế đã tham
gia,...
Xây dựng và ban hành các quy định chính sách, pháp luật về thương
mại có ý nghĩa tiền đề. Vấn đề tiếp theo và mang tính quyết định là tổ
chức triển khai thực hiện và đưa cơ chế chính sách quản lý thương mại
đó vào thực tiễn. Các nội dung và quá trình quản lý phải tuân thủ các

124
nguyên tắc chung của quản lý nhà nước, đồng thời nó thể hiện rõ các
phương pháp và công cụ chủ yếu của quản lý nhà nước về thương mại.
b. Tổ chức bộ máy và triển khai thực thi các quy định chính sách,
pháp luật đối với các lĩnh vực thương mại, đảm bảo các nguyên tắc
phân công, phân cấp và phân quyền trong quản lý nhà nước
Ở cấp Trung ương chủ yếu tập trung vào công tác soạn thảo để ban
hành các văn bản luật và quy định chính sách cụ thể hoá luật đối với các
lĩnh vực thương mại; chỉ đạo tổ chức, điều hành các ngành, các cấp triển
khai và phối hợp thực hiện chính sách pháp luật về thương mại; đồng
thời tổ chức chỉ đạo công tác tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật
về thương mại; chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra chấp hành luật pháp
để đảm bảo tính thống nhất trong quản lý nhà nước và trật tự kỷ cương
đối với kinh doanh thương mại hàng hoá, dịch vụ trong phạm vi cả nước.
Phải tổ chức bộ máy và đảm bảo tính chuyên nghiệp để thực thi các
nhiệm vụ trên theo phân công, phù hợp với thẩm quyền.
Ở cấp địa phương, để thực thi quản lý nhà nước trên địa bàn theo
phân cấp, UBND tỉnh /thành phố trực thuộc Trung ương phải phân công
trách nhiệm rõ ràng cho các Sở quản lý ngành, UBND cấp quận/huyện,
TP trực thuộc, cấp xã/phường và quy định trách nhiệm phối hợp hoạt
động quản lý. Một mặt các Sở quản lý ngành của địa phương phải phối
hợp theo chiều dọc với Bộ quản lý ngành ở Trung ương về chuyên môn
nghiệp vụ, mặt khác phải chịu sự chỉ đạo điều hành trực tiếp, toàn diện
của UBND tỉnh/thành phố về quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực
thương mại hàng hoá và dịch vụ trên phạm vi lãnh thổ địa phương theo
phân công, phân cấp quản lý.

5.2.2. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, các
chương trình, dự án và kế hoạch phát triển thương mại
Nhà nước xây dựng và chỉ đạo thực hiện các công cụ định hướng
phát triển thương mại để hướng dẫn hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp. Các công cụ định hướng chủ yếu của Nhà nước bao gồm:

125
Chiến lược và quy hoạch phát triển thương mại trong từng giai đoạn;
Các chương trình, dự án cụ thể hóa mục tiêu chiến lược và quy hoạch
phát triển thương mại cho một giai đoạn cụ thể; Kế hoạch phát triển
thương mại hàng năm hoặc trong thời gian trung hạn, dài hạn.
a. Chiến lược phát triển thương mại được hiểu là quá trình đưa ra
các quyết định dài hạn về mục tiêu, xác định con đường phát triển, các
chính sách và giải pháp của Nhà nước phải thực hiện trong những
khoảng thời gian nhất định trong tương lai, nhằm liên kết các nỗ lực của
con người và tổ chức, các nguồn lực khác nhau của các cấp, các ngành và
doanh nghiệp để hướng tới mục tiêu đã xác định.
Chiến lược cũng được hiểu là những hướng dẫn tổng quát về tương
lai phát triển ngành hoặc hệ thống thương mại phải hướng tới, đồng thời
nó cũng chỉ ra những phương pháp, cách thức cơ bản để thực hiện những
định hướng tổng quát đó trong một giai đoạn phát triển nhất định (thường
là có độ dài 10 năm trở lên). Để có luận cứ khoa học cho hoạch định mục
tiêu và chiến lược phát triển thương mại cần phải phân tích các yếu tố
môi trường bên ngoài và nội tại (ngành, lĩnh vực thương mại), phân tích
điểm mạnh, điểm yếu cũng như thời cơ và thách thức đối với phát triển
thương mại. Từ đó hình thành các giải pháp thích hợp nhằm tận dụng cơ
hội, vượt qua các nguy cơ, đe doạ để hướng tới mục tiêu tương lai. Chiến
lược phát triển thương mại là phạm trù có phạm vi bao quát rộng, nó
phản ánh hoạt động tư duy, suy nghĩ của các nhà quản lý có tầm nhìn về
“những điều họ muốn làm và cách thức họ muốn làm điều đó”, nhưng
phải có luận chứng khoa học khách quan mới thật sự có ý nghĩa. Chiến
lược thường là căn cứ để xây dựng các quy hoạch, kế hoạch, các chương
trình, dự án và chính sách phát triển thương mại trên tầm quốc gia cũng
như ở các địa phương.
Trong thực tiễn, có thể xây dựng chiến lược phát triển thương mại
nói chung, chiến lược phát triển thương mại hàng hoá, thương mại dịch
vụ, chiến lược phát triển thương mại nội địa, xuất nhập khẩu và cũng có

126
thể có chiến lược phát triển thương mại theo khu vực lãnh thổ (nông
thôn, miền núi, biên giới...).
b. Quy hoạch phát triển thương mại là một bản luận chứng về kinh
tế, kỹ thuật và tổ chức để hình thành nên các phương án phát triển
thương mại theo phạm vi không gian lãnh thổ và thời gian cụ thể, đáp
ứng mục tiêu xác định trong từng giai đoạn chiến lược. Khi lập quy
hoạch, cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản là: phải đảm bảo tính
tổng thể, tính hợp lý, tính hiệu quả và bền vững. Nội dung của quy hoạch
phải đánh giá được hiện trạng phát triển thương mại, xác định các quan
điểm và mục tiêu quy hoạch, các phương án tổ chức không gian và giải
pháp thực hiện. Quy hoạch đúng đắn chính là một trong những công cụ
định hướng chủ yếu để từng bước nhà nước hiện thực hoá mục tiêu chiến
lược phát triển thương mại của đất nước.
Trong thực tiễn, thường có các quy hoạch quan trọng như: Quy
hoạch phát triển hạ tầng thương mại (hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm
thương mại, sàn giao dịch, kho cảng, bến bãi), quy hoạch mạng lưới bán
buôn, bán lẻ hàng hoá, quy hoạch hệ thống phân phối hàng hoá, dịch vụ,
trung tâm logistic, hội chợ triễn lãm, quy hoạch phát triển thương mại
điện tử, thương mại biên giới, quy hoạch phát triển thương nhân.
c. Chương trình phát triển thương mại được sử dụng phổ biến để
xác định một cách đồng bộ các mục tiêu cần đạt được, các bước công
việc cần tiến hành, các nguồn lực cần huy động để thực hiện ý đồ nào đó.
Chương trình là một bộ phận của kế hoạch hay được hiểu là phương án
vận hành đưa nhiệm vụ kế hoạch phát triển thương mại vào thực tiễn.
Chương trình đảm bảo phối hợp một cách đồng bộ các biện pháp có liên
quan trong việc thực hiện mục tiêu kế hoạch theo tiến độ ăn khớp và
thống nhất.
d. Dự án là tổng thể các hoạt động, các nguồn lực và chi phí được
bố trí chặt chẽ theo thời gian và không gian nhằm thực hiện các mục tiêu
cụ thể về phát triển thương mại. Dự án và chương trình phát triển thương
mại tuy khác nhau, nhưng có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Dự án là

127
phương thức thực hiện chương trình phát triển thương mại cụ thể. Mỗi
chương trình lại bao hàm một hoặc một vài dự án. Thực hiện tốt dự án sẽ
góp phần thực hiện chương trình phát triển thương mại có hiệu quả. Từ
đó, chương trình, dự án tác động tích cực đến thực hiện mục tiêu quy
hoạch và chiến lược phát triển thương mại của từng địa phương hoặc
cả nước.
Thực tiễn có những chương trình quan trọng như sửa đổi, hoàn thiện
pháp luật về thương mại, hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực thương mại, hỗ trợ thông tin, nâng cấp và phát
triển cơ sở hạ tầng thương mại (các loại chợ, hệ thống cảng, kho hàng,
trung tâm thương mại, siêu thị), chương trình nâng cao năng lực hội nhập
và cạnh tranh, chương trình phát triển thị trường và đưa hàng Việt về
nông thôn, chương trình phát triển thương mại biên giới, chống hàng giả,
buôn lậu,... Mỗi chương trình có thể có những dự án cụ thể nhất định.
Trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện, Nhà nước phải phối hợp
thực thi kiểm tra, đánh giá kết quả hiện trạng và phát hiện những bất cập
để điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các công cụ định hướng trên trong
quản lý thương mại vĩ mô. Đặc biệt coi trọng định hướng chiến lược phát
triển thương mại trong quá trình hội nhập, từng bước nâng cao tính pháp
lý và tiến tới luật hóa quy hoạch phát triển thương mại quốc gia.

5.2.3. Ban hành các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng,
cấp giấy chứng nhận và quản lý, kiểm soát chất lượng hàng hoá trao
đổi, dịch vụ cung ứng trên thị trường
- Về ban hành các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng:
Nhà nước phải xây dựng và ban hành danh mục các tiêu chuẩn chất
lượng của các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Phải công bố rộng rãi cho
doanh nghiệp và người tiêu dùng biết các tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế và
khu vực về sản phẩm, hàng hóa.

128
Các tiêu chuẩn này liên quan tới cả khâu sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Ngành khoa học & công nghệ có trách nhiệm ban hành các văn
bản hướng dẫn đăng ký tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, đăng ký sản
phẩm có khả năng mất an toàn, đánh giá chất lượng và sự phù hợp, công
bố tiêu chuẩn trong nước và tiếp nhận tiêu chuẩn nước ngoài, hướng dẫn
doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn chất lượng và kiểm tra nhà nước về
chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra, ngành này còn có trách
nhiệm ban hành quy định về đăng ký, đánh giá và công nhận Giải thưởng
quốc gia về chất lượng hàng hoá, điều kiện và thủ tục xét tặng giải
thưởng chất lượng sản phẩm của tổ chức, cá nhân.
Một số chuyên ngành khác như nông nghiệp, công nghiệp, lao động,
thông tin viễn thông,... phải xây dựng và ban hành các văn bản hướng
dẫn về đăng ký, chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy, kiểm tra nhà nước về
chất lượng sản phẩm hàng hoá đặc thù (chẳng hạn: thuốc bảo vệ thực vật
thuộc ngành nông nghiệp, vật liệu nổ thuộc ngành công nghiệp, chân
tay giả thuộc ngành lao động, thiết bị viễn thông thuộc ngành thông
tin viễn thông).
Nhà nước có quy định trách nhiệm phối hợp thực hiện nội dung
quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm giữa các cơ quan soạn thảo
thuộc các bộ chuyên ngành, cơ quan thẩm định tiêu chuẩn, đo lường, chất
lượng và cơ quan công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm thuộc Bộ
Khoa học & Công nghệ. Đồng thời có phân cấp về quản lý, kiểm soát
chất lượng hàng hoá cho cơ quan tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng của
các địa phương.
Ngoài các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đối
với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, trong lĩnh vực thương mại cần thiết phải
ban hành các quy chuẩn kỹ thuật đối với các cơ sở hạ tầng thương mại
như chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, kho chứa hàng hóa,... và các
điều kiện, tiêu chuẩn đối với thương nhân, cơ sở kinh doanh thương mại,
dịch vụ.

129
- Về quản lý, kiểm soát chất lượng sản phẩm, công bố hợp chuẩn,
hợp quy:
Chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ liên quan tới nhiều khâu
trong quá trình sản xuất, chế biến, phân phối và thậm chí cả khâu tiêu
dùng. Kiểm soát và quản lý chất lượng sản phẩm của Nhà nước phải
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp ở tất cả các khâu
của quá trình sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo các
tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm đó đăng ký và được công nhận hợp
chuẩn, hợp quy.
Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước phải kiểm tra, đo lường
và kiểm định chất lượng để cấp giấy chứng nhận sản phẩm theo đúng
quy chuẩn quốc gia, công nhận, chứng nhận chất lượng sản phẩm nhập
khẩu hợp chuẩn, hợp quy hoặc đạt chuẩn khu vực, quốc tế đối với sản
phẩm liên doanh, liên kết với nước ngoài. Kiểm tra, đánh giá các điều
kiện kinh doanh và cơ sở hạ tầng thương mại hợp chuẩn.
Phân công trách nhiệm kiểm tra và quản lý chất lượng cho các cơ
quan chuyên môn thuộc Bộ Khoa học & Công nghệ có sự phối hợp với
các cơ quan chức năng của Bộ Công Thương và Bộ quản lý ngành sản
xuất hàng hóa, dịch vụ, xây dựng,... đồng thời phân cấp quản lý nhà nước
cho địa phương. Phải kiểm tra, đo lường việc áp dụng quy chuẩn kỹ
thuật, công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và công bố tiêu chuẩn áp
dụng đối với sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.

5.2.4. Thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến các văn bản
quy phạm pháp luật và tình hình thực thi chính sách, pháp luật đối
với các lĩnh vực thương mại
Giới thiệu, phổ biến, tuyên truyền (truyền thông) và hướng dẫn các
quy định chính sách, pháp luật về thương mại, các chiến lược và quy
hoạch phát triển thương mại cho mọi đối tượng liên quan như: cán bộ,
viên chức trong bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về thương mại các cấp;
các doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thương mại
trên thị trường; người tiêu dùng và người dân.

130
Chỉ đạo sử dụng hợp lý, có hiệu quả các hình thức tổ chức, phương
tiện truyền thông để giúp các đối tượng trên tiếp cận các văn bản quy
phạm pháp luật, các quy định chính sách một cách thuận lợi, kịp thời và
chính xác.
Truyền thông về quy định trách nhiệm quản lý ngành và phối hợp
giữa các ngành chức năng: thông tin, văn hoá, thương mại, hải quan,
khoa học & công nghệ, công an,... trong việc phổ biến chính sách, pháp
luật cũng như tình hình thực thi các quy định chính sách pháp luật đối
với các lĩnh vực thương mại.
Nội dung truyền thông liên quan các quy định chính sách, pháp luật
về thương mại đã ban hành, các chiến lược, quy hoạch phát triển thương
mại đã được nhà nước phê duyệt và những thông tin về công tác chỉ đạo
của Nhà nước cũng như kết quả thực thi công tác quản lý nhà nước của
các lực lượng chức năng các cấp, các ngành.
Phải thông tin cả gương điển hình, mặt tốt cũng như những hạn chế,
tồn tại về chấp hành chính sách, luật pháp của doanh nghiệp, những kinh
nghiệm tốt của các lực lượng chức năng được phân công thực thi trách
nhiệm quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực thương mại.

5.2.5. Cấp phép kinh doanh và thu hồi các loại giấy phép kinh
doanh
Kinh doanh trong lĩnh vực thương mại hàng hoá hoặc dịch vụ liên
quan đến nhiều ngành như kế hoạch & đầu tư, tài nguyên môi trường,
xây dựng, giao thông vận tải, khoa học & công nghệ, thương mại, tài
chính, công nghiệp, nông nghiệp,... nên phải có đầu mối quản lý cấp
phép thống nhất và hướng dẫn các thủ tục quy trình, lập hồ sơ đăng ký
kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Cấp phép kinh doanh thương mại hàng hoá, dịch vụ cho doanh
nghiệp cần phải có quy định rõ ràng về phân cấp trách nhiệm và thẩm
quyền của Trung ương, địa phương tuỳ theo đặc điểm loại hình và chủ
thể kinh doanh là ở trong nước hay nước ngoài...

131
Cấp phép kinh doanh cho doanh nghiệp phải đảm bảo thuận tiện về
thủ tục, quy trình và đáp ứng các điều kiện theo đúng quy định của pháp
luật về thương mại, đầu tư, về doanh nghiệp...
Nếu kiểm tra, thanh tra phát hiện doanh nghiệp kinh doanh thương
mại hàng hoá, dịch vụ vi phạm các quy định của pháp luật, tuỳ mức độ vi
phạm mà cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (đã cấp giấy phép) có
thể quyết định ngừng kinh doanh tạm thời hoặc thu hồi giấy phép kinh
doanh của doanh nghiệp dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật.

5.2.6. Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và xử lý các vi phạm pháp luật đối với các lĩnh vực thương mại
Cơ quan chức năng của quản lý nhà nước hướng dẫn các quy định về
công tác thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp và thủ tục giải quyết
các khiếu nại, tố cáo đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại hàng
hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật (về thanh tra, khiếu nại tố cáo,...).
Nội dung chủ yếu công tác này là thanh tra, kiểm tra vấn đề cấp
phép kinh doanh (có đúng quy định của pháp luật không? có phù hợp với
các định hướng chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại và kinh tế -
xã hội không?,...); thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách, luật
pháp đối với các lĩnh vực thương mại, các điều kiện thực tế vận hành
kinh doanh,... và nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước.
Tuỳ theo mục đích, nhiệm vụ và yêu cầu của các đợt thanh tra, kiểm
tra trong kế hoạch mà hình thành bộ máy, tổ chức thanh tra chuyên
ngành hay liên ngành cho phù hợp. Hoạt động thanh tra phải có sự
phối hợp lực lượng chức năng của Trung ương và địa phương trong
những trường hợp cần thiết và phải quan tâm phối hợp liên ngành tại
địa phương.
Các cơ quan thanh tra, kiểm soát phải lập báo cáo kết quả thanh tra,
kiểm tra và đề xuất hướng xử lý, công bố thông tin về các trường hợp
doanh nghiệp vi phạm chính sách, pháp luật đối với lĩnh vực thương mại
cụ thể.

132
5.2.7. Tổ chức bộ máy quản lý, phân công trách nhiệm và phối
hợp thực thi chính sách, pháp luật đối với các lĩnh vực thương mại
Nhà nước phải kiến tạo bộ máy tổ chức (cơ quan quản lý nhà nước)
để triển khai các hoạt động phân tích, hoạch định chính sách, pháp luật,
xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại nói chung và các
lĩnh vực cụ thể nói riêng về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ.
Quy định phân công và hợp tác giữa các cơ quan phân tích, hoạch định
và thẩm định các dự án luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch phát
triển thương mại và cơ quan quyết định ban hành, công bố các văn bản
quản lý nhà nước về thương mại.
Nhà nước phải thiết kế và duy trì hoạt động của bộ máy tổ chức (lực
lượng chức năng) thực thi chính sách, pháp luật về thương mại. Quy định
phân công trách nhiệm đầu mối và phối hợp giữa các lực lượng chức
năng Bộ quản lý ngành Công Thương với các bộ ngành khác được phân
công quản lý nhà nước về hàng hoá đặc thù, giữa các Bộ quản lý ngành
dịch vụ trong việc thông tin, tuyên truyền, phổ biến hoặc giới thiệu các
chính sách, pháp luật; hướng dẫn và công bố các tiêu chuẩn chất lượng,
quy chuẩn kỹ thuật đối với quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ; cấp phép, thu hồi giấy phép kinh doanh; hướng dẫn và thực thi công
tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các khiếu nại, khiếu tố, các tranh chấp
thương mại và vi phạm pháp luật về thương mại. Quy định mối quan hệ
quản lý thương mại giữa Bộ quản lý ngành ở Trung ương và Sở quản lý
ngành ở địa phương theo địa bàn lãnh thổ.

5.3. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ


THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN LÃNH THỔ (THEO PHÂN CẤP
CHO ĐỊA PHƯƠNG)
Nội dung này đề cập tới những công việc Trung ương, cụ thể là
Chính phủ, phân cấp cho địa phương (chính quyền cấp tỉnh/thành phố
trực thuộc) có thẩm quyền và trách nhiệm thực thi quản lý nhà nước về
thương mại trên địa bàn lãnh thổ theo quy định của pháp luật. Quản lý

133
của chính quyền địa phương cấp tỉnh/thành phố đối với thương mại theo
đối tượng cũng phải dựa trên phân cấp giữa Trung ương và địa phương.
Trên cơ sở đó, UBND các tỉnh/thành phố phân công nhiệm vụ và giao
quyền hạn cho các sở quản lý ngành để thực thi trách nhiệm quản lý nhà
nước trên địa bàn. Ở nước ta hiện nay, Sở Công thương là cơ quan quản
lý nhà nước về thương mại trên địa bàn cấp tỉnh/thành phố. Phối hợp
quản lý thương mại trên địa bàn còn có các Sở Kế hoạch và Đầu tư, Tài
chính, Tài nguyên và Môi trường, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở
Thông tin và truyền thông,...

5.3.1. Ban hành các văn bản cụ thể hóa và triển khai hướng dẫn
thực thi chính sách, pháp luật nhà nước về thương mại trên địa bàn
Chính quyền địa phương cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương
có trách nhiệm ban hành các văn bản cụ thể hóa nội dung trách nhiệm
quản lý thương mại trên địa bàn lãnh thổ theo quy định phân cấp và
hướng dẫn của Chính phủ. Các cơ quan chức năng thuộc Sở quản lý
ngành của địa phương có trách nhiệm soạn thảo các văn bản quản lý trình
UBND phê duyệt và ban hành theo phân công và hướng dẫn nghiệp vụ
của Bộ quản lý ngành thương mại.
Các văn bản quản lý do địa phương soạn thảo chủ yếu tập trung vào
cụ thể hóa và hướng dẫn các Nghị định, quyết định của Chính phủ, chỉ
thị của Thủ tướng, các quyết định, thông tư của Bộ quản lý ngành thương
mại (Công Thương) và các Bộ ngành khác có liên quan như Tài chính,
Kế hoạch & Đầu tư, Tài nguyên & Môi trường, Khoa học & Công nghệ,
Giao thông, Lao động, Nội vụ, Thông tin & Truyền thông,...
Nội dung một số văn bản quản lý chủ yếu liên quan tới hướng dẫn
thủ tục quy trình cấp phép hoặc chứng nhận kinh doanh, đầu tư, thay đổi
giấy phép kinh doanh; hướng dẫn công báo về doanh nghiệp và quảng
cáo hoạt động kinh doanh; phổ biến, hướng dẫn và truyền thông cơ chế
chính sách ưu đãi, khuyến khích và hỗ trợ kinh doanh, đầu tư vào thị
trường và thương mại trên địa bàn, trong đó có chính sách của địa

134
phương; các văn bản về hướng dẫn triển khai công tác thanh tra, kiểm
tra, xử lý các khiếu kiện và vi phạm pháp luật về thương mại trên địa
bàn; các văn bản tổ chức chỉ đạo, điều hành, phân công quản lý thương
mại đối với sở ngành chức năng của tỉnh và phân công, phân cấp trách
nhiệm quản lý cho chính quyền cấp huyện/quận, xã/phường trên địa bàn.

5.3.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và chương trình dự án phát triển thương mại, thị trường
của địa phương
Chính quyền cấp tỉnh/thành phố chịu trách nhiệm chính về xây dựng
và quản lý các quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn phù hợp với
chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương và định
hướng, mục tiêu chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại quốc gia.
Đây là một nội dung chủ yếu và quan trọng của quản lý chính quyền đối
với thương mại trên địa bàn lãnh thổ. Nội dung bao gồm quy hoạch tổng
thể phát triển thương mại địa phương và các quy hoạch riêng từng lĩnh
vực thương mại hàng hóa, dịch vụ, loại hình thương mại truyền thống và
hiện đại, các loại hạ tầng thương mại (như chợ bán buôn, bán lẻ, trung
tâm thương mại, trung tâm mua sắm, siêu thị, kho hàng,...), quy hoạch bố
trí không gian thương mại theo phạm vi lãnh thổ, khu vực địa lý và phát
triển đội ngũ thương nhân của các thành phần kinh tế trên địa bàn.
Để hiện thực hóa quy hoạch phát triển thương mại địa phương, chính
quyền và các cơ quan chức năng Sở quản lý ngành cần phải cụ thể hóa
chính sách của Chính phủ, xây dựng cơ chế chính sách đặc thù của địa
phương, các chương trình mục tiêu và dự án, kế hoạch cụ thể cho từng
thời gian của giai đoạn quy hoạch.

5.3.3. Tổ chức bộ máy quản lý, phân công trách nhiệm và phối
hợp thực thi chính sách, pháp luật về thương mại trên địa bàn
Chính quyền địa phương phải kiến tạo bộ máy quản lý theo nguyên
tắc quyền lực trong tay nhà nước là thống nhất, triển khai theo hướng dẫn

135
của Chính phủ về phân công, phân cấp, về thẩm quyền và trách nhiệm,
đảm bảo tính hợp lý về phân công, phối hợp trong nội bộ từng cấp (giữa
Sở Công Thương của tỉnh với sở ngành khác, giữa Phòng Công Thương
hoặc Phòng Kinh tế hạ tầng với các phòng chức năng khác của
quận/huyện) cũng như giữa cấp tỉnh, huyện và xã. Cấp tỉnh tập trung
quản lý chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển thương mại địa
phương; cấp huyện, xã tập trung triển khai thực hiện và quản lý tác
nghiệp theo phân cấp quản lý thương mại trên địa bàn.
Sở Công Thương là cơ quan chịu trách nhiệm trước UBND
tỉnh/thành phố quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn. Sở Công
Thương, một mặt chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ quản lý
thương mại của Bộ Công Thương, mặt khác chịu sự chỉ đạo, điều hành
trực tiếp của UBND tỉnh/thành phố và là cơ quan tham mưu cho UBND
tỉnh/thành phố về chính sách quản lý thương mại trên địa bàn.
Phòng Công Thương là cơ quan tham mưu và chịu trách nhiệm trước
UBND Huyện/Quận về quản lý thương mại trên địa bàn. Phòng Công
Thương chịu sự chỉ đạo và hướng dẫn về nghiệp vụ, chuyên môn quản lý
thương mại của Sở Công Thương và chịu sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp
của UBND huyện/quận.

5.3.4. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết các khiếu nại, tranh chấp
thương mại và xử lý các vi phạm quy định chính sách, pháp luật về
thương mại trên địa bàn
Hoạt động kinh doanh thương mại nói riêng, đầu tư trong các lĩnh
vực thương mại nói chung diễn ra trên địa bàn lãnh thổ cụ thể ở từng địa
phương. Do vậy, công tác quản lý thương mại, kiểm soát thị trường gắn
liền hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát trên từng địa bàn lãnh thổ là
rất quan trọng.
Cấp tỉnh phải cụ thể hóa các quy định về thanh tra của Chính phủ, về
quản lý thị trường của Bộ Công Thương phù hợp với yêu cầu, nội dung

136
phân cấp và điều kiện của địa phương về nội dung nhiệm vụ, bộ máy tổ
chức và các nguồn lực, phương tiện, thời gian.
Phối hợp công tác tổ chức thanh tra, giám sát, quản lý thị trường
giữa các bộ phận chức năng quản lý thương mại cấp tỉnh, giữa quản lý
thương mại cấp tỉnh/thành phố và huyện/quận. Ngoài ra, còn phải phối
hợp công tác thanh tra, kiểm soát và quản lý thị trường, thương mại giữa
địa phương với lực lượng chức năng của các Bộ ngành của Trung ương,
của địa phương nước ngoài trong các trường hợp cụ thể của kinh tế - xã
hội, của mở cửa thị trường, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Xử lý các khiếu nại của doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người tiêu
dùng. Xử lý các vi phạm pháp luật về thương mại trong phạm vi thẩm
quyền và trách nhiệm theo luật định.

5.3.5. Nội dung quản lý khác


Trao đổi thông tin, hỗ trợ xúc tiến thương mại và đầu tư giữa các địa
phương; hợp tác thương mại và đầu tư giữa địa phương trong nước và
nước ngoài; hợp tác đào tạo và bồi dưỡng nhân lực thương mại của địa
phương; hợp tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, kinh doanh hàng
giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ; phối hợp các hoạt động phòng
chống tội phạm kinh tế, thương mại xuyên quốc gia;...

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Quản lý nhà nước về thương mại theo đối tượng quản lý bao gồm
những nội dung cơ bản nào? Thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về
giá và chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường ở nước ta có những
ưu, nhược điểm gì?
2. Quản lý nhà nước về thương mại theo chức năng quản lý bao gồm
những nội dung gì? Liên hệ việc thực hiện nội dung quản lý đó trong lĩnh
vực thương mại hàng hóa hoặc thương mại dịch vụ cụ thể ở nước ta.

137
3. Hãy nêu các bộ phận chủ yếu của kết cấu hạ tầng thương mại? Chỉ
rõ những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với kết cấu hạ tầng
thương mại. Thực tiễn quản lý và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại ở
nước ta có những ưu, nhược điểm gì?
4. Các nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về thương mại trên
địa bàn lãnh thổ cấp tỉnh (hoặc thành phố trực thuộc Trung ương)? Nội
dung nào được coi là quan trọng đối với quản lý của chính quyền địa
phương về thương mại trên địa bàn?
5. Sự khác biệt cơ bản giữa nội dung quản lý nhà nước về thương
mại ở cấp Trung ương và địa phương (tỉnh/thành phố trực thuộc Trung
ương) là gì? Lợi ích và khó khăn, trở ngại khi triển khai phân cấp các nội
dung quản lý đó cho địa phương?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Luật Thương mại (1997), Điều 225; Luật Doanh nghiệp 2005,
Điều 161; Luật Du lịch 2005, Điều 10; Luật Hàng không dân dụng 2006,
Điều 8; Luật Đất đai 2013, Điều 22; Luật Sở hữu trí tuệ, Văn bản hợp
nhất 2013, Điều 10; Luật Chứng khoán, Văn bản hợp nhất 2013, Điều 7.
2. Nghị định 57/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/06/2006 về
Thương mại điện tử, Điều 5.
3. TS. Thân Danh Phúc, TS. Hà Văn Sự (2006), Tập bài giảng Quản
lý nhà nước về thương mại, Bộ môn Kinh tế thương mại, Trường Đại học
Thương mại (Lưu hành nội bộ).
4. TS. Trang Thị Tuyết (2004), Giáo trình Quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực kinh tế, NXB Giáo dục, trang 87-91.

138
Chương 6
PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI

Trong quản lý nhà nước về thương mại, pháp luật là công cụ quản lý
quan trọng nhất, có tính hiệu lực và hiệu quả cao. Mục tiêu của chương
này là giúp người học hiểu rõ bản chất, những nguyên lý, cơ chế áp dụng
và thực thi pháp luật về thương mại. Nội dung chương trình bày bản chất
và vai trò của pháp luật về thương mại, các bộ phận cấu thành trong hệ
thống các văn bản pháp luật về thương mại, những yêu cầu đối với pháp
luật về thương mại, nghiên cứu nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp trong xây dựng và thi hành pháp luật về
thương mại. Trong chương này cũng giới thiệu những khái quát về
khung khổ pháp lý đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương
mại dịch vụ.

6.1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ


THƯƠNG MẠI
6.1.1. Khái niệm và phân loại
a. Khái niệm pháp luật về thương mại
Pháp luật nói chung được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự có tính
chất bắt buộc chung (quy phạm phát luật) thể hiện ở ý chí giai cấp thống
trị và cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm
mục tiêu bảo toàn và phát triển xã hội theo các đặc trưng đã định. [1]
Trong quản lý nhà nước về thương mại, pháp luật về thương mại
được xem là một công cụ quản lý quan trọng, nó là phương tiện được
Nhà nước sử dụng để xác lập khung khổ pháp lý nhằm điều chỉnh hoạt
động lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ trên thị trường. Bởi vậy,
về bản chất pháp luật về thương mại được hiểu là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều chỉnh những

139
quan hệ kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình lưu thông hàng hóa và
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm thực hiện mục tiêu phát triển
thương mại, kinh tế - xã hội của đất nước. Pháp luật về thương mại có
một số thuộc tính cơ bản sau:
Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của pháp luật về thương mại:
- Các hoạt động thương mại của thương nhân, như: Hoạt động mua,
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động hỗ trợ cho hoạt động
mua, bán trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
- Các hoạt động mang tính tổ chức của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền liên quan đến hoạt động thương mại, như: Đăng ký kinh doanh,
kiểm tra, giám sát hoạt động thương mại, giải thể và phá sản doanh
nghiệp...
Thứ hai, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về thương mại ngoài
thương nhân còn là các cơ quan có thẩm quyền khi thực hiện các hoạt
động mang tính tổ chức, như: Đăng ký kinh doanh, giải thể, phá sản
doanh nghiệp...
Thứ ba, công cụ pháp luật mang tính cưỡng chế và quyền lực của
Nhà nước. Là phương thức tác động trực tiếp của Nhà nước đối với hoạt
động thương mại trên thị trường, nó bắt nguồn từ chức năng kinh tế và
quyền lực của Nhà nước. Đặc điểm của công cụ này là hiệu quả tác động
rất rõ ràng, thời gian tác động ngắn.
b. Phân loại hệ thống pháp luật về thương mại
 Theo hệ thống ngành luật. Hệ thống ngành luật thương mại bao
gồm toàn bộ các quy phạm, các chế định có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, được sắp xếp logic có tính liên tục và tạo thành thể thống nhất.
Trong đó, mỗi quy phạm, mỗi chế định giữ một vị trí nhất định. Theo
tiếp cận này, hệ thống ngành Luật Thương mại bao gồm các bộ phận quy
phạm pháp luật cơ bản sau:
- Các quy định pháp luật về thương nhân và các loại thương nhân;

140
- Các quy định pháp luật về hành vi thương mại và các loại hành vi
thương mại;
- Các quy định pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền;
- Các quy định pháp luật về phá sản và tài phán trong thương mại;
- Các quy định pháp luật khác về quản lý nhà nước đối với hoạt
động thương mại. [1]
 Xét theo khía cạnh mức độ giá trị pháp lý và cơ quan ban hành, ở
nước ta có hai loại văn bản pháp luật về thương mại, đó là các văn bản
quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Cụ thể:
- Các văn bản quy phạm pháp luật. Trong quản lý nhà nước về
thương mại, các văn bản quy phạm pháp luật có vai trò quan trọng nhất
và được sử dụng phổ biến. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
thương mại bao gồm ba loại:
Thứ nhất, các văn bản do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội
ban hành: Hiến pháp; Luật; Nghị quyết; Pháp lệnh.
Thứ hai, các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở
Trung ương ban hành để thực thi văn bản quy phạm pháp luật của Quốc
hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, như: Lệnh; Quyết định; Chỉ thị;
Nghị định; Thông tư.
Thứ ba, các văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các
cấp ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Văn
bản do Ủy ban nhân dân ban hành còn để thi hành nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cùng cấp.
Các văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm: Phải do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; Hình thức văn bản, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục ban hành văn bản được quy định trong Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật; Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật
chứa đựng các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung (quy phạm pháp luật)

141
được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội, trong một phạm vi nhất
định nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội; và các quy phạm pháp
luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
- Các văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Văn bản áp dụng quy
phạm pháp luật về thương mại là những văn bản có tính chất cá biệt do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nhưng không có đầy đủ
các yếu tố của văn bản quy phạm pháp luật, được sử dụng một lần trong
đời sống xã hội và thường được ban hành để giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể cho đối tượng cụ thể, như: Các quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, đề
bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác đối với cán bộ,
công chức nhà nước...
 Xem xét về phạm vi và mục đích ban hành, các văn bản pháp
luật về thương mại có thể chia thành hai nhóm. Thứ nhất, nhóm những
quy định pháp luật ban hành có phạm vi và đối tượng riêng cho lĩnh
vực thương mại, như: Luật Thương mại, Luật Trọng tài thương mại,
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Viễn thông, Luật Bưu chính,
Luật Du lịch... Thứ hai, những quy định pháp luật có phạm vi điều chỉnh
chung cho nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và theo đó có liên
quan đến thương mại, ví dụ: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật
Hợp tác xã, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh...

