Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

Thế giới một số vị thần Hindu giáo

Tác giả: Nguyễn Trần Tiến

Khoa: Đông Phương học

ĐHKHXH& NV- ĐH Quốc gia Hà Nội

1. Thần Brahma
1.1.Truyền thuyết về nguồn gốc thần Brahma

Lý giải về nguồn gốc vũ trụ, kinh Veda đã ghi lại một số thần thoại về nguồn gốc vũ trụ
trong đó gắn liền với vị thần Brahma qua các câu chuyện thần thoại. Thần thoại Ấn độ
cho rằng sinh mệnh vũ trụ tồn tại theo chuỗi dài bất tận, có sinh thành và huỷ diệt theo
một chu kỳ tuần hoàn.

Thần thoại xưa nhất cho rằng trong thời kỳ hỗn mang, đã có một đấng Trời cha và một
Ðất mẹ. Trời cha chung sống với Ðất mẹ bằng những hạt mưa từ trên trời rơi xuống
thấm sâu vào lòng đất. Từ đó, cây cỏ mọc lên và muôn vật sinh sôi nẩy nở, sinh thành
nên thế giới. Một thuyết khác nói rằng lúc mới khai thiên lập địa, vũ trụ là một quả trứng
thần bằng vàng treo lơ lửng trong hư không. Sau một năm thần Brahma từ trong quả
trứng và làm vỡ tung quả trứng, nửa trên bằng vàng hóa thành trời, nửa dưới bằng bạc
hóa thành đất, khoảng giữa là không trung, lòng trắng tạo thành núi non, sương mù và
mây, tia máu thành các sông ngòi, chất lỏng thành biển cả. Ở chính giữa có quả núi trụ
trời cao vút, đó là núi Meru. Vũ trụ này được hình thành như thế.

Về sau xuất hiện câu chuyện về hai vị thần Vishnu và Brahma. Khi vũ trụ mới hình thành
là một biển nước. Thần Vishnu hình người nằm ngủ trên mình con rắn Sesa hay Ananta
(dài vô tận) cuộn khúc nổi trên mặt nước. Từ rốn của Vishnu, mọc lên một đóa sen, nở
ra thần Brahma sáng tạo nên muôn loài. Như vậy, thuyết này cho rằng Brahma sinh ra tự
một bông sen mọc ở rốn của Thần Bảo Tồn Vishnu. Hình ảnh này tượng trưng ý nghĩa
tái sinh do những mầm mống của tiền kiếp được bảo tồn trong Vishnu. Và cũng nhờ điển
tích này, Brahma còn có tên là Nabhi-ja (tự rốn sinh ra), hoặc Abja-ja (tự bông sen sinh
ra).

Từ đó kiếp sống của vũ trụ là kiếp sống của thần Brahma, từ khi bắt đầu sáng tạo vũ trụ
cho đến khi hủy diệt vũ trụ gọi là một ngày của Brahma hay là một Kalpa. Vũ trụ phải trải
qua những chu kỳ gọi là Maha Yuas, Mỗi Maha Yugas dài 12,000 năm của thần hay
4,320,000 năm của loài người (1 năm của thần bằng 360 năm của loài người).

Ngoài ra, còn có nhiều truyền thuyết khác nhau về nguồn gốc của thần Brahma. Có
truyền thuyết cho rằng Thần ra đời do cuộc phối hợp giữa đấng tối cao với năng lực của
Ngài là Maya (Ảo tưởng).
Một thần thoại khác về sự sáng thế nói rằng vào lúc khởi nguyên, vũ trụ chìm trong bóng
tối. Một hạt giống bồng bềnh trên mặt biển vũ trụ đã tạo nên một cái trứng đẹp đẽ, sáng
ngời. Theo các tư liệu thiêng liêng có tên là Luật Manu thì Đấng tối cao nằm trong trứng
suốt một năm rồi tự dùng sức mình để tách cái trứng ra làm đôi. Ngài dùng một nửa để
làm nên bầu trời hay thiên cung còn nửa kia thì tạo ra quả đất hay thế giới vật chất, ngài
xếp vào giựa hai phân nửa quả trứng này nào là không khi, nào là tám hướng chính và
trú xử muôn đời của nước". Từ nơi chính mình ngài lấy ra phần Hồn, trong đó hàm chứa
cái thực thể và phi thực thể, rồi từ Hồn mà sinh ra sự ý niệm về bản ngã vốn là sự ý thức
về bản thể của mình và là điều quan trọng nhất. Cái trứng cuối cùng để lộ ra thần
Brahma, vị thần này tự tách mình ra làm hai người, một nam một nữ. Sau đó, hai thực
thể này tạo ta toàn bộ thần còn lại của thế gian. Một lời kể khác về truyện thần thoại này
nói rằng thần Brahma đã từ quả trứng mà ra dưới dạng một thực thể nguyên thủy mang
tên là Purusha. Thực thể này có 1000 chân, 1000 tay, 1000 mắt, 1000 mặt và 1000 đầu.
Để cho vũ trụ xuất hiện, thần đã tự lấy thân mình làm vật hiến tế. Từ cửa miệng ngài
sinh ra loài người và thần linh, từ hố nách sinh ra bốn mùa, từ chân sinh ra đất và từ mắt
ngài sinh ra mặt trời.

Truyền thuyết về thần Brahma có 5 đầu nhưng bị thần Siva hủy mất một nên chỉ còn bốn
được ghi lại rằng: “Brahma lấy chất vô nhiễm của mình tạo thành một người đàn bà. Nữ
thần này được thờ với nhiều tên khác nhau là Shataruapa, Vac hay Sarasvati, Savitĩ,
Gâyatri và Brahmani (vợ của Brahma). Khi ngắm người con gái do chính mình tạo ra,
Brahma bị mê hoặc bởi dục tính, Shararuapa phải lẩn về phía tay mặt để Brahma khỏi
nhìn thấy. Brahma bèn mọc thêm một đầu trông ra phía mặt; nàng lẩn về phía trái;
Brahma mọc thêm một đầu ra phía trái; nàng lẩn về phía sau, Brahma mọc thêm một
đầu trông ra phía sau; cuối cùng nàng bay lên không, Brahma lại mọc thêm một đầu thứ
năm để ngắm nhìn nàng.”

Cũng có truyền thuyết thì cho là vì chính miệng của đầu ấy khoe rằng Brahma ưu thế
hơn Shiva; truyện thì cho rằng vì miệng ở đầu ấy đã nói dối trong một cuộc tranh tài giữa
Brahma và Vishnu; truyện thì kể vì Brahma phạm tội loạn luân nên Shiva bèn trừng phạt
bằng cách chiếu con mắt thứ ba vào cái đầu ấy và đốt nó ra tro.

Theo một câu truyện thần thoại, Brahma tạo ra nữ thần Satarupa kiều diễm từ chính cơ
thể mình. Nàng ta đáng yêu đến nỗi Brahma không ngớt đăm đăm nhìn nàng và mỗi khi
nàng nhích qua một bên để tránh cái nhìn của ông thì Brahma lại mọc ra thêm một cái
đầu mới để có thể tiếp tục nhìn nàng. Cuối cùng Brahma vượt qua sự e lệ của nàng và
cầu hôn với Satarupa. Họ lui về sống một nơi bí mật trong 100 năm thiên giới, cuối cùng
thì Manu, con người đầu tiên đã được sinh ra.

Có thể nói trí tưởng tượng siêu hình, sự hòa hợp giữa con người, thiên nhiên và vũ trụ
của người Ấn Độ xây dựng nên hình thượng của một vị thần tượng trưng cho Vũ trụ. Nó
vừa thể hiện mong ước tâm linh cũng như trí tuệ của con người trước vũ trụ bao la.

1.2.Thể hiện hình tượng thần Brahma (Iconography)

Thần Brahma có màu da đỏ hồng tượng trưng cho nguyên lý sáng tạo trong thiên nhiên.
Ngài thường được thấy với (bốn mặt) trong đó nhìn thấy ba mặt, một mặt bị khuất biểu
thị ý nghĩa quán triệt khắp vũ trụ của bốn bộ kinh Veda và bốn tay, mỗi tay cầm quyển
kinh Vêđa, cầm bông hoa sen, cầm chùy, bắt ấn. có khi Brahma nắm bốn pho Veda ở
tay thứ nhất, tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cây cung và tay thứ tư cầm một
bình nước.

