Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 35

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI THẢO LUẬN

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ 3 BƯỚC ĐỘT PHÁ KINH TẾ TRƯỚC ĐỔI


MỚI CỦA ĐẢNG. RÚT RA NHẬN XÉT

Lớp học phần : 232_HCMI0131_11


Giảng viên : Lê Văn Nguyên
Nhóm :9

Hà Nội, 2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 9 LẦN 1
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Giảng viên: Lê Văn Nguyên
Lớp học phần: 232-HCMI0131-11
Nhóm: 9
I. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự
1. Thời gian và địa điểm
Thời gian: 20 giờ 00 phút ngày 24 tháng 02 năm 2024
Địa điểm: Nhóm chat Zalo
2. Thành phần tham dự: thành viên nhóm 9
II. Nội dung cuộc họp
Họp phân chia công việc và deadline
- Các thành viên nhận nhiệm vụ:
+ Thuyết trình: Nguyễn Huyền Trang, Lê Bảo Tín
+ Powerpoint: Vũ Thị Thu Thủy
+ Thư ký: Nguyễn Lê Kiều Trang
+ Nội dung: các bạn còn lại

Cuộc họp kết thúc vào 20 giờ 10 phút cùng ngày.

Thư ký Nhóm trưởng


Trang Tiến
Nguyễn Lê Kiều Trang Vũ Thị Tiến

2
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 9 LẦN 2
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Giảng viên: Lê Văn Nguyên
Lớp học phần: 232-HCMI0131-11
Nhóm: 9
I. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự
1. Thời gian và địa điểm
Thời gian: 20 giờ 00 phút ngày 29 tháng 02 năm 2024
Địa điểm: Nhóm chat Zalo
2. Thành phần tham dự: thành viên nhóm 9
II. Nội dung cuộc họp
Nhóm trưởng cùng các thành viên cùng xem phần làm bài của các bạn, góp ý, nhận
xét và lên lịch để các thành viên sửa lại bài.
Cuộc họp kết thúc vào 20 giờ 30 phút cùng ngày.

Thư ký Nhóm trưởng


Trang Tiến
Nguyễn Lê Kiều Trang Vũ Thị Tiến

3
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM 9 LẦN 3
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Giảng viên: Lê Văn Nguyên
Lớp học phần: 232-HCMI0131-11
Nhóm: 9
I. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự
1. Thời gian và địa điểm
Thời gian: 20 giờ 00 phút ngày 09 tháng 03 năm 2024
Địa điểm: Nhóm chat Zalo
2. Thành phần tham dự: thành viên nhóm 9
II. Nội dung cuộc họp
Tổng duyệt thuyết trình, các thành viên góp ý cho 2 bạn thuyết trình để đạt được kết
quả tốt nhất.

Cuộc họp dự kiến kết thúc vào 21 giờ 00 phút cùng ngày.

Thư ký Nhóm trưởng


Trang Tiến
Nguyễn Lê Kiều Trang Vũ Thị Tiến

4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................7
1. Hoàn cảnh lịch sử......................................................................................................7
2. Nội dung.....................................................................................................................9
2.1. Bước đột phá thứ nhất: Hội nghị trung ương 6 (8/1979).................................9
2.1.1. Chủ trương....................................................................................................9
2.1.2. Quá trình thực hiện.......................................................................................9
2.1.3. Kết quả........................................................................................................10
2.1.4. Ý nghĩa........................................................................................................10
2.2. Bước đột phá thứ hai: Hội nghị trung ương 8 (6/1985).................................11
2.2.1. Chủ trương..................................................................................................11
2.2.2. Quy trình thực hiện.....................................................................................12
2.2.3. Kết quả........................................................................................................14
2.2.4. Ý nghĩa........................................................................................................16
2.3. Bước đột phá thứ ba: Hội nghị Bộ chính trị khóa V (8/1986)......................16
2.3.1. Chủ trương:................................................................................................16
2.3.1. Quá trình thực hiện:...................................................................................17
2.3.3 Kết quả.......................................................................................................18
2.3.4, Ý nghĩa........................................................................................................18
3. Nhận xét...................................................................................................................19
3.1. Ưu điểm.............................................................................................................19
3.2. Khuyết điểm.....................................................................................................19
3.3. Nhận xét chung.................................................................................................20
4. Kết luận....................................................................................................................20
KẾT LUẬN..................................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................23

5
PHẦN MỞ ĐẦU

Trước thời kỳ Đổi mới năm 1986, Việt Nam vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc
liệt và đang đối mặt với nhiều thách thức to lớn về kinh tế. Nền kinh tế bao cấp, kế
hoạch hóa tập trung đã bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn đến tình trạng trì trệ, thiếu hụt, đời
sống người dân gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách nhằm đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng, phát triển và hội nhập quốc tế.

Để thực hiện mục tiêu này, Đảng đã đề ra và thực hiện ba bước đột phá kinh tế
quan trọng trong giai đoạn 1975 - 1986. Đây là những bước ngoặt lịch sử, đánh dấu sự
chuyển biến quan trọng trong tư duy kinh tế và chính sách của Đảng, góp phần đưa
nền kinh tế Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới. Vậy nên nhóm chúng em chọn
đề tài “Tìm hiểu về ba bước đột phá kinh tế trước Đổi mới của Đảng. Rút ra nhận xét”
để phân tích sâu hơn về các biện pháp kinh tế được triển khai và những ảnh hưởng của
chúng đối với nền kinh tế và cuộc sống của người dân, từ đó có cái nhìn toàn diện về
quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam và rút ra những bài học quan trọng từ những
kinh nghiệm này.

6
PHẦN NỘI DUNG

1. Hoàn cảnh lịch sử

* Bước đột phá thứ nhất: Hội nghị Trung ương 6 (tháng 8-1979).

- Trong nước:

Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nền kinh tế Việt
Nam gặp nhiều khó khăn và thách thức, như thiếu thốn lương thực, năng lượng, vật tư,
thiết bị, hậu quả chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, đồng tiền mất giá, lạm phát cao,
năng suất lao động thấp, sản xuất không hiệu quả, cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp gây cản trở sự phát triển của các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu
vực tư nhân.

- Ngoài nước:

Sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nền kinh tế thế giới bước vào giai
đoạn suy thoái, giảm tăng trưởng, tăng lạm phát, tăng thất nghiệp, tăng nợ công. Đồng
thời, các nước phương Tây và Trung Quốc đều có những cải cách kinh tế nhằm thích
ứng với thực tế mới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng cần phải có những điều chỉnh
và đổi mới kinh tế để vượt qua khủng hoảng và phát triển bền vững.

* Bước đột phá thứ hai: Hội nghị Trung ương 8 (tháng 6-1985).