6.1.2. Vai trò của pháp luật về thương mại


Chức năng chủ yếu và cơ bản của phát luật là điều chỉnh, bảo vệ và
giáo dục để đảm bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương hướng
nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật về thương mại thông
qua việc thực hiện chức năng này trở thành một công cụ quản lý nhà
nước về thương mại có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó trở thành phương
tiện để Nhà nước hình thành môi trường hoạt động thương mại công
bằng, bình đẳng, tạo cơ sở cho việc phát triển và hội nhập thương mại có
hiệu quả với khu vực và thế giới.

142
Vai trò của pháp luật về thương mại thể hiện ở những khía cạnh sau:
a. Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để Nhà nước điều chỉnh các
quan hệ kinh tế trong lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đảm
bảo sự phát triển hài hòa, vững chắc nền kinh tế - xã hội
Các hoạt động thương mại trên thị trường phản ánh hàng loạt quan
hệ về kinh tế - xã hội, chúng đan xen nhau, tác động qua lại với nhau và
chi phối lẫn nhau. Trong đó, trước hết là quan hệ giữa người mua và
người bán, giữa những người mua với nhau, giữa những người bán với
nhau, giữa các khâu trong quá trình lưu thông và cung ứng hàng hóa,
dịch vụ, quan hệ giữa các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, quan hệ
giữa các ngành, các lĩnh vực, giữa các vùng, tầng lớp dân cư, giữa thị
trường nội địa và thị trường quốc tế... Điều chỉnh hài hòa, hợp lý và kịp
thời các quan hệ nói trên là điều kiện cần thiết và bắt buộc để đảm bảo sự
phát triển bền vững thương mại và nền kinh tế - xã hội. Bởi vậy, nếu hệ
thống các văn bản pháp luật về thương mại phù hợp sẽ tạo ra tiền đề pháp
lý vững chắc để Nhà nước điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực thương mại, đảm bảo phát huy có hiệu quả và bền vững mọi nguồn
lực từ các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân,
các địa phương cho phát triển thương mại và nền kinh tế - xã hội.
b. Tạo căn cứ pháp lý để Nhà nước xây dựng môi trường bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạt động
thương mại nhằm nâng cao hiệu quả của lĩnh vực thương mại, cũng
như của nền kinh tế quốc dân
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế nói chung và các
thương nhân nói riêng vừa cạnh tranh với nhau vì mục đích lợi nhuận, lại
vừa hợp tác để phát triển và thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô trong
khuôn khổ luật pháp quy định. Bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, các
thương nhân bao gồm hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, bình đẳng về
quyền lợi và bình đẳng về nghĩa vụ. Hai mặt này phải thường xuyên
tương ứng với nhau, không được tách rời nhau và càng không được đối
lập với nhau. Cạnh tranh là quy luật kinh tế khách quan, là phương thức

143
để đạt được mục đích của các chủ thể kinh tế trên thương trường. Trong
điều kiện đó, luật pháp là công cụ quan trọng của Nhà nước để vừa
khuyến khích được cạnh tranh, vừa kiểm soát và chống lại sự độc quyền,
đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, là cơ sở nâng
cao hiệu quả không những trong lĩnh vực thương mại mà còn góp phần
nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.
c. Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để Nhà nước thực hiện mục tiêu
phát triển thương mại bền vững
Phát triển kinh tế và thương mại theo mô hình kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ảnh hưởng ngày càng sâu sắc và tiêu cực đến
công bằng xã hội; đến tài nguyên, môi trường sinh thái và gia tăng nhanh
sự phân hoá giàu nghèo ở mọi quốc gia, cũng như đem đến những thách
thức cho khả năng duy trì sự tăng trưởng bền vững nền kinh tế. Nói cách
khác, quá trình thực hiện thương mại hóa và tự do hoá thương mại đang
có ảnh hưởng ngày càng sâu sắc và toàn diện đến sự phát triển bền vững
ở các quốc gia hiện nay.
Trong điều kiện đó, các quy phạm pháp luật về thương mại có vai
trò là cơ sở pháp lý, công cụ quản lý của Nhà nước để điều chỉnh các
hành vi thương mại trên thị trường nhằm đạt được các mục tiêu của sự
phát triển thương mại bền vững. Chẳng hạn, các văn bản pháp luật tạo
lập môi trường phát triển thương mại; Đảm bảo sự bình đẳng và công
bằng lợi ích giữa các tầng lớp, chủ thể kinh tế trong các quan hệ thương
mại trên thị trường; Hay các văn bản pháp luật liên quan đến việc khai
thác và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên...
d. Một số vai trò cụ thể của pháp luật về thương mại. Ngoài những
vai trò chung nói trên, vai trò của pháp luật về thương mại còn thể
hiện ở một số khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật tạo ra khung khổ pháp lý cho sự
tham gia và hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Thông
qua các quy định pháp luật, Nhà nước có thể cho phép nhóm đối tượng
này mà không cho phép nhóm đối tượng khác tham gia vào kinh doanh

144
trên thị trường một lĩnh vực hay ngành hàng nào đó. Đây là vai trò khá
phổ biến của các định chế pháp lý về thương mại. Có thể ví dụ ở đây
một số quy định điển hình nhất trong các quy định pháp lý thuộc dạng
này như:
- Quy định không cho các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước
được tham gia cung cấp một số hàng hoá, dịch vụ nhất định. Dành quyền
kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ đó cho các doanh nghiệp nhà nước
hoặc doanh nghiệp do Nhà nước lập nên chỉ để kinh doanh các hàng hoá,
dịch vụ đó. Một số lĩnh vực thường thấy áp dụng các quy định dạng
này như lĩnh vực cung ứng dịch vụ kiểm định, chứng thực, mật mã cơ
yếu, lĩnh vực cung ứng hàng hoá phục vụ an ninh, quốc phòng, dự trữ
quốc gia...
- Quy định không cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia
kinh doanh một số ngành hàng, lĩnh vực nhất định. Chỉ cho phép các
doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp trong nước liên doanh với
doanh nghiệp nước ngoài với một tỷ lệ góp vốn bắt buộc nhất định được
phép kinh doanh, tham gia thị trường. Một số lĩnh vực thường thấy áp
dụng các quy định dạng này là: Lĩnh vực cung ứng dịch vụ viễn thông
liên lạc, dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, dịch vụ phân phối
hàng hoá...
- Quy định chỉ cho phép các doanh nghiệp đáp ứng đủ một số điều
kiện nhất định (như về tài chính, trình độ lao động, cơ sở hạ tầng kỹ
thuật...) mới được tham gia kinh doanh vào thị trường một số ngành
hàng, lĩnh vực nhất định. Một số lĩnh vực thường thấy là lĩnh vực kinh
doanh các ngành hàng năng lượng, nhiên liệu, khí đốt, lĩnh vực kinh
doanh các ngành dịch vụ tư vấn luật, dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục...
Thứ hai, các quy định pháp lý có vai trò tác động tới các đối tượng
hàng hoá, dịch vụ được kinh doanh trên thị trường và tạo ra khung khổ
pháp lý đối với các chủ thể kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ đó trên
thị trường. Thông thường, đó là những quy định về loại hàng hoá, dịch
vụ được phép hay không được phép kinh doanh, loại hàng hoá, dịch vụ

145
hạn chế kinh doanh hoặc loại hàng hoá, dịch vụ phải bảo đảm những điều
kiện nhất định mới được phép kinh doanh... Hay đó cũng có thể là những
quy định về mức độ chất lượng, quy cách, thậm chí là cả mẫu mã của
những loại hàng hoá được kinh doanh trên thị trường. Ví dụ: Quy định
cấm kinh doanh đối với một số chủng loại hàng hoá; Quy định về chất
lượng sản phẩm hàng hoá phải bảo đảm đủ những điều kiện nhất định
mới được phép lưu thông, kinh doanh trên thị trường...
Thứ ba, bên cạnh các quy định về các chủ thể tham gia kinh doanh
trên thị trường, các đối tượng hàng hoá, dịch vụ được kinh doanh trên thị
trường, các quy định pháp lý còn có vai trò tác động tới việc hình thành
và điều chỉnh cách thức các chủ thể kinh doanh hàng hoá trên thị trường.
Thông thường, đó sẽ là những quy định về việc cho phép các doanh
nghiệp được kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ nhất định dưới dạng
này mà không được kinh doanh dưới dạng khác, hoặc kinh doanh dưới
dạng này nhưng phải theo những quy tắc nhất định.
Ví dụ, đối với lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, việc kinh doanh phân
phối mặt hàng xăng dầu được quy định bắt buộc dưới hình thức đại lý
hoặc tổng đại lý cho các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu theo
một quy chế riêng mà không được kinh doanh dưới bất kỳ hình thức nào
khác. Các đại lý và tổng đại lý phân phối xăng dầu phải tuân thủ những
quy định theo Nghị định 55/2007/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2007 của
Chính phủ về quản lý kinh doanh xăng dầu và Quyết định số
1505/2003/QĐ-BTM, Quyết định số 11/2007/QĐ-BTM về ban hành và
sửa đổi, bổ sung Quy chế đại lý kinh doanh xăng dầu. Theo đó:
- Mọi cửa hàng, điểm bán lẻ xăng dầu không thuộc hệ thống phân
phối của doanh nghiệp xăng dầu đầu mối hoặc hệ thống phân phối của
Tổng đại lý do doanh nghiệp xăng dầu đầu mối thiết lập đều không được
phép kinh doanh xăng dầu trên thị trường.
- Tổng đại lý chỉ được ký hợp đồng làm tổng đại lý cho một thương
nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc một thương nhân
sản xuất, chế biến xăng dầu.

146
- Đại lý chỉ được ký hợp đồng làm đại lý bán lẻ xăng dầu cho một
tổng đại lý hoặc một thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng
dầu hoặc một thương nhân sản xuất, chế biến xăng dầu.
- Cửa hàng, trạm bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc doanh
nghiệp sản xuất, chế biến xăng dầu phải chịu sự kiểm soát của doanh
nghiệp đó; Phải niêm yết giá bán các loại xăng dầu theo hợp đồng đại lý
và bán đúng giá niêm yết; Biển hiệu phải ghi đầy đủ các nội dung theo
quy định của pháp luật và tên, biểu tượng (lô-gô) của doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu hoặc doanh nghiệp sản xuất, chế
biến xăng dầu theo hướng dẫn của doanh nghiệp đó.
- Chỉ được mua, bán xăng dầu với các thương nhân trong hệ thống
(trừ việc bán cho người tiêu dùng) và chịu trách nhiệm về chất lượng, số
lượng, giá xăng dầu bán ra."
Thứ tư, các quy định pháp lý có vai trò tác động tới sự hình thành và
phát triển các không gian kinh tế, kết cấu hạ tầng kinh tế, là nơi các chủ
thể kinh doanh tổ chức hoạt động kinh doanh và là nơi mà các mặt
hàng trong những ngành hàng hoá khác nhau được buôn bán, trao đổi
và lưu thông.
Ví dụ, trong lĩnh vực kinh doanh phân phối hàng hoá tổng hợp, hình
thức kinh doanh qua các siêu thị, trung tâm thương mại bắt buộc phải
tuân thủ theo các quy định của Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại do
Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) ban hành kèm theo Quyết
định số 1371/2004/QĐ-TTg ngày 24 tháng 9 năm 2004. Theo đó, việc
đầu tư xây dựng và tổ chức hoạt động kinh doanh của các siêu thị, trung
tâm thương mại phải tuân theo một số quy định cơ bản như sau:
“- Chủ đầu tư xây dựng mới hoặc sửa chữa lớn, cải tạo, nâng cấp
siêu thị, trung tâm thương mại phải lập dự án theo các quy định hiện
hành về quản lý đầu tư xây dựng. Địa điểm xây dựng siêu thị, trung tâm
thương mại phải phù hợp với Quy hoạch phát triển mạng lưới thương
mại của địa phương.

147
- Khi lập dự án xây dựng siêu thị, trung tâm thương mại chủ đầu tư
phải căn cứ vào các tiêu chuẩn cơ bản về phân hạng siêu thị, trung tâm
thương mại của Quy chế này để xác định quy mô đầu tư phù hợp với
từng hạng siêu thị, trung tâm thương mại.
- Hàng hóa, dịch vụ kinh doanh tại siêu thị, trung tâm thương mại
phải bảo đảm đúng các quy định của pháp luật và thực hiện những yêu
cầu cụ thể sau:
+ Có tên thương mại riêng hoặc tên thương mại của siêu thị hoặc
trung tâm thương mại (nếu hàng hóa, dịch vụ không có tên thương mại
riêng phải có tên hàng hóa, dịch vụ) và phải ghi rõ xuất xứ của hàng hóa
theo quy định của pháp luật.
+ Có mã số, mã vạch đối với những loại hàng hóa có thể đăng ký mã
số, mã vạch để thuận tiện cho công tác quản lý của siêu thị, trung tâm
thương mại và giám sát của khách hàng.
+ Đối với hàng hóa là thực phẩm phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ
sinh, an toàn thực phẩm và ghi rõ thời hạn sử dụng trên bao bì đóng gói.
Nếu là nông sản, thực phẩm ở dạng tươi hoặc sơ chế không có bao bì
đóng gói sẵn thì phải qua chọn lọc, phân loại, ghi rõ xuất xứ, chất lượng
và thời hạn sử dụng tại giá hàng, quầy hàng.
+ Tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ kinh doanh tại siêu thị, trung tâm
thương mại phải có giá bán được thể hiện rõ ràng trên nhãn hàng hóa,
bao bì hàng hóa hoặc được niêm yết tại giá hàng, quầy hàng, điểm kinh
doanh dịch vụ.
+ Hàng hóa có bảo hành phải ghi rõ thời hạn và địa điểm bảo hành.
+ Nguồn hàng được tổ chức cung ứng ổn định và thường xuyên
thông qua đơn hàng hoặc hợp đồng với các nhà sản xuất kinh doanh.
- Không được kinh doanh tại siêu thị, trung tâm thương mại các loại
hàng hóa, dịch vụ sau đây:

148
+ Hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm kinh doanh theo quy định
của pháp luật; hàng lậu, hàng giả, hàng không rõ xuất xứ, hàng quá thời
hạn sử dụng và hàng không đảm bảo chất lượng theo quy định của pháp
luật, như: hàng mất phẩm chất, hàng kém chất lượng, hàng nhiễm độc và
động thực vật bị dịch bệnh...
+ Hàng hóa không đúng quy định về nhãn hàng hóa, về tem thuế
hàng hóa nhập khẩu và tem thuế hàng hoá tiêu thụ đặc biệt.
+ Hàng hóa có chứa chất phóng xạ hoặc thiết bị phát bức xạ i-on hóa
quá mức độ cho phép theo quy định.
+ Các loại vật liệu nổ; các loại chất lỏng, chất khí dễ gây cháy nổ
(như xăng dầu, gas, khí nén...).
+ Các loại thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật thuộc danh mục hạn
chế kinh doanh theo quy định của pháp luật.
+ Hàng hóa có chứa hóa chất độc hại thuộc danh mục hạn chế kinh
doanh theo quy định của pháp luật."...

6.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH KHUNG KHỔ PHÁP LÝ


VỀ THƯƠNG MẠI
Ngoài hệ thống văn bản pháp luật do các cơ quan quản lý nhà nước
ban hành, các hoạt động thương mại trong điều kiện tự do hóa và hội
nhập còn chịu sự điều chỉnh của các định chế quốc tế về thương mại. Bởi
vậy, trong điều kiện hiện nay, các bộ phận cấu thành khung khổ pháp lý
về thương mại sẽ được xem xét bao gồm:

6.2.1. Hệ thống các quy phạm pháp luật quốc gia


- Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước. Hiến pháp
xác định chế độ chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước nên Hiến pháp có
giá trị pháp lý cao nhất trong mọi lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế - xã
hội, trong đó có lĩnh vực thương mại. Liên quan đến lĩnh vực hoạt động
thương mại, Hiến pháp nước ta hiện nay ghi nhận những vấn đề quan
trọng sau:

149
+ Xác định rõ định hướng cũng như mục đích xây dựng nền kinh tế
của đất nước.
+ Xác định rõ chế độ sở hữu nhà nước.
+ Công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và sự bình đẳng
của các thành phần kinh tế trong kinh doanh.
+ Ghi nhận sự tự do kinh doanh của công dân.
+ Ghi nhận các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
+ Xác định rõ các công cụ quản lý kinh tế, cũng như quy tắc xử lý
những vi phạm trong kinh doanh...
Những quy định liên quan đến chế độ kinh tế và các quyền tự do
kinh doanh trong Hiến pháp là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc thực hiện
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh nói chung và các
thương nhân nói riêng. Do vậy, Hiến pháp là cơ sở pháp lý và là một
công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước về thương mại.
- Bộ luật dân sự. Sau Hiến pháp, Bộ luật dân sự là đạo luật có vị trí
quan trọng trong hệ thống pháp luật, liên quan mật thiết đến mọi mặt đời
sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực thương mại. Đối với quản lý
nhà nước về thương mại, Bộ luật dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
thông qua việc quy định về các vấn đề: Tài sản và sở hữu, bảo vệ quyền
sở hữu, hợp đồng, sở hữu trí tuệ, chuyển quyền sử dụng đất... Bộ luật dân
sự quy định các chuẩn mực pháp lý cho các quan hệ thương mại phát
triển trong môi trường pháp lý thống nhất, rõ ràng, có độ tin cậy cao.
Cùng với các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật kinh tế, Bộ
luật dân sự góp phần xây dựng nên khung pháp lý cần thiết cho sự vận
hành của nền kinh tế thị trường, tạo nên môi trường pháp lý thuận lợi và
thống nhất cho các hoạt động thương mại phát triển.
- Các luật do Quốc hội thông qua. Các văn bản pháp luật về thương
mại do Quốc hội thông qua bao gồm:

150
+ Các luật quy định về địa vị pháp lý của các thương nhân, như:
Luật Doanh nghiệp; Luật Hợp tác xã...
+ Các luật quy định cụ thể về các loại hành vi thương mại, như: Luật
Thương mại; Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật Ngân hàng...
+ Luật phá sản quy định thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản đối với
thương nhân lâm vào tình trạng phá sản.
- Các văn bản dưới luật. Các văn bản dưới luật về thương mại bao
gồm:
+ Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp tồn
tại những hoạt động mà hiện chưa có văn bản luật điều chỉnh thì Ủy ban
thường vụ Quốc hội sẽ ban hành các pháp lệnh để điều chỉnh các hoạt
động đó. Ở nước ta trước đây có khá nhiều pháp lệnh điều chỉnh các hoạt
động cụ thể trong lĩnh vực thương mại, ví dụ: Pháp lệnh giá; Pháp lệnh
đo lường; Pháp lệnh trọng tài thương mại;... nhưng hiện nay đã được luật
hóa. Một số Pháp lệnh về tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp hàng
hóa nhập khẩu vào Việt Nam,... vẫn đang còn hiệu lực thi hành.
+ Nghị định của Chính phủ. Trong thực tiễn, để điều chỉnh các hoạt
động thương mại và các hoạt động liên quan trực tiếp đến hoạt động
thương mại, Chính phủ cần thiết phải ban hành các nghị định để hướng
dẫn cụ thể việc thi hành các văn bản luật của Quốc hội hoặc các pháp
lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong một số trường hợp cụ thể,
khi chưa có văn bản luật hoặc pháp lệnh thì nghị định của Chính phủ sẽ
là văn bản chính để điều chỉnh các hoạt động đó. Hiện nay, ở Việt Nam
còn khá nhiều nghị định của Chính phủ trong lĩnh vực thương mại.
- Các văn bản dưới luật khác. Để hướng dẫn cụ thể các hoạt động
mang tính chất nghiệp vụ trong lĩnh vực thương mại, các bộ, các cơ quan
ngang bộ còn ban hành các thông tư hướng dẫn. Các nghị quyết, quyết
định và chỉ thị của một số cơ quan có thẩm quyền được ban hành trong
quá trình quản lý nhà nước về thương mại cũng thuộc các văn bản dưới
luật nằm trong hệ thống các quy phạm pháp luật về thương mại.

151
6.2.2. Các định chế thương mại quốc tế
a. Các điều ước quốc tế về thương mại
Điều ước quốc tế về thương mại là những thỏa thuận được ký kết
giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên quốc gia, liên chính phủ, có
hiệu lực ràng buộc thực hiện, điều chỉnh quan hệ thương mại theo xu thế
toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các điều ước
quốc tế về thương mại ngày nay có vai trò ngày càng quan trọng. Các vai
trò này thể hiện ở một số đặc điểm sau:
- Cố định tương đối những nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc
tế về thương mại đã được thừa nhận chung.
- Phát triển những quy tắc mới về những vấn đề thương mại quốc tế
cho tới nay vẫn chưa được chuẩn hóa.
- Là một trong những phương tiện, cách thức để các quốc gia chủ
động hội nhập kinh tế, thương mại quốc tế, để thúc đẩy quá trình tự do
hóa thương mại.
Có hai loại điều ước quốc tế điều chỉnh hoạt động thương mại
quốc tế:
Thứ nhất, là các điều ước quốc tế quy định những nguyên tắc pháp
lý chung, mang tính chỉ đạo đối với các hành vi thương mại của các
thương nhân giữa các quốc gia khác nhau. Ví dụ như các Hiệp định của
GATT/WTO quy định về nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc
Đãi ngộ quốc gia (NT) trong quan hệ thương mại giữa các nước thành
viên.
Thứ hai, là các điều ước quy định một cách trực tiếp các quyền và
nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại quốc
tế. Ví dụ, một điều ước điển hình thuộc loại này là Công ước của Liên
Hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, được 11 nước ký kết
ngày 01/01/1980 tại Viên (Áo). Công ước quy định thủ tục ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách
nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng.

152
Các điều ước quốc tế đã được các chính phủ tham gia ký kết hoặc
dẫn chiếu tới sẽ được áp dụng trong quản lý nhà nước đối với hoạt động
thương mại của thương nhân và của doanh nghiệp của các nước đó. Các
điều ước quốc tế về thương mại chưa được các quốc gia ký kết hoặc công
nhận thì không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể hoạt động thương
mại quốc tế của họ trừ khi chúng được dẫn chiếu đến trong các hợp đồng
kinh doanh quốc tế.
Theo các quy định của pháp luật hiện hành Việt Nam, có hai phương
pháp áp dụng điều ước quốc tế về thương mại:
- Đối với điều ước quốc tế về thương mại mà Nhà nước ta đã tham
gia ký kết và phê chuẩn thì sẽ áp dụng các điều ước quốc tế đó.
- Đối với các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa tham gia hoặc
chưa công nhận thì chỉ áp dụng những điều, khoản không trái với pháp
luật Việt Nam và khi có sự thỏa thuận giữa các bên.
b. Các tập quán quốc tế về thương mại
Các tập quán quốc tế về thương mại cũng có thể trở thành khung
pháp luật để Nhà nước sử dụng điều chỉnh các hoạt động thương mại
quốc tế. Đó là các thói quen thương mại phổ biến, được áp dụng thường
xuyên trên phạm vi toàn cầu, hoặc từng địa phương mà trên cơ sở đó có
thể xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên áp dụng.
Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành tập
quán thương mại khi thỏa mãn các yêu cầu: i) Là một thói quen phổ biến
được nhiều người áp dụng và áp dụng thường xuyên; ii) Về từng vấn đề
và ở từng địa phương, đó là thói quen độc nhất; iii) Là một thói quen có
nội dung rõ ràng và người ta có thể dựa vào đó để xác định quyền và
nghĩa vụ đối với nhau.
Một tập quán thương mại quốc tế khá phổ biến là các điều kiện
thương mại quốc tế (INCOTERMS) được Phòng Thương mại quốc tế hệ
thống hóa từ năm 1937 và được biên soạn lại 10 năm một lần.

153
Các tập quán quốc tế về thương mại cũng chỉ được áp dụng khi
trong hợp đồng mua bán quốc tế quy định sẽ áp dụng nó, khi được quy
định trong các điều ước quốc tế có liên quan, khi luật quốc gia không quy
định hoặc quy định không đầy đủ các chế định cần thiết để điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế giữa các bên.
Luật Thương mại Việt Nam cũng cho phép các bên trong quan hệ
hợp đồng thương mại quốc tế được thỏa thuận áp dụng tập quán thương
mại quốc tế nếu tập quán quốc tế đó không trái với pháp luật Việt Nam
(Khoản 1 Điều 5 Luật thương mại năm 2005).
Các điều ước và tập quán quốc tế về thương mại không chỉ là nguồn
luật của công pháp, tư pháp quốc tế mà còn là bộ phận không thể thiếu
của khung pháp luật của mỗi quốc gia. Việt Nam khi tham gia các điều
ước quốc tế song phương và đa phương, các điều ước quốc tế toàn cầu và
khu vực chúng ta phải ban hành các quy phạm pháp luật trong nước để
quản lý nhà nước về thương mại đảm bảo tính phù hợp với các điều kiện
quốc tế đã ký kết.
Việc tăng cường giới thiệu rộng rãi các công ước, các tập quán quốc
tế về thương mại ở Việt Nam tới các đối tượng có liên quan, trước hết là
các doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh thương mại quốc tế là hết sức
quan trọng và cũng là một nội dung của quản lý nhà nước về thương mại.
Đây là cơ hội để các doanh nghiệp tìm hiểu và nâng cao tri thức pháp
luật, trở thành các chủ thể tham gia tích cực, năng động trên thương
trường quốc tế. Đồng thời, qua đó doanh nghiệp cũng được hưởng các ưu
đãi về thương mại có được từ các cam kết đa phương và song phương
của Nhà nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Về mặt pháp lý, các cam kết quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã
ký kết, tham gia trong các thoả thuận, hiệp định song phương và đa
phương thì các cam kết này có tính bắt buộc và các nước tham gia ký kết
buộc phải thực hiện theo lộ trình đã cam kết. Việc thực thi các cam kết
thông thường sẽ được các quốc gia thực hiện thông qua việc pháp lý hoá
bằng luật pháp, chính sách của Nhà nước về quản lý thương mại.

154
6.3. HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
THƯƠNG MẠI
6.3.1. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
thương mại
a. Những yêu cầu đối với hệ thống pháp luật về thương mại
Như đã khẳng định ở trên, pháp luật về thương mại là một công cụ
chủ yếu và quan trọng nhất của Nhà nước trong quản lý thương mại. Bởi
vậy, để đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả, pháp luật về thương mại phải
đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
- Yêu cầu về tính khách quan, tính quy luật
Pháp luật là tổng thể các quy phạm do Nhà nước ban hành theo thẩm
quyền và thể thức nhất định mang tính khuôn mẫu, tiêu chuẩn, thước đo
cho mọi tổ chức và mọi công dân trong các quan hệ xã hội. Đối với pháp
luật về thương mại đó là một phân hệ trong hệ thống pháp luật nói chung.
Phân hệ pháp luật này điều chỉnh các quan hệ trong lưu thông hàng hóa
và cung ứng dịch vụ - Một loại quan hệ phổ biến và đặc thù của quan hệ
xã hội trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về thương mại là sản phẩm
chủ quan của Nhà nước phản ánh các quy luật khách quan mà trước hết
là các quy luật kinh tế, các quy luật trong lưu thông hàng hóa, cung ứng
dịch vụ. Pháp luật thương mại là những thể chế kinh tế, thương mại mà
Nhà nước buộc các chủ thể tham gia vào hoạt động lưu thông hàng hóa
và cung ứng dịch vụ phải chấp hành nhằm thúc đẩy thương mại tăng
trưởng và phát triển bền vững.
Về bản chất, mọi quy luật kinh tế đều phản ánh lợi ích kinh tế. Bởi
vậy, các quy phạm pháp luật về thương mại đi ngược lại lợi ích kinh tế,
cản trở, kìm hãm lợi ích kinh tế đều cần phải sửa đổi, hoàn thiện cho phù
hợp với quá trình phát triển. Trong các yêu cầu đối với pháp luật về
thương mại, yêu cầu khách quan và coi trọng quy luật là yêu cầu quan
trọng nhất. Pháp luật có tuân thủ yêu cầu này mới có thể đảm bảo được
tính hiệu lực và hiệu quả của nó.

155
Để đảm bảo yêu cầu này, công tác xây dựng pháp luật cần được coi
trọng, đảm bảo việc thực hiện đúng quy trình lập pháp và quy trình lập
quy của các cơ quan nhà nước từ Quốc hội cho đến các cơ quan quản lý
từ Trung ương đến địa phương.
- Yêu cầu về tính cưỡng chế
Cưỡng chế là tính chất cơ bản của pháp luật nói chung và pháp luật
về thương mại cũng phải đảm bảo tính chất này. Các quy phạm pháp luật
phải được Nhà nước đảm bảo thi hành, nếu đối tượng không chấp hành
thì Nhà nước cưỡng chế thi hành. Chức năng pháp luật của Nhà nước
không chỉ dừng lại ở việc xây dựng pháp luật mà còn ở quá trình thực thi
luật pháp. Thực tế, việc chấp hành của pháp luật chỉ trở thành hiện thực
khi Nhà nước thực hiện tốt các công việc: i) Tổ chức tốt công tác thực thi
luật pháp; ii) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật; iii) Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh;
iv) Kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước về tư pháp.
- Yêu cầu về tính hệ thống
Pháp luật của Nhà nước là tập hợp các quy phạm pháp luật, tạo
thành hệ thống thống nhất. Cơ sở để đảm bảo tính thống nhất là sự thống
nhất về chính trị, kinh tế trên cơ sở lợi ích chung thống nhất. Để đảm bảo
tính hệ thống của pháp luật về thương mại, việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần được
chấp hành theo quy định thống nhất của Nhà nước. Theo đó, Hiến pháp
là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực cao nhất. Bởi vậy, văn bản quy
phạm pháp luật về thương mại được ban hành phải phù hợp với Hiến
pháp, đảm bảo tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản
trong hệ thống pháp luật.
- Yêu cầu về tính hội nhập quốc tế và quan điểm, đường lối, chính
sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước
Toàn cầu hóa, khu vực hóa đang là một trong những xu thế phát
triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Vì vậy, hội nhập kinh tế và

156
thương mại quốc tế là một nhu cầu nội tại khách quan của mỗi nền kinh
tế. Ngày nay, mỗi nền kinh tế dù với thể chế chính trị, đặc điểm lịch sử
và bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như chính sách thương mại riêng,
nhưng vẫn có thể và cần thiết hội nhập kinh tế và thương mại quốc tế
thông qua việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về thương mại.
Trong quá trình đó, các nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế và
thương mại quốc tế phải được thể chế hóa, pháp luật hóa. Việc xây dựng
và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thương mại trong nước,
một mặt phải xuất phát từ quan điểm, đường lối, chính sách và luật pháp
thương mại của đất nước, biểu thị thái độ chính trị - pháp lý độc lập có
chủ quyền của đất nước về hợp tác kinh tế và thương mại, mặt khác phải
căn cứ và hội nhập với hệ thống các điều ước quốc tế trên cơ sở xuất phát
từ lợi ích của đất nước và lợi ích của nước đối tác, các tổ chức quốc tế.
Hay nói cách khác, việc xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp trong
quản lý nhà nước về thương mại phải xuất phát từ quan điểm, đường lối,
chính sách và luật pháp thương mại của Đảng và Nhà nước, đồng thời
phải đảm bảo hội nhập và phù hợp với các cam kết, điều ước quốc tế về
thương mại. Điều này được thể hiện trước hết ở hệ thống pháp luật về
thuế quan, phi thuế quan; pháp luật về thương mại liên quan đến sở hữu
trí tuệ, đầu tư...
b. Các cơ quan ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong
quản lý nhà nước về thương mại
1) Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết.
2) Văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh,
Nghị quyết.
3) Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung
ương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
4) Văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành để thi
hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc

157
hội và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, văn bản do Ủy ban nhân
dân ban hành để thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp:
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Ủy ban
nhân dân.

6.3.2. Thực thi pháp luật về thương mại


a. Khái quát về tổ chức bộ máy nhà nước
Theo sự phân cấp quyền lực nhà nước, cơ cấu bộ máy nhà nước ở
nước ta hiện nay gồm ba phân hệ:
- Cơ quan trực tiếp thực hiện quyền lập pháp là Quốc hội.
- Cơ quan trực tiếp thực hiện quyền hành pháp là Chính phủ và Ủy
ban nhân dân.
- Các cơ quan trực tiếp thực hiện quyền tư pháp là Tòa án nhân dân
và Viện Kiểm sát nhân dân.
Theo cấp bậc hành chính lãnh thổ, cơ cấu bộ máy nhà nước bao
gồm:
- Cấp Trung ương.
- Cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương.
- Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
- Cấp xã, phường, thị trấn.
Theo sự phân định chức năng, các hoạt động quản lý nhà nước được
chuyên môn hóa tạo thành những cơ quan quản lý các ngành, các lĩnh
vực. Theo đó, bộ máy quản lý nhà nước ở Trung ương (Chính phủ) chia
ra thành các bộ; Bộ máy quản lý nhà nước của các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chia ra thành các sở, ban; Bộ máy quản lý các quận,
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh chia ra thành các phòng.

158
Nhà nước

Lập pháp Hành pháp Tư pháp

Quốc hội Chính phủ TW, TAND, Viện KSND


các Bộ

Chính quyền TAND, Viện KSND


tỉnh, thành phố tỉnh, thành phố
HĐND trực thuộc TW
trực thuộc TW

Chính quyền TAND, Viện KSND


quận, huyện quận, huyện

UBND
Chính quyền
phường, xã

Sơ đồ: MÔ HÌNH CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP

b. Thực thi pháp luật về thương mại của cơ quan hành pháp
Việc thực thi pháp luật về thương mại thuộc hệ thống quản lý nhà
nước ở nước ta được thực hiện theo các cấp như sau:
 Chính phủ. Theo Hiến pháp, ở nước ta Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cơ cấu Chính phủ bao gồm: Thủ tướng và
các Phó Thủ tướng Chính phủ, Các Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ. Chính phủ là cơ quan làm việc theo chế độ tập thể, những vấn

159
đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ được thảo luận tập thể và
quyết định theo đa số.
Theo phương diện thi hành luật pháp về thương mại, Chính phủ là
cơ quan hành pháp ở Trung ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện các
văn bản pháp luật về thương mại theo nhiệm vụ và quyền hạn được ghi
trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ. Trong quá trình đó, Thủ
tướng có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những Quyết định, Chỉ
thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Quyết định,
Chỉ thị của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật, văn bản luật của cơ
quan nhà nước cấp trên; Đình chỉ việc thi hành các Nghị quyết bất hợp
pháp của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
 Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ (gọi
tắt là Bộ)
Bộ là cơ quan nhà nước ở Trung ương của Chính phủ có trách nhiệm
thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý thống nhất đối với ngành hay lĩnh
vực trên phạm vi cả nước. Có thể chia các Bộ thành hai nhóm: Nhóm các
Bộ quản lý theo lĩnh vực và nhóm các Bộ quản lý ngành.
Về bản chất và thực thi luật pháp về thương mại của các Bộ có thể
khái quát như sau:
- Nhóm Bộ quản lý lĩnh vực (Các Bộ chức năng cơ bản) là các Bộ
thực hiện sự quản lý nhà nước tổng hợp theo từng lĩnh vực lớn của nền
kinh tế - xã hội, liên quan đến lĩnh vực thương mại có thể kể đến như: Kế
hoạch - Đầu tư, Tài chính, Khoa học - Công nghệ, Lao động - Thương
binh xã hội,...
- Nhóm Bộ quản lý ngành, trong lĩnh vực thương mại đó là Bộ Công
Thương (Ở nước ta trước đây là Bộ Thương mại). Bộ Công Thương là cơ
quan nhà nước Trung ương của Chính phủ có trách nhiệm quản lý, chỉ
đạo toàn diện các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp, các doanh
nghiệp kinh doanh thương mại và cả lĩnh vực công nghiệp do Bộ quản lý
về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật.