Trên đâu của Thần có vòng hoa như chiêc vương miện; khi thì cưỡi con thiên nga
Hamsa (tượng trưng cho tri thức), khi thì ngồi trên một bông sen mọc từ rốn của Vishnu,
khi thì nằm trên mình con rắn Naga nổi bồng bềnh trên đại dương nguyên thủy. Các vật
biểu trưng khác của thần cũng có khi gồm một chai đựng nước sông Hằng và một vòng
hoa hồng.

Thiên nga Hamsa vật cỡi của Thần (tượng trưng cho tri thức)

Ngồi trên một bông sen mọc từ rốn của thần Vishnu

Thần Brahma đôi khi cũng có tên là Narayana, hay "Người từ dưới nước hiện lên". Trong
hình thức này, thần được xem như đang nằm trên một chiếc lá nổi trên mặt nước
nguyên thủy, miệng ngậm ngón chân - biểu tượng của sự trường cửu.

1.3 Ý nghĩa của thần Brahma

Brahma còn là một sự nhân hóa của Brahman (Đại ngã). Ban đầu từ này được dùng để
chỉ quyền năng thiêng liêng trong một buổi lễ hiến tế, nhưng sau đó nó được dùng để chỉ
quyền năng được gọi là "Tuyệt đối" đằng sau mọi sự sáng tạo. Trong ý nghĩa triết học,
Brahma biểu thị khuynh hướng vận động điều hòa (rajas), tạo nên thế quân bình giữa
hai khuynh hướng qui tâm (sattva) và ly tâm (tamas), giữa bảo tồn và hủy diệt mà thần
Vishnu và Shiva là biểu hiện. Chính cái tác dụng điều động quân bình ấy mới thực sự là
nguyên lý sáng tạo, bởi vậy Brahma biểu thị cho sự sáng tạo.

Trong khi thiền quán, thần Brahma đã tạo ra tất cả mọi yếu tố vật chất của vũ trụ và các
khái niệm giúp cho loài người hiểu được các yếu tố đó. Cứ mỗi ngày, trong cuộc đời
Brahma, vũ trụ lại một lần được sáng tạo, rồi lại bị hút đi mỗi đêm. Trong mỗi chu kỳ này
có bốn giai đoạn nối tiếp, hay Yuga, bắt đầu bằng Krita Yuga, hay giai đoạn vàng son và
kết thúc với Kali Yuga, tức là giai đoạn đầy xung đột và tuyệt vọng .

Mặc dầu vai trò của Brahma có vẻ quan trọng nhất, địa vị của Brahma lại sút kém nhất
trong ba ngôi tối linh. Có thể hiểu ở nhiều phương diện khác nhau. Ở phương diện đạo
đức, Brahma đã phạm tội dối trá và loạn luân. Thần thoại trên đây đã kể do sự phối hợp
của Brahma và Ushas (Rạng Đông) mà sinh ra Manu, tổ của loài người và muôn vật.
Ushas chính là con gái của thần. Đứng về phương diện triết lý mà suy thì vì có sự sáng
tạo của thần mà con người phải đắm chìm trong bể khổ , trong vòng thiện, ác xung đột
và bị tách rời khỏi chân lý và hạnh phúc tuyệt đối. Như vậy sáng tạo không hẳn là một
hành động đầy ân phước mà chính là một hành động đọa đày, nếu không bị chống đối
thì cũng chẳng đáng được sùng bái nhiệt thành. Về phẩm tính, Brahma là nguồn gốc của
trí thức, và vợ của Thần, nàng Sarasvati, là hình ảnh nhân hoá của trí thức. Chính
Brahma đã truyền thụ trí thức tuyệt đối (Brahma-vidya) cho đạo sĩ Atharvan, tác giả bộ
Atharva-Veda. Brahma cũng dạy áo nghĩa về vô biên (Brahma Upanishad) cho Brajapati
(Đấng SángTạo, một danh hiệu của Thượng Đế hữu ngã).
So với các vị thần khác trong trimuti, hình tượng thần Brahma không được phổ biến
bằng các vị thần như Siva và Vishnu. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy Thần Brahma được
thể hiện trong lĩnh vực nghệ thuật như kiến trúc, hội hoạ, khiêu vũ, âm nhạc và kịch
nghệ. Thông qua nghệ thuật, con người muốn ca ngợi Đấng Thiêng Liêng, mở rộng tầm
ảnh hưởng của hào quang vinh hiển của Thiêng Liêng nơi trần thế. Kinh Veda ghi lại
rằng, một lần chư thần trên thiên giới cảm thấy chán nản vì cuộc sống thiếu hoạt động
tại nơi đây bèn phái Indra tới yêu cầu thần Brahma soạn cho một vở kịch để cùng
thưởng thức. Brahma bốn bộ Veda cũ, soạn ra bộ Veda thứ năm mệnh danh là Natya-
veda (kịch); phần đọc tụng, ngâm nga được lấy ở Rig-veda; lời ca điệu múa gợi cảm ở
trong Sama, Yagur và Atharva veda (ca vịnh, tế tự và cầu đảo). Khi soạn xong, Brahma
nhờ Vishva-karman (Hoá công) dựng lên một hí viện ở Thiên Đường của Indra. Shiva
đóng vai vũ công múa điệu Tandava tượng trưng cho sự vận hành của vũ trụ. Vợ Shiva,
nàng Parvati múa điệu Laysya; vũ điệu về tình ái. Vở ca vũ nhạc kịch đã thành công rực
rỡ, thổi lại luồng sinh khí tưng bừng, chói lọi vào nếp sống chư thần trên thiên giới từ
đấy.

1.4.Đền thờ thần Brahma

Việc thờ cúng thần Brahma phổ biến vào thế kỷ I sau CN. Càng về sau, vị thần thần này
được xem là ít quan trọng hơn các thần Vishnu và Shiva. Ngày nay chỉ có duy nhất một
đền thờ dành cho thần này trên toàn cõi Ấn Độ. Sự mất đi tính chất tối cao của thần
Brahma được giải thích trong một câu truyện thần thoại nói về nguồn gốc của thần
Shiva. Theo truyện này, một ngày kia Brahma và Vishnu đang tranh luận xem ai trong họ
là người có quyền năng nhất. Cuộc cãi cọ đang hồi sôi nổi nhất thì từ dưới đại dương
của vũ trụ trồi lên một lingam (sinh thực khí nam) - vật biểu trưng có hình dương vật của
thần Shiva - thật lớn, xung quanh là một vòng lửa, khi Brahma và Vishnu đang xem xét
cái lingam thì nó nổ tung ra. Hai thần này nhìn thấy trong ấy là vị thần Shiva sáng tạo tối
cao và họ phải tuân phục quyền uy của thần này.

Pushkar thành phố và khu đô thị của quận Ajmer thuộc bang Rajasthan, Ấn Độ nổi tiếng
là vùng đất thiêng của người theo đạo Hindu. Hồ Pushkar, một hồ thiêng nằm giữa thành
phố cho đến nay vẫn chưa rõ nguồn gốc lịch sử của nó chỉ biết rằng huyền thoại của nó
gắn liền với vị thần Brahma. Nằm kề bên sa mạc, thành phố này nổi tiếng là nơi có nhiều
đền thờ thần Brahma nhất. Nổi tiếng nhất trong số các ngôi đền Jagat Pita Shri Brahma
thờ thần Brahma được xây dựng vào thế kỷ XIV. Vì lời nguyền của một người vợ, thần
Brahma có rất ít đền thờ, và tại đây, rất đặc biệt là nơi có nhiều đền thờ của thần và của
người vợ, nàng Savitri. Ngoài ra, còn có ngôi đền thờ thần Brahma ở Bithoor, Uttar
Pradesh; ngôi làng Asotra gần thành phố Balotra, huyện Barmer, Rajasthan; Uttamar
Kovil (Divya Desams) gần Srirangam, Tamil Nadu.

Trên thế giới, một số quốc gia cũng thờ thần Brahma với các công trình kiến trúc, điêu
khắc vẫn còn đến ngày nay. Đáng kể đến là ngôi đền mẫu Pura Besakih, Bali, Indonesia
và Prambanan ở Yogyakarta. Cũng tại Bali, ngôi đền Pura Besakih được biết đến nhiều
nhất, nó là một quần thể gồm ba ngôi đền lớn Penataran Agung (thờ thần Shiva), Batu
Madeg (thờ thần Vishnu) và Kiduling Kreteg (thờ thần Brahma) và khoảng 20 ngôi đền
nhỏ khác. Tại Java, ngôi đền Loro Gioggrang mang tên một cô gái đẹp theo truyền
thuyết nơi đây kể lại. Ngôi đền này là một tổng thể kiến trúc gồm hàng trăm ngôi đền lớn
nhỏ, trong đó đáng kể đến là ba ngôi đền thờ ba vị thần chính trong đó có thần Brahma.
Cũng tại đây, ngôi đền Prambanan là một quần thể đền thờ Hindu thờ ba vị thần tối cao
của đạo Hindu. Cho đến thời điểm này, đây là đền thờ Hindu lớn nhất Đông Nam Á với
tòa tháp chính giữa cao tới 47 mét.