- Trong nước:

Sau bước đột phá thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích
cực, nhưng vẫn còn nhiều bất cập và vướng mắc, như cơ chế quản lý kinh tế vẫn còn
tập trung quan liêu, bao cấp, không phản ánh đúng giá trị hàng hóa, không khuyến
khích sản xuất và tiêu dùng, không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, không thu hút
được đầu tư nước ngoài, không thúc đẩy được xuất khẩu, không kiểm soát được lạm
phát, không ổn định được đồng tiền, không cân bằng được ngân sách, không nâng cao
được đời sống nhân dân.

- Ngoài nước:
7
Sau cuộc khủng hoảng năm 1982, nền kinh tế thế giới đã có sự phục hồi và
tăng trưởng, nhờ vào các chính sách kinh tế thích ứng của các nước phát triển và đang
phát triển, như cắt giảm chi tiêu công, tăng cường thương mại tự do, tăng cường hợp
tác kinh tế quốc tế, tăng cường đổi mới công nghệ, tăng cường bảo vệ môi trường.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam cũng cần phải có những cải cách và đổi mới kinh tế sâu
rộng hơn để hội nhập và phát triển kinh tế thị trường.

* Bước đột phá thứ ba: Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (tháng 8-1986) đưa ra
“Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”, đây chính là bước đột
phá thứ ba và là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối mới của Đảng, bước tiền
đề đổi mới kinh tế trong Đại hội VI.

- Trong nước:

Sau bước đột phá thứ hai, nền kinh tế Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể,
như loại bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp,
chuyển tất cả hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hạch toán hình doanh xã hội chủ
nghĩa, thừa nhận quy luật sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề và
thách thức, như cơ chế quản lý kinh tế vẫn còn nhiều bất cập, như kế hoạch vẫn làm
trung tâm, không phù hợp với thực tế kinh tế thị trường, không tạo ra sự linh hoạt và
sáng tạo cho các đơn vị kinh tế, không phát huy được vai trò của các thành phần kinh
tế, đặc biệt là khu vực tư nhân, không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, không thu hút
được đầu tư nước ngoài, không thúc đẩy được xuất khẩu, không kiểm soát được lạm
phát, không ổn định được đồng tiền, không cân bằng được ngân sách, không nâng cao
được đời sống nhân dân.

- Ngoài nước:

Bước đột phá thứ ba trong quá trình đổi mới kinh tế của Việt Nam diễn ra trong
một bối cảnh thế giới đầy thách thức.

Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là
công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời
sống các quốc gia dân tộc.

8
Các nước xã hội chủ nghĩa khác bao gồm Liên Xô đang lâm vào khủng hoảng
trầm trọng.

Công cuộc cải cách mở cửa 1978 của Trung Quốc đạt kết quả to lớn.

Trong bối cảnh này, Đại hội VI đã quyết định tiến hành đổi mới toàn diện, mở
ra một giai đoạn mới cho nền kinh tế Việt Nam.

* Kết luận

Những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những nhận thức về sự cần thiết phải
giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết phải tạo ra động lực thiết thực
cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của
người lao động,... Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng
mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan
trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.

Có thể nói rằng 3 bước đột phá kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam là những
bước ngoặt lịch sử, góp phần quan trọng vào sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế
Việt Nam trong bối cảnh thế giới biến đổi. Mỗi bước đột phá đều có những đặc điểm,
thành tựu, bất cập, khó khăn, thách thức riêng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử trong
nước và ngoài nước khi diễn ra. Để tiếp tục duy trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng
kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế quốc tế, Việt Nam cần phải tiếp
tục đổi mới, sáng tạo, học hỏi, hợp tác, vượt qua các rào cản, vận dụng linh hoạt các
nguyên lý, chính sách, cơ chế, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

2. Nội dung

2.1. Bước đột phá thứ nhất: Hội nghị trung ương 6 (8/1979)

2.1.1. Chủ trương

Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) được cho là bước đột phá đầu tiên đổi mới
kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý

9
kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung
ra”.

Trước hết, về mặt chính sách, phải: "Xóa bỏ ngay những chính sách chế độ bất
hợp lý, gây trở ngại cho sản xuất, khuyến khích việc phát triển sản xuất hàng tiêu
dùng và phát triển công nghiệp địa phương, mở rộng quyền chủ động hợp lý của các
ngành, các địa phương và cơ sở (kể cả quốc doanh, tập thể, cá thể) trong sản xuất,
kinh doanh nhằm làm cho sản xuất "bung ra" để có nhiều hàng hóa cho xã hội. Kết
hợp đúng đắn ba loại lợi ích: Lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thế và lợi ích của người
sản xuất"

Về chủ trương đối với các thành phần kinh tế, Hội nghị phê phán xu hướng tả
khuynh trước đây, chỉ muốn sớm đưa cá thể vào hợp tác xã, đưa hợp tác xã lên quốc
doanh, tưởng như cứ làm như thế là đã có chủ nghĩa xã hội. Hội nghị xác định một
cách nhìn mới về thành phần kinh tế.

Về kết hợp kế hoạch với thị trường, Hội nghị thể hiện thái độ phê phán cách
nghĩ và cách làm trước đây, muốn gò tất cả vào kế hoạch, coi thị trường là một cái gì
bất hợp pháp, càng dẹp bỏ sớm càng tốt. Hội nghị khẳng định: “Trong một thời gian
khá dài, bên cạnh thị trường có tổ chức, có kế hoạch, còn tồn tại một cách khách
quan thị trường ngoài kế hoạch. Thị trường đó bổ sung cho thị trường có kế hoạch
và do thị trường có kế hoạch chi phối về tính chất và quy mô phát triển." Từ những
thay đổi về quan điểm kể trên, Hội nghị đã đi đến một chủ trương rất mới: Chấp nhận
cho các cơ sở sản xuất được gắn với thị trường trong việc tìm kiếm nguyên vật
liệu, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng được liên doanh, liên kết với nhau để giải
quyết những nhu cầu của sản xuất và đời sống. Đối với những hàng hóa và nguyên
liệu không thuộc Trung ương thống nhất quản lý, thì "giữa các địa phương được trao
đổi mua bán với nhau và được quyền quyết định giá." Các xí nghiệp dùng nguyên liệu
nông sản được sản xuất trực tiếp quan hệ với nông trường hoặc hợp tác xã nông
nghiệp trong việc thu mua nguyên liệu, cung cấp vật tư theo hợp đồng kinh tế hai
chiều. Các xí nghiệp dùng nguyên liệu nhập, được cùng với ngoại thương trực tiếp
quan hệ với thị trường nước ngoài trong việc nhập nguyên liệu. Những chủ trương

10
này chính là tiền đề cho Quyết định 25-CP sau này (1981) và những cuộc phá rào,
liên doanh liên kết rất sôi động của các cơ sở kinh tế trong những năm sau.