160
Theo Hiến pháp, thực thi luật pháp về thương mại ở nước ta, các Bộ
có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Ban hành những văn bản pháp quy cụ thể thuộc thẩm quyền để
chấp hành các loại văn bản pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ
quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Những quy
định do Bộ ban hành đều có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với tất cả các
Bộ, các Ủy ban nhân dân, các thương nhân và công dân trong nước.
- Chuẩn bị các dự thảo luật (Luật, Pháp lệnh) và các dự thảo khác
theo sự phân công của Chính phủ về những vấn đề liên quan đến thương
mại thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ để Chính phủ xem xét và
trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm việc chấp hành pháp luật,
thực hiện các chủ trương, chính sách, chế độ, thể lệ quản lý nhà nước
thuộc ngành hoặc lĩnh vực công tác của Bộ.
 Chính quyền địa phương, bao gồm Ủy ban nhân dân các cấp:
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và của Hội
đồng nhân dân cấp trên, thi hành pháp luật thống nhất trên phạm vi cả
nước.
c. Thực thi pháp luật về thương mại của các cơ quan tư pháp
Trong lĩnh vực thương mại, Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân
dân là những cơ quan tư pháp tham gia vào hệ thống quản lý nhà nước về
thương mại. Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân có cơ cấu tổ
chức theo các cấp từ Trung ương đến tỉnh, thành phố và các quận, huyện.
Tòa án nhân dân được lập ra để xét xử và giải quyết các vụ việc liên quan
đến các quan hệ kinh tế - xã hội, trong đó có các vụ kiện phát sinh trong
quá trình lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật trong lĩnh vực thương mại.

161
Viện Kiểm sát nhân dân được lập ra là để thực hiện chức năng kiểm soát
việc tuân theo pháp luật, thực hiện quyền công tố theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống quản lý nhà nước về thương mại, Tòa
án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân đóng vai trò ngày càng quan
trọng đối với việc thi hành pháp luật về thương mại, đảm bảo môi trường
hoạt động thương mại bình đẳng, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các thương
nhân, người tiêu dùng và Nhà nước trong các quan hệ thương mại trên
thị trường.

6.3.3. Khung pháp lý cơ bản đối với thương mại hàng hoá và
thương mại dịch vụ ở Việt Nam
Như đã nghiên cứu ở trên, ở nước ta khung pháp lý đối với thương
mại nói chung và đối với thương mại hàng hóa hay thương mại dịch vụ là
các văn bản pháp luật về thương mại bao gồm nhiều loại, từ Hiến pháp
đến các văn bản luật và dưới luật. Bên cạnh đó còn có các điều ước, tập
quán quốc tế trong thương mại mà Việt Nam tham gia. Tuy nhiên, trong
nội dung này, giáo trình chủ yếu giới thiệu các văn bản pháp luật là các
văn bản luật của quốc gia, trong đó đã pháp luật hóa những định chế
thương mại quốc tế, là văn bản pháp luật có tính cơ bản trong khung
pháp lý điều chỉnh về thương mại ở nước ta hiện nay. Cụ thể:
a. Khung pháp lý đối với thương mại hàng hóa
Ở nước ta, khung pháp lý điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hóa
được xem xét trên các khía cạnh sau đây:
- Khung pháp lý quy định về thương nhân và các loại thương nhân.
Các quy định này được đưa ra trong: Luật Thương mại (năm 2005); Luật
Doanh nghiệp (năm 2005); Luật Hợp tác xã (năm 2012) Luật Đầu tư
(năm 2005); Bộ luật Dân sự (năm 2005), Luật Phá sản (năm 2004)...
Trong đó thương nhân được hiểu là “bao gồm tổ chức được thành lập
hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh”(i). Trên cơ sở đó, thương nhân gồm có

(i)
Khoản 1, Điều 5, Luật Thương mại (năm 2005)

162
2 loại: 1) Thương nhân là cá nhân; 2) Thương nhân là tổ chức (gồm các
thương nhân với loại hình tổ chức là Doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế; Hợp tác xã; Liên hiệp Hợp tác xã; Tổ hợp tác; Hộ kinh
doanh cá thể).
- Khung pháp lý quy định về hành vi thương mại và các loại hành vi
thương mại. Các quy định pháp lý về hành vi thương mại và các loại
hành vi thương mại được đưa ra trong Luật Thương mại (năm 2005),
Luật Trọng tài thương mại (năm 2010),... Hoạt động thương mại được
quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành là hoạt động
nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời
khác(ii). Ở đây hoạt động thương mại được hiểu là tổ hợp các hành vi
thương mại.
Hành vi thương mại theo quy định của hệ thống luật pháp hiện hành
mang những đặc trưng là: Hành vi thương mại khác hành vi dân sự về
thời điểm xuất hiện và tính ổn định (về lịch sử có sau hành vi dân sự,
tính ổn định và bền vững của hành vi dân sự cao hơn); Hành vi thương
mại được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh lời; Hành vi
thương mại là hành vi mang tính chất nghề nghiệp, được thương nhân
thực hiện.
Hành vi thương mại nếu dựa trên những căn cứ khác nhau có thể
được chia ra thành những loại hành vi khác nhau. Nếu dựa vào lĩnh vực
phát sinh cũng như đối tượng của hành vi thương mại thì các hành vi
thương mại có thể chia ra thành các nhóm hành vi sau: Thứ nhất, nhóm
hành vi thương mại hàng hóa; Thứ hai, nhóm hành vi thương mại dịch
vụ; Thứ ba, nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực đầu tư và Thứ tư,
nhóm hành vi thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Trong đó, nhóm hành vi thương mại hàng hóa là những hành vi phát
sinh trong quá trình trao đổi hàng hóa, bao gồm mua bán hàng hóa và các
hoạt động khác liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa như cung ứng
các dịch vụ thương mại. Các hành vi thương mại được quy định cụ thể
(ii)
Khoản 1, Điều 3, Luật Thương mại (năm 2005)

163
trong chương 2, 3 và 5 của Luật Thương mại (năm 2005). Để điều chỉnh
các hành vi thương mại hàng hóa, hệ thống các văn bản pháp luật ở nước
ta hiện nay bao gồm: Luật Thương mại (năm 2005); Luật Trọng tài
thương mại (2010); Bộ luật Dân sự (năm 2005); Luật Doanh nghiệp
(năm 2005); Luật Cạnh tranh (năm 2004); Luật Quảng cáo (2012); Luật
An toàn thực phẩm (2010); Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
(2010); Luật Giao dịch điện tử (năm 2005); Luật Sở hữu trí tuệ (năm
2005, sửa đổi bổ sung năm 2009); Các Luật Thuế hiện hành (thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt)...
- Khung pháp lý điều chỉnh về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền.
Trong sự thống nhất tương đối, hệ thống pháp luật cạnh tranh thường
được cơ cấu thành hai bộ phận, đó là: Pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh và Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh (kiểm soát độc quyền).
Ở Việt Nam, khung pháp lý điều chỉnh về cạnh tranh và kiểm soát độc
quyền được thể hiện chủ yếu ở Luật Cạnh tranh (năm 2005): “Luật này
quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi
phạm pháp luật về cạnh tranh” (iii). Trong đó, pháp luật cạnh tranh ở
nước ta quy định “cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh
tranh đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh
doanh, xâm phạm lợi ích của các nhà kinh doanh khác, lợi ích của người
tiêu dùng và lợi ích của xã hội”, theo đó các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh bao gồm(iv): 1) Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; 2) Xâm phạm bí mật
kinh doanh; 3) Ép buộc tranh cạnh tranh; 4) Dèm pha doanh nghiệp khác;
5) Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; 6) Quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh; 7) Khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh; 8) Phân biệt đối xử của hiệp hội; 9) Bán hàng đa cấp
bất chính.

(iii)
Điều 1, Luật Cạnh tranh (năm 2005)
(iv)
Điều 39, Luật Cạnh tranh (năm 2005)

164
- Khung pháp lý về phá sản và tài phán trong thương mại
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó
hiện hữu như là một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào
thải tự nhiên của nền kinh tế thị trường. Pháp luật phá sản là một bộ phận
cấu thành nhóm các chế định pháp luật về giải quyết hậu quả của khung
pháp lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Ở nước ta hiện nay, khung
pháp lý giải quyết vấn đề phá sản trong lĩnh vực thương mại cũng như
trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác được điều chỉnh bởi Luật Phá
sản (năm 2004), Luật Doanh nghiệp (năm 2005), Bộ luật Dân sự (năm
2005)... Trong đó, pháp luật phá sản có thể được hiểu là tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã. Khung khổ pháp lý giải quyết vấn đề phá sản có vai trò to lớn
trong việc bảo vệ lợi ích chính đáng cho chủ nợ hay con nợ, lợi ích của
người lao động, của nền kinh tế, cũng như góp phần bảo đảm trật tự, kỷ
cương xã hội.
Các quy định pháp luật về tài phán trong thương mại. Tài phán trong
thương mại là việc cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh
tế phát sinh trong các quan hệ thương mại. Theo đó việc thành lập cơ
quan tòa án kinh tế và các tổ chức trọng tài phi Chính phủ là rất cần thiết.
Trong lĩnh vực thương mại, bằng các quy định pháp luật về tài phán
trong thương mại mà các cá nhân, tổ chức kinh tế thực hiện các quan hệ
thương mại thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình thông qua cơ quan tài phán và theo thủ tục giải
quyết tranh chấp mà chế định về tài phán thương mại quy định.
- Khung pháp lý về quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại.
Như chúng ta đã nghiên cứu ở chương trước, quản lý nhà nước về thương
mại là sự tác động có hướng đích, có tổ chức của hệ thống cơ quan quản
lý nhà nước các cấp trên tầm vĩ mô về thương mại đến hệ thống bị quản
lý thông qua việc sử dụng các công cụ và chính sách quản lý nhằm đạt
mục tiêu đã đặt ra. Ở nước ta các quy định pháp luật như: Luật Tổ chức

165
Chính phủ (năm 2001); Luật Thương mại (năm 1997, 2005)... quy định
nội dung, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, phân cấp của các cơ quan
quản lý chuyên ngành về thương mại nói riêng và của các cơ quan quản
lý nhà nước liên quan đến thương mại nói chung. Đồng thời, tất cả các
văn bản pháp luật về thương mại đều được xem là khung khổ pháp lý cần
thiết để các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện nội dung, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong quản lý nhà nước về thương mại.
b. Khung pháp lý đối với thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ là lĩnh vực đã phát triển khá mạnh mẽ và có vai
trò đặc biệt quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam
đây vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ, đang từng bước phát triển và hội nhập
với khu vực và thế giới. Trình độ phát triển và đặc điểm đó cũng có ảnh
hưởng không nhỏ đến việc hình thành khung pháp lý điều chỉnh thương
mại dịch vụ ở nước ta hiện nay. Khung pháp lý đối với thương mại dịch
vụ được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về thương mại nói chung
như đã nghiên cứu ở trên đối với thương mại hàng hóa. Bên cạnh đó,
trong những lĩnh vực thương mại dịch vụ cụ thể chúng lại được điều
chỉnh bởi các quy định pháp luật chuyên ngành, như: Luật Viễn thông
(năm 2009); Luật Bưu chính (năm 2010); Luật Kinh doanh bảo hiểm
(năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010); Luật Du lịch (năm 2005); Luật
Hàng không dân dụng Việt Nam (năm 2006); Bộ luật Hàng hải (năm
2005); Luật Khám, chữa bệnh (năm 2009)...

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Phân tích bản chất và vai trò của pháp luật về thương mại? Hãy
lấy ví dụ minh họa về một lĩnh vực thương mại để chứng minh những vai
trò này?
2. Trình bày nội dung thực thi pháp luật về thương mại của các cơ
quan hành pháp và tư pháp trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về
thương mại?

166
3. Phân tích các yêu cầu đối với hệ thống pháp luật về thương mại?
Những định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại ở nước
ta hiện nay?
4. Trình bày khung pháp lý đối với thương mại của một lĩnh vực
dịch vụ cụ thể (như Du lịch hoặc Bưu chính, Viễn thông,...)?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. PGS.TS. Nguyễn Viết Tý (2012), Giáo trình Luật Thương mại,
Tập 1, (Tái bản lần thứ 7), NXB Công an nhân dân.
2. TS. Bùi Xuân Nhàn (2009), Định chế pháp lý trong quản lý nhà
nước đối với các loại hình và phương thức kinh doanh ngành hàng cơ
kim khí, thực phẩm trên thị trường nội địa nước ta hiện nay (Sách
chuyên khảo), NXB Thống kê.
3. GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn - PGS.TS. Mai Văn Bưu (2008), Giáo trình
Quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.

167
168
Chương 7
KẾ HOẠCH HOÁ THƯƠNG MẠI

Kế hoạch hóa thương mại là một công cụ quan trọng trong quản lý
nhà nước về thương mại nhằm phát hiện và khai thác tối ưu các nguồn
lực, cơ hội bên trong và bên ngoài cho phát triển thương mại. Chương
này giới thiệu cho người học những kiến thức căn bản về bản chất, vai
trò và những nguyên lý khoa học (căn cứ, nguyên tắc, quy trình, phương
pháp...) cho việc hoạch định và thực thi công tác kế hoạch hóa thương
mại nói chung cũng như đối với các khâu trong quy trình kế hoạch hóa
thương mại như: Chiến lược phát triển thương mại, quy hoạch phát triển
thương mại và kế hoạch phát triển thương mại 5 năm, hàng năm. Đồng
thời, chương cũng giới thiệu và gợi mở những cơ sở khoa học làm căn cứ
cho việc đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hóa thương mại ở nước
ta hiện nay.

7.1. TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH HOÁ THƯƠNG MẠI


7.1.1. Khái niệm và sự cần thiết của kế hoạch hóa thương mại
a. Khái niệm kế hoạch hoá thương mại
Trên phạm vi vĩ mô, kế hoạch hoá là công cụ điều tiết quan trọng để
Nhà nước điều chỉnh và kiểm soát nền kinh tế. Không kể là CNXH hay
CNTB, kế hoạch hoá đều chiếm một vị trí quan trọng trong quản lý kinh
tế vĩ mô.
Ở nước ta, kế hoạch hoá là hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước
theo chương trình mục tiêu định trước nhằm đảm bảo cho nền kinh tế
phát triển lành mạnh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý để nâng cao đời
sống nhân dân và mở rộng sản xuất với hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Thương mại là một ngành kinh tế, một khâu tái sản xuất xã hội, có
mối quan hệ qua lại và chế ước lẫn nhau với các ngành kinh tế và các

169
khâu tái sản xuất xã hội khác của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, kế hoạch
hoá thương mại trở thành một bộ phận của kế hoạch hoá kinh tế quốc dân
nhằm đảm bảo hoạt động lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ phát
triển có hiệu quả trong mối quan hệ phát triển cân đối, bền vững với các
ngành và các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội trong chỉnh thể hữu
cơ của nền kinh tế quốc dân. Về bản chất, kế hoạch hoá thương mại được
xem là hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực lưu thông
hàng hoá và cung ứng dịch vụ thông qua việc xác định các chương trình
mục tiêu cho tương lai và biện pháp tổ chức thực hiện các mục tiêu đó
nhằm đảm bảo cho hoạt động lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ
trên thị trường đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
Kế hoạch hoá thương mại là một quá trình hoạt động mang tính liên
ngành và thực tiễn cao, là một thể thống nhất bao gồm từ việc xây dựng
chiến lược phát triển thương mại, quy hoạch tổng thể phát triển thương
mại, các kế hoạch định hướng 5 năm, kế hoạch hàng năm đến công tác
điều hành thực hiện, theo dõi và điều chỉnh kế hoạch.
b. Sự cần thiết của kế hoạch hoá thương mại
Kế hoạch hoá kinh tế quốc dân, trong đó có kế hoạch hoá thương
mại trở nên cần thiết ở mọi nền sản xuất xã hội phát triển nói chung và
đối với Việt Nam nói riêng xuất phát từ những lý do sau:
- Do sự phát triển cao của kinh tế hàng hoá xã hội. Chính sự phát
triển của sức sản xuất xã hội nên về mặt khách quan đòi hỏi phải tổ chức
và điều tiết sự phân phối lao động xã hội một cách có kế hoạch.
- Do những hạn chế của bản thân cơ chế thị trường mà sự vận hành
nền kinh tế - xã hội hiệu quả và bền vững đòi hỏi phải có sự can thiệp
của Nhà nước thông qua kế hoạch hoá để bổ sung và hoàn thiện cho cơ
chế thị trường do những hạn chế của nó đem lại.
- Tạo khuôn khổ tổng quát và môi trường vĩ mô cho việc thiết lập
các quan hệ hợp tác, cạnh tranh và hội nhập quốc tế một cách chủ động
và có hiệu quả.
- Đảm bảo phát triển thương mại theo định hướng XHCN.

170
7.1.2. Vị trí và vai trò của kế hoạch hoá thương mại
a. Vị trí của kế hoạch hoá thương mại
Vị trí của công tác kế hoạch hóa thương mại có thể được đánh giá từ
các góc độ sau:
- Đối với công tác quản lý, kế hoạch hoá thương mại là một khoa
học và nghệ thuật lãnh đạo, nghệ thuật phát hiện, tập hợp và vận dụng
các nguồn lực, cơ hội bên trong và bên ngoài để phát triển thương mại.
- Đối với Nhà nước, kế hoạch hoá thương mại là một công cụ quản
lý kinh tế quan trọng, có chức năng quản lý và điều tiết hoạt động lưu
thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ trên thị trường theo mục tiêu và
định hướng xác định.
- Đối với hệ thống kế hoạch hoá kinh tế quốc dân, kế hoạch hoá
thương mại là một bộ phận hợp thành của kế hoạch hoá nền kinh tế quốc
dân, có ảnh hưởng đến kế hoạch hoá của hầu hết các ngành kinh tế, các
khâu tái sản xuất xã hội khác, cũng như kế hoạch hoá của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
b. Vai trò của kế hoạch hoá thương mại
Đối với nền kinh tế quốc dân
- Đảm bảo cho hoạt động lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ
trên thị trường diễn ra một cách thông suốt, có trật tự và hiệu quả.
- Cho phép giải quyết hài hoà nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực
thương mại (xuất khẩu và nhập khẩu, tiền - hàng...), trong nền kinh tế -
xã hội (công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn, lợi ích kinh
tế với môi trường, an ninh, quốc phòng...). Trên cơ sở đó khai thác được
một cách tối ưu các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển thương
mại cũng như cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Góp phần thúc đẩy và thực hiện thành công CNH, HĐH đất nước
và từng bước đưa nền kinh tế chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới,

171
như kế hoạch hóa thương mại với mục tiêu, giải pháp cho lộ trình mở cửa
thị trường hàng hóa và dịch vụ, đảm bảo khai thác có hiệu quả và bền
vững những lợi thế so sánh của đất nước, thúc đẩy xuất, nhập khẩu và
đáp ứng được nhu cầu về máy móc, thiết bị, công nghệ, kỹ thuật, vốn cho
CNH, HĐH đất nước, đảm bảo sự cân bằng và phát triển bền vững cán
cân thương mại quốc tế...
- Đảm bảo cho lĩnh vực thương mại phát triển theo đúng định hướng
của Đảng và Nhà nước, đó là: Phát triển thương mại nhiều thành phần
hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN.
Đối với doanh nghiệp
- Thông qua các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
thương mại, hệ thống các điều kiện phát triển thương mại (về mạng lưới,
cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật, nguồn lực, chính sách thị trường,
thương nhân...) được kế hoạch hóa phù hợp với trình độ phát triển của
từng giai đoạn, cũng như đảm bảo hài hòa các lợi ích trong các quan hệ
thương mại. Hay nói cách khác, kế hoạch hóa thương mại đã tạo ra môi
trường phát triển ổn định, có trật tự và định hướng cho các hoạt động lưu
thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ trên thị trường, góp phần đẩy nhanh
và nâng cao hiệu quả quá trình tái sản xuất cho doanh nghiệp.
- Các thông tin, định hướng trong các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch của Nhà nước về phát triển thương mại là cơ sở quan trọng cho
doanh nghiệp hoạch định các chiến lược đầu tư và phát triển. Bên cạnh
đó, với hệ thống cơ chế, chính sách, giải pháp mà Nhà nước thực hiện để
đạt được các mục tiêu đưa ra trong các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển thương mại có vai trò đảm bảo cho doanh nghiệp phát
triển đúng hướng, an toàn và hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, mọi
doanh nghiệp hoạt động đều thông qua thị trường, bởi vậy, vai trò của
công tác kế hoạch hóa thương mại được thể hiện ở đây không chỉ đối với
các doanh nghiệp thương mại mà còn đối với mọi doanh nghiệp tham gia
trên thị trường.

172
7.1.3. Các nguyên tắc và nội dung của kế hoạch hoá thương mại
a. Các nguyên tắc kế hoạch hoá thương mại
Các nguyên tắc kế hoạch hóa thương mại là những chuẩn mực,
những đòi hỏi vừa mang tính khách quan, vừa phản ánh bản chất chế độ
chính trị của Nhà nước khi hoạch định mục tiêu và các chính sách, giải
pháp phát triển thương mại được đưa ra trong các chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch phát triển thương mại. Các nguyên tắc này bao gồm:
- Quán triệt đường lối của Đảng. Nhà nước thực hiện kế hoạch hoá
nền kinh tế quốc dân, trong đó có thương mại thực chất là nhằm cụ thể
hoá đường lối của Đảng, biến đường lối của Đảng thành hành động của
quần chúng thông qua việc xây dựng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ
và hệ thống cơ chế, chính sách tổ chức thực hiện kế hoạch. Vì vậy,
đường lối, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng phải trở thành
căn cứ quan trọng, xuyên suốt quá trình kế hoạch hóa thương mại.
- Đảm bảo có căn cứ khoa học và thực tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi
kế hoạch hoá thương mại phải dựa trên cơ sở nhận thức và vận dụng
đúng đắn yêu cầu của các quy luật khách quan và phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh thực tế. Nếu không kế hoạch hóa sẽ trở thành viển vông,
chủ quan duy ý chí.
- Đảm bảo tính tập trung và dân chủ. Sự lãnh đạo tập trung của Nhà
nước trong kế hoạch hoá thương mại nhất thiết phải kết hợp với phát huy
đầy đủ sự tham gia của các cấp, các ngành và của dân chúng. Điều đó
một mặt đảm bảo tính thống nhất trong quản lý, động viên được tính
năng động, sáng tạo, hiệu quả khai thác nguồn lực của các cấp, các địa
phương, của quần chúng, đồng thời khắc phục được khuynh hướng bảo
thủ, chủ quan duy ý chí, thoát ly thực tiễn.
- Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo vùng lãnh
thổ. Nguyên tắc này được đưa ra trên cơ sở yêu cầu của phân công lao
động xã hội theo ngành và lãnh thổ nhằm điều hoà, phối hợp hoạt động
kinh tế giữa các ngành trên từng vùng lãnh thổ. Một mặt, nhằm khai thác

173
tốt nhất các yếu tố nguồn lực, mặt khác từng bước hình thành các ngành
kinh tế - kỹ thuật và cơ cấu kinh tế hợp lý trên từng vùng lãnh thổ.
- Tiết kiệm và có hiệu quả kinh tế cao. Yêu cầu khách quan của kế
hoạch thương mại là với lượng nguồn lực có hạn, trong một thời gian
nhất định phải đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Cơ sở khoa học
của nguyên tắc này là quy luật tiết kiệm thời gian lao động. Tiết kiệm và
hiệu quả kinh tế có quan hệ với nhau. Tiết kiệm tất yếu dẫn đến hiệu quả
kinh tế. Song tiết kiệm là biện pháp. Nâng cao hiệu quả kinh tế là mục
tiêu cần đạt tới. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao ngoài tiết kiệm là biện
pháp quan trọng, kế hoạch hoá thương mại phải dựa trên phương pháp
luận khoa học, lựa chọn phương án kế hoạch tốt nhất.
b. Nội dung kế hoạch hoá thương mại
Một cách tổng quát, kế hoạch hoá thương mại bao gồm các nội dung
chủ yếu sau:
- Đánh giá, phân tích thực trạng phát triển thương mại, các yếu tố,
các quy luật kinh tế tác động đến thương mại. Những mối quan hệ nhân
quả khách quan của môi trường trong nước và quốc tế tác động đến sự
phát triển thương mại.
- Dự báo những xu hướng phát triển thương mại có thể hình thành
trong tương lai.
- Xác định các mục tiêu, nhiệm vụ và chỉ tiêu phù hợp với chiến
lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển thương mại trên cơ sở phân tích
thực trạng, những dự báo và quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước.
Hoạch định các chương trình phát triển thương mại tổng thể và theo các
ngành hàng chủ yếu, các vùng lãnh thổ, theo các chương trình, dự án thông
qua hệ thống các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm và hàng năm.
- Đề xuất các giải pháp, các cơ chế, chính sách nhằm thực hiện thành
công các mục tiêu, nhiệm vụ trên.

174
7.1.4. Quy trình kế hoạch hoá thương mại
Bước 1. Xây dựng chiến lược phát triển thương mại.
Bước 2. Xây dựng quy hoạch phát triển thương mại. Quy hoạch phát
triển thương mại là sự cụ thể hoá các quan điểm, nội dung của chiến lược
phát triển thương mại.
Quy trình xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển thương mại
có nội dung chủ yếu là đưa ra các mục tiêu và quan điểm phát triển
thương mại; Dự báo những khả năng, định hướng phát triển kinh tế
thương mại; Những phương án phát triển và giải pháp thực hiện cho
quãng thời gian dài (10 - 15 hoặc 20 năm).
Chiến lược và quy hoạch phát triển thương mại là căn cứ, tiền đề của
các kế hoạch thương mại. Chất lượng kế hoạch thương mại có được nâng
cao, phù hợp với thực tiễn và đảm bảo mục tiêu quản lý vĩ mô về thương
mại của Nhà nước hay không chính là do khâu xây dựng chiến lược và
quy hoạch phát triển thương mại góp phần quyết định.
Bước 3. Xây dựng kế hoạch phát triển thương mại 5 năm và hàng
năm. Các loại kế hoạch này nhằm cụ thể hoá nội dung của quy hoạch
phát triển thương mại. Bước này thực chất là đưa quy hoạch vào thực
hiện từng bước. (Xem mô hình)

CHIẾN LƯỢC QUY HOẠCH KẾ HOẠCH


THƯƠNG MẠI THƯƠNG MẠI THƯƠNG MẠI

Mô hình: QUY TRÌNH KẾ HOẠCH HÓA THƯƠNG MẠI

7.1.5. Quá trình kế hoạch hoá thương mại


Quá trình kế hoạch hóa thương mại bao gồm các bước và các nội
dung sau:
(1) Giao chỉ tiêu kế hoạch và phổ biến kế hoạch. Thông qua chiến
lược, quy hoạch tổng thể phát triển thương mại của cả nước đã được

175
Chính phủ phê duyệt, Bộ Công Thương tiến hành giao chỉ tiêu và phổ
biến quan điểm chỉ đạo phát triển thương mại cho các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
Trên cơ sở đó và điều kiện cụ thể của địa phương, Sở Công Thương
các tỉnh, thành phố phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư tiến hành xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại của địa
phương trình UBND tỉnh, thành phố phê duyệt để đưa vào thực hiện.
(2) Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và biện pháp thực hiện
các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Bộ Công Thương cùng với các
Bộ, Ngành và các địa phương nghiên cứu, hoàn chỉnh hệ thống cơ chế,
chính sách và biện pháp liên quan đến thương mại nhằm thực hiện các
mục tiêu đã xác định trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát
triển thương mại.
Các chính sách và biện pháp đó bao gồm: Chính sách khuyến khích
hàng xuất khẩu, khuyến khích tiêu dùng trong nước, khuyến khích cạnh
tranh, các chính sách hội nhập, các biện pháp cân đối vốn đầu tư, cân đối
các nguồn lực, các giải pháp phát triển thị trường, tiêu thụ hàng hoá và
dịch vụ...
(3) Kiểm tra thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Bộ Công
Thương phối hợp với các địa phương mà trực tiếp là các Sở Công
Thương tổ chức kiểm tra, giám sát tình hình triển khai các chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch nhằm phát hiện ra những sai lệch, hạn chế và
nguyên nhân của những sai lệch, hạn chế đó. Đây là cơ sở để điều chỉnh
và tìm kiếm giải pháp thực hiện các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
phát triển thương mại.
(4) Điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Điều chỉnh
các mục tiêu, chính sách hay các biện pháp của các chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch là một khâu quan trọng trong quá trình thực hiện kế
hoạch hóa thương mại. Những điều chỉnh này nhằm đảm bảo tính hợp lý,
khoa học và tính hiện thực của các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
phát triển thương mại trong những tình huống cụ thể của điều kiện kinh

176
tế, chính trị, xã hội... Cần có quan điểm đúng đắn, không thể cứng nhắc,
bất di, bất dịch, cần xử lý linh hoạt, năng động cho phù hợp với thực tiễn.

7.2. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI


7.2.1. Khái niệm chiến lược phát triển thương mại
"Chiến lược" vốn là một thuật ngữ được dùng trong lĩnh vực quân sự
với ý nghĩa là nghệ thuật phối hợp các lực lượng quân sự, chính trị, kinh
tế, tinh thần để dành thắng lợi. Những năm gần đây, thuật ngữ chiến lược
được sử dụng rộng rãi vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế - xã
hội và trở thành một khái niệm cơ bản trong lý thuyết ra quyết định.
Cho đến nay, khái niệm về chiến lược cũng còn có những cách hiểu
khác nhau. Tuy nhiên, những đặc trưng của chiến lược được thừa nhận
rộng rãi là:
- Cho một tầm nhìn dài hạn, nói chung từ 10 năm trở lên, chứ không
phải là những mục tiêu, giải pháp cụ thể, ngắn hạn.
- Làm cơ sở cho những hoạch định phát triển toàn diện, là cơ sở cho
xây dựng quy hoạch và các kế hoạch phát triển 5 năm, hàng năm.
- Mang tính khách quan, có căn cứ khoa học chứ không chỉ dựa vào
mong muốn chủ quan của những người trong cuộc.
Như vậy, chiến lược phát triển thương mại có thể hiểu là một bản
luận cứ có cơ sở khoa học xác định đường hướng cơ bản phát triển
thương mại trong khoảng thời gian 10 năm hoặc dài hơn, nó là căn cứ để
hoạch định các quy hoạch và kế hoạch phát triển thương mại.
Chiến lược phát triển thương mại hình thành nhằm đảm bảo cho hoạt
động lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ đem lại hiệu quả kinh tế -
xã hội cao nhất trên cơ sở khai thác tối ưu các nguồn lực và phát triển
theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Vì vậy, cũng có
thể xem chiến lược thương mại là sự cụ thể hoá đường lối của Đảng và
Nhà nước trong lĩnh vực thương mại cho từng thời kỳ với những mục
tiêu tổng quát và những giải pháp thực hiện chủ yếu có tính nguyên tắc.

177
Phân biệt chiến lược phát triển thương mại với đường lối và các kế
hoạch phát triển thương mại:
- Chiến lược phát triển thương mại được phân biệt với đường lối
phát triển thương mại ở chỗ chiến lược là sự cụ thể hoá đường lối, thể
hiện ở những mục tiêu cụ thể và biện pháp thực hiện. Qua đó làm tăng
tính hiện thực và tác dụng chỉ đạo thực tiễn của đường lối.
- So với kế hoạch ngắn hạn và trung hạn thì chiến lược phát triển
thương mại mới chỉ nêu lên những mục tiêu lớn, có tính tổng hợp, những
giải pháp thực hiện có tính nguyên tắc và cũng chỉ mới tính đến những
chỉ tiêu và quan hệ cân đối chủ yếu.
- So với kế hoạch dài hạn, do thời gian bao quát của nó tương đối dài
nên không thể không giới hạn ở việc xác định những mục tiêu lớn, tổng
quát của sự phát triển thương mại cho một tương lai tương đối xa và ở
việc xác định những giải pháp thực hiện lớn, có tính nguyên tắc, những
quan hệ cân đối chủ yếu. Vì vậy, về thực chất chiến lược và kế hoạch dài
hạn phát triển thương mại là không có những khác biệt cơ bản.

7.2.2. Phân loại chiến lược phát triển thương mại


a. Theo cấp quản lý Nhà nước, có các loại chiến lược:
- Chiến lược thương mại quốc gia. Chiến lược này thể hiện những
quan điểm chỉ đạo mang tính tổng thể với những mục tiêu tổng quát và
hệ thống giải pháp vĩ mô. Đây là cơ sở, căn cứ để các vùng, các tỉnh,
thành phố xây dựng chiến lược phát triển thương mại cho địa phương
mình. Chiến lược thương mại quốc gia do Bộ Công Thương xây dựng
trình Chính phủ phê duyệt.
- Chiến lược thương mại vùng lãnh thổ. Trên cơ sở chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ và chiến lược thương mại quốc
gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương và các tỉnh, thành phố
thuộc vùng lãnh thổ nghiên cứu xây dựng chiến lược thương mại vùng
lãnh thổ. Đây là chiến lược nhằm khai thác những lợi thế mang đặc trưng

178
vùng trong phát triển thương mại và là một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội chung của vùng.
- Chiến lược thương mại tỉnh, thành phố. Chiến lược này là một bộ
phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành
phố, được xây dựng dựa trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương và chiến lược thương mại quốc gia. Chiến lược thương
mại tỉnh, thành phố do Sở Công Thương tiến hành xây dựng và trình Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố phê duyệt.
b. Theo phạm vi lãnh thổ, có các loại chiến lược:
- Chiến lược thương mại nội địa. Đây là chiến lược có phạm vi thực
hiện giới hạn ở thị trường trong nước. Nội dung của chiến lược này là
xây dựng các mục tiêu, chính sách và biện pháp nhằm phát triển lưu
thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ trong nước, điều tiết, ổn định giá cả
thị trường, đáp ứng tốt nhất nhu cầu về dịch vụ, hàng hoá, vật tư cho sản
xuất và tiêu dùng toàn xã hội.
- Chiến lược thương mại quốc tế. Chiến lược này xây dựng nhằm
mở rộng giao lưu, trao đổi hàng hoá và dịch vụ với thị trường khu vực và
thế giới, góp phần thúc đẩy sự tham gia của nền kinh tế vào quá trình
phân công lao động quốc tế.
Chiến lược thương mại nội địa và chiến lược thương mại quốc tế có
mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ nhau trong một thể thống nhất nhằm phát
triển thương mại của một quốc gia hay một vùng, một địa phương.
c. Theo nội dung cấu thành của chiến lược, có các loại chiến lược:
- Chiến lược sản phẩm/ mặt hàng.
- Chiến lược thị trường.
- Chiến lược các nguồn lực: Vốn, lao động, CSVCKT...
Các chiến lược này được xây dựng như những yếu tố, bộ phận hợp
thành nhằm đạt được mục tiêu mà các chiến lược thương mại quốc gia,
vùng lãnh thổ, địa phương đặt ra.