Ngôi đền Sambor Preikuk ở Campuchia có 280 ngôi đền lớn nhỏ nhưng hiện giờ chỉ còn
64 đền thờ có thể tham quan. Quần thể được chia làm ba khu: Nam – Trung tâm – Bắc.
Mỗi khu có hai tường thành bằng đá ong ngăn cách, được xây dựng từ cuối thế kỷ VI
(đời vua Isaravarman). Đền gồm ba loại: hình chữ nhật thờ thần Brahma, hình bát giác
thờ thần Vishnu và hình vuông thờ thần Shiva. Khu Nam hiện còn tám đền lục giác giống
nhau. Prasat Yeai Poeun (đền Bà Poeun) cao 18m. Phía trên có thần Brahma cưỡi voi,
ở dưới hai bên là chim thần Garuda và hai con rồng Naga nối đuôi vào nhau. Phnom
Krom là một ngôi đền nằm trên đỉnh đồi ở Angkor, Campuchia. Ngôi đền này được xây
cuối thế kỷ thứ 9 dưới thời vua Yasovarman (889-910). Đền Phnom Krom cách Xiêm
Riệp 12 km về phía tây nam, là một ngôi đền dành cho việc thờ thần các Hindu Shiva,
Vishnu và Brahma.

Tại Việt Nam, bên cạnh thánh địa Mỹ sơn với một bức phù điêu bằng sa thạch thể hiện
cảnh "Đản sinh Brahma"; theo J.Boisselier thì những đặc điểm trang trí trên các nhân vật
trong bức phù điêu này rất gần gũi với truyền thống Dvaravati Ấn Độ. Tại ba ngôi tháp
Dương Long các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện bức phù điêu được tạc bằng đá sa
thạch có hình dáng tổng thể là một lá đề với chiều cao 125cm, ngang 85cm, dày 23cm.
Vị thần đứng với tư thế nhìn thẳng về phía trước, hai chân bành ra để khoảng cách
60cm giữa hai đầu gối, hai tay đang bắt ấn trước ngực, tay phải ở trên, toàn thân cao
88cm kể cả chóp mũ. Thần có ba đầu: hai đầu phụ ở hai bên về phía sau có tư thế nhoài
người tới trước. Khuôn mặt thật vuông vức, nghiêm nghị, miệng rộng, mép dỉnh lên,
chân mày mảnh và giáp nhau, đầu đội mũ hình búp sen. Thân có 6 tay phụ đang cầm
chuỳ, ốc và bông sen, cổ tay và chân đều có đeo trang sức. Ở phần cổ có đeo trang sức
hình cánh sen cách điệu. Về y phục thần chỉ mặt duy nhất quần cộc được giữ lại ở bụng
bằng một dây thắt rộng bản, trang trí các hình cánh sen. Chiếc dây thắt của quần cộc có
một vạt dài rũ từ phía trước xuống. Nhìn bức phù điêu ta thấy toàn thân vị thần toát ra
một sự lực lưỡng cường tráng, xung quanh vị thần lấp lánh những hào quang được
trang trí bởi những cánh sen cách điệu. Từ những nét đặc trưng như ba đầu và các vật
cầm tay: chuỳ, ốc, bông sen cho phép chúng ta xác định hình tượng trên bức phù điêu
này vị thần Brahma. Các nhà nghiên cứu khi đem đối chiếu các tượng Brahma ở tháp
Dương Long với Chánh Lộ (Quãng Ngãi) có những nét tương đồng. Tuy nhiên, khi đem
so sánh với thần Brahma ở tháp Mẫm Bình Định thì thấy sự khác biệt (hiện đang lưu trữ
ở Bảo tàng Chàm Đà Nẵng). Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về Chămpa đã nhận định
rằng phong cách Chánh Lộ Quãng Ngãi có niên đại vào thế kỷ XI, còn Dương Long ở
thế kỷ XII và tháp Mẫm ở giai đoạn cuối thế kỷ XII sang đầu thế kỷ XIII. Điều này rất phù
hợp với các yếu tố biểu hiện ở bức phù điêu thần Brahma.

Có thể nói, bằng sự sáng tạo, trí tuệ của người Ấn Độ, hình tượng vị thần Brahma được
tạo nên qua hàng nghìn năm vẫn còn tồn tại, nghiên cứu và thờ phụng. Nguồn gốc của
trí tuệ tôn giáo và tâm linh của người Hindu giáo bắt nguồn từ việc giải thích nguồn gốc
vũ trụ qua tôn giáo và tâm linh của người Ấn Độ cổ đại.

2. Thần Visnu:
2.1. Với bản tính sẵn sàng che chở và cứu giúp con người, Ngài giáng trần
trực tiếp ra tay độ thế và thực hiện sứ mạng cao cả ấy, Thần được tôn thờ
với tất cả tấm lòng yêu mến... Những người Hindu giáo luôn một lòng tôn
vinh, kính trọng Thần và dành cho Thần những tước hiệu cao đẹp như: vị
Thánh của các Thánh (Pavitram pavitranam), Đạo sư (Marga), Chân lý
(Tattva), Từ phụ (Pita), Thân hữu (Suhrid). Ngoài ra còn rất nhiều các danh
xưng khác nữa…

Trong bộ tam thần (trimurti) Vishnu được thờ làm vị thần bảo tồn, cùng với thần Shiva
(Hủy diệt) và thần Brahma (Sáng tạo). Thần chính là thần Vishnu. Để hiểu về thần
Vishnu, trong bài viết này chúng ta hãy cùng tìm hiểu các hình tượng và các hóa thân
của vị thần trong tam vị nhất thể của Hindu giáo.

Là một trong những vị thần trong tín ngưỡng của người Hindu, ngài được tôn kính như
là Đấng tối cao trong giáo phái Vaishnava. Vishnu cũng được xem như là linh hồn tối
thượng (Paramatman – Rigveda: 1.022.20a), Đấng Sáng Tạo Tối Cao (Parameshwara )
được nói đến trong Yajur Veda, Taittiryia Aranyaka (10-13-1) hay là Chân Lý Cuối Cùng.
Thần được coi là chúa tể của sáng tạo, người cai quản của quá khứ, hiện tại và tương
lai; là một trong những người hỗ trợ, duy trì và điều chỉnh vũ trụ. Chính từ Ngài vũ trụ đã
bắt đầu. Trong Rigveda, Vishnu được đề cập đến 93 lần. Ông thường xuyên được gọi
cùng với các vị thần khác, đặc biệt là Indra, người giúp Thần giết Vritra, và cùng uống
Soma. Đặc tính phân biệt của ông trong kinh Veda là vị thần kết hợp ánh sáng. Hai bài
thánh ca Rigvedic trong Mandala 7 được dành riêng cho thần Vishnu. Cũng giống như
thần Indra, Vishnu được xem như vị Thần tách tách trời và đất (Rig Veda 7.99).

2.2.Hình tượng thầnVishnu (Iconography)

Thần được vẽ với pháp thân đang ngủ trên một con rắn có nghìn đầu có tên là Adhi
Sesha hoặc Ananta Sesha; cùng vợ Ngài – nữ thần Lakshmi – đang xoa bóp chân trái
của Ngài. Thần Narayana và rắn Adhi Sesha không thể tách rời. Ngay cả trong hóa thân
của Vishnu là Ram và Krishna, thì rắn Adhi Sesha cũng hóa thân thành Lakshman và
Balarama để phụng sự Đấng Toàn Năng.

Trong kinh Puranas, Vishnu được miêu tả là người sáng tạo màu sắc của những đám
mây, cầm một bông hoa sen, gậy, con ốc (shankha) và một luân xa (charka).