Về chính sách phân phối lưu thông, xuất phát từ quan điểm của Tổng Bí thư Lê
Duẩn về tiêu chuẩn rất mới so với cách nhìn cũ kỹ của thời kỳ cải tạo, Hội nghị chủ
trương một cơ chế phân phối lưu thông tự do hơn, phê phán cơ chế thu mua dựa trên
những biện pháp hành chính, cưỡng bức như trong các năm trước. Để nắm lương
thực, không phải dùng hình thức hành chính, kiểm soát, bắt buộc như cách làm vừa
qua ở một số nơi, mà phải có chính sách đúng về thuế,về ổn định nghĩa vụ và hợp
đồng hai chiều đề giá cả, để vừa bảo đảm cho Nhà nước nắm được lương thực, vừa
khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất và vui vẻ bán lương thực cho Nhà nước.
Phải tính toán lại giá thu mua lương thực, để thật sự bảo đảm cho nông dân làm lương
thực được mức lãi cao hơn các ngành khác... Ngoài thuế 10% sản lượng và mua theo
giá hợp đồng hai chiều, Nhà nước dùng giá thỏa thuận đi đôi với động viên chính trị
để mua phần lương thực hàng hóa còn lại. Giá thỏa thuận là giá nông dân đồng ý bán
và Nhà nước đồng ý mua, kế hoạch không hoàn toàn theo giá thị trường tự do, nhưng
không nên quy định cứng nhắc bằng gấp đôi giá chỉ đạo.

Về giá cả, Hội nghị quyết định giao cho Ban Bí thư, Hội đồng Chính phủ và
các cơ quan hữu quan chuẩn bị tiến hành sửa đổi hệ thống giá: "Sửa lại giá lương thực
và giá các nông sản khác cho hợp lý để khuyến khích sản xuất và mở rộng nguồn thu
mua của Nhà nước.", "Nghiên cứu điều chỉnh giá một số mặt hàng cần thiết nhằm
phục vụ tốt cho sản xuất, đời sống, xuất khẩu và tích luỹ, tiến tới chấm dứt sớm tình
trạng bù lỗ không hợp lý.".

Về nông nghiệp, Hội nghị đã nghe phản ảnh rất nhiều về tình trạng gò ép nông
dân trong hợp tác hóa, tình trạng thiếu hiệu quả của các tập đoàn sản xuất. Từ đó đã có
những uốn nắn về cả quan điểm lẫn biện pháp: Tổ chức nông dân vào hợp tác xã hoặc
tập đoàn sản xuất, phải theo đúng ba nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi và quản lý
dân chủ. Ở những nơi chưa tổ chức nông dân sản xuất tập thể, phải chuẩn bị kỹ các
điều kiện cần thiết, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý ở cơ sở, đưa nông dân từ những
hình thức vần công, đổi công, tố toàn kết sản xuất lên hình thức tập đoàn sản xuất và

11
hợp tác xã, chống tư tưởng chủ quan, nóng vội, cưỡng ép mệnh lệnh, làm ồ ạt, gây
thiệt hại cho đời sống nhân dân.

2.1.2. Quá trình thực hiện

Tháng 10/1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định về việc tận dụng đất đai
nông nghiệp để khai hoang, phục hóa, được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng
toàn bộ sản phẩm, quyết định xóa thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm, quyết
định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra
trao đổi ngoài thị trường. Theo chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và
tự mình làm các khâu cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã
đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán.

Trên cơ sở đó, ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (ngày 13/1/1981)
về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp
(gọi tắt là Khoán 100) để giải quyết hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông
nghiệp ở một số địa phương.

Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở
Thành Phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25/CP
(1/1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các
xí nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương
khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất
kinh doanh của Nhà nước.

2.1.3. Kết quả

Chủ trương được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào
quần chúng sâu rộng.

Những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng
kể. Đem lại kết quả tích cực trong sản xuất. Sản lượng lương thực bình quân tăng: Sản
lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu

12
tấn/năm thời 1981-1985. Sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa
phương vượt kế hoạch 7,5%.

2.1.4. Ý nghĩa

Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu
bước đột phá trong tư duy kinh tế của Đảng, góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng, tiến lên con đường đổi mới và phát triển. Đó là những tư duy kinh tế ban đầu,
tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan
trọng.

Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực
lượng sản xuất" , “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết
điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản
xuất : chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động.
Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới
sau này. Nó là sự mở đầu cho quá trình đổi mới kinh tế: khắc phục những hạn chế của
mô hình tập trung, quan liêu, bao cấp, giải phóng năng lực sản xuất, thúc đẩy kinh tế
phát triển cũng như tạo tiền đề cho Đại hội VI (1986) đưa ra đường lối đổi mới toàn
diện: khẳng định vai trò của thị trường, kinh tế nhiều thành phần, chuyển sang cơ chế
quản lý kinh tế dựa trên hạch toán kinh tế, kế hoạch hóa và thị trường.

2.2. Bước đột phá thứ hai: Hội nghị trung ương 8 (6/1985)

2.2.1. Chủ trương

Từ ngày 10 đến 17- 6 - 1985, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
khóa V họp bàn và quyết định một vấn đề cực kỳ quan trọng: cải cách một bước giá
cả, tiền lương, tài chính, tiền tệ để xoá bỏ quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang
hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Hội nghị nhận định rằng: từ sau
ngày giải phóng miền Nam, nước nhà thống nhất, điều kiện kinh tế, tài chính của nước
ta thay đổi căn bản: viện trợ không hoàn lại hầu như không còn nữa, số vốn vay dài
hạn của các nước anh em và bè bạn để nhập khẩu nguyên liệu, nhiên liệu và hàng tiêu
dùng bị giảm đi nhiều. Hai cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên

13
giới phía Bắc nước ta, cùng với những hoạt động phá hoại về nhiều mặt của chúng đã
gây ra cho ta nhiều thiệt hại. Dân số tăng lên quá nhanh trong khi đó nhu cầu tiêu
dùng xã hội tăng hơn trước, nhu cầu quốc phòng và chi phí về xây dựng cơ bản vẫn
phải duy trì ở mức cao.

Trước tình mới, Đảng và Nhà nước chưa kiên quyết, kịp thời sắp xếp lại sản
xuất và xây dựng, định lại chính sách tài chính quốc gia, lấy nguồn động viên trong
nước làm cơ sở; xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp để chuyển hẳn
sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa... Do bảo thủ, tập trung quan liêu,
thiếu linh hoạt, nhạy bén, chỉ đạo và điều hành có nhiều khuyết điểm, tư tưởng ỷ lại
vào viện trợ từ bên ngoài còn nặng, cho nên chúng ta đã chậm đổi mới chính sách
kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế.

Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được khắc phục, tính năng động
trong sản xuất, kinh doanh không được phát huy, tài chính quốc gia ngày càng thiếu
hụt, lạm phát không ngừng tăng thêm, hệ thống giá của Nhà nước ngày càng tách rời
giá trị và sức mua của đồng tiền, tiền lương thực tế, đời sống của công nhân, viên
chức và các lực lượng vũ trang ngày càng giảm sút, gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực
trong tâm lý và đời sống xã hội.