179
7.2.3. Các quan điểm và nguyên tắc cơ bản của chiến lược phát
triển thương mại
a. Các quan điểm
Các quan điểm trong chiến lược phát triển thương mại vừa có ý
nghĩa chỉ đạo xây dựng chiến lược, vừa là tư tưởng, linh hồn của bản
chiến lược mà trong từng nội dung của chiến lược phải thể hiện và quán
triệt. Ở nước ta, chiến lược phát triển thương mại phải quán triệt các quan
điểm cơ bản sau:
- Phát triển thương mại phải dựa trên quan điểm, đường lối phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
- Phát triển thương mại phải đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cao,
ổn định và bền vững.
- Phát triển thương mại phải đảm bảo thúc đẩy tự do hoá thương
mại, gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, từng bước hội
nhập với thương mại khu vực và thế giới.
- Phát triển thương mại theo hướng văn minh, hiện đại, gắn phát
triển thương mại với bảo vệ môi trường sinh thái và giữ gìn bản sắc
dân tộc.
- Phát triển thương mại phải đảm bảo giữ vững được an ninh, quốc
phòng của đất nước.
b. Các nguyên tắc trong chiến lược phát triển thương mại
- Phải cụ thể hoá được đường lối phát triển thương mại trên những
vấn đề mấu chốt và những biện pháp chủ yếu nhất nhằm giải quyết
những vấn đề đó.
- Phải thể hiện được những đặc thù của nền kinh tế về trình độ xã hội
hoá, bối cảnh quốc tế và mức độ hội nhập của nền kinh tế. Nghĩa là phải
khai thác được tối ưu những thời cơ và thách thức của đất nước cho phát
triển thương mại.

180
- Phải thể hiện được những động lực chủ yếu của nền kinh tế - xã
hội đối với thương mại, động lực tổng hợp mang lại những đột biến nhờ
đó làm cho thương mại năng động, đạt tốc độ phát triển cao, vượt qua
được những biến cố phức tạp.
- Phải thể hiện được tính tối ưu, tức là đảm bảo được sự phát triển
đạt hiệu quả cao, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng nhằm nâng cao
những đóng góp lợi ích kinh tế - xã hội của thương mại.
- Phải có đủ tầm nhìn bao quát về phạm vi thời gian, không gian, về
quan điểm và biện pháp.
+ Về thời gian phải đủ dài (10 - 20 năm).
+ Không gian phải có tác động đến hoạt động lưu chuyển hàng hoá
trong phạm vi cả nước và có thể vượt ra ngoài phạm vi một nước.
+ Về quan điểm phải có cách nhìn tổng hợp và toàn diện.
+ Về biện pháp phải đồng bộ và đúng thời cơ.

7.2.4. Quá trình hoạch định chiến lược phát triển thương mại
Bước 1. Phân tích môi trường. Chất lượng hoạch định các mục tiêu
và phương án chiến lược phát triển thương mại phụ thuộc chủ yếu vào
việc phân tích các yếu tố môi trường kinh tế - xã hội và môi trường quốc
tế có liên quan đến thương mại.
Việc phân tích các yếu tố môi trường cần phải chỉ rõ: Trình độ phát
triển thương mại của quốc gia hay địa phương nghiên cứu; Những yếu tố
có ảnh hưởng đến sự phát triển của thương mại, phạm vi và mức độ tác
động của chúng; Xu hướng vận động của các yếu tố môi trường đến sự
phát triển của thương mại; Những thời cơ và thách thức có thể đem lại
đối với sự phát triển thương mại trong thời gian thực hiện chiến lược.
Bước 2. Xác định các mục tiêu chiến lược. Trên cơ sở các kết quả
phân tích môi trường, các nhà hoạch định tiến hành xây dựng các mục
tiêu chiến lược phát triển thương mại. Các mục tiêu chiến lược là những

181
kết quả mà quốc gia hay địa phương cần phải đạt đến trong thời gian
thực hiện chiến lược. Các mục tiêu chiến lược phải đảm bảo tính rõ ràng,
khả thi, có khả năng phối hợp các nguồn lực tối ưu. Các mục tiêu chiến
lược phát triển thương mại bao gồm:
- Mục tiêu doanh thu lưu chuyển hàng hoá (bán buôn và bán lẻ),
cung ứng dịch vụ (quy mô, tốc độ, cơ cấu).
- Mục tiêu doanh thu lưu chuyển hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên
các thị trường đô thị, nông thôn, miền núi.
- Mục tiêu kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ (quy mô,
tốc độ, cơ cấu), cán cân thương mại quốc tế.
- Mục tiêu đóng góp vào GDP của nền kinh tế (tổng mức và tỷ trọng).
- Mục tiêu phát triển hệ thống thương mại hiện đại và truyền thống
(số lượng, quy mô, cơ cấu)...
Bước 3. Phân tích và lựa chọn các phương án chiến lược. Để đạt tới
mục tiêu có thể có nhiều phương án, song việc lựa chọn một phương án
hợp lý, có khả năng thực thi cao và với một hao phí nguồn lực thấp nhất
là công việc hết sức quan trọng của hoạch định chiến lược. Khi phân tích
lựa chọn các phương án chiến lược phát triển thương mại có thể sử dụng
2 phương pháp sau:
- Phương pháp trực tiếp so sánh các phương án chiến lược thông qua
việc so sánh nội dung với nội dung, giải pháp với giải pháp chiến lược.
- Phương pháp cho điểm, xây dựng thang điểm cho từng phần chiến
lược, sau đó chấm điểm theo thang thống nhất rồi tổng kết lại, phương án
có số điểm cao nhất sẽ được lựa chọn.
Có thể lựa chọn ra một phương án tối ưu và điều chỉnh, lựa chọn nó.
Cũng có thể lựa chọn một phương án khá nhất rồi bổ sung bằng các ưu
điểm của các phương án chiến lược không được lựa chọn, trên cơ sở đó
điều chỉnh lại cho tối ưu.

182
Bước 4. Tổ chức thực hiện chiến lược. Đây là bước đưa những mục
tiêu trở thành hiện thực, quyết định sự thành công của chiến lược. Nội
dung của việc tổ chức thực hiện chiến lược bao gồm:
- Phổ biến và quán triệt tư tưởng, nội dung chiến lược đến các cấp và
quần chúng thực hiện chiến lược.
- Xây dựng các quy hoạch, kế hoạch nhằm cụ thể hoá chiến lược
phát triển thương mại ở từng cấp, lĩnh vực quản lý thương mại.
- Xây dựng các chính sách, giải pháp và cơ chế phối hợp giữa các
cấp, các ngành nhằm triển khai thực hiện các mục tiêu chiến lược.
Bước 5. Kiểm tra, đánh giá thực hiện chiến lược thương mại. Quá
trình kiểm tra, đánh giá thực hiện chiến lược là bước cuối cùng trong
hoạch định chiến lược. Việc xem xét, rà soát lại toàn bộ chiến lược nhằm
khẳng định tính đúng đắn của chiến lược đã xây dựng, kiểm định các
mục tiêu và giải pháp. Đồng thời thông qua kiểm tra, đánh giá nhằm điều
chỉnh lại mục tiêu chiến lược và cơ chế, chính sách cho phù hợp với đòi
hỏi của điều kiện thực tiễn. Vì vậy, để việc kiểm tra có hiệu quả phải xác
định rõ mục đích, nội dung kiểm tra, cơ chế kiểm tra, xác định nguyên
nhân sai lệch và biện pháp điều chỉnh, khắc phục.

7.3. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI


7.3.1. Khái niệm quy hoạch phát triển thương mại
Quy hoạch phát triển thương mại là một đề án khoa học luận chứng
các phương án phát triển thương mại theo lãnh thổ các vùng, các tỉnh,
thành phố, các quận /huyện nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược đã đề
ra, là sự cụ thể hoá chiến lược với những dự tính cần thiết cho sự phát
triển thương mại của địa phương đó.
Quy hoạch phát triển thương mại có thể được coi như là sự cụ thể
hóa chiến lược phát triển thương mại theo không gian và thời gian.
Mục đích của quy hoạch phát triển thương mại là tìm ra phương án
hay nghệ thuật khai thác các lợi thế so sánh, các nguồn lực và sử dụng

183
chúng theo lãnh thổ trong mối quan hệ phát triển hiệu quả và bền vững ở
một chỉnh thể kinh tế. Quy hoạch phát triển thương mại bao gồm các nội
dung chủ yếu sau:
1) Đánh giá tình hình phát triển thương mại thời kỳ đã qua trong một
khoảng thời gian đủ dài (thường khoảng 10 năm).
2) Xác định quan điểm, mục tiêu phát triển thương mại thời gian
quy hoạch.
3) Xây dựng các phương án phát triển thương mại và tổ chức
không gian.
4) Các giải pháp phát triển thương mại trong quy hoạch.

7.3.2. Phân loại quy hoạch phát triển thương mại


Căn cứ vào các tiêu thức phân loại, quy hoạch phát triển thương mại
có một số cách phân loại cơ bản sau:
a. Theo quy mô lãnh thổ, có các loại quy hoạch:
1) Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại quốc gia.
2) Quy hoạch phát triển thương mại của các miền, vùng.
3) Quy hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố.
4) Quy hoạch phát triển thương mại của các quận, huyện.
b. Theo đặc điểm địa bàn lãnh thổ, có các loại quy hoạch:
1) Quy hoạch phát triển thương mại địa bàn đô thị.
2) Quy hoạch phát triển thương mại địa bàn nông thôn.
3) Quy hoạch phát triển thương mại địa bàn nông thôn, vùng trung
du và miền núi.
c. Theo loại hình hoạt động thương mại, có các loại quy hoạch:
1) Quy hoạch hệ thống các trung tâm thương mại.
2) Quy hoạch hệ thống chợ và siêu thị.

184
7.3.3. Căn cứ và nguyên tắc cơ bản của quy hoạch phát triển
thương mại
a. Những căn cứ cơ bản trong quy hoạch phát triển thương mại
Việc xây dựng quy hoạch phát triển thương mại phải được dựa trên
những căn cứ vững chắc, đảm bảo tính khoa học, thống nhất, cho phép
khai thác tối ưu các lợi thế tiềm năng trong phát triển thương mại về mặt
địa lý. Cụ thể, các căn cứ chủ yếu khi xây dựng quy hoạch phát triển
thương mại bao gồm:
- Chiến lược phát triển thương mại (quốc gia, vùng lãnh thổ hay tỉnh,
thành phố tuỳ thuộc vào quy mô quy hoạch).
- Chiến lược, quy hoạch chung phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, vùng lãnh thổ làm quy hoạch. Đặc điểm tiềm năng, lợi thế và
những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội và thương mại của địa
phương, vùng lãnh thổ đó.
- Căn cứ vào những kết quả dự báo phát triển thương mại. Các xu
hướng và yếu tố tác động đến lĩnh vực thương mại, trong đó quan
trọng là:
+ Xu thế phát triển kinh tế và thương mại khu vực và thế giới, đặc
biệt là xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá.
+ Những biến đổi trong cơ chế quản lý kinh tế và xã hội.
+ Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
+ Xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội theo vùng.
+ Xu thế chuyển đổi cơ cấu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư...
b. Những nguyên tắc cơ bản trong quy hoạch phát triển thương mại
(1) Đảm bảo tính tổng thể. Nguyên tắc này đòi hỏi quy hoạch phát
triển thương mại của từng địa phương một mặt phải dựa trên lợi thế so
sánh và tiềm năng của địa phương, song mặt khác phải hoàn toàn thống
nhất với quy hoạch chung phát triển thương mại trên phạm vi cả nước.

185
Đồng thời phải trở thành một bộ phận không tách rời trong quy hoạch
kinh tế - xã hội của địa phương đó.
(2) Đảm bảo tính hợp lý. Quy hoạch phát triển thương mại phải đảm
bảo phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, tiềm năng của đất
nước, của từng địa phương. Các mục tiêu và chương trình phát triển
thương mại vạch ra trong quy hoạch phải có tính hiện thực, khả thi.
(3) Đảm bảo tính hiệu quả. Đây là nguyên tắc quan trọng đặt ra
trong quy hoạch, đòi hỏi quy hoạch phải có khả năng phối hợp tối ưu các
nguồn lực và lợi thế so sánh của từng địa phương, vùng lãnh thổ nhằm
đem lại lợi ích kinh tế - xã hội cao nhất cho địa phương, vùng lãnh thổ và
quốc gia.
(4) Đảm bảo sự phát triển bền vững. Nguyên tắc này đặt ra trong
quy hoạch phát triển thương mại là lợi ích kinh tế phải hài hoà với các lợi
ích chính trị, xã hội, môi trường, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua
lợi ích lâu dài. Nói cách khác, sự phát triển của thương mại hiện tại phải
đảm bảo không làm tổn hại đến sự phát triển của tương lai.

7.3.4. Phương pháp dự báo trong quy hoạch phát triển thương mại
Hiện nay có nhiều phương pháp khác nhau có thể sử dụng trong dự
báo quy hoạch phát triển thương mại, song những phương pháp phổ biến
thường được áp dụng là: Phương pháp ngoại suy xu thế, phương pháp
mô hình hoá và phương pháp chuyên gia.
(1) Phương pháp ngoại suy xu thế. Việc sử dụng ngoại suy xu thế
trong dự báo quy hoạch phát triển thương mại có nghĩa là nghiên cứu lịch
sử của đối tượng dự báo và chuyển xu thế của nó đã phát hiện được trong
quá khứ và hiện tại sang tương lai với điều kiện:
- Đối tượng đó đã phát triển tương đối ổn định trong một thời gian.
- Những điều kiện chung cho sự phát triển của nó vẫn được duy trì
trong một khoảng thời gian nào đó trong tương lai.

186
- Trong tương lai sẽ không có những tác động mạnh gây ra sự phát
triển đột biến của nó.
Nội dung của phương pháp ngoại suy xu thế gồm các giai đoạn:
- Xây dựng chuỗi thời gian của đối tượng nghiên cứu.
- Xác định xu thế bằng phân tích đồ thị, phân tích các số liệu thống
kê hoặc xây dựng một loạt hàm quen thuộc rồi so sánh chúng với nhau
theo những tiêu chuẩn thống kê nhất định.
- Xác định các tham số của hàm xu thế bằng phương pháp bình
phương tối thiểu, phương pháp điểm chọn hoặc những phương pháp khác
phức tạp hơn.
- Ngoại suy xu thế là thủ tục đơn giản, để dự báo trạng thái của đối
tượng nghiên cứu trong tương lai chỉ cần thay giá trị mới của thời gian
nằm ngoài khoảng thời gian của chuỗi đã xây dựng vào hàm xu thế.
- Xác định khoảng tin cậy của dự báo trong đó giá trị dự báo có thể
rơi vào với xác suất cho trước.
Ngoại suy xu thế là phương pháp đơn giản và có thể cho kết quả với
độ chính xác cao khi dự báo ngắn hạn hoặc đối với sự khả năng phát
triển thương mại tương đối ổn định. Trong trường hợp ngược lại, phương
pháp này có thể không đem lại kết quả chính xác như mong muốn.
(2) Phương pháp mô hình hoá. Là phương pháp có nhiều ưu điểm
hơn cả bởi thông qua mô hình các mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ tiêu
dự báo được phối kiểm, đồng thời con người có thể chủ động xây dựng
những quĩ đạo phát triển trong tương lai theo những kịch bản khác nhau.
Mô hình là một cấu trúc trừu tượng hoá, mô tả tính quy luật phát
triển của đối tượng nghiên cứu bằng một ngôn ngữ nào đó (ký hiệu logic,
đẳng thức, bất đẳng thức, hàm số, phương trình... hoặc ngôn ngữ thông
thường). Mô hình là cái thay thế, cái đại diện cho đối tượng nghiên cứu,
đồng hình, đồng cấu với đối tượng đó. Xây dựng và xử lý mô hình cho
phép thu được những kiến thức mới về đối tượng.

187
Mô hình hoá logic được sử dụng chủ yếu để mô tả định tính sự phát
triển của thương mại trong tương lai. Các mô hình logic được áp dụng
phổ biến trong xây dựng các "kịch bản", sự tương tự trong lịch sử của
phát triển thương mại.
Mô hình hoá toán học cho phép mô phỏng các quá trình thương mại
hiện thực, phản ánh về mặt số lượng mối quan hệ qua lại giữa nhiều nhân
tố đã phát hiện được bằng phân tích định tính, cho phép sử dụng kết quả
của những dự báo độc lập về biến động của từng nhân tố. Điều đó đòi hỏi
phải xây dựng và sử dụng trong dự báo một hệ thống mô hình phù hợp
nhất với bản chất của hiện tượng thương mại hiện thực được nó mô tả.
(3) Phương pháp đánh giá của chuyên gia. Là phương pháp thu thập
và xử lý những đánh giá dự báo bằng cách tập hợp và hỏi ý kiến các
chuyên gia giỏi thuộc lĩnh vực chuyên ngành liên quan đến kinh tế,
thương mại.
Để áp dụng phương pháp chuyên gia phải tiến hành lựa chọn chuyên
gia, hỏi ý kiến chuyên gia và xử lý các kết quả dự báo của họ bằng những
thủ tục toán học, logic nhất định để rút ra ý kiến chung và độ thống nhất
ý kiến của các chuyên gia về thời gian xuất hiện của các sự kiện hoặc về
tầm quan trọng của các sự kiện.
Phương pháp chuyên gia được áp dụng trong những trường hợp các
dữ kiện thực không thoả mãn những yêu cầu đặt ra cho nó (đầy đủ, chính
xác, khách quan) hoặc đối tượng dự báo không thể đo bằng số lượng do
đó không thể áp dụng các phương pháp khoa học chính xác.
Để dự báo có căn cứ và xác thực các quá trình phát triển thương mại
phải áp dụng tổng hợp các phương pháp dự báo. Kết quả phương pháp
này bổ sung, kiểm tra kết quả dự báo bằng phương pháp khác.

188
7.4. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI 5 NĂM VÀ
HÀNG NĂM
7.4.1. Khái niệm kế hoạch phát triển thương mại 5 năm và
hàng năm
- Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các nội dung của chiến lược và
quy hoạch trong quá trình kế hoạch hoá, nhằm từng bước đưa các
chương trình mục tiêu chiến lược vào thực hiện. Kế hoạch 5 năm là loại
kế hoạch quan trọng, là hình thức chủ yếu của kế hoạch hoá thương mại,
bởi vì:
Thứ nhất, 5 năm là thời gian hợp lý để có thể quy định được phương
hướng phát triển thương mại tương đối sát đúng, lựa chọn được khâu chủ
đạo trong phát triển và xác định được hiệu quả của việc áp dụng kỹ thuật
mới, công nghệ mới.
Thứ hai, 5 năm là thời gian cần thiết để có thể tiến hành những chủ
trương đổi mới về tổ chức quản lý và kế hoạch hoá, áp dụng các chính
sách kinh tế, cũng như thực hiện những cam kết, lộ trình quan hệ thương
mại quốc tế.
Thứ ba, trong điều kiện phát triển khoa học - kỹ thuật hiện đại thì
5 năm là thời gian trung bình cần thiết để hoàn thành các công trình đầu
tư xây dựng cơ bản trong ngành và cũng là thời gian cần thiết đối với
việc đào tạo cán bộ...
- Đối với kế hoạch hàng năm, đây là kế hoạch nhằm thực hiện kế
hoạch 5 năm, tức là từng bước lượng hóa mức độ cho phép thực hiện các
mục tiêu phát triển thương mại 5 năm.
Thực chất kế hoạch hàng năm là kế hoạch điều hành, bao gồm cả
việc thiết lập các cân đối lớn trên cơ sở nghiên cứu, dự báo thị trường,
môi trường hoạt động thương mại mà điều chỉnh các kế hoạch tiếp theo.
Vì vậy, kế hoạch hàng năm được xem là kế hoạch hành động, thể
hiện tính hiện thực của kế hoạch hoá và là cơ sở của sự chỉ đạo, quản lý
Nhà nước đối với hoạt động lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm thực hiện tốt kế hoạch 5 năm.

189
7.4.2. Nhiệm vụ và yêu cầu
Đối với kế hoạch 5 năm: Là một loại kế hoạch quan trọng trong kế
hoạch hoá thương mại, kế hoạch 5 năm có nhiệm vụ vạch ra những
phương hướng, chỉ tiêu chủ yếu phát triển thương mại trong mối quan hệ
cân đối với các lĩnh vực hoạt động khác của địa phương hay của nền kinh
tế quốc dân.
Với nhiệm vụ đó, một mặt kế hoạch 5 năm phải cụ thể hoá được
những mục tiêu và giải pháp đã được định hướng trong các chiến lược và
quy hoạch phát triển thương mại. Mặt khác, phải thể hiện được tính bao
quát đối với toàn bộ lĩnh vực hoạt động thương mại và xác định được
những mục tiêu cần tập trung nhằm tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững.
Ví dụ, các chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển thương mại 5 năm của
các tỉnh, thành phố hiện nay thường bao gồm:
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá, cung ứng dịch vụ xã hội.
- Lưu chuyển hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên các thị trường (nông
thôn, miền núi) trong tỉnh.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn.
- Tổng kim ngạch nhập khẩu trên địa bàn.
- Các chỉ tiêu khác liên quan đến thương mại, dịch vụ.
Đối với kế hoạch hàng năm: Khác với kế hoạch 5 năm, kế hoạch
hàng năm được xem là kế hoạch hành động nhằm thực hiện kế hoạch
5 năm. Vì vậy, nhiệm vụ của kế hoạch hàng năm phải xuất phát từ nhiệm
vụ của kế hoạch 5 năm. Do vậy, yêu cầu của kế hoạch hàng năm là phải
tham gia giải quyết từng mặt của kế hoạch 5 năm, biểu thị sự chi tiết hoá
nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm. Mặc dù kế hoạch hàng năm là kế hoạch
bộ phận của kế hoạch 5 năm, nhưng không có nghĩa kế hoạch hàng năm
là một bộ phận cấu thành về mặt số học của kế hoạch 5 năm.

190
7.4.3. Nội dung và phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm,
hàng năm
a. Nội dung của kế hoạch 5 năm và hàng năm
Tuy phạm vi và mức độ cụ thể của kế hoạch 5 năm và hàng năm có
sự phân biệt, song nói chung về nội dung của 2 loại kế hoạch này thường
bao gồm những vấn đề chủ yếu sau:
(1) Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển thương mại kỳ
báo cáo: Những mục tiêu đã đạt được, những khó khăn, tồn tại và những
bài học kinh nghiệm được rút ra.
(2) Dự báo các tình huống phát triển, khả năng, cơ hội và các thách
thức; Xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát triển thương mại cho từng thời
kỳ; Xác lập một số cân đối, chỉ tiêu trong hoạt động lưu thông hàng hoá,
cung ứng dịch vụ như: Tiền - hàng, tích luỹ, tiêu dùng, xuất khẩu - nhập
khẩu, nguồn vốn trong nước và nước ngoài, nguồn nhân lực...
(3) Đề xuất chủ trương phát triển thương mại tổng thể và theo các
ngành hàng, lĩnh vực dịch vụ chủ yếu, các vùng lãnh thổ, theo các
chương trình, dự án.
(4) Đề xuất các giải pháp, các cơ chế, chính sách nhằm thực hiện
thành công các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch.
b. Phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm
Xây dựng các kế hoạch phát triển thương mại 5 năm và hàng năm có
thể sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
(1) Phương pháp quan hệ tỷ lệ, bao gồm 2 loại:
- Phương pháp tỷ lệ cố định, đây là phương pháp lấy tỷ lệ kỳ báo
cáo, coi đó là tỷ lệ tương đối cố định để dùng cho kỳ kế hoạch.
- Phương pháp quan hệ động, đây là phương pháp căn cứ vào tương
quan nhịp độ tỷ lệ phát triển của một số chỉ tiêu đã hình thành trong
thực tiễn để quy định tình hình phát triển của số chỉ tiêu này trong kỳ
kế hoạch.

191
Phương pháp quan hệ tỷ lệ có ưu điểm là tính toán dễ, nhanh, phù
hợp với việc dự thảo kế hoạch dài hạn. Tuy nhiên, vì thiếu căn cứ tính
toán kinh tế - kỹ thuật nên độ chính xác của kế hoạch xây dựng không cao.
(2) Phương pháp so sánh. Đây là phương pháp lấy một chỉ tiêu nào
đó để so sánh. Khi lập kế hoạch thường so sánh chỉ tiêu kỳ kế hoạch với
kỳ báo cáo hoặc với các chỉ tiêu đã đạt được kỳ trước.
Phương pháp này trong sử dụng phải chú ý tính chất có thể so sánh
được của chỉ tiêu và cần thấy sự khác nhau giữa nước ta và các nước
khác về điều kiện lịch sử cụ thể.
(3) Phương pháp cân đối. Phương pháp cân đối là phương pháp chủ
yếu được sử dụng trong xây dựng các kế hoạch phát triển thương mại.
Cân đối được hiểu là sự thích ứng về mặt số lượng hoặc là sự phù hợp về
khuynh hướng giữa các đại lượng.
Trong kế hoạch hoá thương mại hình thành các loại cân đối về vật tư
hàng hoá, về thu chi tài chính, cân đối tài sản, cân đối lao động, xuất -
nhập khẩu... và được thể hiện trong các bảng cân đối về hiện vật và giá trị.
(4) Phương pháp kế hoạch hoá tối ưu. Kế hoạch hoá tối ưu được tiến
hành chính là xuất phát từ tính có hạn và khả năng thay thế lẫn nhau của
các nguồn lực trong mỗi kỳ kế hoạch. Kế hoạch hoá tối ưu là lựa chọn
phương án tốt nhất trong rất nhiều phương án của kế hoạch có thể chấp
nhận được và thoả mãn những ràng buộc nhất định.
Kế hoạch hoá tối ưu được trợ giúp bởi các thuật toán quy hoạch
tuyến tính. Thông thường, tuỳ theo yêu cầu cực đại hoá hay cực tiểu hoá
các mục tiêu đề ra mà kế hoạch hoá tối ưu được phân làm 2 loại:
- Kế hoạch hoá đảm bảo kết quả cuối cùng lớn nhất với các nguồn
lực hạn chế.
- Kế hoạch hoá đảm bảo kết quả cuối cùng đạt mức đã định với tổng
chi phí nhỏ nhất về nguồn lực và thời gian.

192
Ngoài các phương pháp trên, trong xây dựng kế hoạch phát triển
thương mại 5 năm và hàng năm có thể còn sử dụng các phương pháp
khác, như: Phương pháp chương trình mục tiêu, phương pháp định mức
kinh tế - kỹ thuật, phương pháp toán kinh tế... Mặt khác, trong xây dựng
các kế hoạch phát triển thương mại cần thiết phải sử dụng đồng thời
nhiều phương pháp nhằm kiểm tra và bổ sung những hạn chế của từng
phương pháp.

7.4.4. Tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm và hàng năm


Sau khi kế hoạch được phê chuẩn, các cấp quản lý về thương mại
tuỳ theo phạm vi quản lý tiến hành đưa kế hoạch vào thực hiện thông qua
các công việc:
1) Giao và phổ biến kế hoạch đến các cấp thực hiện.
2) Hoàn thiện các cơ chế chính sách và biện pháp để thực hiện kế
hoạch.
3) Kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch và điều chỉnh kế
hoạch khi cần thiết.

7.5. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ THƯƠNG MẠI


7.5.1. Sự cần thiết đổi mới công tác kế hoạch hoá thương mại
Đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá nói chung và kế hoạch
hoá thương mại nói riêng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đặt ra như
một đòi hỏi tất yếu xuất phát từ những lý do sau:
1) Những thất bại của công tác kế hoạch hoá trong cơ chế kế hoạch
hoá tập trung trước đây mà quá trình chuyển đổi vẫn phải tiếp tục
hoàn thiện.
2) Do đòi hỏi của sự tương thích giữa quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
3) Nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển của thương mại và nền kinh
tế quốc dân.

193
7.5.2. Những xu hướng đổi mới công tác kế hoạch hoá thương mại
a. Những vấn đề đặt ra đối với quá trình đổi mới kế hoạch hoá
thương mại
Để kế hoạch hoá thương mại thực sự trở thành công cụ quản lý kinh
tế quan trọng của Nhà nước và mang lại hiệu quả cao trong lĩnh vực
thương mại, đổi mới kế hoạch hoá thương mại cần nhận thức đầy đủ
những vấn đề có tính nguyên tắc sau:
1) Kế hoạch hoá thương mại trong cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN.
2) Kế hoạch hoá thương mại trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH
và hội nhập quốc tế.
3) Kế hoạch hoá thương mại đảm bảo mối quan hệ tương quan hợp
lý giữa phát triển kinh tế thương mại với tiến bộ và công bằng xã hội.
4) Kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo
địa phương và vùng lãnh thổ.
b. Những xu hướng đổi mới công tác kế hoạch hoá thương mại
1) Xu hướng kế hoạch hoá mang tính hướng dẫn và gián tiếp.
Đây là xu hướng điển hình trong đổi mới công tác kế hoạch hoá ở
nước ta thời gian vừa qua. Theo đó, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh
được thu hẹp, chỉ còn các chỉ tiêu như: Thu, chi ngân sách Nhà nước,
phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà
nước và một số chỉ tiêu đảm bảo ổn định lưu thông hàng hóa, cung ứng
dịch vụ đối với hàng hoá, dịch vụ quan trọng, thiết yếu có ảnh hưởng đến
sự phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội. Đồng thời, phần lớn các chỉ
tiêu hiện vật trước đây được thay thế bằng chỉ tiêu giá trị, chỉ duy trì
những chỉ tiêu hiện vật đối với hàng hoá, vật tư thiết yếu như xăng dầu,
lương thực.
Một mặt, các chủ thể căn cứ vào những chỉ tiêu hướng dẫn của Nhà
nước, mặt khác xuất phát từ diễn biến của thị trường để lựa chọn các

194
quyết định kinh doanh của mình. Trong kế hoạch hoá thương mại, Nhà
nước tập trung định hướng và thông tin cho các cấp thực hiện kế hoạch
những vấn đề chủ yếu như:
- Phương hướng, mục tiêu được tập trung nhằm phát triển thương mại.
- Những thay đổi về chính sách, biện pháp và cơ chế quản lý.
- Xu thế và tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới,
những thuận lợi và thách thức trong quá trình đó.
- Những thành tựu khoa học - kỹ thuật trong nước và thế giới, khả
năng ứng dụng trong kỳ kế hoạch.
- Những tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật quốc gia và quốc tế.
- Nhu cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế về
số lượng, chất lượng, giá cả...
- Những biến động về thị trường, giá cả, tiền tệ trong nước và thế
giới.
- Các điều kiện về nguồn lực, các cơ hội và thách thức có thể khai
thác và tác động đến hoạt động thương mại trong kỳ kế hoạch...
Bảo đảm sự thống nhất nhiệm vụ kế hoạch, Nhà nước chủ yếu sử
dụng biện pháp gián tiếp thông qua các công cụ, phương pháp điều tiết vĩ
mô như chính sách thuế, lãi suất tín dụng, giá cả, khuyết khích vật chất...
2) Xu hướng kế hoạch hoá mang tính định tính và tổng quát.
Với phạm vi điều tiết được mở rộng sang mọi thành phần kinh tế và
có tính hướng dẫn là chủ yếu, kế hoạch hoá thương mại có xu hướng thu
hẹp dần những chỉ tiêu kế hoạch mang tính chi tiết nhằm thiết lập những
cơ cấu sản xuất, tiêu dùng của mọi hàng hoá và trực tiếp đến từng
doanh nghiệp.
Thay vào đó, các cơ cấu cụ thể trong sản xuất và tiêu dùng được các
doanh nghiệp trực tiếp thực hiện thông qua yếu tố tự điều chỉnh của thị
trường. Nhà nước chỉ tiến hành thiết lập những cân đối lớn, đảm bảo nền

195
kinh tế và thương mại phát triển có hiệu quả, như: cân đối giữa tích luỹ
và tiêu dùng, cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, cân đối giữa xuất
khẩu và nhập khẩu, cân đối giữa phát triển kinh tế thương mại với phát
triển bền vững, công bằng xã hội...
Việc phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức
năng quản lý hoạt động kinh doanh, Nhà nước một mặt xoá bỏ kiểu kế
hoạch hoá trực tiếp, làm thay doanh nghiệp, mặt khác tạo điều kiện cho
doanh nghiệp có quyền tự chủ về kế hoạch hoạt động của mình trên thị
trường.
3) Xu hướng kế hoạch hoá mang tính năng động, gắn liền với hiệu
quả kinh tế.
Sau những thất bại của công tác kế hoạch hoá ở nhiều nước trên thế
giới mà đặc biệt là các nước XHCN trước đây, những tiếp cận mới về
công tác kế hoạch hoá đã chỉ ra rằng không chỉ coi kế hoạch hoá đơn
thuần là soạn thảo các bản kế hoạch mà phải là một quy trình liên tục
được đặc trưng bởi việc đánh giá thường xuyên tác động của những
chính sách và có những điều chỉnh chính sách khi cần thiết. Nói cách
khác, kế hoạch hoá phải ngày càng năng động, linh hoạt và mở rộng
phạm vi cho sự vận hành của thị trường.
Đồng thời, kế hoạch hoá phải lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo và
mục tiêu phải đạt tới. Trong cơ chế thị trường, các lợi ích kinh tế là động
lực thúc đẩy và điều chỉnh các hành vi của các chủ thể trên thị trường.
Vì vậy, kế hoạch hoá phải nhận thức đầy đủ vai trò của các lợi ích kinh
tế, sử dụng các lợi ích kinh tế như những công cụ quan trọng để thực
hiện mục tiêu kế hoạch.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Phân tích vị trí và vai trò của công tác kế hoạch hóa thương mại
với tư cách là một công cụ quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta
hiện nay?

196
2. Phân tích nội dung và các nguyên tắc kế hoạch hóa thương mại?
Liên hệ thực tiễn áp dụng các nguyên tắc này trong công tác kế hoạch
hóa thương mại ở nước ta (hoặc ở một địa phương, lĩnh vực thương mại)
hiện nay?
3. Phân tích nguyên tắc và quy trình hoạch định chiến lược phát triển
thương mại? Liên hệ thực tiễn vấn đề này trong xây dựng chiến lược phát
triển thương mại nội địa (hoặc chiến lược xuất khẩu, nhập khẩu; Chiến
lược phát triển thương mại dịch vụ...) ở nước ta hiện nay?
4. Phân tích căn cứ và nguyên tắc xây dựng quy hoạch phát triển
thương mại? Liên hệ thực tiễn vấn đề này trong xây dựng quy hoạch
phát triển thương mại quốc gia (hoặc của một địa phương) ở nước ta
hiện nay?
5. Phân tích yêu cầu và nội dung của kế hoạch phát triển thương mại
5 năm và hàng năm? Vai trò của kế hoạch phát triển thương mại 5 năm
và hàng năm trong công tác kế hoạch hóa thương mại? Liên hệ thực tiễn
vai trò công tác kế hoạch phát triển thương mại 5 năm và hàng năm ở
nước ta hiện nay?
6. Phân tích sự cần thiết và xu hướng đổi mới và hoàn thiện công tác
kế hoạch hóa phát triển thương mại? Nêu một số giải pháp cho việc hoàn
thiện công tác kế hoạch hóa phát triển thương mại ở một lĩnh vực thương
mại hay địa phương cụ thể?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. TS. Đặng Đức Đạm (2000), Kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô (Sách
tham khảo), NXB Chính trị quốc gia.
2. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2002), Một
số vấn đề về lý luận, phương pháp luận phương pháp xây dựng chiến
lược và quy hoạch phát triển kinh tế Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia.