Trong Bhagavad Gita, Vishnu được miêu tả là Ngài có một Khuông Mẫu Vũ Trụ
(Vishvarupa) để giới hạn cảm nhận nhận thức của con người. Khi Krishna tiết lộ mình
chính là hóa thân Vishnu đến Arjuna, trong ánh hào quang của Ngài các vị thần Brahma,
Vishnu, Shiva, Vinayagar, Hanumaan, Anjaneyar, Agni cùng chư Thiên khác và với nữ
thần Lakshmi hiện linh ảnh trong lồng ngực của ông. Krishna nói rằng “Ngài hiện diện
khắp nơi. Ngài giữ vợ Ngài trong lồng ngực, để nhắc nhở con người hãy quan tâm đến
người thân trong gia đình”. Rama, một hóa thần của ngài cũng luôn trung thành với
Seeta Devi, đi theo con đường Chính Pháp, sống một cuộc sống có ý nghĩa với chúng
sinh.

Bốn cánh tay của Ngài có Thần Lực mạnh mẽ và hiện diện mọi nơi. Hai cánh tay trước
mặt chứng tỏ Vishnu hiện diện trong thế giới vật chất, trong khi hai cánh tay phía sau
chứng tỏ Vishnu hiện diện trong thế giới tâm linh. Màu xanh là bản chất của vạn vật khắp
mọi nơi, nó là màu của bầu trời xanh vô hạn cũng như là màu của đại dương mênh
mông mà Ngài cai quản. Trên ngực ông có ấn srivatsa, tượng trưng cho vợ của mình
(nữ thần Lakshmi). Ngài đeo trên cổ mình chiếc hoa tai niềm tin Kaustubha và vòng hoa
cổ Vanamaalaa. Ngài đội một vương miện, biểu tượng của quyền lực tối cao.

2.3. Ý nghĩa của các vật dụng đi cùng với thần Vishnu

1. Vỏ ốc (Panchajanya) Ngài giữ trên tai trái có ý nghĩa là sự sáng tạo. Panchajanya
được xem như là sự khởi đầu của năm yếu tố: đất, nước, lửa, không khí và bầu trời.

2. Bánh xe (chakra), Ngài giữ trên tay phải, là một vũ khí sắc bén có tên “Sudarshana”.
Con đường xác định chân lý vĩnh cữu. Vũ khí này đại diện là hoa sen có sáu cánh,
quyền lực điều khiển tất cả sáu mùa.

3. Cây gậy Gada (Kaumodaki) Ngài nắm trong tay trái phía dưới, đại diện cho sự tồn tại
Phàm Ngã. Nó tượng trưng cho nguồn lực nguyên thủy, điểm khởi đầu của sức mạnh
tinh thần và vật chất.

4. Hoa sen (Padma), Ngài giữ trong tay phải phía dưới, thể hiện sự giải thoát hay phân
tán. Hoa sen tượng trưng cho quyền lực khởi đầu vũ trụ. Là sự tập trung của Chân Lý
hoặc Satya, khởi đầu của quy tắc ứng xử hay Chính Pháp, và kiến thức (Gyana) trong
một biểu tượng duy nhất.

Những ý nghĩa tượng trưng của những vật trên cho thấy Vishnu là một vị thần từ bi vì đã
chỉ ra thực tướng của mọi sự, mọi vật trên đời cho loài người chiêm nghiệm. Các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra hai điểm nổi bật khi nghiên cứu về Thần: (i) thần Vishnu là một
trong ba vị tối linh nhưng cả ba đều là một - Thượng đế duy nhất (Ishvara). Trong Veda
ghi lại: “Ekam sat vipra bahudha vadanti” nghĩa là Thượng đế được gọi bằng nhiều tên
khác nhau, nhưng các tên gọi đó chỉ là tiếng vọng của Một (thực tại) mà thôi. (ii) thần
Vishnu là vị thần Bảo hộ khác với thần Hủy diệt (Shiva) và thần Sáng tạo (Brahma), nên
ngài hiện ra để phụng hiến cho hạnh phúc của kẻ khác với hàng chục hóa thân được
nêu trong Bhagavata -Purana. Có kiếp Vishnu hóa làm loài cá Matsya giải cứu ông tổ
của loài người là Manu thoát khỏi nạn hồng thủy. Ngài lại hóa thành rùa Kurma để giúp
chư thiên vớt những sinh linh cùng tài sản của họ bị chìm dưới nước sâu. Ngài lại làm
con heo rừng Varaha kéo những vùng đất bị chìm xuống biển lên bờ để muôn loài có
chỗ ở. Ngài hóa thành nhân sư Narasimha mình người, đầu sư tử giúp con trai của Quỷ
vương thoát khỏi nanh vuốt của cha mình, đi tu và đạt đạo… Nổi bật là hoàng tử Rama,
một hóa thân tuyệt vời của ngài, được kể lại qua sử thi vĩ đại Ramayana. Vượt lên tất cả,
hóa thân quan trọng nhất của Vishnu là Krishna. Một lần hồi Krishna còn nhỏ đã bốc một
nắm đất dưới chân bỏ vào miệng. Mẹ Krishna vội vàng dùng tay cạy miệng Krishna để
lấy đất ra, bà hết sức kinh ngạc thấy trong miệng Krishna lần lượt hiện ra bóng dáng của
toàn thể vũ trụ bao gồm mặt đất, bầu trời, các vì sao, núi sông và biển lớn với những con
sóng thần chồm lên theo hơi thở của ngài. Chúng ta hãy tìm hiểu kỹ hơn về các hóa thân
của Ngài

2.4.Hóa thân của thần Vishnu

Bằng chứng về sự tiến hóa được quan sát. Vishnu hóa thân từ cá, rùa, heo rừng, nửa
người nửa sư tử, một người lùn, và một người hoàn hảo trong hóa thân Parasuram.
Trong hóa thân Ram, ông là một trụ cột gia đình. Trong Krishna, ông thể hiện sự hồn
nhiên vui tươi, quyền lực tối cao, và minh triết của Thượng Đế khi đọc cho mẹ nghe
Bhagvad Gita. Có thể nói, mỗi hóa thân đều để lại thông điệp cho thế gian.

1. Cá Matsya

Cá Matsya là hóa thân đầu tiên của Vishnu, có phần trên giống Vishnu, phần dưới giống
cá, có 4 tay với các biểu tượng đặc biệt. Matsya giúp tổ tiên của loài người là Manu lấy
lại kinh Veda đã bị quỷ của tạo hóa ăn cắp và mang xuống đại dương. Thần đã báo
trước cho Manu về nạn Đại hồng thủy, khuyên đóng một con thuyền, rồi biến thành cá
dẫn đường cho thuyền đến bến bờ yên tĩnh và bắt đầu tạo lập một thế giới mới.

2. Rùa thần Kurma

Người ta tin rằng tội lỗi con người sẽ tăng lên theo cấp số nhân, trong khi đạo đức mờ
dần và ngừng phát triển. Nhiều người có ý nguyện phá vỡ cái không khí vô minh này
thật sớm. Nhân loại tàn phá thiên nhiên vì phục vụ đô thị hóa. Họ trở thành con nghiện
các thứ chất say. Cái tốt và cái xấu được cân bằng, Tuy nhiên, đôi khi số lượng cái ác
nhiều hơn. Và Thiên Chúa giáng xuống trần gian để loại bỏ bất công, kẻ lỗi lầm bị trừng
phạt. Đây là hóa thân thứ hai trong mười hóa thân của Ngài.

Trong hóa thân Matsya, thần Vishnu tối cao sẽ mang pháp thân của một con cá và gìn
giữ thế giới khỏi sự hủy diệt và kiềm hãm vô minh phát triển. Ngài chiến đấu với con thủy
quái màu đỏ, giành lại các kinh sách Veda của Phạm Thiên. Trước đó, con thủy quái này
đã đánh cắp các kinh sách Veda và dấu dưới nước.

Nhưng hòa bình ấy tồn tại chẳng được lâu. Thế giới lại một lần nữa phải đối mặt với khổ
đau. Các chư Thiên và Asuras luôn luôn trong tâm trí chiến tranh. Cuộc chiến xảy ra,
thần Demi có nguy cơ thất bại. Một thỏa thuận hòa bình được thực hiện; các chư Thiên
và Asuras đồng ý khuấy biển sữa để lấy mật hoa thiêng liêng – loại nước cam lồ làm bất
tử. Vào thời điểm đó, Vishnu hóa thân thành một con rùa, tức là Kurma Avatar, để hỗ trợ
các ngọn núi.