Từ tình hình trên, Hội nghị khẳng định: Không thể ổn định được tình hình kinh
tế và đời sống, cân bằng được ngân sách và tiền mặt, trong khi vẫn duy trì bao cấp qua
giá và lương. Hội nghị chủ trương: phải dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã
hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Xoá bỏ chế độ
tập trung quan liêu, bao cấp trong giá và lương là yêu cầu cấp bách, là khâu đột phá có
tính chất quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa.

2.2.2. Quy trình thực hiện

* Mục tiêu chủ yếu:

14
- Thúc đẩy sản xuất phát triển theo cơ cấu hợp lý (ngành, vùng, thành phần),
khai thác mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
có, nhằm phát triển mạnh sản xuất với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.

- Ổn định đời sống nhân dân lao động, trước hết là đời sống công nhân, viên
chức và lực lượng vũ trang. Nhà nước làm chủ sản xuất và phân phối lưu thông, làm
chủ thị trường và giá cả; từng bước cân bằng ngân sách và tiền mặt.

- Góp phần tạo dần nguồn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

- Thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường kinh tế quốc doanh và kinh tế
tập thể, phát triển kinh tế gia đình.

- Góp phần tăng cường quốc phòng và an ninh, kiên quyết chống địch phá hoại;
đấu tranh có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực.

Xóa quan liêu bao cấp trong giá và lương là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu
đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã
hội chủ nghĩa trên cơ sở kế hoạch hoá, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, các cơ sở sản xuất,
kinh doanh trong cả nước. Nội dung xóa quan liêu, bao cấp trong giá - lương - tiền
chủ yếu là:

1. Tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm, giá cả bảo đảm bù đắp chi
phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thỏa đáng và Nhà nước từng bước có
tích lũy; xóa bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ bất hợp lý.

Thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống giá, khắc phục tình trạng "thả nổi"
giá cả cũng như việc định giá và quản lý giá cứng nhắc.

+ Phân công, phân cấp hợp lý trong cơ chế quản lý giá, vừa bảo đảm quyền tập
trung thống nhất của trung ương trong việc định giá những vật tư hàng hoá chủ yếu có
tính toàn quốc; vừa bảo đảm quyền chủ động, linh hoạt của địa phương và cơ sở về

15
những vật tư và hàng hoá có tính địa phương. Trên cơ sở định giá đúng và phân công,
phân cấp hợp lý, phải tăng cường kỷ luật quản lý giá.

2. Tiền lương thực tế phải thực sự bảo đảm cho người ăn lương sống chủ yếu
bằng tiền lương, tái sản xuất được sức lao động và phù hợp với khả năng của nền kinh
tế quốc dân.

+ Gắn chặt tiền lương với năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, thực hiện
phân phối theo lao động.

+ Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm, xoá bỏ chế độ cung cấp
hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá.

+ Thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước có tính đến sự khác biệt
hợp lý giữa các vùng, các ngành; ưu đãi thỏa đáng các ngành nghề nặng nhọc, độc hại,
có yêu cầu nghiệp vụ, kỹ thuật cao, các ngành giáo dục, y tế, văn hoá, nghệ thuật.

3. Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành kinh tế - kỹ thuật, các địa
phương và đơn vị cơ sở gắn liền với sửa đổi cơ chế kế hoạch hoá và quản lý. Chuyển
hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở
sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bắt đầu ngay từ kế hoạch hoá. Tất
cả các tổ chức kinh tế phải tự chịu trách nhiệm về lời - lỗ của mình; xoá bỏ mọi khoản
bù lỗ bất hợp lý của ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương) về các hoạt động
sản xuất - kinh doanh. Trường hợp có bù lỗ chỉ là cá biệt, tạm thời và phải được xem
xét thật nghiêm ngặt.

+ Xoá bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương và địa phương mang tính
chất bao cấp tràn lan; phấn đấu tích cực thực hiện cân bằng ngân sách trong thời gian
ngắn; tạo điều kiện cho ngân sách địa phương có nguồn thu ổn định và phát triển.

4. Nhanh chóng chuyển hẳn công tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện tốt nhất cho các ngành, địa phương, đơn vị cơ
sở thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy hiệu quả kinh tế
của đồng vốn làm tiêu chuẩn hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

16
+ Để làm chủ sản xuất, làm chủ thị trường, làm chủ phân phối - lưu thông, cần
chủ động kế hoạch hoá phát hành, phấn đấu sớm chấm dứt lạm phát cho chi tiêu ngân
sách.

+ Trong tình hình kinh tế đang chuyển biến, chưa ổn định, cuộc điều chỉnh lớn
và toàn diện về giá - lương - tiền lần này phải tiến hành khẩn trương, kiên quyết,
nhưng phải tính toán kỹ lưỡng các phương án vững chắc gắn với việc xây dựng và
hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới.

+ Các chủ trương và việc tổ chức thực hiện ngay trong mỗi bước phải đồng bộ,
quán triệt quan điểm xoá bỏ quan liêu bao cấp. Phải dự kiến được mặt tích cực, đồng
thời phải lường trước những hệ quả kinh tế, chính trị và xã hội bất lợi nhất thời có thể
xảy ra để có biện pháp tích cực đề phòng và khắc phục.

* Quy trình:

Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 6 năm 1985: Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

- Là khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch
toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế hoạch hoá, phát huy mạnh mẽ quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các
ngành, các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong cả nước.

- Phân công, phân cấp hợp lý trong cơ chế quản lý giá, vừa bảo đảm quyền tập
trung thống nhất của trung ương trong việc định giá những vật tư hàng hoá chủ yếu có
tính toàn quốc; vừa bảo đảm quyền chủ động, linh hoạt của địa phương và cơ sở về
những vật tư và hàng hoá có tính địa phương. Trên cơ sở định giá đúng và phân công,
phân cấp hợp lý, phải tăng cường kỷ luật quản lý giá.

- Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành kinh tế - kỹ thuật, các địa
phương và đơn vị cơ sở gắn liền với sửa đổi cơ chế kế hoạch hoá và quản lý. Chuyển
hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở

17
sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bắt đầu ngay từ kế hoạch hoá. Tất
cả các tổ chức kinh tế phải tự chịu trách nhiệm về lời - lỗ của mình; xoá bỏ mọi khoản
bù lỗ bất hợp lý của ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương) về các hoạt động
sản xuất - kinh doanh. Trường hợp có bù lỗ chỉ là cá biệt, tạm thời và phải được xem
xét thật nghiêm ngặt.