197
198
Chương 8
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI

Nhà nước tác động tới thị trường và thương mại bằng các loại chính
sách khác nhau, trong đó có chính sách kinh tế, thương mại. Đó là một
trong những công cụ chủ yếu nhà nước sử dụng để quản lý thương mại
và điều tiết thị trường. Chương này giúp người học hiểu những vấn đề cơ
bản về chính sách như khái niệm và cấu trúc các bộ phận của chính
sách, các cách phân loại và vai trò của chính sách đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội, những nguyên tắc trong thiết kế và thực thi chính sách
quản lý thương mại. Nội dung chương còn đề cập tới đặc điểm và tác
động của một số loại chính sách kinh tế, thương mại chủ yếu thường
được nhà nước sử dụng trong quản lý, những quy định cơ bản của chính
sách thương mại có liên hệ với thực tiễn Việt Nam. Để sử dụng công cụ
chính sách quản lý thương mại có hiệu lực, hiệu quả, chương này còn đặt
ra một số vấn đề về phối hợp tổ chức và triển khai thực thi chính sách
trong điều kiện hội nhập.

8.1. TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ


THƯƠNG MẠI
8.1.1. Khái niệm, vai trò của chính sách quản lý nhà nước về
thương mại
a. Khái niệm chính sách quản lý nhà nước về thương mại
Chính sách quản lý nhà nước về thương mại (hay chính sách của
Nhà nước về quản lý thương mại) là tổng thể các nguyên tắc, các quy
định, biện pháp mà nhà nước sử dụng để tác động tới lĩnh vực thương
mại nhằm đạt mục tiêu đã xác định trong từng giai đoạn cụ thể trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội [1].

199
Chính sách với tư cách là công cụ của quản lý nhà nước về thương
mại bao giờ cũng phản ánh quan điểm, chủ trương của Nhà nước cũng
như các hành động cần thiết của Chính phủ, chính quyền địa phương
nhằm đạt mục tiêu cụ thể về phát triển thương mại và thị trường trong
một giai đoạn nhất định. Bất cứ chính sách nào liên quan tới thương mại
cũng đều phải xác định rõ ràng, cụ thể các quan điểm, nguyên tắc và mục
tiêu của chính sách.
Chính sách thể hiện các quy định của Nhà nước trong việc sử dụng
các biện pháp về kinh tế hoặc ngoài kinh tế, các công cụ quản lý để tác
động tới các chủ thể kinh doanh, nhà đầu tư vào lĩnh vực thương mại và
các hoạt động trao đổi mua bán của họ. Các biện pháp về kinh tế thường
giữ vai trò động lực điều tiết, kích thích. Các công cụ của chính sách
quản lý thương mại phải có khả năng kiểm soát được, có hiệu lực thực
thi và mang tính độc lập hay khác biệt. Nhà nước có những cách thức sử
dụng, can thiệp bằng các công cụ hay biện pháp chính sách khác nhau
như: trực tiếp hoặc gián tiếp, áp đặt bắt buộc hay định hướng hành vi
theo quy tắc, chuẩn mực nhất định (theo các nguyên tắc của quản lý
nhà nước).
Chính sách của Nhà nước về quản lý thương mại bao gồm nhiều
loại. Nó có thể điều chỉnh toàn bộ hoặc từng loại hoạt động kinh tế,
thương mại cụ thể khác nhau. Trong đó, chính sách thương mại chỉ là
một bộ phận và có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế khác như
chính sách đất đai, đầu tư, tài chính, tiền tệ, giá cả, tỷ giá, thuế, lãi suất,
thu nhập, tiền lương, quản lý ngoại hối,... và hình thành nên hệ thống
chính sách kinh tế, thương mại vĩ mô của Nhà nước.
Chính sách có ý nghĩa như các chỉ dẫn (quyết định) hành động của
Nhà nước đối với các vấn đề thương mại và kinh tế, nhưng không chỉ
chứa đựng phân tích hành vi kinh tế, sự vận động của hệ thống kinh tế,
thương mại mà nó còn bao quát cả những vấn đề chính trị, xã hội và
pháp luật.

200
b. Cấu trúc của chính sách quản lý nhà nước về thương mại
Các chính sách quản lý nhà nước về thương mại thường được cấu
trúc bởi 3 bộ phận cơ bản: (1) quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nguyên tắc
của chính sách; (2) mục tiêu của chính sách; (3) các giải pháp và công cụ
của chính sách.
- Các quan điểm chỉ đạo thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
quản lý thống nhất của Nhà nước và điều hành của Chính phủ về kinh tế,
thương mại. Cần xác lập các nguyên tắc để định hướng và điều chỉnh các
hành vi kinh tế, thương mại dựa trên cơ sở các nguyên tắc chung của
quản lý nhà nước về kinh tế. Trong đó, có nguyên tắc ưu tiên về mục
tiêu, lựa chọn các nguồn lực, giải pháp hay công cụ chủ yếu để đảm bảo
hiệu lực và hiệu quả thực thi chính sách. (các nguyên tắc của chính sách,
xem 8.1.2).
- Các mục tiêu của chính sách thường được hình thành dựa trên bối
cảnh thực tiễn và xu hướng vận động của nền kinh tế, của thị trường.
Mục tiêu là cái đích, là kết quả kỳ vọng đạt được trong một giai đoạn
nhất định nhờ những nỗ lực giải quyết vấn đề bằng chính sách của Nhà
nước đối với các vấn đề thương mại và kinh tế. Mục tiêu có nhiều loại:
có mục tiêu chung và cụ thể, có mục tiêu định lượng bằng các chỉ tiêu và
mục tiêu định tính, có mục tiêu trước mắt và dài hạn,... nhưng tất cả đều
hướng tới thực hiện mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trong từng giai đoạn.
Mục tiêu chung của chính sách quản lý nhà nước về thương mại là
hướng dẫn, điều tiết, điều chỉnh các hoạt động thương mại theo chiều
hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện trên 2 mặt sau:
Một là, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể sản xuất kinh doanh trong
và ngoài nước khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế so sánh của
nền kinh tế, các doanh nghiệp trong nước chủ động vươn ra thị trường
nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào quá trình phân công lao động quốc tế,
thúc đẩy xuất khẩu. Hai là, bảo vệ sản xuất trong nước và thị trường nội
địa hợp lý, giúp các doanh nghiệp trong nước từng bước vươn lên trong

201
cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. Phát triển kinh tế, thương mại
trong điều kiện hội nhập phải hướng tới sự bền vững các mục tiêu về
kinh tế, xã hội và môi trường, giữ vững an ninh, chủ quyền lãnh thổ.
Mục tiêu cụ thể của chính sách quản lý nhà nước về thương mại
cũng đa dạng, khác nhau trong từng giai đoạn phát triển. Trong thực tiễn,
có chính sách hướng vào mục tiêu kích cầu tiêu dùng về hàng nông -
thuỷ sản; phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, kích thích sản xuất
trong nước thay thế nhập khẩu, gia tăng tỷ lệ nội địa hoá trong các lĩnh
vực gia công lắp ráp; chuyển dịch cơ cấu sản phẩm và thị trường xuất
khẩu, hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh
toán; chống buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả, bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ và các mục tiêu khác.
- Các giải pháp và công cụ của chính sách.
Các giải pháp thực hiện chính sách thường bao gồm giải pháp về
kinh tế, kế hoạch, kỹ thuật, tổ chức, con người, giáo dục, truyền thông.
Trong đó, các giải pháp chính sách về kinh tế và kế hoạch, tổ chức, kỹ
thuật công nghệ và nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng để đảm
bảo thực hiện chính sách thành công. Thực tiễn ở nước ta đã thực thi
nhiều giải pháp chính sách của Nhà nước để quản lý thương mại như xây
dựng ngành hàng hóa, dịch vụ mũi nhọn, các sản phẩm chủ lực; đầu tư
cho thương hiệu, cho xuất khẩu, cho hạ tầng thương mại, thị trường nông
thôn; xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế trọng điểm;
các ưu đãi và hỗ trợ phát triển thương mại, xúc tiến thương mại và đầu
tư; khuyến khích nghiên cứu, phát triển và ứng dụng chuyển giao khoa
học kỹ thuật, công nghệ; các giải pháp về quy hoạch thương mại; đào tạo
và phát triển thương nhân, tôn vinh doanh nhân;...
Các công cụ của chính sách có nhiều loại như: Công cụ thuế trong
chính sách tài chính, công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ, công cụ
thuế quan và phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế, các
định mức kinh tế - kỹ thuật và công cụ đòn bẩy khác. Ngoài các công cụ
gắn liền với biện pháp về kinh tế để kích thích lợi ích của các chủ thể

202
thương mại, cấu trúc công cụ của chính sách còn bao gồm các quy định
về hành chính, bắt buộc hoặc công cụ định hướng hành vi, chuẩn mực
của người bán, người mua, của các bên tham gia hợp đồng thương mại và
các công cụ kỹ thuật. Các công cụ này cũng phải sử dụng kết hợp thì các
giải pháp thực hiện chính sách quản lý nhà nước về thương mại mới có
hiệu quả, đạt được mục tiêu.
Có thể dẫn chiếu liên hệ thực tiễn về chính sách xuất khẩu của Việt
Nam trước khi gia nhập WTO phản ánh cấu trúc các bộ phận chính
sách trên:
- Quan điểm về chính sách định hướng xuất khẩu giai đoạn này là ưu
tiên hàng đầu, nhưng mới chỉ tập trung vào xuất khẩu hàng hoá nông sản
thô, nguyên liệu, tài nguyên, khoáng sản và những hàng hóa sử dụng lao
động với số lượng dồi dào, sẵn có, giá nhân công thấp.
- Mục tiêu chính sách xuất khẩu là thúc đẩy tăng trưởng theo giá trị
kim ngạch, theo sản lượng của những nhóm hàng có lợi thế so sánh trong
nước và tập trung vào các thị trường có dung lượng lớn, nhu cầu cao và
thường chấp nhận theo các phương thức trao đổi chủ yếu do nước nhập
khẩu chi phối như gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp.
- Giải pháp thực hiện gồm nhiều chính sách cụ thể như: xây dựng
sản phẩm chủ lực, gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất khẩu, xây dựng
khu chế xuất, chính sách ưu đãi (về tín dụng xuất khẩu, thuế xuất khẩu),
hỗ trợ vật chất (thưởng xuất khẩu, trợ giá),...
- Công cụ của chính sách: thuế (miễn thuế xuất khẩu, hoàn thuế đối
với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu), lãi suất
(vay phục vụ cho chế biến, xuất khẩu thấp), tỷ giá (đánh giá thấp đồng
nội tệ để thúc đẩy xuất khẩu), và các đòn bảy kích thích khác (thưởng
xuất khẩu theo tốc độ tăng trưởng sản lượng, kim ngạch xuất khẩu, sản
phẩm mới, thị trường xuất khẩu mới), trợ cấp, các ưu đãi về mặt bằng,
thuế đối với các dự án đầu tư cho xuất khẩu, khu chế xuất,...

203
Trong quá trình vận hành chính sách hiện nay, ưu tiên xuất khẩu vẫn
là định hướng chủ đạo, cấu trúc các bộ phận chính sách cơ bản không
thay đổi, nhưng quy định chính sách có sự thay đổi cho phù hợp với mô
hình tăng trưởng (không khuyến khích xuất khẩu sản phẩm thô, đặc biệt
là tài nguyên khoáng sản, không chỉ tập trung xuất khẩu những sản phẩm
có hàm lượng chất xám ít, giá trị gia tăng thấp, mà chú trọng các sản
phẩm có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao, giàu tri thức).
c. Vai trò của chính sách quản lý nhà nước về thương mại
- Vai trò định hướng phát triển kinh tế ngành, các hoạt động kinh
doanh đối với doanh nghiệp và thương nhân theo mục tiêu chiến lược và
quy hoạch phát triển thương mại.
Chính sách của Nhà nước góp phần định hướng phát triển kinh tế
ngành, kinh tế vùng trong cả nước, để tạo ra các luồng hàng hóa, dịch vụ
cung ứng trên thị trường ngày càng tăng lên, đa dạng và phù hợp với mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Định hướng, hướng dẫn doanh nghiệp
trong và ngoài nước đối với các quyết định đầu tư vào lĩnh vực thương
mại và hoạt động liên quan tới trao đổi hàng hoá, dịch vụ như hạ tầng
thương mại (chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, sàn giao dịch, kho
hàng, bến cảng, nhà ga,...), đầu tư và áp dụng các phương thức kinh
doanh mới trong các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ,
phát triển thương mại điện tử theo định hướng chiến lược, quy hoạch
phát triển thương mại và kinh tế - xã hội.
- Vai trò kích thích, điều tiết các nguồn lực đầu tư phát triển thương
mại và thị trường.
Chính sách của Nhà nước có vai trò điều tiết sự phân bổ các nguồn
lực vật chất, kỹ thuật và con người trong nền kinh tế, tạo đòn bẩy kích
thích và động lực thu hút đầu tư phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn,
chủ lực, công nghệ cao và các ngành hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có lợi
thế so sánh. Nhà nước điều tiết các hoạt động kinh tế và thương mại, điều
tiết phân bổ các nguồn lực đầu tư vào thương mại và phân phối thu nhập
chủ yếu bằng các chính sách, biện pháp kinh tế như thuế, lãi suất, giá, tỷ

204
giá, quản lý ngoại hối và các định mức kinh tế - kỹ thuật. Các ưu đãi về
thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế giai đoạn đầu sau đầu tư, điều kiện tín
dụng và lãi suất hợp lý, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, thủ tục cấp phép đầu
tư và triển khai dự án,... đi vào thực tiễn sẽ tạo động lực kích thích các
doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng thương mại, đặc biệt là hạ tầng
thương mại nông thôn và xuất nhập khẩu.
- Vai trò điều hoà cung cầu, bình ổn thị trường, giá cả và góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội.
Chính sách thương mại cùng với các chính sách kinh tế khác có ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động thị trường bởi nó tác động lên quan hệ
cung cầu, giá cả và cạnh tranh. Nhờ có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
chính sách tài khoá và tiền tệ, chính sách thương mại và đầu tư, chính
sách tín dụng, tỷ giá và quản lý ngoại hối,... bằng các biện pháp, công cụ
thích hợp trong các chính sách đó mà góp phần bình ổn thị trường, giá
cả, ổn định kinh tế vĩ mô và giải quyết được các vấn đề xã hội, an sinh
theo mục tiêu mà nhà nước đặt ra, đặc biệt đảm bảo đời sống của người
dân ở những vùng khó khăn về những hàng hóa và dịch vụ thiết yếu.
- Ngoài các vai trò chủ yếu trên, chính sách của Nhà nước về quản lý
thương mại còn có vai trò khác như: thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tái cơ cấu thị trường, thúc đẩy quá trình phân công và hợp
tác kinh tế, thương mại quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,
của ngành và doanh nghiệp, ngăn chặn đà suy giảm kinh tế do khủng
hoảng toàn cầu gây nên.
Chính sách tài chính và tín dụng, thương mại và đầu tư, khoa học
công nghệ và môi trường,... hợp lý có tác động làm chuyển dịch các
nguồn lực đầu tư vào các ngành, hình thành nên cơ cấu kinh tế mới theo
hướng tối ưu, thúc đẩy sự liên kết, hợp tác cũng như phân công lao động
trong nội bộ ngành, giữa các ngành, giữa nước ta và các nước trong quá
trình hội nhập và phát triển.
Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu và khả năng phục hồi
chậm như hiện nay, chính sách kinh tế có vai trò ổn định kinh tế vĩ mô,

205
ngăn chặn đà suy giảm kinh tế và lạm phát, cải thiện cán cân thanh toán,
lành mạnh hóa và khôi phục sức mạnh nền tài chính quốc gia.

8.1.2. Nguyên tắc cơ bản của chính sách quản lý nhà nước về
thương mại
Các chính sách của Nhà nước về quản lý thương mại trong quá trình
xây dựng và triển khai thực hiện, cần quán triệt những nguyên tắc cơ
bản sau:
a. Phải phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về phát triển kinh tế - xã hội, về công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế
Đường lối, quan điểm phát triển kinh tế - xã hội, CNH - HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước là cơ sở quyết định định
hướng, mục tiêu chiến lược phát triển thương mại trong từng giai đoạn.
Chính sách của Nhà nước về quản lý thương mại là công cụ để thực hiện
các mục tiêu chiến lược trên, do vậy khi xây dựng, triển khai thực hiện
chính sách phải quán triệt đầy đủ, đúng đắn và đảm bảo phù hợp với
đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội,
về CNH đất nước và hội nhập quốc tế.
b. Phải phù hợp với hệ thống luật pháp trong nước, các thông lệ
quốc tế và cam kết hội nhập
Chính sách được xây dựng mới, bổ sung, sửa đổi hoặc hoàn thiện
phải phù hợp với hệ thống luật pháp đã ban hành, trong đó không chỉ
thống nhất với hệ thống luật pháp trong nước, mà phải chú trọng đảm
bảo đáp ứng các quy định hợp lý về pháp luật thương mại của các nước
có quan hệ thương mại với nước ta cũng như các thông lệ, tập quán
thương mại quốc tế, các cam kết hội nhập đã ký kết. Hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật phải đầy đủ, đồng bộ và thống nhất tạo khung
pháp lý cần thiết, đúng đắn đảm bảo cho các dòng lưu thông hàng hoá,
cung ứng dịch vụ thông suốt trên cả thị trường trong và ngoài nước.
Chính sách không phù hợp với quy định luật pháp thì thương mại sẽ gặp

206
nhiều rủi ro, gián đoạn và tổn thất, thậm chí rối loạn gây nên những tác
động tiêu cực, khó lường đến kinh tế - xã hội của mỗi nước cũng như sự
phát triển khu vực và toàn cầu.
c. Phải đảm bảo tính khoa học, hệ thống, đồng bộ và thống nhất.
Tính khoa học thể hiện ở chỗ khi xây dựng và thực thi chính sách
phải căn cứ vào các quy luật khách quan của thị trường, của kinh tế và xã
hội. Căn cứ vào sự hoạt động, tương tác của các quy luật giá trị, cung cầu
và cạnh tranh, chính sách của Nhà nước phải tôn trọng các nguyên tắc tự
do trao đổi, tự nguyện và thoả thuận mua bán, thanh toán của các chủ thể
hoạt động thương mại,... đồng thời phải có định hướng điều tiết, kiểm
soát của Nhà nước.
Các nguyên tắc, phương pháp, công cụ sử dụng trong phân tích,
hoạch định và thực thi chính sách của Nhà nước về quản lý thương mại
phải đảm bảo căn cứ khoa học, tính thực tiễn, khách quan. Nếu áp đặt,
chủ quan duy ý chí bằng quyền lực hành chính đơn thuần trong quyết
định chính sách của nhà lãnh đạo sẽ ảnh hưởng làm giảm tính hiệu lực,
hiệu quả của quản lý nhà nước về thương mại.
Tính hệ thống thể hiện ở việc xây dựng một hệ thống các loại chính
sách phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về thương mại. Sở dĩ phải đảm
bảo tính hệ thống, là bởi vì hoạt động thương mại cũng như quản lý
thương mại có tính liên ngành, liên quan tới nhiều lĩnh vực và nhiều cấp
quản lý khác nhau. Chính sách có nhiều loại, thường hình thành nên các
loại chính sách cơ bản, có tính hệ thống. Mỗi loại chính sách đều có tác
động qua lại với chính sách khác và ảnh hưởng tới thương mại theo
phạm vi, mức độ khác nhau cũng như hoạt động quản lý nhà nước về
thương mại.
Tính đồng bộ thể hiện ở việc nghiên cứu, ban hành các chính sách có
liên quan hoặc cụ thể hóa các loại luật phải ăn khớp với nhau về thời
điểm triển khai nghiên cứu, ban hành, công bố chính sách; phải đồng bộ
về các phương tiện, nguồn lực, thời gian để triển khai trong thực thi.

207
Tính thống nhất thể hiện ở sự ăn khớp về quy định giữa các chính
sách có liên quan đến thương mại, không để mâu thuẫn, xung đột xảy ra,
gây khó cho bộ phận thực thi và đối tượng tiếp nhận hoặc chịu tác động
của chính sách. Tính thống nhất còn được thể hiện ở đầu mối cơ quan
chịu trách nhiệm hoạch định, ban hành chính sách cũng như thực thi,
đánh giá chính sách. Tính thống nhất chính là sự nhất quán của các văn
bản quản lý nhà nước được thể hiện trong quá trình vận hành chính sách.
d. Phải đảm bảo minh bạch, rõ ràng và có thể dự đoán được
Trong quá trình hội nhập, yêu cầu minh bạch hoá chính sách đặt ra
trong nhiều lĩnh vực đối với mỗi nước. Đây là nguyên tắc tuy gặp nhiều
khó khăn trở ngại do cả nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhưng bắt
buộc phải thực hiện. Không phải chỉ do sức ép hội nhập với bên ngoài
mà cả nhu cầu trong nước cũng đòi hỏi phải công khai, minh bạch hóa
chính sách. Trong lĩnh vực thương mại, rất cần minh bạch trong nhiều
loại chính sách có liên quan như cung ứng các hàng hóa và dịch vụ còn
mang tính độc quyền, xuất nhập khẩu tài nguyên khoáng sản, thương
nhân nước ngoài và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước và đại diện phần vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp, vấn đề hỗ trợ, trợ cấp, chính sách ưu đãi, các hàng rào kỹ
thuật, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật,...
Minh bạch hóa chính sách tạo ra khả năng có thể dự đoán được cho
cả cơ quan quản lý nhà nước và đối tượng chịu tác động của chính sách
là các doanh nghiệp, thương nhân và người tiêu dùng. Từ minh bạch hóa,
phải hình thành hệ thống thông tin, dữ liệu quốc gia về chính sách để
phục vụ công tác quản lý nhà nước về thương mại, trực tiếp là các nhà
phân tích, hoạch định chính sách, các chuyên gia kinh tế. Phải cung cấp
thông tin chính sách một cách trung thực, kịp thời cho các đối tượng chịu
tác động của chính sách, nhất là các doanh nghiệp, các thương nhân để
giúp họ có lựa chọn phương án đầu tư, kế hoạch sản xuất kinh doanh
thích hợp. Vì là nền kinh tế thị trường có điều tiết, quản lý vĩ mô của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên các chủ thể kinh doanh

208
không thể chỉ đi theo “tiếng gọi” và hoạt động theo nguyên tắc của thị
trường, mà còn phải đáp ứng các yêu cầu của các nguyên tắc quản lý nhà
nước về thương mại để đảm bảo tính định hướng, điều tiết và kiểm soát
của Nhà nước. Minh bạch hóa chính sách sẽ cho phép đạt được sự kết
hợp đó.
e. Phải đảm bảo tính thực tiễn và khả thi
Tính thực tiễn của chính sách thể hiện ở nghiên cứu hiện trạng và
tiềm năng phát triển kinh tế, thương mại và thị trường đòi hỏi các vấn đề
đặt ra phải giải quyết bằng việc sửa đổi, bổ sung hoặc đổi mới các quy
định chính sách cho phù hợp. Mặt khác khi xây dựng và lựa chọn chính
sách, cần học hỏi kinh nghiệm thực tiễn quản lý và phân tích chính sách
trong quản lý thương mại các nước để tìm ra bài học thiết thực cho Việt
Nam và các địa phương trong quá trình hội nhập.
Tính khả thi thể hiện ở chỗ công tác phân tích, hoạch định cũng như
tổ chức triển khai thực hiện chính sách phải có đủ các nguồn lực, phương
tiện, thời gian và năng lực kiểm soát, điều chỉnh. Nhờ đó, chính sách có
khả năng được hiện thực hóa, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
quản lý nhà nước về thương mại.

8.1.3. Phân loại chính sách quản lý nhà nước về thương mại
Có nhiều tiêu thức phân loại chính sách quản lý nhà nước về thương
mại. Dưới đây là một số tiêu thức phân loại phổ biến:
a. Phân theo thời gian: có chính sách tác động đến thương mại
trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Các chính sách của Nhà nước tác động vào thương mại theo thời
gian thường gắn liền với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
thương mại trong từng giai đoạn. Chính sách dài hạn và trung hạn chủ
yếu gắn với các giải pháp, công cụ để thực hiện các mục tiêu chiến lược
và quy hoạch phát triển thương mại. Chính sách trong ngắn hạn một mặt
cụ thể hoá triển khai hệ thống chính sách trong tầm nhìn trung hạn hoặc

209
dài hạn, mặt khác giải quyết những vấn đề kinh tế, thương mại hoặc thị
trường phát sinh trong giai đoạn trước mắt.
b. Phân theo đối tượng tác động: có chính sách đối với thương
nhân, nhà sản xuất, người tiêu dùng và chủ thể kinh doanh khác.
Các đối tượng chịu tác động từ chính sách của Nhà nước khác nhau
nên mức độ tiếp nhận và hấp thụ chính sách cũng khác nhau giữa các nhà
sản xuất và nhà thương mại, giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Hơn
nữa, trong cùng loại đối tượng, nhưng nhu cầu, khả năng, điều kiện
đón nhận tác động từ chính sách và tận dụng cơ hội để tạo ra kết quả
hoạt động hoặc thụ hưởng lợi ích từ mua bán hàng hóa, dịch vụ là rất
khác biệt.
Nhìn chung cách phân loại này có ý nghĩa nghiên cứu tác động điều
chỉnh lợi ích các nhóm đối tượng (thương nhân trong nước và nước
ngoài, doanh nghiệp nhà nước) hoặc ưu đãi, khuyến khích hay hỗ trợ giải
quyết khó khăn cho nhóm đối tượng nào đó (thương nhân hoạt động ở
khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo) trong
từng giai đoạn cụ thể.
c. Phân theo tính chất tác động: có chính sách tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến thương mại.
Các chính sách của Nhà nước tác động trực tiếp đến thương mại
như: chính sách thu hút vốn đầu tư (vào hạ tầng thương mại, nguồn nhân
lực và công nghệ kinh doanh); chính sách thuế; chính sách tiền tệ và
ngoại hối: chính sách tín dụng và lãi suất; chính sách giá và tỷ giá,...
Các chính sách tác động gián tiếp như chính sách đầu tư phát triển
hạ tầng chung về kinh tế - xã hội, chính sách lao động và việc làm, chính
sách môi trường, chính sách y tế, giáo dục, an sinh xã hội, chính sách hỗ
trợ thông tin, đào tạo,...
d. Phân theo phạm vi tác động: có chính sách tác động tới thị
trường ngoài nước và thương mại quốc tế, có chính sách tác động tới
thương mại và thị trường trong nước.

210
- Chính sách tác động đến thương mại và thị trường trong nước bao
gồm nhiều loại như: chính sách thu hút đầu tư vào sản xuất, thương mại
hàng hóa, dịch vụ, chính sách khoa học công nghệ, tiếp cận nguồn vốn,
lãi suất, kích cầu,... Đối với chính sách thương mại thường có các quy
định quản lý và kiểm soát hàng hóa lưu thông, dịch vụ cung ứng trên thị
trường do sản xuất trong nước tạo ra hoặc nguồn hàng từ nhập khẩu đưa
vào thị trường trong nước; các quy định về cấp phép kinh doanh, đầu tư
vào các loại hình thương mại cho tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài kinh doanh dịch vụ phân phối, cung cấp các sản phẩm dịch vụ tại
Việt Nam. Do vậy, loại chính sách này chủ yếu có phạm vi tác động đến
các giao dịch và hoạt động thương mại diễn ra tại thị trường trong nước
(lãnh thổ quốc gia hoặc ở địa bàn các địa phương).
- Chính sách tác động đến xuất nhập khẩu và thị trường ngoài nước
liên quan trực tiếp đến giao dịch thương mại và trao đổi hàng hóa, dịch
vụ quốc tế. Loại chính sách này có ảnh hưởng tới quy mô kim ngạch, sản
lượng xuất nhập khẩu, luồng thương mại và cơ cấu thị trường, tăng
trưởng kinh tế, cán cân thương mại và thanh toán quốc gia. Loại chính
sách này gồm nhiều loại như chính sách đầu tư cho xuất khẩu, xây dựng
khu chế xuất, gia công xuất khẩu, tín dụng xuất khẩu, các ưu đãi và hỗ
trợ khuyến khích xuất khẩu (qua thuế, tỷ giá, lãi suất)..., chính sách ưu
tiên nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất, thiết bị công nghệ cao, công nghệ
nguồn, hạn chế nhập hàng tiêu dùng xa xỉ, kiểm soát chất lượng hàng
hóa, dịch vụ,....
e. Phân theo đặc điểm và nội dung của chính sách tác động tới
thương mại, bao gồm:
- Chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại (chợ, trung
tâm thương mại, siêu thị, sàn giao dịch, kho bãi, nhà ga, bến cảng,...),
công nghệ kinh doanh (bán buôn, bán lẻ, logistics,... và thương mại điện
tử). Chính sách ưu đãi về đầu tư sẽ tạo môi trường thuận lợi và đáp ứng
tốt hơn nhu cầu tăng cường năng lực hạ tầng phục vụ kinh doanh thương
mại hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp và thương nhân.

211
- Chính sách về tài chính (như thuế, phí) và tín dụng ngân hàng (như
lãi suất vốn vay, điều kiện và thủ tục vay,...). Các chính sách trên nếu
được ưu đãi sẽ giúp doanh nghiệp và thương nhân giải quyết tốt hơn nhu
cầu về vốn kinh doanh.
- Chính sách về chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật và công bố hợp
chuẩn đối với sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Chính sách tự vệ, phòng vệ
thương mại và các hàng rào kỹ thuật.
Chính sách này rất quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế, thực
hiện cam kết không phân biệt đối xử theo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
(MFN) và đối xử quốc gia (NT), đảm bảo và duy trì chất lượng đối với
tất cả các hàng hoá lưu thông trên cả thị trường trong và ngoài nước.
Ngăn chặn hàng chất lượng thấp không đảm bảo vệ sinh, an toàn cho
người và động thực vật thâm nhập vào thị trường trong nước, gây ảnh
hưởng đến sức khoẻ của người dân và môi trường sinh thái.
- Chính sách giá và tỷ giá tác động trực tiếp đến lưu thông hàng hoá,
cung ứng dịch vụ của các doanh nghiệp trên cả thị trường trong nước và
ngoài nước, cán cân thanh toán của quốc gia và ổn định thị trường,
- Chính sách chống độc quyền, khuyến khích cạnh tranh tạo môi
trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, công bằng cho các doanh
nghiệp và chủ thể tham gia hoạt động kinh tế.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo phát triển đội ngũ thương nhân, doanh
nhân,...