Mandara nhờ Churn Dasher và Vasuki, vua của loài rắn biến thành sợi dây thừng để
khuấy sữa. Sau đó thần Maha Vishnu biến thành Mohini – một thiếu nữ duyên dáng –
tìm đến các ác thần Asuras và làm xao động tâm trí họ; cho nên bọn họ không uống
được mật hoa. Các Chư Thiên uống được mật hoa và trở thành bất tử, Chân Lý một lần
nữa trở lại. Người ta tin rằng thần Rahu và Ketu đã nếm chút mật hoa. Thái Dương Thần
và Nguyệt Tinh đã báo cho Vishnu biết điều này. Với sự giúp đỡ của họ, Vishnu đã cắt
đầu của Rahu và Ketu, nhưng do đã dùng mật hoa nên các phần khác của cơ thể họ vẫn
còn sống. Sau đó, Rahu và Ketu được ghép bằng đầu và cơ thể của một con rắn. Người
ta tin rằng trong thời gian nhật thực, Rahu và Ketu ăn một phần cơ thể của Mặt Trời và
Mặt Trăng để trả thù xưa.

3. Hóa thành heo rừng Varaha – Vishnu cứu trái đất khỏi cơn đại hồng thủy.

Vishnu hiện thân với hình dáng thân người, đầu heo, có 4 tay. “Đây là một biểu tượng
trần thế hay nói đúng hơn là một vị thần trần thế” [Veda 3;59]. Sau nhiều năm, một con
quỷ có tên là Hirayaksha lại nhấn thế giới chìm sâu vào đại dương. Thần Narayana đến
trong hình dạng của Varaha và giải cứu trái đất. Hiranyakasipu là em trai của
Hiranyaksha. Hắn cũng không khác từ người anh em cùng chí hướng tà tâm. Hắn ghét
Narayana và không cho phép bất cứ ai thờ phụng Narayana. Tuy nhiên, Prahlad – con
trai hắn – là một tín đồ Vishnu. Hiranyakasipu cảnh báo con trai mình không tôn thờ
thầnVishnu. Nhưng Prahlad đã không lắng nghe cha. Tức giận vì con trai không nghe
lời, hắn quyết định giết mình. Hắn hỏi con trai: Vishnu hiện nay ở đâu? Prahlad bình tĩnh
trả lời: “Ngài có mặt ở khắp nơi “. Thất vọng và tức giận, Hiranyakasipu điều tra xem
Vishnu ở đâu và biết Ngài ở bên trong trụ đá gần ngai vàng của mình. Hiranyakasipu
phá vỡ các cột trụ và Vishnu xuất hiện ở dạng nửa người nửa sư tử, tức là Narasimha.
Theo thần thoại, Varaha đã lặn xuống đáy đại dương, dùng mõm của mình nâng nữ thần
Trái đất Bkhumi-devi đang bị con quỷ Hiranyaksa nhấn chìm xuống nước nguyên sinh,
sau một trận đánh kéo dài hàng nghìn năm với quỷ dữ. Nhờ việc cứu được nữ thần Trái
đất, Vishnu trở thành người có công tạo ra đất đai cho lục địa Ấn Độ. Varaha cũng có
các vợ như Vishnu nhưng nữ thần Trái đất thường gặp nhiều hơn người vợ quen thuộc
là nữ thần Laskmi. Trong nghệ thuật tạc tượng Varaha thường được tạc ở bốn vị trí: 1.
Đứng một mình, đặt tay lên đùi; 2. Đứng ôm vợ Bkhumi-devi; 3. Đang ngồi trên mũ tu sĩ
của rắn Adisesa; 4. Ngồi trên đài ở tư thế Sukkh-asana với Bkhumi-devi hay Laskmi trên
đùi.

4. Vamana chiến thắng Maha Bali.

Trong hóa thân tiếp theo, Vishnu có pháp thân là Vamana, một vị Bà-la-môn thấp lùn.
Vua Maha Bali là một người tốt. Tuy nhiên, gã là một Asuran, luôn có thái độ xấu đối với
Chư Thiên và muốn thắng họ. Để đạt được một vị trí trên trời, ông thực hiện
Ashwamedha Yagam. Maha Bali thực hiện Ashwamedha Yagam và bố thí tài sản cho
những Bà la môn và người nghèo. Vishnu cải trang thành một bà la môn tên là Vamana,
và yêu cầu được nhận ba cái đạp lên đầu. Maha xem thường gã lùn, nhưng cũng đồng ý
thực hiện yêu cầu nhỏ nhặt đó. Sukracharaya – thầy của hắn – trốn trong bình nước
nhắc nhở, gã lùn kia không ai khác chính là Vishnu, người tìm đến để thử lòng khiêm
nhường của gã. Sukracharaya hóa thành côn trùng và chui vào vòi nước để mách nước
học trò, nhưng Maha Bali lại quên khuấy khi cầm cái bình có nước thay vì bình rỗng.
Nước trong bình bị đổ ra, Sukracharya biến thành con ong để ngăn nước chảy ra ngoài,
nhưng Vamana sử dụng “dharbai” để thông rỗng, và Sukracharya bị thương ở mắt. Một
khi Bali Maha tận tình bố thí, Vamana cho gã thấy nhiều hình thức thật của mình. Gã mở
rộng lòng mình và giữ một chân trên trái đất và một bước trên trời. Bali biết rằng gã vượt
ra ngoài Bản Ngã và đề nghị thực hiện nghi thức thứ ba. Trong hóa thân này Vishnu này
cho thấy Ngài là tối cao và mạnh nhất.

Đây là lần hóa thân thành người đầu tiên của Vishnu và lập được chiến công rực rỡ khi
đánh bại tên quỷ vương Bali bạo ngược đang cai quản cả ba cõi khi ấy. Vishnu đã hạ
giới mang hình hài một người lùn, giả dạng thành một người nông dân đến cầu xin vua
Bali cho một khoảng đất rộng bằng ba bước chân. Bali đồng ý, Vamana bất ngờ vươn
mình thành người khổng lồ, bước 3 bước hết cả ba cõi vũ trụ: thế gian – thiên đường –
địa ngục. Tuy nhiên, thật ra bởi bản chất Bali không phải là một ông vua xấu xa nên
Vishnu đã trả ông ta về vương quốc Patala – một cõi còn tuyệt vời hơn cả thiên đường.
Với thần tích này Vishnu còn được mệnh danh là “Người chinh phục vũ trụ bằng 3 bước
đi” (Trivikrama) và hình tượng bàn chân cũng trở thành một biểu tượng quen thuộc của
thần Vishnu. Đồng thời cũng cho thấy tính cách vị tha, nhân hậu của vị thần này.

5. Nhân sư Narasimha

Nhân sư Narasimha là hóa thân của Vishnu nhằm tiêu diệt vua quỷ Hiranyakasipu ngạo
mạn (anh của quỷ Hiranyaksa) chuyên gieo rắc tai họa cho trần thế. Không ai có thể tiêu
diệt được nó, bất kể là con người hay thần thánh, bất kể ngày hay đêm vì nó đã được
Brahma che chở. Vishnu đã dùng mưu lừa được vua quỷ ra khỏi tòa lâu đài và hiện ra
dưới hình dáng nhân sư Narasimha, xé xác vua quỷ ra từng mảnh. Với hóa thân này,
Vishnu thường hiện thân với hình tượng thân người đầu sư tử. Theo nguyên tiếu tượng,
nhân sư có từ 4 đến 16 tay, 2 tay trên gấp khuỷu lại, nâng thẳng lên cao và đỡ các biểu
tượng bình thường, 2 tay dưới được vũ trang bởi những móng. Nhưng đôi khi
Narasimha ngồi trên đài ở tư thế đang tư duy, 2 chân thõng xuống, 2 tay trên đan ngón
vào nhau đặt dưới cằm, 2 tay khác với ngón có móng giơ lên, gấp khuỷu và nâng thẳng.
Mũ và tất cả các đồ trang sức của nhân sư cũng giống của Vishnu.

6. Parashu Rama – Rama cầm rìu

Với hình dáng một người đàn ông có râu, 2 tay cầm cung và cầm rìu chiến (parasu),
Vishnu được sinh ra làm một nhà thuyết pháp đồng thời cũng là một chiến binh.
Parashurama thay mặt các vị thần lập lại trật tự trong xã hội, tránh sự chuyên quyền của
tầng lớp chiến binh Kshatriya lúc bấy giờ và trả lại ưu thế cho tầng lớp Brahman vì các
thần cho rằng để cho những nhà thuyết pháp cai quản thì thế gian sẽ công bằng và bình
yên hơn. Parashurama đã 21 lần tiêu diệt các chiến binh Kshatriya để lấy lại uy quyền
cho đẳng cấp Brahma. Thần tích này có lẽ xuất hiện hơi muộn, khoảng đầu thế kỉ I TCN
với dụng ý đề cao tầng lớp Brahman, hạ thấp vai trò tầng lớp võ sĩ, Kshatriya, trong hệ
thống đẳng cấp Varna. Vì thế, hiện nay, Parashurama được những người theo Brahman
tôn thờ chủ yếu ở Nam Ấn.