Tháng 7-8/1985:

- Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị 36-CT/TW: Hướng dẫn việc thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8. Với nội dung chính

+ Tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết

+ Xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể

+ Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cán bộ

+ Giải quyết các vướng mắc, khó khăn

- Chính phủ ban hành Nghị định 165/HĐBT: Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quy chế quản lý giá cả. Với nội dung chính:

+ Quy định nguyên tắc, phương thức quản lý giá cả:

 Áp dụng nguyên tắc giá cả thị trường, giá cả do thị trường quyết định.
 Nhà nước chỉ quản lý giá cả đối với một số mặt hàng thiết yếu, quan
trọng.

+ Phân cấp quản lý giá cả:

 Trung ương quản lý giá cả đối với một số mặt hàng thiết yếu, quan trọng
quốc gia.
 Địa phương quản lý giá cả đối với các mặt hàng còn lại.

+ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giá cả:

 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện giá cả.

18
 Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về giá cả.

Tháng 8-9/1985: Điều chỉnh giá và lương, cần cải tiến công tác tài chính và lưu
thông tiền tệ. Chuyển đại bộ phận vốn đầu tư và toàn bộ vốn lưu động của xí nghiệp
sang hình thức tín dụng.

a) Trên cơ sở phát triển sản xuất và cải tiến quản lý, phấn đấu hạ giá thành và
phí lưu thông, cần nắm chắc và huy động mạnh mẽ các nguồn thu cho ngân sách nhà
nước.

b) Điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương, thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở ba cấp cùng làm chủ, bảo
đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích (toàn xã hội, tập thể, cá nhân người lao động); tạo điều
kiện cho địa phương chủ động hơn nữa trong việc khai thác các tiềm năng để phát
triển kinh tế địa phương, tăng nguồn thu, và chủ động bố trí ngân sách địa phương đáp
ứng các nhu cầu chi tiêu cần thiết của mình.

c) Áp dụng các biện pháp có hiệu lực để cải tiến lưu thông tiền tệ, thu hút tiền
nhàn rỗi, đẩy nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiền. Chuyển mạnh hoạt động của ngân
hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa; kịp thời đáp ứng những
nhu cầu về vốn cho sản xuất - kinh doanh theo giá mới.

d) Tăng cường sự kiểm soát bằng đồng tiền và kỷ luật về tài chính và tiền mặt.
Sửa đổi chế độ chi tiêu phù hợp với cơ chế mới; trên cơ sở đó, nghiêm cấm mọi sự chi
tiêu sai chế độ; chống lãng phí; nghiêm trị mọi hành vi tham ô, lập quỹ đen. Thực hiện
nghiêm ngặt sự kiểm tra và thanh tra tài chính của Nhà nước.

Tháng 12/1985, Hội nghị đã kiểm điểm tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước
năm 1985 và đề ra nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1986 nhằm tạo nên một chuyển biến
mạnh trong việc thực hiện cơ chế mới, quản lý kinh tế - xã hội, sử dụng lao động, đất
đai và những cơ sở vật chất - kỹ thuật đã có, đổi mới kế hoạch hoá...

19
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V là sự đổi mới tư
duy trên lĩnh vực lưu thông, phân phối với nét nổi bật là thừa nhận sản xuất hàng hoá
và những quy luật của sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.

2.2.3. Kết quả

Hội nghị Trung ương 8 (6/1985) đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử
đổi mới đất nước với những kết quả to lớn sau:

1. Chuyển biến về tư duy kinh tế:

- Chuyển từ quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa: Đây là thay đổi mang tính chiến lược, xóa bỏ cơ chế cũ đã tồn tại nhiều hạn
chế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và người dân tự chủ trong hoạt động kinh tế.

- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Xóa bỏ rào cản, khuyến khích thu hút đầu
tư nước ngoài, thúc đẩy xuất khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Cải cách giá - lương - tiền:

- Cải cách giá cả: Giá cả hàng hóa được điều chỉnh sát với giá trị thực, tạo động
lực cho sản xuất, hạn chế tình trạng đầu cơ, lãng phí.

- Cải cách tiền lương: Nâng mức lương tối thiểu, thực hiện trả lương theo năng
suất lao động, khuyến khích người lao động làm việc hiệu quả.

- Cải cách tiền tệ: Đổi tiền, thống nhất hạch toán kinh tế bằng đồng tiền quốc
gia, ổn định thị trường tiền tệ.

3. Thúc đẩy sản xuất và đời sống:

- Nông nghiệp: Năng suất lúa và các loại cây trồng khác tăng cao, giải quyết
được vấn đề an ninh lương thực.

- Công nghiệp: Nhiều ngành công nghiệp phát triển, sản xuất hàng hóa đa dạng,
đáp ứng nhu cầu thị trường.

20
- Đời sống: Thu nhập và đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, giảm tỷ
lệ hộ nghèo.

4. Tạo nền tảng cho những bước phát triển tiếp theo:

- Hội nghị Trung ương 8 đã tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới, khơi
dậy tinh thần sáng tạo, chủ động của các cấp, các ngành và nhân dân.

- Kết quả của Hội nghị là tiền đề quan trọng cho những thành tựu to lớn mà
Việt Nam đạt được trong những năm tiếp theo.

5. Ngoài ra, một số kết quả khác của Hội nghị Trung ương 8 bao gồm:

- Mở rộng quyền tự chủ cho các địa phương và doanh nghiệp: Các địa phương
và doanh nghiệp được trao quyền tự chủ trong hoạt động kinh tế, tự quyết định kế
hoạch sản xuất, kinh doanh, đầu tư.

- Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân: Kinh tế tư nhân được khuyến khích
phát triển, góp phần đa dạng hóa các thành phần kinh tế.

- Cải thiện hệ thống pháp luật: Hệ thống pháp luật được hoàn thiện, tạo môi
trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế.

6. Tuy chủ trương hợp lý, nhưng cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, đổi tiền diễn
ra vội vàng khi chưa chuẩn bị đủ mọi mặt. Điều này khiến cuộc khủng hoảng kinh tế -
xã hội trở nên trầm trọng sâu sắc hơn.

Hội nghị Trung ương 8 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử đổi mới đất
nước, khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Những kết quả của Hội nghị đã góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, tạo nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ trong những thập kỷ sau.