8.1.4. Đặc điểm và vai trò một số chính sách kinh tế, thương mại
chủ yếu
a. Các chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế là bộ phận của chính sách kinh tế - xã hội, bao
gồm tổng thể các nguyên tắc, công cụ và biện pháp về kinh tế do Nhà
nước sử dụng để tác động lên toàn bộ hoạt động kinh tế, đời sống xã hội
của đất nước trong từng giai đoạn phát triển [2]. Chính sách kinh tế có

212
nhiều loại, có sự liên kết tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau hợp thành
hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Dưới đây là những chính sách kinh tế chủ yếu:
- Chính sách tài khoá
Là công cụ then chốt của quản lý nhà nước nhằm ổn định kinh tế
trong ngắn hạn, thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn và góp phần thực hiện
công bằng xã hội. Chính sách tài khóa của Nhà nước chủ yếu bao gồm
chính sách chi tiêu của Chính phủ và chính sách thuế. Thực tế việc thay
đổi chi tiêu của Chính phủ gây nên ảnh hưởng trực tiếp đến tổng cầu, qua
đó ảnh hưởng đến sản lượng và công ăn việc làm, hoặc thuế cũng gây
ảnh hưởng đến thu nhập khả dụng và tiêu dùng. Nhà nước có thể sử dụng
2 công cụ này của chính sách tài khóa để kiềm chế những biến động kinh
tế ngắn hạn. Khi kinh tế lâm vào suy thoái, có tăng trưởng thấp, thất
nghiệp cao, Chính phủ có thể tăng chi tiêu hoặc giảm thuế (chấp nhận
thâm hụt ngân sách) để “kích cầu”. Ngược lại, khi kinh tế phát triển quá
“nóng” và lạm phát tăng cao gây bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính phủ có thể
chủ động kiềm chế trạng thái đó bằng cách cắt giảm chi tiêu hoặc tăng
thuế. Với tác động của các chính sách tài khóa về phía cung hay cầu hàng
hóa, dịch vụ trên thị trường có thể gây tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến tình hình thương mại, đầu tư và kinh tế - xã hội của đất nước trong
giai đoạn đó.
- Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế, thị trường và hoạt động
thương mại thông qua việc thay đổi lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên,
cung tiền tệ chỉ điều tiết tổng cầu một cách gián tiếp bởi cơ chế lan
truyền thông qua sự thay đổi của lãi suất và phản ứng của khu vực tư
nhân trong việc quyết định tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. Khi Ngân hàng
nhà nước tăng cung tiền, tín dụng được mở rộng và lãi suất có xu hướng
giảm. Lãi suất thấp hơn có tác dụng khuyến khích tiêu dùng và đầu tư,
kết quả là tổng cầu sẽ tăng lên. Điều này sẽ làm tăng sản lượng, việc làm
và giá cả trong ngắn hạn. Mặt khác, tăng đầu tư còn có lợi cho tăng

213
trưởng kinh tế trong dài hạn. Ngược lại, Ngân hàng nhà nước có thể sử
dụng chính sách tiền tệ thắt chặt thông qua giảm cung tiền để kiềm chế
lạm phát. Với những tác động đó, chính sách tiền tệ luôn gây ảnh hưởng
với các xu hướng khác nhau đối với các hoạt động kinh tế trên thị trường.
Chính sách tiền tệ có vai trò hết sức quan trọng cả về kinh tế, xã hội và
an ninh. Do vậy yêu cầu lớn nhất đối với chính sách tiền tệ là phải đảm
bảo tính chủ động và an toàn của thị trường tiền tệ.
- Chính sách thu nhập
Chính sách thu nhập bao gồm các bộ phận cơ bản như tiền lương tối
thiểu, thuế thu nhập, các khoản trợ cấp xã hội. Chính sách này có điểm
giao nhau với chính sách tài khoá và ảnh hưởng đến tổng cầu. Tuy nhiên,
chính sách thu nhập thường được nhấn mạnh là chính sách tác động trực
tiếp đến thị trường lao động, qua đó tác động đến tổng cung.
Chính sách thu nhập nếu phối hợp tốt với các chính sách khác sẽ
có tác dụng nhằm ổn định lạm phát ở mức hợp lý. Xoá đói giảm nghèo
là một trong những ưu tiên đặc biệt trong chính sách thu nhập của
Chính phủ.
- Chính sách giá
Giá cả là một phạm trù kinh tế khách quan và quan trọng của nền
kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường thuần nhất, nó được hình
thành dựa trên cơ sở tương tác giữa các quy luật giá trị, cung cầu và cạnh
tranh. Giá cả có vai trò điều tiết quá trình tái sản xuất xã hội và phân
phối, phân phối lại thu nhập. Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
giá cả hình thành còn phụ thuộc vào sự định hướng và điều tiết của
Chính phủ. Là một phạm trù kinh tế tổng hợp, giá cả luôn biểu hiện và
chịu sự tác động của các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Đây là mối quan
hệ biện chứng, có tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy, Nhà nước cần thông
qua cơ chế chính sách giá để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô đối với nền
kinh tế và thương mại, điều khiển và giải quyết các mối quan hệ lớn của

214
nền kinh tế và đời sống xã hội. Nhà nước sử dụng chính sách giá để can
thiệp và điều tiết thị trường thông qua các hình thức trực tiếp sau:
Định giá chuẩn hoặc giá giới hạn đối với những hàng hóa, dịch vụ
đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, về lâu dài định giá theo cơ chế thị trường
chủ yếu sẽ là công việc của doanh nghiệp.
Đăng ký giá, để hạn chế lợi dụng độc quyền, đầu cơ gây rối loạn thị
trường làm tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng và Nhà nước, các
doanh nghiệp kinh doanh một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, có khối
lượng lớn chi phối thị trường thì phải đăng ký giá. Nhà nước kiểm soát
các yếu tố hình thành giá và định mức tồn kho các hàng hóa khi có dấu
hiệu đột biến về giá.
Hiệp thương giá, trong trường hợp các doanh nghiệp lợi dụng thế
độc quyền để tăng hay hạ giá gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác thì cơ
quan quản lý nhà nước về giá cần tổ chức hiệp thương giá để xác định
mức giá hợp lý nhằm bảo vệ lợi ích người sản xuất và tiêu dùng.
Niêm yết giá, các doanh nghiệp phải niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ
do Nhà nước định giá, còn các hàng hóa, dịch vụ khác thì Nhà nước cũng
khuyến khích doanh nghiệp niêm yết giá.
Nhà nước kiểm soát chi phí sản xuất, lưu thông hoặc nhập khẩu của
các doanh nghiệp đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, quan trọng;
thực hiện sự thanh tra, kiểm tra nhà nước về giá.
- Chính sách tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là quan hệ về sức mua giữa đồng bản tệ (hay nội tệ)
so với các ngoại tệ khác, đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi
tự do.
Chính sách tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng tới giá cả, xuất nhập khẩu
và dòng luân chuyển vốn quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, chính
sách tỷ giá cần được xem xét riêng như một trong những chính sách vĩ
mô quan trọng nhất, có ảnh hưởng sâu, rộng đến nền kinh tế. Nó chi phối
các loại giá khác nhau và tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh

215
tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là lạm phát. Xuất nhập khẩu là lĩnh vực
chịu sự tác động trực tiếp nhất và nhạy cảm nhất trước những biến động
của tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là một công cụ để đo lường giá trị tương đối giữa các
ngoại tệ và từ đó tác động như một công cụ trong cạnh tranh thương mại
giữa các nước. Nó ảnh hưởng lớn tới giá cả, các hoạt động kinh tế trong
nước và với nước ngoài. Một nền kinh tế càng mở bao nhiêu, quy mô và
vị trí của nền kinh tế càng tăng trưởng và mở rộng trong phân công lao
động quốc tế bao nhiêu thì vai trò của đồng tiền nước đó, sức mua của nó
với các đồng tiền khác trong thương mại quốc tế càng lớn bấy nhiêu, tác
động tỷ giá của đồng tiền đó đối với thương mại và kinh tế trong nước
cũng như trên thế giới càng lớn bấy nhiêu.
Tỷ giá hối đoái là một chính sách quản lý vĩ mô có tính hai mặt và
cũng là công cụ lợi hại được sử dụng trong chiến tranh (trả đũa) thương
mại giữa các nước có đồng tiền mạnh. Vì vậy, Chính phủ các nước luôn
quan tâm tìm cách điều chỉnh việc xác định tỷ giá trên thị trường ngoại
hối với ý đồ sử dụng nó làm công cụ để xử lý những mất cân đối lớn kể
cả hoạt động kinh tế trong nước cũng như mất cân đối trong kinh tế
đối ngoại.
Nội dung của chính sách tỷ giá hối đoái bao gồm việc chọn một chế
độ tỷ giá thích hợp, xác định mục tiêu về tỷ giá cũng như phương thức
can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết, phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn, sao cho vừa
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, vừa nâng cao hiệu quả của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chính sách tỷ giá nhằm vào các mục tiêu: khuyến khích xuất khẩu
và hạn chế nhập khẩu. Thực tế, việc đánh giá thấp (phá giá) đồng nội tệ
thường được coi là có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu, từ đó cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán (tuy nhiên
không phải mọi trường hợp đều như vậy). Đây là mục tiêu thường hay
được đặt ra đối với các nước đang phát triển nhằm tạo đà tăng trưởng

216
kinh tế và nâng cao vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế. Ngoài ra,
chính sách tỷ giá phải tạo môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn, tăng
nguồn dự trữ ngoại tệ của Nhà nước, hạn chế đầu cơ, góp phần thu hẹp
chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn.
- Chính sách chống độc quyền và khuyến khích cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn lực có thể không được sử dụng
một cách hiệu quả khi một ngành công nghiệp bị chi phối bởi một số rất
ít các công ty lớn. Các công ty này có thể cấu kết với nhau tạo ra sức
mạnh độc quyền trên thị trường nhằm đẩy giá lên cao, thu về lợi nhuận
cao, gây lũng loạn thị trường. Trong trường hợp này, chính sách chống
độc quyền và khuyến khích cạnh tranh của Nhà nước được sử dụng để:
Tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Nhà nước có
thể sử dụng các điều luật chống độc quyền nhằm ngăn cản sự sáp nhập
có nguy cơ làm giảm cạnh tranh, chia tách các công ty khổng lồ nhằm
làm tăng sự cạnh tranh và ngăn cấm các công ty thông đồng với nhau để
khống chế thị trường.
Quy định hành vi của các tổ chức độc quyền. Giải pháp này rất phổ
biến trong trường hợp độc quyền tự nhiên, khi mà một doanh nghiệp duy
nhất nào đó có thể cung ứng một hàng hóa hay dịch vụ cho toàn bộ thị
trường với chi phí thấp hơn so với trường hợp có hai hoặc nhiều doanh
nghiệp. Trong trường hợp này, Nhà nước phải quản lý giá cả của họ để
bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, không để các công ty này
bán với bất kỳ giá nào mà họ muốn.
b. Các chính sách thương mại
- Khái niệm:
Chính sách thương mại là tập hợp các quy định, biện pháp và công
cụ thích hợp mà Nhà nước sử dụng để tác động vào thị trường nhằm điều
chỉnh hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ của các chủ thể kinh
doanh, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
từng giai đoạn nhất định.

217
Mục tiêu tổng quát của chính sách thương mại là thúc đẩy phát triển
thương mại trên cả thị trường nội địa và ngoài nước, góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển, thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của xã hội, đáp
ứng tốt nhất các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Các quy định, biện pháp hoặc công cụ nhà nước sử dụng trong chính
sách thương mại như: quy định danh mục hàng hoá, dịch vụ kinh doanh
hạn chế, có điều kiện và cấm kinh doanh; chính sách phát triển đội ngũ
thương nhân; chính sách phát triển cơ sở hạ tầng thương mại; chính sách
xuất khẩu, nhập khẩu với các công cụ, biện pháp chủ yếu về thuế quan và
phi thuế quan; các công cụ, phương pháp kiểm định chất lượng, nguồn
gốc xuất xứ hàng hoá lưu thông, các biện pháp tự vệ và quy định về hàng
rào kỹ thuật,...
Các chủ thể hoạt động thương mại là thương nhân, ngoài ra còn có
các nhà sản xuất, chế biến, gia công lắp ráp tiến hành mua nguyên vật
liệu, phụ liệu phục vụ sản xuất và bán hàng hóa thành phẩm hoàn chỉnh
sau khi kết thúc quá trình sản xuất, gia công. Chính sách thương mại nói
riêng và chính sách của Nhà nước về quản lý thương mại nói chung là
khuyến khích thương nhân, doanh nhân ý chí làm giàu cho bản thân, gia
đình và xã hội theo quy định của pháp luật.
Chính sách thương mại là bộ phận hợp thành của chính sách kinh tế,
nên có tác động qua lại, phụ thuộc vào nhau và giữa các chính sách đó
đều có điểm giống nhau là phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội, CNH đất nước và hội nhập quốc tế.
- Vai trò của chính sách thương mại:
Chính sách thương mại cùng với các chính sách kinh tế khác thể
hiện vai trò, tác động trên nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
và hội nhập quốc tế:
Chính sách thương mại có vai trò thúc đẩy mở rộng trao đổi hàng
hoá, cung ứng dịch vụ trên cả thị trường trong và ngoài nước; Thúc đẩy
phát triển các ngành, các vùng kinh tế, nhất là các ngành mũi nhọn, vùng

218
kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, công nghệ cao và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế hợp lý; Thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả hoạt
động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, sức cạnh tranh của
hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế.
Góp phần giải quyết việc làm, phân phối lại thu nhập, thoả mãn nhu
cầu đời sống của các tầng lớp dân cư, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và
đảm bảo an sinh xã hội, phát huy lợi thế so sánh của đất nước về nguồn
lực con người và tài sản tri thức của dân tộc.
Thúc đẩy quá trình hội nhập, tham gia chủ động, tích cực và có hiệu
quả vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế theo cam kết
hội nhập. Góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhà nước áp dụng chính sách tự do hoá thương mại hay bảo hộ tuỳ
thuộc điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể trong từng giai đoạn
phát triển và theo cam kết mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế. Nội dung
cơ bản, quan trọng nhất là xây dựng và áp dụng các biện pháp, công cụ
thuế quan, phi thuế quan, các hàng rào kỹ thuật cho phù hợp với quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
- Phân loại chính sách thương mại:
Chính sách thương mại có cấu trúc khá phức tạp, bao gồm nhiều bộ
phận, nhiều loại có quan hệ tương tác và gắn liền chặt chẽ với nhau. Tuỳ
theo tiêu thức phân loại khác nhau mà hình thành các chính sách thương
mại sau:
+ Phân theo phạm vi tác động trên thị trường: có chính sách thương
mại trong nước và chính sách thương mại quốc tế (ngoại thương). Chính
sách thương mại trong nước lại phân chia thành chính sách thương mại
nông thôn, miền núi, biên giới,... Chính sách thương mại quốc tế bao
gồm chính sách xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Phân theo đối tượng trao đổi: có chính sách thương mại hàng hoá;
chính sách thương mại dịch vụ; chính sách nhượng quyền thương mại.
Theo đó trong từng lĩnh vực, chính sách thương mại còn được phân chia

219
thành: Chính sách thương mại hàng hoá theo ngành hàng, nhóm hàng và
mặt hàng kinh doanh; chính sách thương mại dịch vụ theo ngành như:
viễn thông, tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, vận tải, du lịch,... trong đó,
phân chia thương mại theo các nhóm và sản phẩm dịch vụ.
+ Phân theo đặc điểm của chính sách: có chính sách về hàng hóa,
dịch vụ (cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và hạn chế kinh
doanh); chính sách đối với thương nhân trong nước, nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam và các chủ thể hoạt động thương mại khác; chính sách
đầu tư phát triển hạ tầng thương mại; chính sách thị trường và thương
mại trong nước; chính sách xuất nhập khẩu; chính sách xúc tiến thương
mại; chính sách hội nhập;...
+ Phân theo công cụ, biện pháp của chính sách: có chính sách thuế
quan và phi thuế quan trong thương mại quốc tế.
Chính sách thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc quá
cảnh do hải quan thực hiện. Thuế quan trong chính sách ngoại thương có
nhiều loại (theo mục đích: có thuế tài chính - ngân sách và thuế bảo hộ;
theo đối tượng: thuế xuất, nhập khẩu và quá cảnh; theo phương pháp
tính: thuế theo trị giá, theo số lượng và hỗn hợp; theo mức tính: thuế suất
ưu đãi, mức thuế phổ thông và tự vệ).
Chính sách phi thuế quan là các quy định ngoài thuế quan (như hạn
ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, hạn
ngạch thuế quan, rào cản kỹ thuật) chủ yếu để hạn chế xuất nhập khẩu.
Trước đây, để bảo hộ sản xuất trong nước, các nước thường áp dụng biện
pháp phi thuế quan, nhưng hiện nay trong xu thế hội nhập ngày càng sâu
rộng, nhiều biện pháp phi thuế quan dần được xóa bỏ và thay bằng các
biện pháp thuế quan. Tuy nhiên, biện pháp về hàng rào kỹ thuật vẫn được
các nước (nhất là các nước có nền kinh tế, thương mại phát triển) sử
dụng khá phổ biến để hạn chế nhập khẩu.
+ Phân theo cơ chế quản lý, điều tiết: có chính sách bảo hộ và tự do
hoá thương mại. Để bảo hộ sản xuất và thị trường trong nước, các nước
thường có các biện pháp về thuế quan và phi thuế quan trong chính sách

220
thương mại như những hàng rào với số lượng lớn, mức độ cao để hạn chế
nhập khẩu. Ngược lại, các hàng rào thuế quan, phi thuế quan ít, thấp hoặc
có loại không có sẽ thúc đẩy tự do hóa thương mại.
+ Phân loại khác (chính sách thương mại và đầu tư, môi trường,
cạnh tranh, chính sách thương mại với vấn đề an ninh,...).
Trong thực tiễn ở nước ta theo tổng kết 20 năm đổi mới, chính sách
thương mại được phân chia thành 3 nhóm lớn: chính sách thương mại đối
với thị trường và thương mại trong nước, chính sách xuất nhập khẩu và
chính sách hội nhập về kinh tế thương mại. Trong mỗi nhóm trên lại có
những chính sách thương mại cụ thể, ví dụ như: chính sách đối với
thương nhân (trong nước, nước ngoài); chính sách lưu thông hàng hóa
trong nước và mua bán hàng hóa quốc tế; chính sách xúc tiến thương
mại trong nước và xuất nhập khẩu; chính sách phát triển hạ tầng
thương mại;...

8.2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN TRONG CÁC CHÍNH


SÁCH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
8.2.1. Quy định chính sách về hàng hóa, dịch vụ được phép kinh
doanh và cấm kinh doanh
a. Các quy định chung:
Loại chính sách này cụ thể và chi tiết hóa các điều khoản thi hành
Luật Thương mại và các luật khác có liên quan về quy định hàng hóa,
dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
Theo Điều 25, Luật Thương mại Việt Nam 2005, Chính phủ quy
định cụ thể danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội từng thời
kỳ và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia với tư cách là thành viên.
- Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh: là những sản phẩm
trong quá trình lưu thông, cung ứng hoặc sử dụng có thể gây nguy hại
nghiêm trọng đến an ninh, quốc phòng, chính trị, kinh tế, xã hội, truyền

221
thống văn hoá dân tộc, môi trường và sức khoẻ con người. Nhà nước
nghiêm cấm thương nhân và tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hoạt
động có liên quan đến thương mại tại Việt Nam kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ thuộc “Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh”, trừ trường
hợp cụ thể kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục này phải được
Thủ tướng Chính phủ cho phép (xem Điều 5, Nghị định 59/2006/NĐ-CP
của Chính phủ Quy định chi tiết Luật Thương mại 2005 về hàng hoá,
dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều
kiện). Danh mục này có thể thay đổi, trong từng giai đoạn cụ thể, Chính
phủ sẽ công bố danh mục các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ bị cấm
kinh doanh, cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng kinh doanh.
- Danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh: Danh mục
này bao gồm những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà lưu thông, cung
ứng hoặc sử dụng có thể gây hại cho an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã
hội, môi trường và sức khoẻ con người cần đặc biệt hạn chế kinh doanh
(như hàng hoá có chất phóng xạ, vật liệu nổ, thuốc bảo vệ thực vật
thuộc diện nguy hại) hoặc hạn chế kinh doanh (như thuốc lá sản xuất
trong nước, rượu có nồng độ cồn lớn). Nhà nước có quy định hoạt
động kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục này phải đáp
ứng những điều kiện nhất định (xem Điều 6, Nghị định 59/2006/NĐ-
CP, như đã dẫn).
- Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện:
Những hàng hóa và dịch vụ mà trong quá trình lưu thông, cung ứng
hoặc sử dụng có thể gây hại đến sức khoẻ con người, môi trường, an ninh
trật tự, an toàn xã hội; hoặc những hàng hoá, dịch vụ kinh doanh đòi hỏi
nhất thiết phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật và người kinh doanh phải có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, thì xếp vào loại kinh doanh có
điều kiện. Các điều kiện kinh doanh đối với loại hàng hoá, dịch vụ này
thường bao gồm: điều kiện về chủ thể kinh doanh (chỉ một số doanh
nghiệp nhà nước hoặc chỉ doanh nghiệp hoặc một số doanh nghiệp, cá
nhân được kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó); điều kiện về chứng chỉ

222
hành nghề. vốn pháp định và cơ sở vật chất kỹ thuật. Trong từng giai
đoạn cụ thể, Chính phủ đều có quy định và hướng dẫn về điều kiện hoạt
động kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục này (xem
Điều 7, Nghị định 59/2006/NĐ-CP, như đã dẫn).
Hiện nay, nhà nước có quy định thống nhất các ngành nghề cấm đầu
tư kinh doanh và đầu tư kinh doanh có điều kiện thể hiện trong Luật Đầu
tư sửa đổi năm 2014 (Điều 6 và Điều 7). Dự kiến, có 6 ngành, nghề cấm
đầu tư kinh doanh và 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện,
thay cho 51 ngành, nghề, hàng hóa cấm đầu tư kinh doanh và 386 ngành,
nghề, hàng hóa đầu tư kinh doanh có điều kiện hiện đang được quy định
tại các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Về nguyên tắc, nhà đầu tư
được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề
mà Luật này không cấm.
b. Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, các quy định cơ bản về
chính sách này được thể hiện như sau:
Theo Điều 28, Luật Thương mại 2005, Chính phủ quy định cụ thể
danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, danh mục hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu theo giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thủ
tục cấp giấy phép.
- Hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu: Nhà nước có quy định
danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu áp dụng trong từng
giai đoạn cụ thể cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa mậu dịch, phi mậu
dịch; xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa tại khu vực biên giới; hàng hóa viện
trợ Chính phủ, phi Chính phủ (xem Chương II, Điều 5, Nghị định
187/2013/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật Thương
mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý, gia
công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài và Phụ lục I).
- Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải có giấy phép và thuộc diện
quản lý chuyên ngành (của Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế,

223
Ngân hàng nhà nước Việt Nam). Nhà nước quy định các nguyên tắc quản
lý đối với danh mục hàng hóa trên của các Bộ quản lý chuyên ngành
(xem Chương II, Điều 6, Nghị định 187/2013/NĐ-CP và Phụ lục II, như
đã dẫn).
- Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải thực hiện kiểm dịch, kiểm tra
về an toàn thực phẩm, kiểm tra chất lượng và quy định cửa khẩu.
Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện kiểm dịch động, thực vật,
thủy sản phải được kiểm dịch trước khi thông quan theo quy định của
pháp luật.
Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải đảm bảo an toàn thực phẩm;
phải kiểm dịch y tế và đảm bảo chất lượng, các quy chuẩn kỹ thuật theo
quy định của pháp luật (như Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật
Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật An toàn thực phẩm;... và văn
bản hướng dẫn thi hành các luật đó), xem Chương II, Điều 7, Nghị định
187/2013/NĐ-CP.
- Một số hàng hóa đặc thù, xuất khẩu, nhập khẩu có quy định riêng.
Ví dụ xuất nhập khẩu vũ khí, khí tài, trang thiết bị quân sự, an ninh là
những hàng hóa liên quan đến an ninh, quốc phòng (Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng quản lý chuyên ngành theo quyết định của Thủ tướng);
Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng
(Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý chuyên ngành); Nhập khẩu ô tô đã
qua sử dụng, nhập khẩu gỗ từ các nước có chung biên giới (Bộ Công
Thương quản lý chuyên ngành);... (Chương II, Điều 9, Nghị định
187/2013/NĐ-CP).
- Tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa: Trong trường hợp cần
thiết, để đảm bảo lợi ích quốc gia và bảo vệ an ninh, phù hợp với pháp
luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Thủ
tướng Chính phủ có quyết định tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu với
những thị trường và hàng hóa cụ thể (liên quan tới nguồn gốc, phương
tiện gây dịch, bệnh hoặc xảy ra tình trạng khẩn cấp). Bộ Công Thương

224
phải thông báo cho tổ chức kinh tế quốc tế, các bên liên quan biết theo
thủ tục đã thỏa thuận (Chương II, Điều 10, Nghị định 187/2013/NĐ-CP).
Chính sách về lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ bao gồm nhiều
danh mục, vừa đảm bảo tính đa dạng, phong phú, vừa thể hiện yêu cầu
của quản lý nhà nước đối với các hàng hóa, dịch vụ mũi nhọn, nhạy cảm,
chiều sâu cấp quốc gia cũng như cấp địa phương và cấp đơn vị kinh
doanh trong nền kinh tế. Loại chính sách này phải nhằm thúc đẩy phát
triển ngành hàng hóa, dịch vụ kinh doanh với cơ cấu hợp lý, phù hợp với
nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế; ngăn chặn kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ bị cấm hoặc thiếu điều kiện kinh doanh.

8.2.2. Quy định chính sách đối với thương nhân, thương quyền
- Chính sách đối với thương nhân có quy định chung về điều kiện
thành lập, giao kết hợp đồng và hoạt động thương mại, có quy định
quyền và nghĩa vụ của thương nhân, có quy định nhà nước độc quyền có
thời hạn hoạt động trao đổi một số hàng hóa, dịch vụ hoặc một số địa bàn
liên quan lợi ích quốc gia, (xem Mục 1, Điều 6 và 7, Luật Thương mại
Việt Nam 2005), quy định ngừng hoặc chấm dứt hoạt động của thương
nhân. Nhà nước tạo môi trường để thương nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế được tham gia hoạt động tại Việt Nam và bảo hộ quyền hoạt động
thương mại hợp pháp của thương nhân. Nhà nước có chính sách hỗ trợ
đào tạo, phát triển thương nhân, khuyến khích ý chí làm giàu và tôn vinh
doanh nhân. Chính sách thương nhân có cụ thể hoá các quy định đối với
thương nhân nước ngoài, quy định quyền và nghĩa vụ của Văn phòng đại
diện và chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam, quy định
chấm dứt hoạt động tại Việt Nam và giải quyết các nghĩa vụ thanh toán
nợ và nghĩa vụ khác với Nhà nước, tổ chức và cá nhân có liên quan (xem
Mục 3, Điều 16-23, Luật Thương mại Việt Nam 2005).
- Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại của thương nhân
được quy định bởi chính sách, pháp luật của nước ta, đó là: bình đẳng
trước pháp luật; tự do, tự nguyện thỏa thuận giữa các bên; áp dụng thói
quen hoặc tập quán thương mại (nhưng không được trái với quy định

225
pháp luật); bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng; thừa nhận giá
trị pháp lý của thông điệp dữ liệu (xem Mục 2, Điều 10-15, Luật Thương
mại Việt Nam 2005).
- Quyền của thương nhân đối với kinh doanh xuất, nhập khẩu:
Thương nhân Việt Nam được xuất, nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc
vào ngành nghề đăng ký kinh doanh, ngoại trừ hàng hóa thuộc danh mục
hàng hóa cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, danh mục hàng hóa cấm
nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu theo quy định của Nhà nước (xem
Chương II, Điều 3, Nghị định 187/2013/NĐ-CP của Chính phủ Quy định
chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc
tế và các hoạt động đại lý, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước
ngoài). Thương nhân nước ngoài cũng phải thực hiện các quy định trên,
ngoài ra còn phải thực hiện các quy định pháp luật khác có liên quan, các
cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên theo đúng lộ trình do Bộ Công Thương đã công bố.
- Chính sách của Nhà nước quy định các hình thức tạm nhập tái
xuất; tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa như sau:
Thương nhân được quyền kinh doanh tạm nhập, tái xuất theo quy
định của pháp luật; phải làm các thủ tục hải quan khi nhập khẩu hàng hóa
vào Việt Nam và giám sát của Hải quan cho đến khi xuất khẩu; hàng hóa
chỉ được phép lưu lại ở Việt Nam theo quy định (kể cả khi đã gia hạn),
nếu quá thời hạn trên sẽ bị tái xuất hoặc tiêu hủy; chỉ tạm nhập, tái xuất
tại cửa khẩu theo quy định; minh bạch hóa 2 hợp đồng nhập khẩu và xuất
khẩu giữa thương nhân trong nước với thương nhân nước ngoài (xem
chương III, Điều 11, 12, Nghị định 187/NĐ-CP).
Đối với kinh doanh tạm xuất, tái nhập: Thương nhân được phép kinh
doanh tạm xuất, tái nhập các mặt hàng là máy móc thiết bị, phương tiện
vận tải để sửa chữa, bảo hành, sản xuất, thi công, cho thuê theo hợp
đồng; phải làm thủ tục ở bộ phận cấp giấy phép của Bộ Công Thương
hoặc chi cục Hải quan cửa khẩu tùy theo loại hàng hóa; thời hạn tạm
xuất, tái nhập, thương nhân được thỏa thuận với bên đối tác và phải đăng

226
ký với chi cục Hải quan cửa khẩu. Ngoài ra, còn một số quy định khác
(xem Chương III, Điều 13, Nghị định 187/2013/NĐ-CP).
Đối với kinh doanh chuyển khẩu: Thương nhân được phép kinh
doanh chuyển khẩu đối với các hàng hóa theo quy định của Nhà nước
(xem Chương III, Điều 14. Nghị định 187/2013/NĐ-CP); phải làm thủ
thủ tục chuyển khẩu qua cửa khẩu Việt Nam tại Chi cục Hải quan cửa
khẩu và chịu sự giám sát của Hải quan cho đến khi thực xuất khẩu ra
nước ngoài; phải có 2 hợp đồng mua và bán rõ ràng giữa thương nhân
trong nước và nước ngoài.
- Ngoài ra, thương nhân còn được áp dụng các hình thức xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hóa khác như: Ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa (Chương IV, Điều 16,17); Đại lý mua bán hàng hóa với
nước ngoài (đại lý mua bán hàng hóa cho thương nhân nước ngoài, thuê
thương nhân nước ngoài làm đại lý bán hàng ở nước ngoài (xem Chương
V, Điều 20, 24); Gia công hàng hóa có yếu tố nước ngoài (nhận gia công
hàng hóa cho thương nhân nước ngoài, đặt gia công hàng hóa ở nước
ngoài (xem Chương VI, Điều 28, 31, 37, 38); quá cảnh hàng hóa qua lãnh
thổ Việt Nam (Chương VII, Điều 39, 40, Nghị định 187/2013/NĐ-CP).
- Thương nhân, các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động thương
mại điện tử trên lãnh thổ Việt Nam dưới các hình thức website thương
mại điện tử bán hàng; website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử như
sàn giao dịch thương mại điện tử, website đấu giá, quảng cáo trực tuyến
và các quy định khác của Bộ Công Thương (xem Chương III, Điều 25,
Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2013 của Chính phủ
về Thương mại điện tử). Các hành vi bị cấm trong hoạt động thương mại
điện tử bao gồm: Vi phạm về hoạt động kinh doanh thương mại điện tử;
vi phạm về thông tin trên website thương mại điện tử; vi phạm về giao
dịch trên website thương mại điện tử; vi phạm khác (xem Chương I,
Điều 4, NĐ 52/2013/NĐ-CP). Thương nhân, tổ chức và cá nhân phải
thực hiện các nguyên tắc hoạt động thương mại điện tử: tự do, thỏa thuận
trong giao dịch; xác định phạm vi hoạt động; đảm bảo thực hiện nghĩa vụ

227
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hạn
chế kinh doanh hoặc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều
kiện thông qua thương mại điện tử phải tuân thủ theo đúng quy định của
pháp luật có liên quan (xem Chương III, Điều 26, NĐ 52/2013/NĐ-CP).

8.2.3. Quy định chính sách xúc tiến thương mại


Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán
hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng
cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển
lãm thương mại (Điều 3, Luật Thương mại 2005).
Khuyến mại
Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân
nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành
cho khách hàng những lợi ích nhất định (theo Điều 88, Luật Thương mại
2005).
Thương nhân thực hiện khuyến mại là thương nhân thuộc một trong
các trường hợp sau đây: Thương nhân trực tiếp khuyến mại hàng hóa,
dịch vụ mà mình kinh doanh; hoặc thương nhân kinh doanh dịch vụ
khuyến mại thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương
nhân khác theo thỏa thuận với thương nhân đó.
Luật Thương mại cũng quy định những hàng hoá, dịch vụ được phép
dùng để khuyến mại; các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại;
quyền và nghĩa vụ của thương nhân trực tiếp khuyến mại hoặc kinh
doanh dịch vụ khuyến mại. Đồng thời, Nhà nước có văn bản hướng dẫn
riêng về hoạt động xúc tiến này (theo Nghị định 37/2006/NĐ-CP của
Chính phủ Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến
thương mại).
Chính sách khuyến mại còn quy định: Các nguyên tắc thực hiện
khuyến mại (Điều 4); Hạn mức tối đa về giá trị hàng hoá, dịch vụ dùng
để khuyến mại (Điều 5); Mức giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ
được khuyến mại (Điều 6); Các hình thức khuyến mại (Điều 7-14);

228
Trình tự, thủ tục đăng ký thực hiện chương trình khuyến mại (Điều 15-20,
Nghị định 37/2006/NĐ-CP).
Quảng cáo thương mại
Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương
nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ của mình (theo Điều 102, Luật Thương mại 2005).
Chính sách quảng cáo thương mại chỉ rõ quyền của thương nhân về
quảng cáo và kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại; các quy định về
sản phẩm quảng cáo thương mại; các hình thức và phương tiện quảng cáo
thương mại; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo
thương mại; các quảng cáo thương mại bị cấm; quyền, nghĩa vụ bên thuê
và bên cung ứng dịch vụ quảng cáo thương mại;...
Nội dung sản phẩm quảng cáo thương mại và trách nhiệm thực hiện
quảng cáo thương mại đều được cụ thể hoá trong quy định chính sách
của Nhà nước (Điều 21-28, Nghị định 37/2006/NĐ-CP).
Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ, hội chợ thương mại
Ngoài các hình thức xúc tiến thương mại đã nêu trên, còn có hoạt
động xúc tiến thương mại khác như trưng bày, giới thiệu hàng hóa, hội
chợ thương mại.
Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động xúc tiến thương
mại của thương nhân khi dùng hàng hoá, dịch vụ và tài liệu về hàng hoá,
dịch vụ đó để giới thiệu với khách hàng (theo Điều 117, Luật Thương
mại 2005).
Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại
được thực hiện tập trung trong một thời gian dài và tại một địa điểm nhất
định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục
đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng, mua bán hàng hoá,
dịch vụ (theo Điều 129, Luật Thương mại 2005).

229
Các quy định chính sách đối với hàng hoá, dịch vụ trưng bày, giới
thiệu tại hội chợ và trình tự, thủ tục đăng ký tham gia, tổ chức hội
chợ triển lãm thương mại được hướng dẫn tại các Điều 29-33, 34-
38, Nghị định 37/2006/NĐ-CP của Chính phủ.

8.2.4. Quy định chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
thương mại
Dựa trên cơ sở quy hoạch phát triển thương mại và cơ sở hạ tầng
thương mại trong từng giai đoạn đã được duyệt (bao gồm hệ thống chợ,
trung tâm thương mại, siêu thị, các loại kho hàng,...), chính sách thu hút
đầu tư phát triển hạ tầng thương mại phải từng bước hiện thực hoá mục
tiêu của quy hoạch đó. Nội dung cơ bản loại chính sách này thường bao
gồm những ưu đãi, khuyến khích sau:
Ưu đãi về đất đai (quỹ đất dành cho hạ tầng, tiền sử dụng đất, thuê
đất, giá đất): Các địa phương phải có quy hoạch quỹ đất dành cho kinh
doanh, trong đó ưu tiên những vị trí đất có lợi thế về thương mại để xây
dựng các công trình dự án về kết cấu hạ tầng thương mại thích hợp. Tạo
thuận lợi về thời hạn thuê đất và xác định về giá thuê đất hợp lý để các
chủ đầu tư yên tâm đầu tư, kinh doanh hạ tầng thương mại lâu dài.
Thuận lợi hóa thủ tục, quy trình xét duyệt và cấp phép đầu tư, minh
bạch hoá, công khai hoá đấu thầu các dự án xây dựng các hạ tầng chợ,
trung tâm thương mại, kho bãi,... Cấp phép đầu tư phải đủ các điều kiện
như theo đúng quy hoạch phát triển hạ tầng thương mại đã phê duyệt,
nhà đầu tư phải có năng lực thực hiện dự án.
Hỗ trợ giải phóng mặt bằng các hình thức thích hợp (ban giải phóng
mặt bằng, nhà đầu tư thực hiện hoặc thuê dịch vụ), kinh phí có thể trả
dần vào tiền thuê đất của chủ đầu tư. Ngân sách nhà nước hỗ trợ san lấp
mặt bằng sau khi dự án hoàn thành đi vào hoạt động đúng như thiết kế và
chấp thuận đầu tư.

230
Ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư có đủ điều kiện, năng lực xây
dựng kết cấu hạ tầng thương mại, tạo thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay.
Nhà nước sử dụng vốn ngân sách để xây dựng các công trình thiết
yếu đến chân hàng rào các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại
như hệ thống đường giao thông, thoát nước,...
Về khai thác dự án sau hoàn thành đầu tư: khuyến khích áp dụng
hình thức kinh doanh BOT (Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao) đối với
các dự án đầu tư xây dựng chợ để phát triển doanh nghiệp kinh doanh
khai thác chợ thay cho mô hình ban quản lý chợ.
Nhà đầu tư được ưu tiên thuê kết cấu hạ tầng để kinh doanh và thu
tiền theo đúng mục đích sử dụng đất đó được cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền quyết định.
Cần đặc biệt chú ý chính sách chất lượng, quản lý và kiểm tra các
tiêu chuẩn chất lượng và quy chuẩn kỹ thuật các hạng mục công trình
cũng như toàn bộ dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại.
Xu hướng sử dụng nguồn vốn hạn hẹp của ngân sách không thể giải
quyết được nhu cầu đầu tư hạ tầng, làm giảm tốc độ phát triển kinh tế,
nhất là trong điều kiện khủng hoảng nợ công. Do vậy, mở rộng thu hút
vốn trong khu vực tư nhân và liên kết công - tư cùng góp vốn là xu
hướng mới. Bên cạnh đó là hoạt động cung cấp tín dụng linh hoạt từ hệ
thống các ngân hàng cần phải đặt trong mối quan hệ phối hợp thực thi
chính sách của Chính phủ, các chính quyền địa phương mới có thể cải
thiện hiệu quả đầu tư.
Trong thực tế, các địa phương (tỉnh/thành phố) đã được Chính phủ
phân cấp xây dựng và quản lý quy hoạch kết cấu hạ tầng thương mại trên
địa bàn. Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng và triển khai cơ chế
chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư phát triển chợ, quản lý kinh
doanh và khai thác chợ theo hướng dẫn của Nhà nước để từng bước hiện
thực hóa quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn.