7. Rama Chandra

Chandra có nghĩa là ánh trăng, Rama ánh trăng hay Rama dịu dàng, trái ngược với
chàng Rama Parashu hiếu chiến. Nhưng trong lần hóa thân thứ sáu thì chàng Rama
cầm rìu còn Rama trong lần hóa thân thứ bảy này thì cầm cung làm vật tượng trưng.
Đây là hóa thân của Vishnu trần tục nhất, hạ giới xuống trần gian với mục đích tiêu diệt
quỷ Ravana và thuộc hạ của nó để giải cứu cho nàng Sita xinh đẹp. Thần tích này trở
thành cốt truyện của sử thi Ramayana nổi tiếng. Trong nghệ thuật tiếu tượng Ấn Độ,
Rama được mô tả như một người lính, với cây cung lớn và ống đựng mữi tên, đầu đội
vương miện giống Vishnu, thường đứng bên cạnh người vợ xinh đẹp là nàng Sita và
người anh trai tận tụy là Laksman, đôi khi có cả đồng minh trung thành của chàng là khỉ
Hanuman.

8. Thần Krisna

Là một hóa thân rất quan trọng và rất nổi tiếng của Vishnu dưới hình tượng một nhân vật
anh hùng, được kể trong Bhagabatapurana, truyện Harivamsa và được kể lại trong sử
thi Mahabharata. Theo thần thoại Hindu giáo, Krisna rất được yêu mến trong số các vị
thần Ấn Độ. Một số người theo phái thờ Krisna cho rằng Krisna không phải là hóa thân
của Vishnu mà chính là Vishnu. Nhưng có lẽ vì Vishnu được sinh ra từ một người mẹ
trần thế nên được xem như một hóa thân, tức là một con người với ngoại hình trần tục,
thân thể máu thịt của người nhưng linh hồn của thần linh.

9. Lord Budda (đức Phật)

Vishnu hóa thân thành thái tử Sakyamuni – một nhân vật có thật trong lịch sử Ấn Độ và
là người sáng lập ra đạo Phật. Hàng thế kỉ trôi qua sau cái chết của mình, gương mặt
lịch sử này từ đời thực bước vào thần thoại Ấn Độ sau khi Phật giáo không còn được
xem là mối nguy hiểm với Hinđu giáo nữa. Đức Phật được công nhận là hóa thân thứ
chín của Vishnu và được tôn thờ trang trọng trong hệ thống thần linh Ấn Độ.

10. Ngựa Kalkin

Đây là hóa thân cuối cùng của thần Vishnu. Theo thần thoại Ấn Độ, khi kết thúc một chu
kì của vũ trụ, Vishnu sẽ trở lại thế gian, cưỡi trên một con ngựa trắng cùng với thanh
gươm rực rỡ của mình để hủy diệt những con quỷ cuối cùng và những con người độc ác
còn sót lại trước khi thế giới được thiết lập lại. Trong nghệ thuật tiếu tượng thường ít gặp
hình ảnh của Kalkin nhưng hình ảnh một con ngựa có cánh đôi khi cũng được coi là biểu
tượng của lần hóa kiếp này.

Có thể khẳng định rằng, bên cạnh ý nghĩa về lịch sử, những hóa thân của thần Vishnu
mang ý nghĩa quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, tâm linh của người Hindu. Về sau
này còn nói đến nhiều lần giáng thế hơn, có tới 22 lần hoặc thậm chí là vô số lần. Nhiều
nhân vật khác trong thần thoại Ấn Độ cũng là những hóa thân của Vishnu hoặc mang
đậm tính cách của thần như thần Purusha – con người đầu tiên; Nara, Narada hay
Narayana là tên của những nhà hiền triết, lãnh tụ tinh thần nổi tiếng của người Hindu.
Ngài còn được biểu hiện dưới những hình tượng đẹp đẽ khác như: Kama – thần tình
yêu, Varadaradza – ân nhân vĩ đại, hay đức chúa trời Vaikhuntkha. Đôi khi Vishnu còn
xuất hiện với tư cách là một vị thần y của Ấn Độ dưới hình dáng một người phụ nữ xinh
đẹp tay mang thần dược.

Ngày nay, khi đời sống tâm linh càng trở nên phong phú thì sự thể hiện của Ngài không
chỉ đối với người Ấn Hindu theo giáo phái Vaishnava mà nó đã vượt ra phạm vi của một
quốc gia. Hình tượng của Thần không chỉ thể hiện trong nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc
đền đài mà cả ở trong văn chương. Trong sử thi Ramayana với 24.000 câu thơ đôi
(sloka) với thần Vishnu hóa thân làm hoàng tử Rama đã trở thành những dị bản văn học
có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của nhiều dân tộc. Rama lấy vợ là Sita (nghĩa
là luống cày), bị thế lực tham quyền gạt ra khỏi ngôi báu phải vào rừng sống biệt lập 14
năm, đối mặt với quỷ vương Ravana, trải qua nhiều thảm nạn và đem đến những bài học
lớn cho nhân loại. Những bài hát vang lên hai bờ sông Hằng về hóa thân của thần
Vishnu ấy đã có sức truyền cảm mãnh liệt vượt không gian và thời gian, không những đi
vào hàng triệu trái tim người dân Ấn Độ mà còn vào tận đáy lòng của hàng triệu người ở
châu Á, ở Tây Tạng, ở Mông Cổ và nhất là ở các dân tộc Đông Nam Á. Ở Lào, ở
Campuchia, ở Indonesia, ở Thái Lan, ở dân tộc Chăm và ở Việt Nam.
3. THẦN SIVA
Sống – chết không chỉ là sự luân chuyển của một kiếp con người mà luôn cùng tồn tại
song hành giữa cuộc đời. Người theo Saivism một trong nhưng giáo phái của Hindu
giáo xem cái chết là một mặt của sự sống. Và họ coi phá hủy lại là tiên đề của sáng
tạo. Phá hủy thúc đẩy sáng tạo và phá hủy để sáng tạo.
Siva là một vị thần như vậy. Những tín đồ Shaivite coi thần Siva là vị Thượng đế tối cao. Thần
Siva hủy diệt tất cả và không ngưng nghỉ và đây có thể coi là một sự hủy diệt gây phản tỉnh nơi
tâm thức con người. Đó là sự hủy diệt cần thiết vì có những sự phá hoại cần thiết, mang ý nghĩa
sáng tạo chân chính, hơn cả Brahma hầu như chỉ mang lại cho con người ý thức khái quát về sự
phồn thực và dị biệt của thế giới. Và kẻ sáng tạo chân chính bao giờ cũng là người bảo dưỡng
tuyệt vời. Điều này có thể thấy ở cử chỉ của Thần khi đưa hai bàn tay hứng lấy nọc độc của Rắn
thần Vasuki rồi nuốt đi, giải thoát cho thế gian khỏi thảm họa diệt vong. Hành động Siva chịu xõa
tóc cho dòng sông Hằng chảy xuôi được êm ả, nhẹ nhàng, tránh cho mặt đất chuyển rung và sụp
đổ.

Để hiểu thêm về thần, chúng ta hãy tiếp tục tìm hiểu thêm về truyền thuyết, biểu tượng thần Siva
trong thế giới một số vị thần Hindu giáo.

3.1. Truyền thuyết về thần Siva

Thần Siva là một trong các vị thần chính của Hindu giáo (bộ tam thần Trimurti). Siva tiếng
Sanskrit có nghĩa là điềm lành và là một trong những thuộc tính của Trimurti. Thần này được cho
là xuất thân từ Rudra, một vị thần nhỏ được thấy trong Rig- Veda (tập hợp thánh ca xưa của người
Aryan có niên đại từ năm 1500 đến 900 trước CN.) Tầm vóc của vị thần này đã lớn dần lên sau
khi hấp thụ một số tinh chất của một vị thần phì nhiêu thời Ấn Độ cổ đại với tên gọi gọi là "tiền
Siva". Những con dấu in hình thần Siva có thể được tìm thấy từ thời văn minh Harappa. Các hiện
thân của thần này, ngồi trong tư thế một Yogi và có liên quan với súc vật, cây cối, được cho là do
ảnh hưởng của nền văn hóa sông Ấn vốn có niên đại từ trước năm 1500 trước CN.