2.2.4. Ý nghĩa

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá V là một mốc đánh dấu
bước trưởng thành vượt bậc của Đảng và nhân dân ta trên mặt trận kinh tế. Việc đổi

21
mới chính sách giá - lương - tiền và cơ chế quản lý kinh tế là một sự thay đổi lớn có ý
nghĩa cách mạng. Nghị quyết này sẽ tạo ra sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn dân,
phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong cả nước, dấy
lên cao trào cách mạng của quần chúng trong lao động, sản xuất và bảo vệ Tổ quốc,
đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên giành những thắng lợi mới, đưa nền kinh tế
vào quỹ đạo phù hợp với những quy luật khách quan trong chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- VD dữ liệu thứ cấp chưa xử lý: thống kê số lg ca mắc covid: 400ng mắc, 10ng nặng
 ko rõ là ít hay nhiều, cần đc so sánh với những ngày trc đó

- Trích dẫn

+ Trích dẫn nội dung

+ Trích dẫn nguồn

- Phiếu kháo sát

+ Câu hỏi chuyên sâu – thang đo khoảng

+ Câu hỏi chung, dạng lọc – thang đo tỷ lệ

- Làm bảng hỏi

+ in4 cá nhân ở cuối

- Thông tin trong phiếu khảo sát  dữ liệu chưa có sẵn nhưng đã có trong thực tế

- VD dữ liệu sơ cấp chưa có trong thực tế

+ khảo sát về thử nghiệm sp mới chưa có trên thị trg, chí có sp mẫu

+ thuốc  chưa biết tác dụng cụ thể  sd lên người bệnh nhân  thử nghiệm, theo
dõi

- Phân loại nc định lượng: pp khảo sát và thăm dò

22
- Nghiên cứu tìm ra lý thuyết mới  định tính

- Chọn mẫu theo chỉ tiêu  cải thiện tính đại diện

- Pp quả bóng tuyết: chọn ra 1, 2 người để pv và nhờ những người đó tìm ra thêm
người khác để pv

+ càng lăn  càng lớn

+ ngừng lớn khi: hết tuyết, gặp vật cản

 áp dụng trong TH người pv khó tiếp cận đc đối tượng pv

Trình bày các công cụ trong nc định tính. Ptich cụ thể 1 công cụ (đ.đ, ưu điểm)

- Pv trực tiếp. Ko chuẩn bị trc câu hỏi

+ in4 ko sâu, in4 ít  tổng hợp tốn tgian

- Pv có cấu trúc: đưa ra câu hỏi sẵn

+ tạo áp lực cho người đc pv

- Pv bán cấu trúc: kết hợp 2 loại trên

Pp chọn mẫu trong định lượng

2.3. Bước đột phá thứ ba: Hội nghị Bộ chính trị khóa V (8/1986)

2.3.1. Chủ trương:

* Về cơ cấu sản xuất

- Khắc phục tâm lý chủ quan, nóng vội khi đề ra 1 số chủ trương quá lớn, quá
cao trong sản xuất.

- Điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thực sự lấy nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu; cần tập trung thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu
là lương thực, thực phẩm – hàng tiêu dùng thiết yếu – hàng xuất khẩu, ra sức phát

23
triển công nghiệp nhẹ, có sự lựa chọn về quy mô và nhịp độ đối với phát triển công
nghiệp nặng, phát huy hiệu quả nhanh phục vụ yêu cầu phát triển nông nghiệp, công
nghiệp nhẹ và xuất khẩu.

* Về cải tạo xã hội chủ nghĩa

- Lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như từng
vùng, từng lĩnh vực, nhận định đúng đắn đặc trưng thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta. Nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là nền
kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, cải tạo XHCN không chỉ thay đổi chế độ sở hữu
mà thay đổi cả chế độ quản lý và chế độ phân phối.

- Tận dụng tiềm năng, phát triển lực lượng sản xuất, tạo thêm việc làm, thay
đổi chế độ quản lý, chế độ phân phối.

* Về cơ chế quản lý kinh tế

- Nội dung cơ chế quản lý kinh doanh XHCN là đổi mới kế hoạch hóa theo
nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế XHCN, đồng thời sử
dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hóa - tiền tệ.

- Làm cho đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt
chức năng quản lý hành chính của nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh
doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống
nhất của Trung ương trong các khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương, quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.

- Bố trí lại cơ cấu kinh tế.

2.3.1. Quá trình thực hiện:

Giai đoạn chuẩn bị (1981-1985): Trong giai đoạn này, chính phủ Việt Nam đã
thực hiện một loạt các biện pháp để chuẩn bị cho quá trình đổi mới. Các biện pháp bao
gồm việc tăng cường kiểm soát kinh tế, cải cách hành chính và tài chính, và đào tạo
cán bộ cấp cao về kinh tế.

24
Thực hiện chính sách đổi mới (1986-1990): Năm 1986, Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam đã ra quyết định về chính sách đổi mới, đánh dấu bước đột phá kinh tế thứ
ba. Trong giai đoạn này, chính sách đổi mới tập trung vào cải cách kinh tế với mục
tiêu tăng cường hiệu quả sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

- Tháng 4 năm 1986, trước Đại hội Đảng lần thứ VI, Ủy ban Kế hoạch Nhà
nước đã trình Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng báo cáo "Tư tưởng chỉ đạo xây dựng kế
hoạch 5 năm 1986-1990”, xác định những nội dung, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5
năm 1986-1990 là: ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của
nhân dân; đồng bộ hóa sản xuất và tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật; xây
dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới XHCN, sử dụng tốt các thành phần kinh tế
khác, hình thành cơ chế quản lý mới; và đảm bảo nhu cầu củng cố quốc phòng, an
ninh trong tình hình mới.

- Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã họp và thông qua
chương trình đổi mới kinh tế toàn diện theo ba hướng chính. Một là, chuyển đổi từ
chính sách đơn thành phần sở hữu sang nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại của
nhiều hình thức sở hữu nhằm phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế;
Hai là, chuyển từ cơ chế Nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động của nền kinh tế
bằng kế hoạch pháp lệnh, gắn với cơ chế bao cấp, sang cơ chế kinh tế thị trường với
sự quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của từng
doanh nghiệp; Ba là, chuyển từ kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp sang kinh tế
mở cửa với thế giới bên ngoài.

- Sau Nghị quyết 217/HĐBT tháng 11-1987 giao quyền tự chủ cho các xí
nghiệp quốc doanh, số chỉ tiêu pháp lệnh giảm xuống còn 1 hoặc 2, giảm mạnh bao
cấp bù lỗ vốn kinh doanh cho các xí nghiệp và bù lỗ tiêu dùng qua giá, chuyền dần
cấp phát ngân sách cho đầu tư sang tín dụng. Trong nông nghiệp, Nghị quyết 10
(khoán 10 năm 1988) của Bộ Chính trị đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh khác dần dần được thừa nhận và hợp thức hóa bằng
pháp luật.

2.3.3 Kết quả

25
Chính sách đổi mới đã tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế, dẫn đến tăng trưởng GDP đáng kể. (Giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%. Trong các giai đoạn tiếp theo, tỷ
lệ này được cải thiện đáng kể: giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2% năm;
giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP tăng 7%; giai đoạn 2001- 2010 GDP tăng bình
quân 7,26%,..)

Nhờ những chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, khu
vực tư nhân đã có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế Việt Nam, trở thành một
động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm và nâng cao đời
sống nhân dân.

Việt Nam đã mở cửa thị trường và tích cực tham gia vào các hiệp định thương
mại quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa.

2.3.4. Ý nghĩa

Bước đột phá thứ ba là một bước đi táo bạo và sáng tạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đây là một quyết định đúng đắn và có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới và phát triển.

