Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

1.

Trình bày ý kiến cá nhân về quan điểm: “Giáo dục là hiện tượng đặc biệt của xã hội loài người”.
Giáo dục là hoạt động truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội từ thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế
hệ sau tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội. Thế hệ sau không những phải lĩnh hội, kế thừa các kinh nghiệm
xã hội (tri thức, kĩ năng, kỹ xảo, giá trị xã hội,…) mà còn phải tìm tòi, sáng tạo và làm phong phú thêm những kinh
nghiệm đó. Bản chất của hiện tượng giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ
loài người, chức nặng trọng yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành và phát triển nhân cách con người. Với ý
nghĩa đó, giáo dục là nhu cầu không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Để có thể hình thành và phát triển nhân cách con người, giáo dục cần có các tính chất sau:
Tính phổ biến và vĩnh hằng: Dù trong bất kì thời đại nào đi nữa thì việc giáo dục vẫn mang mục đích là chăm sóc, dạy
dỗ, đào tạo con người, là truyền thụ một các có ý thức cho thế hệ trẻ những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hóa,
tinh thần của loài người và dân tộc, làn cho thế hệ trẻ có khả năng tham gia mọi mặt vào cuộc sống xã hôi. Vì vậy giáo
dục tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triền của xã hội loài người.
Tính nhân văn: Giáo dục luôn phản ánh những giá trị nhân văn – giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ chung nhất của
nhân loại và những nét bản sắc văn hóa truyền thống của từng dân tộc, từng quốc gia. Giáo dục luôn hướng con người
đến những cái hay, cái đẹp, cái tốt, phát huy những yếu tố tích cực trong mỗi con người nhẳm phát triển và hoàn thiện
nhân cách mỗi người.
Tính xã hội – lịch sử: Giáo dục nảy sính trên cơ sở kinh tế xã hội nhất định, do đó giáo dục chịu sự quy định của xã
hội. Nền giáo dục sẽ khác nhau qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau theo quá trình phát triển của lịch sử loài
người. Cụ thể có năm nền giáo dục khác nhau qua năm hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Vì vậy tùy vào điều kiện xã
hội thời đại nào mà luôn có sự cải cách, đổi mới giáo dục cho phù hợp với tiến độ phát triển của xã hội thời đại ấy.
Tính giai cấp: Tính giai cấp của giáo dục là sự phản ánh của giai cấp trong các hoạt động giáo dục. Trong xã hội có
giai cấp, giáo dục được sử dụng như một công cụ của giai cấp cầm quyền nhằm duy trì quyền lợi của mình thông qua
mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục. Tính giai cấp chi phối toàn bộ nền giáo dục trong xã hội có giai cấp, giáo
dục là phương pháp đấu tranh giai cấp, nhà trường là công cụ của chuyên chính giai cấp. giai cấp trống trị sử dụng nhà
trường như là một phương tiện để duy trì, củng cố nền thống trị và sự áp đặt của nó đối với nhân dân lao động.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục và xã hội có quan hệ biện chứng, tất yếu mang tính quy luật. Đặc biệt,
trong thời đại này, giáo dục không chỉ được xem là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực – động lực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội được thể hiện qua các
chức năng sau:
Chức năng kinh tế - sản xuất: Chức năng kinh tế - sản xuất của giáo dục thể hiện tập trung nhất thông qua việc giáo
dục đào tạo nhân lực. Bất kì một đất nước nào muốn phát triển kinh tế, sản xuất thì phải có đủ nhân lực và nhân lực
phải có chất lượng cao. Giáo dục tạo ra sức lao động mới một cách khéo léo, tinh xảo, hiệu quả để vừa thay thế sức lao
động cũ mất đi, vừa tạo ra sức lao động mới cao hơn, góp phần tăng năng suất lao động, đẩy mạnh sản xuất, phát triển
kinh tế xã hội. Giáo dục giúp cho mọi thành viên trong xã hội có cơ hội được mở mang trí tuệ, trau dồi nhân cách, phát
triển sức mạnh tinh thần và thể chất để vươn lên làm chủ lao động, trong cuộc sống cộng đồng,… Người lao động – từ
kết quả của nhà trường – sẽ được phát triển hài hóa các năng lực riêng, do đó, xã hội sẽ được tăng thêm sức lao động
mới thay thế cho sức lao động cũ bị mất đi. Sức lao động mới có chất lượng hơn sẽ đem lại năng suất lao động nhiều
hơn. Như vậy, với chức năng kinh tế - sản xuất, giáo dục là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển và giáo dục
phải đi trước sự phát triển kinh tế xã hội.
Chức năng chính trị - tư tưởng: Giáo dục không đứng ngoài chính trị mà nó là phương thức tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, đường lối chính sách của một chế độ chính trị, giai cấp hay chính đảng cầm quyền. Giáo dục trực tiếp truyền bá
tư tưởng chính trị, đường lối chính sách của giai cấp nắm quyền và trực tiếp đào tạo chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia
vào cuộc sống, bảo vệ chế độ chính trị - xã hội đương thời. Giáo dục có tác động to lớn đến việc xây dựng hệ tư tưởng
chi phối toàn xã hội, hình thành ở mỗi cá nhân thế giới quan, tư tưởng chính trị ý thức, tình cảm và hình vi đạo đức phù
hợp với chuẩn mực xã hội. Nền giáo dục Việt Nam phải phục vụ mục đích chính trị tốt đẹp và tư tưởng cao quý của
Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh.