Truyền thuyết về Thần kể rằng, một hôm thần Brahma trông thấy thần Vishnu đang nằm trên một
chiếc lá sen trên mặt nước nguyên thủy, Brahma hỏi danh tính. Vishnu bèn xưng danh và kêu
Brahma bằng con. Brahma tức giận và tuyên bố chính mình mới là đấng sáng tạo và hủy diệt vũ
trụ. Vishnu bát bỏ lời của Brahma, cương quyết cho mình mới là đấng sáng tạo, bảo tồn và hủy
diệt vũ trụ. Hai bên đang cãi cọ tranh giành ngôi thứ, thì bỗng hiện ra một cột lửa cao ngất tưởng
chừng như không có khởi nguyên. Hai thần bèn ngừng cuộc tranh luận và đồng ý chia nhau đi tìm
đầu và cuối của cột lửa. Vishnu đi xuống dưới gốc và Brahma đi lên phía ngọn. Sau một thời gian
thám hiểm rất lâu, cả hai đều không đạt được mục đích và phải trở về nơi gặp gỡ ban đầu. Vừa khi
đó không gian bỗng vang lên âm thanh linh thiêng của tiếng AUM và Shiva xuất hiện giữa cột lửa
khiến cả Brahma và Vishnu đều cảm thấy hân hoan. Khi ấy Shiva bèn nói cho hai thần biết rằng
không có ai hơn, ai kém, và ba ngôi tối linh Brahma-Vishnu-Shiva chỉ là ba tác dụng khác nhau
của cùng một bản thể.

3.2. Hình tượng thần Siva (Iconography)

Thần Siva có nước da trắng thể hiện bản chất thuần túy của tất cả màu sắc. Thần có ba mắt tượng
trưng cho mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa thế gian, có thể nhìn thấu quá khứ, hiện tại và tương lai.
Mái tóc rối của Shiva tượng trưng thần gió. Mái tóc đó cũng tượng cho sức mạnh vì sông Ganga
linh thiêng khi nhận lời cầu xin của một đạo sĩ thấu thị (Rishi) xuống trần, Siva đã xõa tóc cho
dòng nước xuôi theo và đổ xuống nhẹ nhàng, nếu không thì thế gian đã rung chuyển và xụp đổ tan
tành.

Ở hình dạng khác, nếu sáng tạo là thiêng liêng, thì huỷ diệt cũng phải là một phương diện thiêng
liêng khác. Siva bán nam bán nữ; tự phân làm chết và sống; một nguyên lí âm, một nguyên lí
dương. Các phẩm chất và thuộc tính mâu thuẫn được thấy trong vị thần này để biểu trưng cho một
vị thần mà ở trong Thần mọi sự đối kháng đều được hòa giải. Cả đến cả cái tên của Thần, vốn có
nghĩa là "điềm lành" cũng nhằm mục đích hòa giải và làm dịu đi khía cạnh hắc ám trong tính cách
đã khiến ông phải mang cái tên "kẻ hủy diệt".

Siva có thể là vị thần tử tế và che chở nhưng cũng là vị thần đáng sợ, có mặt ở các chiến trường và
giàn hỏa táng. Ông cũng được thể hiện cổ đeo một vòng đầu lâu. Là thần sáng tạo, Siva cũng là vị
thần thời gian do đó là vị thần hủy diệt, Siva là vị thần của sự phì nhiêu, sinh sản nhưng ông cũng
là một tu sĩ khổ hạnh đã chế ngự được các dục vọng của mình để sống trên ngọn Kailasa của dãy
Himalaya, đắm chìm trong thiền định để duy trì sự tồn tại của thế giới. Mặc dù Siva đem lại chết
chóc nhưng thần này cũng chinh phục cái chết cùng bệnh tật và được cầu khấn mỗi khi chữa bệnh.

Dưới dạng Nataraja, Siva là "vua vũ điệu" và thường được miêu tả trong điệu bộ này. Ngài nhãy
múa để sáng tạo ra thế giới, nhưng mỗi khi ông mỏi mệt rơi vào bất động thì vũ trụ lại trở nên hỗn
loạn, do đó theo sau giai đoạn sáng tạo là sự hủy diệt. Một tích truyện thần thoại về Siva dưới
dạng Nataraja liên quan đến 10.000 Rishi hay nhà tiên tri. Siva đến thăm các Rishi chỉ nguyền rủa
Siva và khi nguyền rủa không hiệu quả, họ bèn thả ra một con cọp dữ để xé xác Siva. Vị thần vĩ
đại dễ dàng dùng móng tay lột lấy tấm da con cọp và choàng lên cổ mỉnh làm tấm khăn choàng.
Các Rishi lại làm một con rắn độc tấn công Siva và vị thần này chỉ đeo nó lên cổ mình như một
vòng hoa. Cuối cùng, họ cho một gã lùn hung tợn vác gậy tày ra tấn công vị thần, Siva đáp lại
bằng cách đặt chân lên gã lùn mà nhảy múa. Các Rishi sững sờ đứng nhìn vũ điệu tuyệt vời. Cả
các cung trời cũng mở ra để cho chư thần có thể nhìn thấy vũ điệu lạ lùng. Cuối cùng các Rishi
không thể cưỡng lại nổi trước thần Siva đang nhảy múa và họ cùng phủ phục dưới chân ngài. Vật
bầu trời chính của thần Siva là "lingam", một khối đá có hình bộ phận sinh dục nam. Đây được
xem là biểu tượng tượng trưng cho bộ sinh thực khí và Mukhalinga hay còn được gọi là linga hình
mặt người.
Một truyện thần thoại kể khác rằng thần Siva đến thăm một rừng thông, tại đó có một số hiền nhân
đang tu thiền. Các hiền nhân này không nhận ra Siva mà tưởng đây là một anh chàng đến ve vãn
vợ mình nên họ làm cho dương vật của Siva mất đi. Tức thời, thế giới chìm trong tăm tối và các
hiền nhân cũng không còn nam tính nữa. Cuối cùng họ phải cúng lễ vật cho thần Siva và thế giới
trở lại bình thường.

Lại một lần, nhà hiền triết Bhrigu đi đến nơi ở của thần Siva để thỉnh thị ý kiến về một việc tâm
linh quan trọng. Khi đến nơi, nhà hiền triết gõ cửa nhưng không thấy có tiếng trả lời. Ông gõ một
lần nữa, lần này gõ to hơn nhưng vẫn không thấy động tĩnh gì. Bực mình, ông đạp vào của một
cách tuyệt vọng. Cuối cùng thì thần Siva cũng xuất hiện trong tay ôm bà vợ Parvati. Cho rằng thần
Siva ưu ái thú vui hoan lạc với vợ chứ không chú ý gì đến mình, vị hiện triết phẫn nộ với cách cư
xử của Siva và nguyền rủa Siva rằng: Vì ngài thích hoan lạc, ngài sẽ được thờ trong hình ảnh của
cơ quan sinh dục nam. Có thể thấy hình ảnh Siva thường được tượng trưng bằng linga (dương vật)
và Yoni (âm vật), hoặc là có 3 con mắt (Mặt Trời, Mặt Trăng và ngọn lửa thế gian), 4 tay (4
phương, tay đinh ba, tay rìu, tay xua đuổi sự sợ hãi, tay ban phước lành). Linga, tiếng Sanskrit có
nghĩa là “dấu hiệu.” Vì vậy, truyền thuyết Ấn Độ nói về linga định nghĩa dấu hiện đặc biệt mà
người ta có thể nhận ra bản chất của sự vật được gọi là linga.

Một truyền thuyết khác về lý do tại sao những tín đồ Saivism tin rằng linga là một trong những
biểu tượng nổi bật nhất trong giáo lý Hindu. Câu chuyện có liên quan đến hai vị thần Brahma và
Vishnu. Một hôm trong lúc xung đột giữa Brahma và Vishnu để tranh giành ai là người sáng tạo ra
thế giơi, bỗng hiện ra trước mắt một cây cột đang cháy. Muốn biết cây cột đó cao và sâu đến đâu,
thần Brahma liền biến thành con ngỗng bay lên trời, thần Vishnu thì biết thành con lợn rừng chui
xuống đất. Sau một hồi, cả hai đều không đạt được mục đích của mình và trở về nơi gặp gỡ ban
đầu. Vừa khi đó, không gian bỗng vang lên một âm thanh linh thiêng và Siva xuất hiện giữa cột
lửa khiến Brahma và Vishnu đều cảm thấy vui mừng và quỳ phục dưới chân Ngài. Siva nói, không
ai hơn, ai kém và ba ngôi tối linh Brahma, Vishnu và Siva chỉ là hóa thân khác nhau của cùng một
bản thể.