Là bước ngoặt quyết định trong công cuộc đổi mới: Mở đường cho Đại hội VI
(12/1986) chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện.

Đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong tư duy kinh tế: Chuyển từ tư duy tập
trung bao cấp sang tư duy kinh tế thị trường.

Tạo nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam
chuyển từ khủng hoảng sang giai đoạn phục hồi và phát triển.

Mở ra cánh cửa cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam và
thúc đẩy sự sáng tạo và khởi nghiệp.

Kích thích sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ, tăng cường sức
cạnh tranh và sự đa dạng hóa kinh tế.

26
Tăng cường năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời mở
rộng cơ hội hợp tác kinh tế và văn hóa với các quốc gia khác, trở thành một đối tác
kinh tế đáng tin cậy trên trường quốc tế, tăng cường uy tín và danh tiếng của đất nước.

3. Nhận xét

3.1. Ưu điểm

- Khởi động nền kinh tế:

+ Thúc đẩy sản xuất nông nghiệp: chuyển đổi sang cơ chế khoán 100, xóa bỏ
bao cấp giúp nâng cao năng suất lao động, tăng sản lượng lương thực.

+ Phát triển kinh tế tập thể: Hợp tác hóa nông nghiệp, hình thành các hợp tác
xã, tập trung sản xuất, tăng cường sức mạnh kinh tế.

+ Mở rộng kinh tế tư nhân: Cho phép hoạt động kinh doanh cá thể, hộ gia đình,
góp phần đa dạng hóa thành phần kinh tế.

- Nâng cao đời sống người dân:

+ Giảm tỷ lệ đói nghèo: Nâng cao thu nhập cho người lao động, đặc biệt là ở
nông thôn. Từ đó cải thiện đời sống vật chất, tinh thần.

+ Cải thiện hệ thống giáo dục: nhờ nguồn thu từ kinh tế, ngân sách nhà nước đã
thực hiện hoạt động phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở giúp nâng cao trình độ
học vấn của người dân.

+ Phát triển hệ thống y tế: Cải thiện chất lượng khám chữa bệnh giúp nâng cao
tuổi thọ trung bình của người dân.

+ Tăng thu nhập: Năng suất lao động tăng cao, người nông dân được hưởng lợi
từ sản phẩm mình làm ra, đời sống dần được cải thiện.

- Tạo tiền đề cho đổi mới:

27
+ Kinh nghiệm thực tiễn: Những bước đột phá là bài học kinh nghiệm quý báu
cho công cuộc đổi mới sau này.

+ Tư duy mới: Nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hình thành thay đổi tư
duy của người dân, tạo nền tảng cho đổi mới.

+ Hội nhập quốc tế: Việc mở rộng giao thương tạo tiền đề cho Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế sau này.

3.2. Khuyết điểm

* Nông nghiệp:

- Chưa giải quyết triệt để vấn đề bao cấp: Mặc dù đã có những cải thiện, nhưng
việc Nhà nước bao cấp giá cả, sản xuất và tiêu thụ nông sản vẫn còn phổ biến. Điều
này dẫn đến tình trạng lãng phí, thiếu hiệu quả và phụ thuộc vào Nhà nước.

- Thiếu sự đa dạng hóa: Nền nông nghiệp tập trung vào một số loại cây trồng
chính, dẫn đến rủi ro cao và hạn chế khả năng thích ứng với thị trường.

- Hạ tầng còn yếu kém: Hệ thống thủy lợi, giao thông, và dịch vụ hỗ trợ cho
sản xuất nông nghiệp còn thiếu và chưa phát triển đồng đều.

* Công nghiệp:

- Tập trung vào công nghiệp nặng: Việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đã
dẫn đến tình trạng lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường và hiệu quả kinh tế thấp.

- Công nghệ lạc hậu: Hầu hết các nhà máy sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, dẫn
đến năng suất thấp và chất lượng sản phẩm kém.

- Thiếu sự cạnh tranh: Do sự độc quyền của Nhà nước trong nhiều lĩnh vực, các
doanh nghiệp thiếu động lực để đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh.

* Thương mại:

28
- Hạn chế về xuất nhập khẩu: Hệ thống quản lý xuất nhập khẩu còn cứng nhắc,
hạn chế sự tham gia của Việt Nam vào thị trường quốc tế.

- Thiếu thị trường nội địa: Do thu nhập thấp và sự hạn chế về lưu thông hàng
hóa, thị trường nội địa chưa phát triển mạnh.

- Cơ sở hạ tầng yếu kém: Hệ thống giao thông, kho bãi, và dịch vụ hỗ trợ cho
thương mại còn thiếu và chưa phát triển đồng đều.

*Ngoài ra, ba bước đột phá này còn có một số hạn chế chung:

- Chưa có sự đồng bộ: Các chính sách kinh tế chưa được phối hợp chặt chẽ, dẫn
đến tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn.

Ví dụ: khoán 100 trong nông nghiệp được thực hiện trước khi có sự thay đổi
tương ứng trong công nghiệp và thương mại, dẫn đến tình trạng mất cân bằng giữa
các ngành.

- Thiếu sự minh bạch: Hệ thống pháp luật và quy định còn thiếu minh bạch, tạo
điều kiện cho tham nhũng và lãng phí.

Ví dụ 1: việc mở rộng thành phần kinh tế dẫn đến tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh, nhiều doanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu quả.

Ví dụ 2: luật doanh nghiệp chưa được hoàn thiện, dẫn đến tình trạng nhiều
doanh nghiệp hoạt động thiếu minh bạch.

- Nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu: trình độ chuyên môn và kỹ năng của đội ngũ
cán bộ và lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế mới.

3.3. Nhận xét chung

Bước đột phá thứ nhất: Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) đã mở đầu cho quá
trình đổi mới kinh tế, khắc phục hạn chế của mô hình tập trung, quan liêu, bao cấp, tạo
tiền đề cho Đại hội VI (1986) đưa ra đường lối đổi mới toàn diện. Bước đột phá thứ
hai: Hội nghị Trung ương 8 (6/1985) đã hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, tạo động

29
lực cho sản xuất, kinh doanh cũng như giải phóng sức mạnh của các thành phần kinh
tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sang bước đột phá thứ ba: Hội nghị Bộ chính trị khóa
V (8/1986), hội nghị đã đưa ra kết luận về 1 số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế, nội
dung hội nghị mang tính đột phá, là bước tiền đề đổi mới kinh tế trong Đại hội VI.

Ba bước đột phá kinh tế trước đổi mới của Đảng là những quyết định quan
trọng, có ý nghĩa to lớn, là những dấu mốc quan trọng, góp phần đưa Việt Nam từ một
nền kinh tế bao cấp, trì trệ sang một nền kinh tế thị trường năng động, phát triển. Mỗi
bước đột phá đều có ý nghĩa và vai trò riêng, tạo nền tảng cho bước tiếp theo. Trong
đó, bước đột phá thứ 3 là kết quả của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa
quan điểm mới và quan điểm cũ trên lĩnh vực kinh tế. Nó trở thành cơ sở quan trọng
cho việc hình thành đường lối đổi mới kinh tế tại đại hội VI (1986). Tuy nhiên, quá
trình thực hiện cũng còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục hoàn thiện và giải quyết để đưa
đất nước phát triển mạnh mẽ hơn.