231
8.2.5. Quy định các biện pháp điều tiết thị trường, quản lý và
kiểm soát đối với thương mại trong nước và xuất nhập khẩu
Điều tiết nguồn cung liên quan các biện pháp tác động vào quy
hoạch và tổ chức nguồn hàng trong nước, cân đối lựa chọn và kiểm soát
nguồn hàng nhập khẩu, tổ chức dự trữ hàng hoá lưu thông hợp lý, phối
hợp ăn khớp giữa dự trữ khâu lưu thông và dự trữ quốc gia. Chú trọng
định hướng và điều tiết thị trường nhằm hạn chế nhập siêu, tránh phụ
thuộc kinh tế vào một thị trường quá lớn dễ dẫn đến các rủi ro.
Định hướng phát triển cầu thị trường (bao gồm cả cầu sản xuất và
đời sống) đúng hướng, hợp lý và lành mạnh. Khắc phục cầu giả tạo, cầu
đầu cơ gây nên mất cân đối cung cầu thị trường.
Kiểm soát và bình ổn giá những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Quản lý
và kiểm soát cấp phép kinh doanh, số lượng nhà cung cấp và kinh doanh
dịch vụ phân phối, để hạn chế mất cân đối cung cầu. Kiểm soát giá cả để
ổn định thị trường bằng các biện pháp (như xác định giá cơ sở, hiệp
thương giá, đăng ký giá, niêm yết giá,...) trong quy định chính sách giá
cả, kết hợp điều tiết quan hệ cung cầu, chống đầu cơ.
Kiểm tra nguồn gốc, xuất xứ đối với hàng hoá nhập khẩu, các chỉ
dẫn địa lý và nhãn thương mại đối với hàng hoá, dịch vụ theo quy định
xuất xứ, ghi nhãn hàng hóa, dịch vụ, chỉ dẫn địa lý đối với các hàng
nông, lâm, thuỷ sản để chống hàng giả hoặc xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ.
Các quy định về kiểm soát nhập khẩu nguyên phụ liệu (sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ) để phục vụ gia công, lắp ráp hoặc hàng tạm nhập tái
xuất để chống chuyển giá, buôn lậu, trốn thuế.
Xây dựng và áp dụng hợp lý các chính sách về hàng rào kỹ thuật
(các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy chuẩn kỹ thuật liên quan sức
khoẻ con người, an toàn sự sống động thực vật, môi trường sinh thái,...)
phù hợp với chuẩn mực và cam kết hội nhập để kiểm soát hàng xuất khẩu
của Việt Nam cũng như hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào thị trường

232
Việt Nam, ngăn ngừa hàng hóa kém chất lượng lưu thông trên thị trường,
gây tổn hại về lợi ích của người tiêu dùng, nhà kinh doanh chân chính
cũng như lợi ích và uy tín của Nhà nước.

8.2.6. Các quy định chính sách khác (như chống buôn lậu, gian
lận thương mại; kinh doanh hàng giả, hàng nhái, bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ và lợi ích người tiêu dùng; phát triển thương mại miền
núi, biên giới, hải đảo;...).

8.3. PHỐI HỢP VỀ TỔ CHỨC VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ


NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI

8.3.1. Phân công, phân cấp và phối hợp tổ chức công tác hoạch
định và triển khai thực thi chính sách quản lý nhà nước về thương mại
Phân công, phân cấp và quy định sự phối hợp về tổ chức công tác
phân tích, hoạch định và thực thi chính sách quản lý nhà nước về thương
mại về thực chất là thể hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ trong quản lý
nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng thời nâng cao tính năng động, tự
chủ của từng cấp, từng khâu trong quản lý.
Quy định thẩm quyền, trách nhiệm thông qua phân công, phân cấp
và sự phối hợp về tổ chức công tác phân tích hoạch định, thực thi chính
sách quản lý nhà nước về thương mại theo hướng: Mở rộng phạm vi,
trách nhiệm quyền hạn quản lý của các cấp dưới, phân biệt rõ chức năng
quản lý kinh tế của Nhà nước với chức năng quản lý kinh doanh của các
doanh nghiệp nhà nước; kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ; xóa bỏ
chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt đối xử giữa
doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp
trong nước với doanh nghiệp nước ngoài (ngoại trừ doanh nghiệp nhà
nước kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đặc thù, đặc biệt).
Phân công, phân cấp và phối hợp về tổ chức hoạch định và thực thi
chính sách quản lý nhà nước đối với thương mại được thực hiện thông
qua các nguyên tắc sau:

233
a. Các cơ quan nhà nước cấp dưới phải phục tùng cơ quan nhà nước
cấp trên trong hệ thống quản lý nhà nước đối với thương mại về mặt
nghiệp vụ chuyên môn; các cấp chính quyền địa phương phải phục tùng
sự điều hành của Chính phủ, sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan quản lý
nhà nước Trung ương đối với các lĩnh vực thương mại.
b. Tăng cường quyền quản lý tập trung thống nhất của Trung ương,
kết hợp chặt chẽ với việc phân công, phân cấp, ủy quyền hợp lý của
Chính phủ để phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa
phương và cơ sở.
c. Đảm bảo sự tham gia đóng góp ý kiến trong xây dựng, ban hành
các chính sách quản lý nhà nước về thương mại của các cấp, các ngành,
của doanh nghiệp và người dân. Đảm bảo tính đồng thuận và phối hợp có
hiệu quả giữa các cấp, các ngành trong thực hiện các chính sách quản lý
nhà nước về thương mại.
d. Phải thường xuyên kiểm tra, khắc phục bệnh tập trung quan liêu
bao cấp, đồng thời cũng tránh bệnh tự do, tùy tiện phân tán cục bộ địa
phương, vô tổ chức, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương sau phân cấp quản lý.
e. Phân công nhiệm vụ trong từng cấp quản lý rõ ràng, phân cấp, ủy
quyền hợp lý về quyền hạn và trách nhiệm. Quy định phối hợp chặt chẽ,
phải có đầu mối và người đứng đầu chịu trách nhiệm triển khai thực hiện
chính sách, pháp luật nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về
thương mại.

8.3.2. Phối hợp về chính sách quản lý ngành Thương mại với các
ngành kinh tế khác, giữa Trung ương và các địa phương
Xuất phát từ thực tiễn khách quan thương mại là một khâu của quá
trình tái sản xuất, một mắt xích trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, vì
vậy nó có tương tác qua lại với các khâu của tái sản xuất xã hội và các
ngành kinh tế khác. Sự phối hợp về chính sách quản lý giữa ngành
Thương mại với các ngành kinh tế và địa phương chính là hướng tới đạt
được sự phát triển cân đối, hài hòa và tối ưu cho không chỉ thương mại

234
mà cả các khâu, các lĩnh vực khác của toàn bộ nền kinh tế và đời sống
xã hội.
Phối hợp về mặt chính sách và tổ chức thể hiện ở việc tham gia của
các cơ quan quản lý nhà nước vào hoạch định chính sách và tổ chức thực
thi chính sách, pháp luật đối với thương mại. Bộ quản lý ngành Thương
mại cũng phải tham gia vào các quyết sách của các Bộ quản lý ngành
khác và phối hợp liên ngành trong tổ chức thực hiện. Cần phải kết hợp hệ
thống hoạch định với các hệ thống tổ chức, hệ thống thông tin, hệ thống
kiểm soát,...trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách quản lý
thương mại. Thực chất quản lý thương mại mang tính liên ngành, do vậy,
thiếu sự đồng bộ, thống nhất trong phối hợp quản lý nói chung, trong
phối hợp về chính sách và công tác tổ chức nói riêng sẽ không thể có
hiệu quả quản lý nhà nước cũng như các thành tựu phát triển kinh tế,
thương mại.
Ngoài ra, còn phải phối hợp giữa cơ quan quản lý ngành và cấp, giữa
Trung ương và địa phương, giữa các địa phương với nhau. Các Bộ quản
lý ngành phải liên kết phối hợp và hợp tác, hợp sức với chính quyền các
địa phương để quản lý nhà nước về kinh tế, thương mại. Tuy nhiên, để
nâng cao tính năng động cũng như sự chủ động, sáng tạo của các địa
phương trong khai thác các nguồn lực, đồng thời đảm bảo sự phát triển
thương mại hài hòa với các khâu, mắt xích hoạt động khác của nền kinh
tế thì các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại cần phải trợ giúp các
địa phương xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại và chủ
động hướng dẫn triển khai các chính sách, biện pháp quản lý thương mại,
thị trường trên địa bàn lãnh thổ, nhất là giai đoạn đầu mới phân cấp, các
địa bàn cấp huyện, miền núi, hải đảo, các khu vực biên giới.

8.3.3. Phối hợp với các nước đối tác trong quản lý nhà nước về
thương mại
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng, các
vấn đề thương mại của mỗi nước không thể tách rời những quan hệ kinh
tế, thương mại với nước ngoài. Thương mại, đầu tư của mỗi nước đều

235
chịu sự chi phối và tác động của các định chế và thông lệ quốc tế, các
diễn biến trên thị trường khu vực và thế giới. Chính vì vậy, quản lý nhà
nước về thương mại ở nước ta hiện nay một mặt phải xuất phát từ đường
lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội đất nước trong từng thời kỳ. Mặt khác, quản lý nhà nước về
thương mại phải phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Các chính
sách thương mại phải đáp ứng được các yêu cầu của các Điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên, các Hiệp định về kinh tế, thương mại mà
Việt Nam đã ký kết và cam kết thực hiện. Phải từng bước điều chỉnh
những bất cập trong chính sách quốc gia phù hợp với quy định của khu
vực và quốc tế đối với những vấn đề mà Việt Nam tham gia và cam kết
thực hiện theo lộ trình. Ngoài ra, cần cơ cấu lại bộ máy tổ chức quản lý
để có thể triển khai và giám sát, đánh giá thực hiện những cam kết hội
nhập, tăng cường quan hệ với các đối tác thương mại và tổ chức quốc tế
liên quan nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp thương mại. Điều này
cũng có nghĩa, vấn đề hợp tác với các đối tác thương mại, các tổ chức
kinh tế khu vực và thế giới trong quản lý nhà nước là một đòi hỏi thực
tiễn, khách quan của nền kinh tế, hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
Hợp tác với các đối tác và các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế
được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Tôn trọng pháp luật và tập quán thương mại quốc tế.
- Thừa nhận và từng bước áp dụng những quy định pháp lý trong các
hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia, trong
các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
- Minh bạch hóa chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý kinh tế,
thương mại phù hợp với trình độ phát triển còn thấp và cam kết đã ký kết.
- Từng bước thực hiện không phân biệt đối xử, áp dụng chế độ đãi
ngộ tối huệ quốc và chế độ đãi ngộ quốc gia trong thương mại quốc tế
trên cơ sở có đi có lại.

236
- Mở cửa thị trường theo lộ trình cụ thể phù hợp đối với từng lĩnh
vực, từng mặt hàng, từng loại hình hoạt động thương mại.
- Thừa nhận lẫn nhau trong quan hệ giữa Việt Nam với các bên tham
gia điều ước quốc tế về thương mại, quyền kinh doanh, đầu tư, xuất nhập
khẩu của tổ chức và cá nhân nước này trên lãnh thổ nước kia; tạo thuận
lợi cho hợp tác kinh doanh, thương mại, đầu tư.
- Cạnh tranh công bằng, lành mạnh; giữ quyền áp dụng các biện
pháp tự vệ, hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết.
- Hợp tác chống buôn lậu qua biên giới, chống gian lận thương mại,
kinh doanh hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; hợp tác chống
tội phạm xuyên quốc gia, rửa tiền thông qua hoạt động thương mại và
đầu tư.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Chính sách quản lý nhà nước về thương mại là gì? Vai trò của
chính sách quản lý nhà nước về thương mại được thể hiện như thế nào?
2. Các bộ phận cấu trúc chính sách và vai trò của chính sách quản lý
nhà nước về thương mại? Thực tiễn chính sách quản lý thương mại ở
nước ta có những ưu, nhược điểm gì?
3. Các nguyên tắc cơ bản trong thiết kế và thực thi chính sách quản
lý nhà nước về thương mại? Liên hệ thực tiễn vận dụng các nguyên tắc
đó trong xây dựng chính sách quản lý thương mại ở nước ta?
4. Phân loại chính sách quản lý nhà nước về thương mại? Ý nghĩa
nghiên cứu các cách phân loại đó trong quản lý nhà nước về thương mại
ở nước ta?
5. Chính sách thương mại thường có những quy định chủ yếu nào?
Những quy định đó được thể hiện trong thực tiễn thương mại nội địa và
xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay như thế nào?

237
6. Vì sao phải phối hợp các chính sách quản lý nhà nước về thương
mại? Cần phải phối hợp ở những nội dung, phạm vi nào trong chính sách
quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Thương mại, TS. Lê Danh Vĩnh, (2006) 20 năm đổi mới cơ
chế chính sách thương mại Việt Nam - Những thành tựu và bài học kinh
nghiệm, NXB Thế giới.
2. GS.TSKH. Lương Xuân Quỳ, (2006) Quản lý nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, NXB Lý luận chính trị.
3. Luật Thương mại số 36/2005/QH11 (hay Luật Thương mại 2005)
Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005.
4. Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của Chính phủ Quy
định chi tiết Luật Thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn
chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
5. Nghị định 187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế và các hoạt động đại lý, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước
ngoài.
6. Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04/04/2006 của Chính phủ Quy
định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại.
7. Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của Chính phủ về
Thương mại điện tử.

238
Chương 9
ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Chương này giới thiệu khái quát chủ trương của Đảng và nhà nước
về hội nhập kinh tế quốc tế và các căn cứ khẳng định sự cần thiết phải
tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về thương mại của nước ta trong bối
cảnh mới. Nội dung chương tập trung làm rõ các quan điểm đổi mới, từ
đó xây dựng các định hướng và giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà
nước về thương mại nước ta đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, tận
dụng tốt hơn cơ hội và giảm thiểu nguy cơ, thách thức trong giai đoạn
mới của quá trình hội nhập quốc tế.

9.1. SỰ CẦN THIẾT TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ TĂNG CƯỜNG


QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI TRONG BỐI CẢNH
MỚI CỦA HỘI NHẬP
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào
nền kinh tế khu vực và thế giới thông qua nỗ lực tự do hóa về kinh tế và
mở cửa thị trường trên các cấp độ song phương, đa phương. Đó cũng là
quá trình các quốc gia chủ động gắn kết nền kinh tế của mình với định
chế kinh tế khu vực và quốc tế, trong đó các bên hoặc thành viên quan hệ
với nhau theo các ràng buộc hay quy định chung thể hiện cam kết trong
các hiệp định đã ký kết.
Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm cả thương mại, đầu tư và tài
chính, nhưng giai đoạn đầu chủ yếu các nước hội nhập về thương mại.
Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và quyết sách lớn về hội
nhập. Tuy nhiên, tận dụng tiềm năng và cơ hội vẫn chưa thật tốt, những
nguy cơ và thách thức từ hội nhập vẫn là rất lớn. Có những vấn đề vượt

239
ra khỏi phạm vi kinh tế, thương mại. Do vậy, cần thiết phải tiếp tục đổi
mới và tăng cường quản lý nhà nước về thương mại trong bối cảnh mới
của hội nhập quốc tế nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, chủ quyền và đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH đất nước.

9.1.1. Các chủ trương, nghị quyết của Đảng về hội nhập kinh tế
quốc tế
Đảng ta đã có những chủ trương và nghị quyết quan trọng để chỉ đạo
triển khai thực hiện quá trình hội nhập quốc tế.
Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng đã đề ra chủ trương “chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế” và Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số
07/2001/NQ-TW ngày 27/11/2001 “Về hội nhập kinh tế quốc tế”.
Tại Đại hội lần thứ X, Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương “chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trong các lĩnh vực khác”, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X đã ban hành Nghị quyết số 08/2007/NQ-TW ngày 05/02/2007 “Về một
số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền
vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng chỉ rõ quan điểm nhất quán của
Việt Nam thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH (có bổ sung, sửa đổi năm 2011): “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Và Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành
Nghị quyết số 22/2013/NQ-TW ngày 10/04/2013 “Về hội nhập quốc tế”.
Do vậy, cần tiếp tục triển khai cụ thể thể hóa quan điểm chỉ đạo của
Đảng về hội nhập trong các lĩnh vực quản lý nhà nước về kinh tế, thương
mại một cách tích cực, chủ động và hiệu quả.

240
9.1.2. Thành tựu và hạn chế của hội nhập quốc tế
- Thực hiện chủ trương trên đây của Đảng, quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ
vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân
dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới;
nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Trong đó, những thành tựu nổi bật là:
1) Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước (hơn
180 nước), có quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 160 nước và 70 vùng
lãnh thổ, là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan
trọng với vị thế và vai trò ngày càng được khẳng định. Quan hệ giữa
nước ta với các nước trên thế giới ngày càng đi vào chiều sâu, hợp tác về
chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được
mở rộng.
2) Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hệ thống pháp
luật ngày càng được hoàn thiện. Năng lực cạnh tranh quốc gia và của các
doanh nghiệp được nâng lên. Thị trường ngày càng được mở rộng, tranh
thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ và các nguồn lực
quan trọng khác, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
3) Đã có sự đổi mới mạnh mẽ tư duy về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Năng lực của đội ngũ
cán bộ từ Trung ương đến địa phương được nâng lên một bước. Tổ chức,
bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về hội nhập quốc tế và các hoạt
động đối ngoại khác được quan tâm củng cố. Đội ngũ doanh nhân nước
ta đã có những bước trưởng thành.
- Bên cạnh kết quả đạt được, hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng
quan hệ đối ngoại còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém như sau:

241
Chủ trương của Đảng chưa được quán triệt và thực hiện đầy đủ,
chậm được cụ thể hóa và thể chế hóa. Các cấp, các ngành, các tổ chức và
cá nhân chưa nhận thức sâu sắc và chưa chủ động tận dụng các cơ hội;
đồng thời, chưa thấy rõ thách thức để chủ động ứng phó. Chưa lường
trước các tác động tiêu cực từ bên ngoài để có những biện pháp hạn chế
hữu hiệu.
Hội nhập kinh tế quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu nâng cao
chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển kinh tế, yêu cầu
củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Các hoạt động hội nhập
kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực khác chưa được
triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thể. Cơ chế chỉ
đạo, điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát quá trình hội nhập từ
Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập. Chất
lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực
đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu
hội nhập.
Hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh chưa được phát huy đầy đủ,
chưa gắn kết chặt chẽ với hội nhập kinh tế quốc tế. Hợp tác về văn hóa,
xã hội và một số lĩnh vực khác chưa sâu rộng.
Cùng với những tác động tiêu cực từ các cuộc khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, yếu kém trên đây đã dẫn
đến một số hệ quả xấu cả về kinh tế, xã hội và môi trường.

9.1.3. Bối cảnh mới thời gian tới


Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung
đột tôn giáo, sắc tộc, tranh chấp tài nguyên và lãnh thổ, biển đảo, bạo
loạn, khủng bố diễn biến phức tạp. Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển sâu
rộng trên mọi lĩnh vực. Kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức.
Mức độ tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày một gia tăng. Các cơ chế
đa phương, các tổ chức quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong

242
mọi mặt của đời sống nhân loại. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương
phát triển năng động, đang trở thành trung tâm phát triển của thế giới.
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) tiến tới hình thành Cộng
đồng, tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong phần lớn các cơ chế hợp tác ở
khu vực, đồng thời, có vị trí ngày càng cao trong chiến lược của các
nước lớn.
Nước ta đã trở thành một nước có mức thu nhập trung bình và đang
đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của nước ta hiện nay là thực hiện thành công các mục tiêu phát triển
đất nước, nhanh chóng nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời
đáp ứng những yêu cầu mới về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Xuất phát từ các chủ trương của Đảng, từ thực trạng thành tựu, hạn
chế của hội nhập, căn cứ vào bối cảnh mới đã nêu trên, cần thiết phải tiếp
tục đổi mới quản lý nhà nước về thương mại, để thương mại gắn kết chặt
chẽ hơn với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, tận dụng thành công các
thời cơ của hội nhập, khắc phục những hạn chế yếu kém, góp phần phát
triển đất nước nhanh, mạnh và vững chắc trong giai đoạn tới, nâng cao vị
thế nước ta trong khu vực và trên trường quốc tế.

9.2. QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI

9.2.1. Chuyển đổi nhanh, mạnh hơn nữa sang quản lý nhà nước
thống nhất bằng các chiến lược, quy hoạch, chính sách và pháp luật
về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại trong thời kỳ kế hoạch hóa tập
trung, chủ yếu sử dụng thống nhất trong cả nước, từng ngành và địa
phương là công cụ kế hoạch (ngoài ra còn có công cụ hạch toán kinh tế
xã hội chủ nghĩa). Hệ thống pháp luật về thương mại chưa được hình
thành, chủ yếu ban hành các quy định chính sách đơn lẻ, riêng biệt cho
từng lĩnh vực thương mại như lưu thông vật tư, phân phối hàng tiêu dùng
và giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu. Trên cơ sở đó, phân phối vật tư

243
phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng phục vụ đời sống, các hoạt động xuất
nhập khẩu đáp ứng yêu cầu lưu thông hàng hoá trong nước theo kế hoạch
với các chỉ tiêu ấn định mang tính pháp lệnh và được phê duyệt bởi các
cơ quan quản lý có thẩm quyền của Nhà nước. Vận hành hệ thống
thương mại chủ yếu bằng các biện pháp hành chính và nguyên tắc phân
phối bình quân, không dựa trên các yêu cầu của quy luật thị trường.
Chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đổi mới quản lý
nhà nước về thương mại, trước hết và cần thiết phải coi trọng thị trường
đồng thời tăng cường vai trò định hướng và điều tiết của Nhà nước về
kinh tế, thương mại bằng các công cụ thích hợp. Đó là các công cụ quản
lý bằng chiến lược, quy hoạch, chính sách và pháp luật về thương mại.
Các công cụ này có quan hệ không tách rời nhau và đều tương tác ảnh
hưởng tới thị trường. Các công cụ quản lý nhà nước về thương mại, một
mặt được hình thành phải dựa vào thực trạng và xu hướng phát triển của
thị trường, của kinh tế - xã hội cũng như các dự báo triển vọng tương lai,
mặt khác nhà nước sử dụng các công cụ quản lý trên cùng với thị trường,
đáp ứng mục tiêu phát triển thương mại và kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn phát triển.
Thực tiễn đổi mới quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta đã có
những tổng kết, đánh giá thành tựu đổi mới cơ chế chính sách và pháp
luật về thương mại, chỉ đạo điều hành công tác hoạch định chiến lược
phát triển thương mại và xây dựng quy hoạch phát triển thị trường nội
địa, các loại hình kinh doanh và hạ tầng thương mại,... phù hợp với quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, các
hạn chế thể hiện tương đối rõ đối với công cụ quản lý trên là đổi mới còn
chậm so với yêu cầu thực tiễn trên nhiều mặt về thời gian ban hành,
chậm khắc phục tính thiếu đồng bộ, thống nhất, chồng chéo của các văn
bản quản lý, chất lượng, tính hiệu lực thực thi và hiệu quả sử dụng các
công cụ quản lý trên cũng chậm được cải thiện, tính pháp lý đối với các
chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại còn thấp.

244
Từ những vấn đề trình bày trên, cần xác lập quan điểm tiếp tục
chuyển nhanh, mạnh hơn nữa quá trình đổi mới quản lý nhà nước về
thương mại thống nhất trong cả nước cũng như ở từng địa phương bằng
các chiến lược, quy hoạch phát triển thị trường, thương mại, bằng các hệ
thống chính sách và pháp luật về thương mại trong tiến trình hội nhập.
Cần nhận thức đúng đắn vai trò và mối quan hệ của các công cụ trên
trong quản lý nhà nước về thương mại. Chiến lược là cơ sở của quy
hoạch và kế hoạch phát triển thương mại. Mục tiêu của chiến lược và quy
hoạch phát triển thương mại cũng là cơ sở để xây dựng các giải pháp và
chính sách thực thi. Tất cả chiến lược, quy hoạch và chính sách phát triển
thương mại đều phải phù hợp với quy định của hệ thống pháp luật về
thương mại và quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế -
xã hội.

9.2.2. Tách chức năng quản lý nhà nước về thương mại ra khỏi
chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Đẩy
mạnh cải cách hành chính và đơn giản hoá, thuận lợi hoá các thủ
tục, quy trình liên quan tới thương mại
Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, nhà nước thực hiện cả chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước (nhà nước độc quyền về thương mại thông qua quản lý trực tiếp
hệ thống các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực lưu thông vật tư,
phân phối hàng tiêu dùng và hoạt động xuất nhập khẩu). Nhà nước quyết
định cả mục tiêu và nguồn lực thực hiện mục tiêu thông qua phê duyệt,
giao chỉ tiêu kế hoạch thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp nhà nước
(thời kỳ này không có doanh nghiệp tư nhân, nên nhà nước trực tiếp quản
lý doanh nghiệp nhà nước cũng đồng nghĩa quản lý doanh nghiệp).
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều chủ thể kinh doanh
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và đa dạng hóa về sở hữu, đặt
trong trong bối cảnh tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng đó
làm thay đổi cả về nội dung và phương pháp quản lý nhà nước trên bình
diện vĩ mô. Nhà nước không thể và không được can thiệp quá sâu vào

245
công việc kinh doanh và quản trị của doanh nghiệp, vừa làm mất thực
quyền của nhà quản trị doanh nghiệp, vừa làm sai lệch tính hiệu quả,
cạnh tranh và công bằng trong kinh doanh. Nhà nước cần tập trung vào
quản lý và điều hành vĩ mô, kiểm soát hoạt động thị trường thay vì làm
thay công việc của nhà kinh doanh và quản trị, trở thành một “cấp quản
trị cao nhất” trong hệ thống các nấc thang quản trị doanh nghiệp. Quá
trình tách chức năng quản lý nhà nước về thương mại ra khỏi chức năng
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp liên quan chặt chẽ với cải cách
hành chính cũng như các thủ tục và quy trình kỹ thuật đối với các lĩnh
vực thương mại. Không để việc chậm trễ trong cải cách hành chính, thiếu
minh bạch, rườm rà về thủ tục, quy trình trong thương mại cản trở hoạt
động của doanh nghiệp, làm suy giảm thực quyền của nhà quản trị và
lãnh đạo doanh nghiệp. Cần có sự đổi mới để Nhà nước có thể quản lý
các doanh nghiệp hoạt động với các mục tiêu xã hội và thực hiện nhiệm
vụ chính trị, kiểm soát được phần vốn và tài sản nhà nước đầu tư tại các
doanh nghiệp trong quá trình tách chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế, thương mại ra khỏi chức năng quản trị doanh nghiệp.
Thực tiễn đổi mới những thập niên qua ở nước ta đã có nhiều thay
đổi rõ ràng về quản lý nhà nước đối với khu vực ngoài kinh tế nhà nước
(như kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn nước ngoài, cá thể,...) trong việc tách
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, thương mại ra khỏi chức năng
kinh doanh, quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với khu vực kinh tế
nhà nước vẫn còn nhiều khó khăn, phức tạp hơn cả. Vẫn chưa có mô hình
thích hợp để quản lý, kiểm soát và nâng cao hiệu quả sử dụng phần vốn
cũng như tài sản nhà nước ở doanh nghiệp, nhất là khối tài sản rất lớn
nằm ở hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế đã chỉ ra rất nhiều
tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước trong đó có nguyên nhân về
tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh và công
việc quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn rất chậm chạp.
Doanh nghiệp thực sự chưa có thực quyền hoặc còn ỷ lại, dựa vào sự bảo
hộ, thậm chí dưới hình thức bao cấp mới của Nhà nước, nạn tham
nhũng và lãng phí gia tăng, nên hoạt động chưa mang lại hiệu quả cao.

246
Mức đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của doanh nghiệp nhà
nước và vị thế chưa tương xứng với tầm vóc của nó trong quá trình cạnh
tranh và hội nhập.
Vận hành nền kinh tế và hệ thống thương mại theo cơ chế thị trường
dưới sự điều tiết vĩ mô, nhà nước không được làm thay công việc của
doanh nhân và cũng không thể yêu cầu doanh nhân làm các công việc
thuộc về trách nhiệm quản lý nhà nước (như giao nhiệm vụ xây dựng
chiến lược, quy hoạch phát triển ngành kinh tế cho các doanh nghiệp là
các Tập đoàn kinh tế), không phê duyệt, trực tiếp quyết định chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước cần đặt lòng tin vào
các doanh nhân, đồng thời tăng cường cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám
sát có hiệu quả, có chế tài đúng và đủ mạnh để xử lý kịp thời các vi phạm
chính sách, pháp luật về quản lý nhà nước đối với thương mại.
Để thuận lợi hoá thương mại, nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính, cung cấp dịch vụ công với các thủ tục đơn giản hơn,
quy trình rõ ràng nhưng đảm bảo chặt chẽ phù hợp xu hướng hội nhập.
Nâng cao trách nhiệm hướng dẫn và phục vụ cộng đồng doanh nghiệp,
doanh nhân.

9.2.3. Xây dựng đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị
trường. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống buôn lậu, kinh doanh hàng
giả, kém chất lượng, không đảm bảo vệ sinh, an toàn và các hoạt
động kinh doanh trái pháp luật khác
Hình thành đồng bộ và tổ chức hợp lý các loại thị trường, nhất là các
thị trường dịch vụ như thị trường vốn, chứng khoán, lao động, khoa học
công nghệ, bất động sản,... Nhà nước đảm bảo về mặt cơ chế, chính sách
quản lý để các thị trường đó vận hành thường xuyên, thông suốt và ổn
định, có biện pháp chống đầu cơ, trục lợi gây bất ổn thị trường, lãng phí
trong sử dụng tài nguyên đất đai, tri thức,... Nhà nước tạo môi trường
thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nước
ngoài tiến hành đầu tư và hoạt động kinh doanh lâu dài tại Việt Nam.

247
Chú trọng khai thác tiềm năng và lợi thế của mọi thành phần kinh tế,
các loại hình, hình thức thương mại và tổ chức kinh doanh khác nhau ở
thị trường nội địa, thể chế hoá thương mại khu vực nông thôn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Tập trung quy hoạch, xây dựng
và vận hành có hiệu quả các chợ đầu mối về nông sản phẩm phục vụ cho
chế biến, tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Quan tâm đến hoàn thiện thể
chế để khai thác tốt các cơ hội từ mở cửa thị trường đồng thời bảo vệ
vững chắc sản xuất và thị trường nội địa cũng như quyền lợi của người
tiêu dùng trong hội nhập thương mại và cạnh tranh. Đối với thị trường
nước ngoài, chú trọng tới các tổ chức và quy chế hoạt động xúc tiến
thương mại, đầu tư, văn phòng đại diện và các dịch vụ khác hỗ trợ hoạt
động xuất nhập khẩu, bảo vệ quyền và lợi ích của doanh nghiệp Việt
Nam khi có những tranh chấp hoặc khiếu kiện về thương mại. Đặc biệt,
cần bổ sung và hoàn thiện các chính sách nhằm phát triển hình thức xuất
khẩu tại chỗ các hàng hóa, dịch vụ cho tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân
người nước ngoài đang làm việc, sinh sống và kinh doanh tại Việt Nam.
Một trong những thách thức lớn nhất của kinh tế thị trường hội nhập
là sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trái pháp luật như: hàng giả,
hàng cấm, buôn lậu, gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ,
kinh doanh hàng hóa kém chất lượng, không đảm bảo yêu cầu về vệ sinh
và an toàn. Do vậy, Nhà nước cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống buôn
lậu, kinh doanh hàng giả, hàng cấm, hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn
cho người sử dụng và các hình thức kinh doanh trái pháp luật khác một
cách mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa để bảo vệ lợi ích kinh doanh hợp pháp,
quyền lợi của người tiêu dùng. Đó cũng là quan điểm thể hiện thực thi có
trách nhiệm cam kết hội nhập và bảo vệ thành quả của sự phát triển bền
vững thị trường nội địa. Nhà nước phải kiểm soát được trên thực tế hoạt
động của các chủ thể kinh doanh theo pháp luật mới thể hiện được thực
quyền trong thực hiện các chức năng, vai trò của quản lý nhà nước về
kinh tế, thương mại.

248
9.2.4. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp với
cam kết mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế, đồng thời bảo vệ vững
chắc thị trường nội địa
Tham gia hội nhập kinh tế ngày càng sâu và rộng đòi hỏi nhà nước
phải sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật là tất
yếu. Phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách vừa phù hợp với các
cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, vừa bảo vệ vững chắc thị trường
nội địa là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước đối với quá trình
hội nhập.
Cần phải xử lý thận trọng, đúng đắn và có hiệu quả tính thống nhất
và mâu thuẫn (tính 2 mặt) của quá trình hội nhập thể hiện trong việc hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam về thương mại, đầu tư
và các lĩnh vực khác liên quan tới thương mại.
Tránh 2 khuynh hướng: một là, thay đổi chính sách, pháp luật tạo
mọi cơ hội cho hàng hóa, dịch vụ và doanh nghiệp, thương nhân nước
ngoài vào thị trường nội địa để thực hiện mở cửa, hội nhập nhanh nhưng
thiếu định hướng, không điều tiết, kiểm soát được các hoạt động thương
mại và thị trường, hai là, cam kết sửa đổi chính sách, pháp luật tương đối
đầy đủ nhưng thực thi thiếu trách nhiệm, bao biện cho việc bảo vệ kinh
tế, thị trường nội địa, vừa không tận dụng được cơ hội của hội nhập, vừa
gia tăng các nguy cơ, thách thức do vi phạm các cam kết quốc tế.
Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chính sách, pháp luật cả về thương
mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, vấn đề đầu tư liên quan đến thương
mại và thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Xoá trợ cấp đối với hàng
hóa xuất khẩu, thúc đẩy xây dựng thương hiệu và phát triển hàng hóa
xuất khẩu theo các tiêu chuẩn quốc tế, xoá bao cấp về đất đai,... Hoàn thiện
pháp luật về thương mại dịch vụ và nhượng quyền, bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ của các chủ thể quyền kể cả tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài. Đặc biệt, cần khẩn trương xây dựng các hàng rào kỹ thuật về
thương mại hợp lý để ngăn chặn hàng hoá nước ngoài nhập khẩu vào quá
mức, không đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn để bảo vệ thị trường nội

249
địa vững chắc cùng với đổi mới hệ thống chính sách thương mại
hướng về cầu tiêu dùng trong nước, chứ không chỉ tập trung định
hướng xuất khẩu.