Như vậy, Siva xuất hiện đầu tiên chỉ là một cột lửa hình dương vật giao hòa giữa trời và đất Thần
Siva được thể hiện với bốn cánh tay và một con mắt thứ ba, con mắt nội quán, ở giữa trán. Ông
thường đeo một con rắn trên cổ làm chiếc vòng, một con nữa ở ngang hông và nhiều con quấn
quanh cánh tay. Ông cũng có khi được mô tả mình lấm đầy tro để tượng trưng cho sự tu hành khổ
hạnh của ông, cổ họng ông có tên là Nilakantha, hay "cổ họng xanh" do vai trò quan trọng của ông
trong công việc khuấy đảo đại dương. Theo một chuyển kể dân gian, trong cuộc khuấy đảo này,
các vị thần đã dùng con rắn lớn là Vasuki làm sợi dây thừng xoay tròn ngọn núi Mandara và
khuấy đảo đại dương vũ trụ để tạo ra nước cam lộ, thứ thuốc trường sinh bất tử. Tuy nhiên con rắn
quá mệt nên cuối cùng đã phun nọc độc ra, đe dọa tiêu diệt cả muôn loài. Siva bèn đến tiếp cứu,
ông dùng miệng mình hút hết nọc độc của con rắn, cho nên cổ họng ông bị thâm tím. Siva là cha
của vị thần đầu voi Ganesha và của chiến thần Karttikeya. Vật cưỡi của ông là con bò mộng
Nandi. Vợ ông hay Shakti - năng lượng nữ của ông có tên là Parvati trong hình thái dịu dàng của
bà. Các hình thái khác của bà này là Uma duyên dáng, Bhairavi hung tợn, Ambika tạo sinh, Sati
hiền thục, Gauri sáng chói, Kali hắc nương, Durga bí hiểm. Truyền thuyết về con mắt thứ 3 của
thần được kể lại là do một đùa nghịch ngợm của Parvati. Trong lúc Siva đang tham thiền trên
ngọn Kailasa, Parvati rón rén đến đằng sau ông đưa tay bịt mắt ông lại. Tức thì mặt trời mất sáng
và mọi sinh vật đều run rẩy sợ hãi. Đột nhiên con mắt thứ ba nóng cháy hiện ra trên trán Siva, xua
tan bóng tối. Lửa từ con mắt ấy vọt ra chiếu sáng chói chang toàn cõi Hymalaya. Parvati bàng
hoàng sửng sốt. Sau đó, Siva tội nghiệp cho sự đau khổ của nàng nên đã phục hồi lại vẻ đẹp của
các ngọn núi như cũ.

Trong các ảnh tượng, thần thường được thể hiện trong trạng thái thiền định sâu hoặc đang múa
điệu Tandava trên Maya. Phổ biến hơn cả là Siva đang múa, điệu múa Tandava, biểu hiện sự vận
hành của vũ trụ với 4 tay: tay trống, tay (cầm) lửa, tay chĩa lên trời, tay xuống đất, Thần dẫm chân
lên người lùn. Siva hiện thân là Đấng toàn năng (Isvara) gieo rắc chiến tranh, bão tố và phá hủy,
đồng thời mang tới cho trần gian may mắn, hạnh phúc và hoan lạc. Có thể thấy rằng vào khoảng
thế kỷ VII, hình tượng vị thần Siva thường nhắc tới với hình tượng Siva hoàng đế của các vũ sĩ
được tìm thấy động Ellra và hình tượng thần với Siva ba đầu ở Elehanta, Mumbai. Khi quan sát
những hình tượng của thần, chúng ta thường thấy ngài đứng cùng vợ của mình là Sati, Uma hay
còn được gọi là Parvati - Sơn nữ. Bên cạnh đó còn có con của thần hay hóa thân là thần Skanda
(Thần Chiến tranh), Ganesa (Thần Hạnh phúc và May mắn). Vật cưỡi của thần là con bò Nadin
hoặc voi, sư tử - Gajasimha. Các thần được đồng nhất với thần Siva là thần Rudra (Thần Bão tố và
Hủy diệt), Sambu (Thần Hoan lạc và Hạnh phúc), Isvara (Đấng toàn năng), Kala (Thần Thời
gian).

3.3. Thờ thần Siva: tục thờ sinh thực khí linga

Thần Siva thường được thờ cúng dưới hình thức Siva linga. phần dưới hình vuông, tượng trưng
cho thần Brahma; phần giữa hình bát giác, tượng trưng cho thần Vishnu; phần trên hình tròn,
tượng trưng cho thần Siva. Như vậy, tự thân Siva vừa là mình, vừa là bao hàm cái khác; vừa là ta,
vừa cưu mang cái – không – ta. Do đó, trong ý nghĩa của sáng tạo, Siva được coi là Đấng toàn
năng lưỡng tính (ardha – nari – Isvara) hay một hữu thể trung tính tự phân thân thành âm – dương.
Âm dương giao hòa thì vũ trụ được tạo dựng, muôn vật hóa sinh. Các tín đồ của Siva gọi là
lingayata được phân biệt nhờ các linga thu nhỏ họ đeo trên cơ thể trong suốt cuộc đời. Nó được
giữ trong hộp bạc đeo quanh cổ và được tin là có tác dụng như lá bùa bảo vệ hóa giải những điều
xấu xa. Tại Ấn Độ, phần lớn tín đồ đạo Hindu cả đời có 4 lạc thú: Kính thờ thần Siva; đến sông
Hằng tắm nước thánh và uống nước ở đây; kết bạn với thánh nhân; cư trú ở thánh địa Varanasi.
Thánh địa Hindu giáo, thành cổ Benares (Varanasi ngày nay) nổi tiếng nằm ở phía Đông Nam các
bang miền Bắc Ấn Độ, nơi tả ngạn đoạn chảy cong hình lưỡi liềm trung du sông Hằng. Benares
còn gọi là “Gasi” hay là nơi ánh sáng của các vị thần chiếu dọi. Vì thành phố ở giữa sông Varana
và sông Asi, năm 1957, thành phố Benares quyết định đổi tên thành Varanasi có nghĩa là Ánh
sáng của Ấn Độ. Varanasi là sự kết hợp tên của hai con sông bao quanh thành phố này. Đây là một
thành phố lịch sử lớn nhất bên bờ sông Hằng. Tương truyền, 6000 năm trước, thành phố này do
thần Siva - một vị thần của Hindu giáo (Ấn Độ giáo) lập ra. Thần Siva là vị thần thứ ba trong ba vị
thần lớn nhất của Hindu giáo. Thần Siva trú ngụ ở thành phố Varanasi, bất cứ người nào chết ở
đây đều đến được với thần Siva, cho dù họ mang nặng nghiệp (karma) xấu thế nào. Mỗi năm nơi
này đón từ 2 đến 3 triệu người hành hương đến lễ thần Siva và tắm rửa nước thánh trên sông
Hằng.

Trên thế giới đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á vẫn thực hiện nghi lễ thờ thần Siva theo cách
này hay cách khác. Tại Việt Nam trong kho tàng nghệ thuật điêu khắc Champa, tượng thần Shiva
có vai trò quan trọng và chiếm số lượng lớn thể hiện ngay cả trên bi ký. Những bức tượng đầu tiên
xuất hiện vào thế kỷ thứ VIII, qua những bước thăng trầm của lịch sử, dù hình tượng các vị thần
khác có mờ phai hay mất đi trong tâm thức Chăm, nhưng Siva vẫn luôn có mặt qua những nhân
vật lịch sử được thần hóa, qua hàng trăm ngẫu tượng sinh thực khí (linga) đơn giản nhưng mãnh
liệt và đầy sức sống của một trong những quốc gia Đông Nam Á này Trong các nghi lễ ở các làng
Chăm Việt Nam ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hoà...hiện nay, đồng bào thường
dùng những vật biểu trưng có liên quan đến Thần Siva như trụ đá hình tròn, hình dương vật, hình
bò Nandin (vật cưỡi của Thần Siva), hay dao găm, chùm hoa, chén dầu dừa...để cầu Thần Siva.
Tháp Mỹ Sơn cũng là nơi được xem là nơi tập trung nhiều hình tượng nữ thần Siva được trang trí
đặc sắc đặc biệt với các vũ điệu của thần.

You might also like