Nhìn chung, ba bước đột phá kinh tế trước đổi mới là những bước đi quan
trọng và cần thiết, tạo nền tảng cho công cuộc đổi mới toàn diện sau này. Tuy còn một
số hạn chế, nhưng những thành tựu đạt được đã khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước. Ba bước đột phá kinh
tế trước đổi mới là thành quả to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện sự sáng
tạo, đổi mới và quyết tâm đưa đất nước phát triển. Những bài học kinh nghiệm từ quá
trình này cần được tiếp tục phát huy để đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng và phát triển
bền vững hơn trong tương lai.

4. Kết luận

Từ năm 1986 đến nay, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới đã đáp ứng được
đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước. Những
thắng lợi bước đầu đó được Đảng ta từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa đường lối đổi
mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng qua các kỳ Đại hội.

30
Hơn 30 năm qua, sự nghiệp đổi mới đã đạt những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng (tháng 1
năm 2016) đánh giá: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá
trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh".

Thành công của sự nghiệp đổi mới thể chế kinh tế ở nước ta trong những năm
qua cũng bắt đầu từ sự đột phá năng động của cá nhân, tổ chức, và địa phương. Tuy
nhiên, sự năng động và đột phá của các nhân và cơ sở trong giai đoạn mới của công
cuộc đổi mới và cải cách hiện nay khó khăn và thách thức hơn nhiều, vì nó không chỉ
đòi hỏi sự dũng cảm trong nỗ lực cởi trói mà còn đòi hỏi kết tụ được tinh hoa của
phẩm chất dân tộc, với tầm nhìn, hoài bão, và khả năng tìm kiếm và hấp thụ tri thức
của nhân loại. Mỗi cá nhân cần trở thành một nhân tố năng động và tích cực cho công
cuộc đổi mới, khởi đầu bằng nỗ lực đổi mới tư duy, trên cơ sở đó, đóng góp những
sáng kiến và sinh lực mới cho sự nghiệp phát triển chung.

Tóm lại, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, có sức mạnh kỳ diệu trong
nâng cao năng lực và tầm vóc đi lên của mỗi cá nhân, tổ chức, và xã hội. Thế nhưng
đổi mới tư duy là quá trình rất khó khởi động. Không phải ngẫu nhiên, John Maynard
Keynes, nhà kinh tế học lớn nhất của thế kỷ XX, đã từng nhận xét: “Khó khăn nằm
không phải ở cách tư duy mới, mà ở việc thoát khỏi được cách nghĩ cũ, cách nghĩ đã
ăn sâu trong mọi ngõ ngách của não trạng chúng ta”. Cho nên, một khi đã thấy rõ
những nội dung cần đổi mới trong tư duy, thảo luận sâu sắc và kiên quyết đổi mới triệt
để là những bước đi ban đầu rất quan trọng. Đổi mới tư duy cần trở thành sự lựa chọn
khảng khái và dũng cảm của mỗi cá nhân, tổ chức, và toàn xã hội. Đổi mới tư duy mà
trước hết là tư duy kinh tế sẽ tạo nên nền tảng vững chắc và sức mạnh tiềm tàng cho
dân tộc ta phát triển sáng tạo, bền vững, bao trùm, đi tới vị thế vẻ vang và xứng đáng
của mình trong cộng đồng thế giới.

31
32
KẾT LUẬN

Ba bước đột phá kinh tế trước Đổi mới là những bước ngoặt lịch sử quan trọng,
đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy kinh tế và chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Những thành tựu to lớn đạt được trong giai đoạn này là nền tảng vững
chắc cho công cuộc đổi mới sau này, đưa Việt Nam từ một nền kinh tế bao cấp, trì trệ
sang một nền kinh tế thị trường, năng động và hội nhập quốc tế.

Tuy ba bước đột phá kinh tế đã mang lại những thành tựu đáng kể, nhưng cũng
không tránh khỏi những hạn chế và thách thức. Sự phát triển chưa đồng đều giữa các
ngành và khu vực, vấn đề tham nhũng, lãng phí, cùng với trình độ khoa học kỹ thuật
chưa đạt yêu cầu là những vấn đề đáng chú ý. Từ đó, cần đổi mới tư duy kinh tế, áp
dụng chính sách thích hợp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, và tập trung vào phát triển
khoa học kỹ thuật và nguồn nhân lực. Đây là những bài học quan trọng cả cho Việt
Nam và các quốc gia đang phát triển.

Ba bước đột phá kinh tế trước Đổi mới là minh chứng cho sự sáng tạo, quyết
đoán của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước.
Những thành tựu và bài học kinh nghiệm rút ra từ giai đoạn này sẽ tiếp tục là nguồn
động lực to lớn để Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ, hội nhập sâu rộng và sánh
vai cùng các cường quốc năm châu. Do còn hạn chế về nhiều mặt nên bài thảo luận
của nhóm em không thể tránh khỏi thiếu sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý
của thầy để bài thảo luận của nhóm em hoàn thiện hơn. Nhóm em xin chân thành cảm
ơn.

33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự
thật

2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng - Báo điện tử Đảng Cộng sản

3. Đổi mới năm 1986: Bài học từ đổi mới tư duy của Đảng - Báo điện tử đài tiếng nói
Việt Nam

4. Chỉ thị 392-CT quán triệt và thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp
hành trung ương đảng (khoá v) và Nghị quyết 28 của Bộ chính trị về giá - lương - tiền
trong công nghiệp quốc doanh do Hội đồng bộ trưởng ban hành

5. Văn kiện tư liệu về Đảng - Báo chính phủ

6. Thời kỳ 15 năm đổi mới (1986 - 2000) - Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và
đầu tư

34
BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC THÀNH VIÊN

STT HỌ VÀ TÊN NHIỆM VỤ NHẬN XÉT

82 Hoàng Thị Thủy Nội dung

83 Phạm Thanh Thủy Nội dung

84 Vũ Thị Thu Thủy Powerpoint

85 Nguyễn Minh Thư Nội dung

86 Nguyễn Thị Minh Thư Nội dung

87 Vũ Thị Tiến Nhóm trưởng

88 Lê Bảo Tín Thuyết trình

89 Đào Thu Trang Nội dung

90 Nguyễn Huyền Trang Thuyết trình

91 Nguyễn Lê Kiều Trang Thư kí + Tổng hợp word

92 Nguyễn Thị Kiều Trang Nội dung

93 Nguyễn Thị Mai Trang Nội dung

35

You might also like