9.2.5. Sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp quản lý và tăng
cường phối hợp quản lý. Coi trọng điều tiết thị trường, thương mại
bằng kinh tế
Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại phụ thuộc rất
lớn vào sử dụng đồng bộ, thống nhất các công cụ, biện pháp quản lý và
sự phối hợp ăn khớp của các cơ quan chức năng và lực lượng thực thi
chính sách pháp luật. Thực tế đó chỉ rõ, hệ thống chính sách, pháp luật về
thương mại được sửa đổi, hoàn thiện theo cam kết hội nhập của Việt
Nam thường được đánh giá là tương đối đầy đủ, nhưng lại chưa đồng bộ,
thống nhất khi ban hành, thiếu chiến lược, quy hoạch. Khi thực hiện
thiếu phối hợp giữa các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng hoạch
định và lực lượng thực thi, chưa điều chỉnh hoặc hướng dẫn bổ sung kịp
thời nên gặp không ít khó khăn, bộc lộ nhiều hạn chế.
Do vậy, cần phải sử dụng đồng bộ các công cụ quản lý như: chính
sách, pháp luật về thương mại, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các
chương trình và dự án phát triển thương mại trong từng giai đoạn phát
triển. Tránh hiện tượng cấp phép kinh doanh chỉ chú ý đến quy định pháp
luật, xem nhẹ các định hướng, mục tiêu trong chiến lược và quy hoạch
phát triển thương mại. Phải phối hợp thường xuyên giữa cấp và ngành
theo phân công và phân cấp quản lý nhà nước về thương mại. Chú trọng
phối hợp quản lý thương mại ở các địa phương theo xu hướng phân cấp
quản lý nhiều hơn cho địa phương cấp tỉnh và huyện trong quá trình mở
cửa thị trường và hội nhập quốc tế.
Trong cơ chế điều hành thương mại nội địa và xuất nhập khẩu, điều
tiết thị trường, Nhà nước cần chú trọng tập trung vào các biện pháp kinh
tế, sử dụng các yếu tố đòn bẩy, nguồn lực kinh tế, các định mức kinh tế
kỹ thuật phải đảm bảo các luận chứng khoa học và thực tiễn, không sử
dụng các biện pháp mang tính mệnh lệnh, quyền lực hành chính đơn

250
thuần hoặc giáo dục, tuyên truyền không gắn với lợi ích, động lực phát
triển kinh tế.

9.3. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI


9.3.1. Đổi mới công tác kế hoạch hoá thương mại
Đổi mới công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển thương
mại theo hướng:
Ở cấp Trung ương: Chính phủ, Bộ quản lý ngành theo sự phân công
tập trung xây dựng chiến lược, quy hoạch thương mại cho phạm vi cả
nước với những ngành hàng hóa, dịch vụ chủ yếu, then chốt hoặc nhạy
cảm trong nền kinh tế, các hạ tầng thương mại lớn của quốc gia phục vụ
trao đổi mua bán trong nước và xuất nhập khẩu, hệ thống phân phối hàng
hóa thiết yếu, cung ứng dịch vụ liên quan an ninh kinh tế, an ninh quốc
gia, hệ thống thương nhân cả nước. Ngoài ra, còn xây dựng các chương
trình quốc gia, các dự án liên quan tới tái cấu trúc hệ thống thương mại,
thương nhân, hợp tác thương mại, hội nhập khu vực và quốc tế.
Các địa phương (cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương): tập
trung xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển hạ tầng thương mại, loại
hình thương mại, thương mại nông thôn và đội ngũ thương nhân ở phạm
vi địa phương. Ngoài ra còn các chương trình, dự án liên quan tới cơ cấu
lại thương mại của địa phương, xúc tiến thương mại,...
Tránh các biểu hiện doanh nghiệp (tập đoàn kinh tế, kinh doanh)
làm quy hoạch phát triển thương mại ngành hàng hóa, dịch vụ thay cho
cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, thương mại hoặc cấp trên (bộ quản
lý ngành) “bao cấp” quy hoạch phát triển thương mại cho cấp dưới
(UBND, sở ngành của địa phương).
Đổi mới cả trong giai đoạn hoạch định chiến lược, lập quy hoạch và
tổ chức thực hiện. Chú trọng công tác thanh tra, giám sát, đánh giá, tổng
kết và điều chỉnh lại quy hoạch phát triển thương mại cho phù hợp với
tình hình thực tiễn và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn.

251
9.3.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp về thương mại
Hoàn thiện pháp luật về quy trình xây dựng, ban hành và công bố
văn bản quy phạm pháp luật về thương mại thống nhất cho cả Trung
ương và địa phương, theo hướng Quốc hội ban hành luật, giảm dần việc
Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh. Chính phủ ban hành
văn bản hướng dẫn tổ chức thi hành luật. Xác lập cơ chế bảo đảm luật
được thi hành ngay khi có hiệu lực. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động thanh tra, kiểm tra bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà nước
đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ, đồng thời khắc phục tình
trạng công tác thanh tra, kiểm tra gây khó khăn, phiền hà cho hoạt động
của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp. Đơn giản hoá và công khai, minh
bạch các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục liên quan trực tiếp
đến quyền và lợi ích của người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh doanh. Xác định
rõ trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu nhà nước và các chủ sở hữu khác,
cơ chế bảo đảm quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu. Hoàn thiện cơ
chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc công dân được làm
tất cả những gì pháp luật không cấm. Tạo cơ sở pháp luật để công dân
tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực để phát triển sản xuất, kinh
doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và góp
phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết
quốc tế khác. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc quyền và độc quyền
kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư, thống nhất pháp luật áp dụng
đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về
hợp đồng theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp
đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng,
phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Đổi mới cơ bản pháp
luật về phá sản.

252
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị
trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất, từng bước mở rộng
thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước
ngoài đầu tư ở Việt Nam. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho sự hình
thành, phát triển lành mạnh thị trường lao động theo hướng đa dạng hoá
các hình thức tìm việc làm, giới thiệu việc làm và tuyển chọn lao động,
khuyến khích mở rộng thị trường lao động có hàm lượng chất xám cao.
Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng
lao động. Hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và
phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng mở rộng phạm vi
các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của
WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Hình thành
đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng các thiết chế và chuẩn mực quốc tế
về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng, tạo môi trường lành mạnh,
bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, khuyến khích cạnh tranh trong hoạt
động tín dụng trên nguyên tắc an toàn hệ thống.
Hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán, pháp luật về tài
chính công. Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế theo hướng ổn định, đơn
giản hơn, mức thuế phù hợp, có tính đến các định chế kinh tế quốc tế và
khu vực cũng như các điều ước quốc tế khác có liên quan. Hoàn thiện
pháp luật về tài nguyên và môi trường theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ,
phát triển bền vững, bảo đảm kết hợp hài hoà giữa việc sử dụng và bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên.
Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương
mại dịch vụ, thương mại quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với thông lệ quốc
tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, phù hợp với các cam
kết hội nhập ASEAN, WTO, Cộng đồng kinh tế châu Á,... Tăng cường
năng lực tự vệ, phòng vệ thương mại, chống bán phá giá và chống
chuyển giá thông qua các hoạt động thương mại và đầu tư. Hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại (trọng tài, hoà giải) phù
hợp với tập quán thương mại quốc tế. Tham gia các điều ước quốc tế đa

253
phương về tương trợ tư pháp, nhất là các điều ước liên quan tới việc công
nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của toà án, quyết định của
trọng tài thương mại.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển thương mại và thị trường
nội địa. Hình thành và phát triển mô hình tổ chức thị trường thích hợp
theo từng địa bàn, nhóm mặt hàng. Khuyến khích và hỗ trợ mở rộng,
phát triển mạng lưới kinh doanh, áp dụng các phương thức kinh doanh
mới, tiến bộ, văn minh. Chú trọng xây dựng cơ chế, chính sách phát triển
thị trường và thương mại nông thôn, miền núi,..., nâng cấp và đầu tư mới
hệ thống hạ tầng thương mại, phát triển hệ thống phân phối và đội ngũ
thương nhân. Đẩy nhanh việc xây dựng các hàng rào kỹ thuật thương mại
phù hợp với yêu cầu mở cửa thị trường.
Xây dựng cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá ổn định.
Khuyến khích và thúc đẩy mở rộng, phát triển thị trường xuất khẩu theo
hướng đa dạng hoá, nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của hàng
xuất khẩu. Chú trọng xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất
lượng không chỉ đối với hàng hóa, dịch vụ, mà cả các loại hạ tầng thương
mại và thương hiệu hàng xuất khẩu Việt Nam.

9.3.3. Đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về


thương mại
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội nói
chung và nói riêng trong lĩnh vực thương mại chịu tác động bởi nhiều
yếu tố. Mặc dù, bộ phận thượng tầng kiến trúc này có khả năng thích
nghi với những thay đổi của hạ tầng cơ sở. Tuy nhiên, những thay đổi
lớn của hạ tầng cơ sở đều tác động đến kiến trúc thượng tầng đòi hỏi tất
yếu phải có những điều chỉnh thích hợp về chức năng, nhiệm vụ, vai trò
và cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước, trong đó có hệ thống tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước về thương mại.
Tác động của chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường, tác
động của hội nhập, của chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang

254
công nghiệp, dịch vụ trong quá trình công nghiệp hóa, của xây dựng nhà
nước pháp quyền, xã hội dân chủ, theo định hướng xã hội chủ nghĩa lên
bộ máy quản lý nhà nước là rất lớn và phức tạp. Các tác động đó đòi hỏi
cần nghiên cứu các định hướng tiếp tục đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về thương mại cũng như quản lý các ngành và địa
phương trong quá trình phát triển.
Định hướng đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thương
mại cần tập trung vào:
- Xây dựng hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thương mại thống
nhất, thông suốt, hiện đại phù hợp với vai trò của cơ quan hành chính
kinh tế cao nhất thực hiện quyền hành pháp.
- Nâng cao năng lực hoạch định chính sách, pháp luật, xây dựng
chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại và tạo lập môi trường thể
chế thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, thương mại, đáp ứng yêu cầu
của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thương mại
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Rà soát, sắp xếp lại bộ máy, loại
bỏ khâu trung gian, tầng nấc, thủ tục, sự chồng chéo, nâng cao trách
nhiệm của từng bộ phận và đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực hiện
công việc. Làm rõ nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước về thương
mại giữa Trung ương và địa phương, giữa quản lý ngành với quản lý của
chính quyền địa phương về thương mại dựa trên cơ sở phân công, phân
cấp và phân quyền. Thống nhất đầu mối cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại các hoạt động
sở hữu trí tuệ để thích ứng với chức năng và vai trò của quản lý nhà nước
trong điều kiện hội nhập hiện nay.
- Tăng cường phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về thương mại
cho các địa phương kết hợp với chuẩn bị các điều kiện, các yếu tố nguồn
lực hợp lý. Ở phạm vi địa phương cũng cần làm rõ vấn đề phân cấp quản
lý thương mại giữa cấp tỉnh/thành phố với huyện/quận (thị xã,...) và xã,
phường để tăng cường tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền.

255
Quy định rõ ràng trách nhiệm và nội dung quản lý thương mại của các cơ
quan chức năng theo ngành dọc (Sở Công thương tỉnh/thành phố, Phòng
Công thương huyện/quận). Vấn đề phân cấp quản lý đảm bảo nguyên tắc:
việc nào, cấp nào giải quyết sát thực tế, có điều kiện thực hiện tốt hơn,
hiệu quả hơn thì phân công, phân cấp cho cấp đó và quyền lực nhà nước
là thống nhất.

9.3.4. Nâng cao hiệu lực thực thi chính sách, luật pháp về
thương mại
Hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật về thương mại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó phải kể tới yếu tố cơ bản có quyết định là sự phù
hợp, đúng đắn của quyết sách, quyết pháp và năng lực tổ chức thực hiện
chính sách pháp luật của hệ thống bộ máy quản lý và con người. Sự đúng
đắn của các quyết định ban hành chính sách, pháp luật có tương tác lớn,
thúc đẩy nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực thi cũng như toàn bộ công
tác quản lý nhà nước. Năng lực thực thi chính sách, pháp luật về thương
mại thể hiện ở việc chỉ đạo, điều hành và tổ chức triển khai của các cơ
quan, lực lượng chức năng quản lý nhà nước nhằm đưa chính sách, pháp
luật vào đời sống của cộng đồng kinh doanh, người tiêu dùng, những
người bán và mua. Do vậy, định hướng nâng cao năng lực thực thi chính
sách, pháp luật về thương mại trong quá trình hội nhập là:
- Về công tác tổ chức thực thi: Hình thành bộ máy tổ chức và cán bộ
triển khai phù hợp (đủ sức mạnh về tổ chức, đủ năng lực và phẩm chất về
cán bộ), tập huấn cho cả cán bộ quản lý và đối tượng chủ yếu của chính
sách, tăng trách nhiệm cụ thể hoá hướng dẫn thực hiện chính sách đảm
bảo tính thống nhất, thiết kế các chương trình hành động và đảm bảo
nguồn lực để triển khai thực hiện chính sách, pháp luật.
- Về công tác chỉ đạo, điều hành: Cập nhật, lưu trữ dữ liệu và vận
hành hệ thống thông tin truyền thông hiệu quả, tăng cường quản lý và sử
dụng ngân sách dự án thực hiện chương trình, phân công và phân cấp
trách nhiệm, uốn nắn những sai lệch và khen thưởng động viên kịp thời

256
bộ phận, cá nhân làm tốt nhiệm vụ được giao trong triển khai thực hiện
chính sách, pháp luật.

9.3.5. Tăng cường công tác cán bộ quản lý nhà nước về thương mại
- Định hướng về số lượng: đảm bảo đủ số lượng theo cơ cấu bộ máy
và chức năng, nhiệm vụ của hệ thống tổ chức quản lý. Bổ sung những bộ
phận còn thiếu và trọng yếu (như bộ phận hoạch định chiến lược, chính
sách, bộ phận phụ trách hội nhập về thương mại và kinh tế, nghiên cứu
thương mại và môi trường, sở hữu trí tuệ,...), điều chuyển những bộ phận
dư thừa, bất hợp lý để nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực trong hệ thống
tổ chức quản lý.
- Định hướng về chất lượng: xây dựng đội ngũ cán bộ có tư duy tầm
nhìn, “tâm trong” và “trí sáng”. Nâng cao chất lượng cán bộ cả về tư
tưởng tác phong, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ,
văn hoá ứng xử trong thực thi công vụ, ý thức trách nhiệm và sự tận tuỵ
trong công việc. Chống các biểu hiện suy thoái tư tưởng, đạo đức
- Định hướng về cơ cấu: đảm bảo độ tuổi hợp lý giữa già và trẻ, có
tính kế thừa, chuyển tiếp liên tục ở các bộ phận, tránh hụt hẫng cán bộ.
Chú trọng đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ đủ tiêu chuẩn đảm nhận
các công việc liên quan hội nhập, công nghệ và điện tử hoá các hoạt động
quản lý thương mại. Về giới tính: quan tâm tăng cường cán bộ nữ ở
những bộ phận, khâu quản lý phù hợp đặc điểm giới tính. Về cơ cấu
chuyên môn, đây là một trong các định hướng quan trọng liên quan đến
tiêu chuẩn bắt buộc trong quy hoạch, đào tạo, sử dụng và phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý.
- Về luân chuyển, kế thừa và phát triển, chuyển tiếp cán bộ. Định
hướng này thể hiện trong công tác quy hoạch cán bộ quản lý thương mại,
đảm bảo rằng cán bộ khi luân chuyển có thêm các trải nghiệm thực tiễn
để trưởng thành có thể bổ nhiệm vào các chức vụ quản lý mới. Phải tính
đến cơ cấu cán bộ cũ và mới, lựa chọn cán bộ phải đảm bảo tính kế thừa
và phát triển, sự ổn định của chuyển tiếp. Vấn đề quan trọng là phải làm

257
tốt công tác đánh giá cán bộ trong quy hoạch phát triển, công tác tư
tưởng và tránh tâm lý cục bộ trong điều chuyển cán bộ.

9.4. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI


9.4.1. Đổi mới tư duy, nhận thức tầm nhìn
Tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về tầm
quan trọng của công tác cán bộ nói chung, cán bộ của hệ thống tổ chức
quản lý nhà nước về thương mại trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Mỗi cán bộ công chức, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo đều phải tự
đổi mới bản thân, không ngừng học tập, rèn luyện tư tưởng, phẩm chất
đạo đức và nâng cao năng lực chuyên môn và tổ chức, chủ động, sáng
tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, bám sát thực tiễn kinh tế -
xã hội, thương mại và thị trường, cạnh tranh và hội nhập, quan hệ mật
thiết với doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức và tầm nhìn về phát triển nhanh
và bền vững về kinh tế trong công tác tổ chức và cán bộ quản lý nhà
nước về thương mại nhằm tạo ra phương thức quản lý mới, với nguồn
sinh lực mới, nỗ lực tạo ra chất lượng và hiệu quả tốt hơn.
Trước hết, chuyển từ tư duy phát triển kinh tế theo chiều rộng sang
tư duy, nhận thức phát triển theo chiều sâu, tư duy phát triển theo số
lượng sang chất lượng. Thứ hai, chuyển từ tư duy và nhận thức ngắn hạn,
cục bộ sang tư duy, nhận thức và tầm nhìn một cách tổng thể, dài hạn.
Thứ ba, cần có tư duy toàn cầu về phát triển kinh tế, thương mại chuyển
từ tư duy quốc gia sang tư duy khu vực, toàn cầu. Thứ tư, chuyển từ tư
duy hành chính, mệnh lệnh sang tư duy kinh tế - kỹ thuật trong quản lý.
Thứ năm, chuyển từ tư duy phòng thủ, bảo hộ, đối phó sang tư duy tấn
công, mở cửa, chủ động chiếm lĩnh thị trường. Thứ sáu, đổi mới tư duy
và nhận thức về việc phát huy nội lực và ngoại lực trong phát triển kinh
tế, thương mại.

258
9.4.2. Đổi mới căn cứ, nguyên tắc, nội dung, phương pháp và
quy trình quản lý
Tăng cường căn cứ khoa học và thực tiễn trong việc xây dựng các
chiến lược và quy hoạch phát triển thương mại, trong đó cập nhật và lưu
trữ, hệ thống hóa, số hóa thông tin, dữ liệu quốc gia, ngành cũng như ở
các địa phương. Kế thừa kinh nghiệm các nước và quốc tế một cách có
chọn lọc, sáng tạo cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập của Việt Nam trong xây dựng cơ chế chính sách và hệ thống pháp
luật về thương mại. Tránh khuynh hướng chỉ dựa vào cơ sở lý thuyết
hoặc kinh nghiệm, thiếu cập nhật những tri thức, thử nghiệm mới trong
xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật dẫn đến không thích ứng với
quá trình vận động kinh tế, thương mại phải sửa đổi thường xuyên vừa
gây khó khăn cho doanh nghiệp, vừa tốn kém, lãng phí nguồn lực.
Tăng cường tính khoa học, tính hệ thống, đồng bộ, thống nhất, tính
khả thi và minh bạch hóa của các công cụ quản lý. Tính khoa học thể
hiện phải bám sát các cơ sở lý thuyết, thực tiễn, phù hợp quy luật khách
quan. Tính hệ thống thể hiện ở quan hệ tương tác biện chứng giữa cái
chung và cái riêng, giữa tổng thể và bộ phận của hệ thống quản lý (gồm
các công cụ, các phương pháp, các nguyên tắc quản lý, bộ máy tổ chức từ
Trung ương đến địa phương), trong đó cái riêng, cái bộ phận gắn kết và
phục tùng cái chung, cái tổng thể. Tính đồng bộ thể hiện ở sự hình thành
đồng thời và mức độ ăn khớp trong phối hợp của hệ thống tổ chức, của
các công cụ, phương pháp quản lý về thương mại của Nhà nước, của
chính quyền các cấp. Tính thống nhất thể hiện sự nhất quán, không mâu
thuẫn, trái ngược giữa quy định của Trung ương và địa phương, giữa các
quy định chính sách và pháp luật khác nhau về thương mại, giữa quy
định trong nước và quốc tế theo cam kết hội nhập. Tính minh bạch thể
hiện thông tin, dữ liệu về chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch về
thương mại,... sẵn có, tiếp cận được, rõ ràng, dễ đọc, dễ hiểu và không
mập mờ dẫn đến hiểu sai, xử lý theo các cách nào cũng được.

259
Đổi mới nội dung và phương pháp quản lý:
Nhà nước tập trung các nội dung quản lý thương mại gắn với các
nhóm chức năng cơ bản: định hướng, tạo môi trường kinh doanh, điều
tiết và kiểm soát, điều chỉnh hoạt động thương mại. Nhóm chức năng
định hướng thể hiện ở các định hướng, mục tiêu chiến lược, quy hoạch
phát triển thương mại trong từng giai đoạn. Nhóm chức năng tạo lập môi
trường kinh doanh thể hiện ở xây dựng, thực thi cơ chế chính sách, thủ
tục hành chính và các quy trình kỹ thuật liên quan tới kinh doanh thương
mại. Nhóm chức năng điều tiết thể hiện ở việc hình thành và sử dụng các
công cụ phân bổ, điều tiết di chuyển nguồn lực, phân phối kết quả và
kích thích thương mại. Nhóm chức năng kiểm soát thể hiện ở các quy
định và thực thi thanh tra, kiểm tra, giám sát, giải quyết các mâu thuẫn,
khiếu kiện, tranh chấp thương mại và các vi phạm pháp luật. Cần từng
bước tăng cường tính pháp lý của các chiến lược và quy hoạch phát triển
thương mại. Đồng thời, phân cấp mạnh hơn nữa quyền hạn, trách nhiệm
quản lý thương mại cho chính quyền địa phương cho phù hợp với định
hướng phát triển kinh tế vùng và tăng cường quản lý của địa phương
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập ở nước ta. Cần xác định rõ
đối tượng quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn của địa phương
chủ yếu bao gồm: tất cả các hoạt động thương mại, cơ sở hạ tầng thương
mại, lực lượng lao động thương mại, tài nguyên và môi trường liên quan
tới hoạt động thương mại tại địa phương, thu ngân sách từ thương mại
trên địa bàn. Từ đó xác định các biện pháp quản lý, kiểm soát của chính
quyền cho phù hợp với thực tiễn thương mại ở từng địa phương.
Phải tăng cường các biện pháp quản lý và điều tiết thương mại bằng
kinh tế là chủ yếu dựa trên cơ sở quy định của chính sách, pháp luật kết
hợp giáo dục, động viên khích lệ thương nhân, tôn vinh doanh nhân với
các biện pháp hành chính, hướng dẫn, điều chỉnh, ngăn chặn và xử lý các
vi phạm pháp luật và đạo đức kể cả đối với nhà kinh doanh và cán bộ
trong bộ máy quản lý nhà nước về thương mại.

260
9.4.3. Đổi mới về nội dung phân công, phân cấp và phối hợp
quản lý
Các giải pháp đổi mới gắn liền với các nội dung của phân công,
phân cấp quản lý nhà nước về thương mại, bao gồm:
Xác định những thẩm quyền đặc biệt của Trung ương trong việc
quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực thương mại, những ngành hàng và
dịch vụ cụ thể nhằm bảo đảm tính thống nhất trong quản lý nhà nước về
thương mại của cả nước. Tăng cường trách nhiệm xây dựng và phê chuẩn
các bộ luật có liên quan tới thương mại cho cơ quan lập pháp. Cơ quan
hành pháp tập trung xây dựng, ban hành văn bản pháp quy - dưới luật để
chỉ đạo, điều khiển và điều tiết các hoạt động của nền kinh tế, của thương
mại, giảm bớt trách nhiệm xây dựng luật quá lớn. Cơ quan tư pháp tập
trung và tăng cường trách nhiệm bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật nói
chung cũng như trật tự pháp luật về thương mại.
Xác định những thẩm quyền riêng của từng cấp chính quyền theo
tiêu chí “cấp tốt nhất” quản lý thương mại trên địa bàn. Khi phát triển
thương mại ở đô thị, thành phố được coi là chủ yếu, “cấp tốt nhất” quản
lý thương mại là cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương. Nhưng một
khi phát triển thương mại nông thôn trở thành định hướng lớn thì cần đổi
mới phân cấp quản lý thương mại cho chính quyền cấp huyện và xác
định thẩm quyền, trách nhiệm theo phân cấp giữa cấp tỉnh và huyện cho
phù hợp.
Xác định thẩm quyền chung của hai hoặc hoặc ba cấp chính quyền
(tỉnh, huyện, xã) và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện thẩm quyền
chung đó trong quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn lãnh thổ.
Thực tiễn quản lý nhà nước về kinh tế, thương mại cho thấy không loại
trừ sự tác động của một số chủ thể quản lý lên cùng một đối tượng và
khách thể quản lý. Trong trường hợp này, không nên tuyệt đối hoá việc
phân định thẩm quyền theo nghĩa “mỗi việc chỉ do một chủ thể đảm
nhiệm”. Vấn đề đặt ra là cần xác định phạm vi trách nhiệm của mỗi chủ
thể “đồng quản lý” về thương mại và có cơ chế phối hợp quản lý thích hợp.

261
Quy định các điều kiện về tài chính, tổ chức, nhân sự đầy đủ, rõ ràng
để bảo đảm thực hiện thẩm quyền được phân định, đặc biệt là những thẩm
quyền mới được chuyển giao theo phân công, phân cấp quản lý thương mại.
Xác định cơ chế giám sát, kiểm tra việc thực hiện thẩm quyền theo
phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, giữa tỉnh, huyện và
xã, giữa ngành và cấp. Phải coi đó là kết quả của phân công và phân cấp
quản lý nhà nước về thương mại.
Sản phẩm cuối cùng của quá trình phân công, phân cấp quản lý nhà
nước về thương mại là một hệ thống quy định pháp luật về phân định
thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước và cơ chế thực hiện những
thẩm quyền, trách nhiệm đó.

9.4.4. Tăng cường công tác thông tin, dự báo và xây dựng hệ
thống dữ liệu phục vụ hoạch định chính sách, chiến lược và quy
hoạch thương mại
Xác định bộ tiêu chí về thông tin cụ thể nhằm xây dựng hệ thống
thông tin và cơ sở dữ liệu cho toàn ngành Thương mại trên cơ sở chuẩn
hóa và thống nhất về thông tin dữ liệu trong việc ứng dụng các phương
pháp và mô hình dự báo, tập trung vào các dữ liệu đầu vào, chỉ số giá
tiêu dùng, đầu tư, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng, kim ngạch và tỷ lệ xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, thị trường
nội địa và xuất khẩu, nhập khẩu, tiền tệ, lãi suất, tỷ giá,...
Xây dựng phần mềm để nhận dữ liệu thông qua các tệp excel
đó được quy chuẩn, hoặc nhập liệu trực tiếp phục vụ cho công tác tổng
hợp, phân tích dự báo và hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược và
quy hoạch phát triển thương mại trong từng giai đoạn.
Xây dựng cơ chế chia sẻ và kết nối thông tin, phương pháp dự báo
giữa các đơn vị trong nội bộ Bộ quản lý ngành Thương mại, cũng như
giữa các Bộ quản lý ngành liên quan tới thương mại, khắc phục tình
trạng lãng phí thông tin và sử dụng kém hiệu quả thông tin phục vụ
quản lý.

262
Tạo cơ sở pháp lý để các đơn vị có liên quan truy cập thông tin sử
dụng cho công tác hoạch định chính sách và phân tích dự báo cũng như
xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển thương mại.

9.4.5. Nâng cao chất lượng các nguồn lực, phương tiện, công
nghệ kỹ thuật quản lý
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho bộ máy tổ chức quản lý
nhà nước về thương mại phải thực hiện nhiều giải pháp như: nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo để tạo nguồn cho tuyển dụng; rà soát và đổi
mới chính sách tuyển chọn, bố trí, sử dụng nhân lực và đãi ngộ về vật
chất, tinh thần, để giữ được người giỏi, người có năng lực phẩm chất tốt
và thúc đẩy phát triển đội ngũ cán bộ quản lý thương mại.
Tăng cường chất lượng công tác lập kế hoạch đầu tư công và mua
sắm của Chính phủ. Lựa chọn nhà cung cấp và nguồn hàng tin cậy, quản
lý chặt chẽ hoạt động đấu thầu mua sắm các thiết bị, phương tiện vật chất
kỹ thuật. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và giám sát việc mua sắm trang
thiết bị, phương tiện kỹ thuật đó, điều chỉnh những bất hợp lý kịp thời để
đáp ứng tốt nhất nhu cầu nguồn lực của hệ thống tổ chức quản lý nhà
nước về thương mại. Chống lãng phí đồng thời đảm bảo chi tiêu mua
sắm hợp lý, tiết kiệm.
Huy động và sử dụng hợp lý, đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn
lực tài chính phục vụ cho đầu tư phát triển nhân lực, mua sắm tài sản,
trang thiết bị, máy móc, phương tiện kỹ thuật,... cho hệ thống tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về thương mại.

9.4.6. Nâng cao chất lượng thẩm định các quyết định, hiệu lực
thực thi chính sách, pháp luật về thương mại
Các quyết định quản lý phải đáp ứng các yêu cầu về tính pháp lý,
tính khoa học và thực tiễn. Mức độ chuẩn xác của các quyết định quản lý
cùng với hiệu suất triển khai thực hiện càng cao thì hiệu lực thực thi các
quyết định chính sách, pháp luật càng lớn.

263
Do vậy, giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định các quyết định
trước khi ban hành có ý nghĩa trực tiếp và gián tiếp tới hiệu lực quản lý
nhà nước về thương mại. Để nâng cao chất lượng thẩm định các quyết
định cần phải nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác thẩm
định các quyết định quản lý trước khi ban hành, lựa chọn cán bộ khoa
học có trình độ chuyên môn cao, am hiểu pháp luật, có phẩm chất, năng
lực tổ chức và triển khai tốt công tác thẩm định, phải tăng cường phương
tiện vật chất kỹ thuật, công nghệ thích hợp và đảm bảo điều kiện thời gian
cần thiết cho công tác thẩm định. Chú trọng thẩm định các căn cứ, dữ liệu
thông tin ra quyết định, nội dung, quy trình và phương pháp, kỹ thuật xây
dựng các văn bản pháp luật, pháp quy cũng như các quyết định hành chính.
Để nâng cao hiệu suất triển khai thực thi, chính sách pháp luật về
thương mại, cần làm tốt công tác tổ chức và chỉ đạo điều hành của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và trách nhiệm theo quy định của
pháp luật. Phải quan tâm tới các giải pháp đổi mới tổ chức bộ máy triển
khai, phân công trách nhiệm cá nhân, tập thể rõ ràng, phối hợp chặt chẽ
giữa ngành và cấp, cấp trên và cấp dưới; có chương trình, kế hoạch và
nguồn lực cụ thể, khả thi để thực hiện kể từ khi phổ biến chính sách,
pháp luật đến thực hiện các tác nghiệp liên quan thủ tục, quy trình kỹ
thuật gắn với thương mại, đầu tư, triển khai công tác thanh tra, giám sát,
giải quyết các khiếu kiện, xử lý vi phạm; có sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm, lập báo cáo và đề suất các khuyến nghị điều chỉnh, xử lý kết quả
phù hợp, kịp thời.

9.4.7. Đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thương mại
và công tác cán bộ
a. Về tổ chức bộ máy
Để thực hiện các định hướng trên cần: Cơ cấu lại bộ máy để tinh
giản cùng với quá trình cải cách hành chính, bổ sung các bộ phận tổ chức
còn thiếu do yêu cầu của chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế. Sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ quyền hạn phù hợp với tình
hình mới và nội dung phân cấp quản lý nhà nước về thương mại giữa

264
Trung ương và địa phương.... Chú ý tăng cường nguồn lực vật chất kỹ
thuật cùng với đội ngũ cán bộ tương xứng với chức năng nhiệm vụ được
giao ở cả bộ phận phân tích, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật,
các chiến lược, quy hoạch về thương mại cũng như bộ phận thực thi,
kiểm tra, giám sát, nhất là ở các địa phương.
b. Về công tác cán bộ
Giải pháp quan trọng hàng đầu là làm tốt công tác quy hoạch cán bộ.
Công tác này phải có tầm nhìn xa gắn với đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng,
bố trí, luân chuyển cán bộ hợp lý, đảm bảo đáp ứng nhiệm vụ trước mắt
và lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ được rèn luyện, thử thách
qua thực tiễn để trưởng thành. Khi quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán
bộ nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cần cụ thể hóa các yêu cầu về phẩm
chất, năng lực trí tuệ, chuyên môn, đạo đức tác phong để họ có đủ “tâm
và tầm”, “tâm và trí”, đủ sức gánh vác công việc, hoàn thành các nhiệm
vụ quản lý nhà nước về thương mại trong quá trình công nghiệp hóa đất
nước và hội nhập quốc tế. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát hoạt động thương mại của các chủ thể kinh doanh, ngăn
ngừa kịp thời và xử lý vi phạm pháp luật của doanh nghiệp và của cả cán
bộ trong hệ thống quản lý nhà nước. Kết hợp cơ chế giám sát của người
dân, người tiêu dùng và các hiệp hội kinh doanh, doanh nghiệp trong
quản lý nhà nước. Tăng cường quyền hạn, trách nhiệm người đứng đầu
cơ quan đối với công tác quản lý, bổ nhiệm, bãi nhiệm cán bộ thuộc
quyền. Chú trọng đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ, đánh giá cán bộ,
thu hút người giỏi, người tài. Có chế độ đãi ngộ đúng đắn, phù hợp với
trí tuệ và trách nhiệm cán bộ đã đóng góp khi thực hiện công vụ trong
quản lý nhà nước về thương mại.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Phân tích những căn cứ khẳng định sự cần thiết tiếp tục đổi mới
và tăng cường quản lý nhà nước về thương mại trong quá trình hội nhập
hiện nay?

265
2. Trình bày những quan điểm cơ bản về đổi mới quản lý nhà nước
đối với thương mại nước ta? Liên hệ thực tiễn vận dụng các quan điểm
đó trong giai đoạn hội nhập hiện nay?
3. Trình bày khái quát những định hướng cơ bản đổi mới quản lý nhà
nước về thương mại ở nước ta? Ý nghĩa nghiên cứu các định hướng đó
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội?
4. Trình bày những giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới quản lý nhà
nước đối với thương mại nước ta? Vì sao phải thực hiện các giải pháp đó
trong quản lý nhà nước về thương mại nước ta hiện nay?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/04/2013 của Bộ Chính trị về
Hội nhập quốc tế.
2. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng khóa X về Một số
chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi
Việt Nam là thành viên WTO.
3. Nghị quyết số 49/2014/NQ-CP ngày 10/07/2014 của Chính phủ
về Ban hành chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện
Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng khóa X.
4. Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/06/2004 của Chính phủ về
Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

266
267
Giáo trình
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THƯƠNG MẠI

Chịu trách nhiệm xuất bản:


Giám đốc - Tổng Biên tập
ThS. ĐỖ VĂN CHIẾN

Biên tập:
THÚY HẰNG - TUYẾT MAI

Trình bày:
TRẦN KIÊN - DŨNG THẮNG

In 1.000 cuốn khổ 16  24 cm tại NXB Thống kê - Công ty TNHH Sản xuất In Quang Minh
Số xác nhận ĐKXB: 163-2015/CXBIPH/03-03/TK do Cục Xuất bản, In và Phát hành cấp ngày 22/01/2015
QĐXB số 11/QĐ-XBTK ngày 09/02/2015 của Giám đốc - Tổng Biên tập NXB Thống kê
In xong và nộp lưu chiểu Quý 1 năm 2015

268

You might also like