Chức năng văn hóa – xã hội: Giáo dục không chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuyển tải nền văn góa của thế hệ này
cho thế hệ kia mà còn là phương thức đặc trưng cơ bản để bảo tồn và phát triền nền văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Thông qua các con đường giáo dục, học sinh không chỉ biết giữ gìn mà còn có khả năng làm phong phú, sáng tạo thêm
những giá trị văn hóa, những loại hình văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội
là tác động đến tập hợp các bộ phận xã hội và tính chất của các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục “của dân, do dân, vì dân”, nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người. Nhờ đó,
trong xã hội ta, các tầng lớp xã hội tuy khác nhau về lợi ích xã hội, song cùng đoàn kết, hợp tác đấu tranh xây dựng xã
hội nhằm đạt tới mục tiêu chung: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tóm lại, thông qua các chức năng xã hội cơ bản, giáo dục đã góp phần vào sự phát triển của xã hội, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao về sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ xã hội, ý thức xã hội. Roja Roy Singh đã từng nói:
“Giáo dục không chỉ là sự phản ánh đơn thuần các lực lượng kinh tế và xã hội đang hoạt động trong một xã hội. Nó
còn là một phương tiện quan trọng để cấu thành các lực lượng kinh tế - xã hội và văn hóa, quyết định chiều hướng của
các lực lượng này. Đến lượt mình, động lực của các lực lượng này lại tác động đến đặc điểm của giáo dục. Do vậy, có
một mối quan hệ vòng tròn trong mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và một loạt các nhân tố xã hội và con người khác.”
Giáo dục và xã hội có mối quan hệ biện chứng:
Sự phát triển xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển giáo dục: Trong một xã hội phát triển, nhu cầu về công việc chuyên
môn cao tăng lên, từ đó yêu cầu hệ thống giáo dục cung cấp kiến thức và kỹ năng phù hợp. Sự phát triển xã hội cũng
ảnh hưởng đến nội dung và phương pháp giảng dạy trong giáo dục.
Sự phát triển giáo dục ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội: Sự phát triển giáo dục cung cấp nhân lực có trình độ cao và
kỹ năng chuyên môn, từ đó đóng góp vào sự phát triển xã hội. Giáo dục giúp nâng cao trình độ dân trí và nhận thức của
cá nhân, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế, chính trị và văn hóa của xã hội.
Chúng tương tác và phát triển đối lập. Điều này có nghĩa là sự phát triển xã hội và sự phát triển giáo dục có thể đồng
thời tạo ra những tiến bộ và mâu thuẫn.
Ví dụ: Trong một xã hội phát triển, sự phát triển giáo dục có thể gặp phải những thách thức như chất lượng giáo dục
không đồng đều, chênh lệch xã hội và kinh tế, hoặc không đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội. Ngược lại, sự phát
triển giáo dục cũng có thể tạo ra những thay đổi xã hội, như tăng cường nhận thức về quyền lợi và sự bình đẳng, hoặc
tạo ra những thay đổi trong cách thức tổ chức và quản lý xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển xã hội và sự phát triển giáo dục là một quá trình tương tác và phát triển đối
lập. Hiểu rõ mối quan hệ này giúp chúng ta nhận thức về vai trò quan trọng của giáo dục trong sự phát triển xã hội và
tạo ra những chính sách và biện pháp giáo dục phù hợp với nhu cầu và yêu cầu của xã hội.
2. Giáo dục có vai trò như thế nào đối với sự phát triển của xã hội và cá nhân?
Giáo dục là hoạt động truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội từ thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế
hệ sau tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội. Thế hệ sau không những phải lĩnh hội, kế thừa các kinh nghiệm
xã hội (tri thức, kĩ năng, kỹ xảo, giá trị xã hội,…) mà còn phải tìm tòi, sáng tạo và làm phong phú thêm những kinh
nghiệm đó.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục và xã hội có quan hệ biện chứng, tất yếu mang tính quy luật. Đặc biệt,
trong thời đại này, giáo dục không chỉ được xem là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực – động lực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội được thể hiện qua các
chức năng sau:
Chức năng kinh tế - sản xuất: Chức năng kinh tế - sản xuất của giáo dục thể hiện tập trung nhất thông qua việc giáo
dục đào tạo nhân lực. Bất kì một đất nước nào muốn phát triển kinh tế, sản xuất thì phải có đủ nhân lực và nhân lực
phải có chất lượng cao. Giáo dục tạo ra sức lao động mới một cách khéo léo, tinh xảo, hiệu quả để vừa thay thế sức lao
động cũ mất đi, vừa tạo ra sức lao động mới cao hơn, góp phần tăng năng suất lao động, đẩy mạnh sản xuất, phát triển
kinh tế xã hội. Giáo dục giúp cho mọi thành viên trong xã hội có cơ hội được mở mang trí tuệ, trau dồi nhân cách, phát
triển sức mạnh tinh thần và thể chất để vươn lên làm chủ lao động, trong cuộc sống cộng đồng,… Người lao động – từ
kết quả của nhà trường – sẽ được phát triển hài hóa các năng lực riêng, do đó, xã hội sẽ được tăng thêm sức lao động
mới thay thế cho sức lao động cũ bị mất đi. Sức lao động mới có chất lượng hơn sẽ đem lại năng suất lao động nhiều
hơn. Như vậy, với chức năng kinh tế - sản xuất, giáo dục là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển và giáo dục
phải đi trước sự phát triển kinh tế xã hội.
Chức năng chính trị - tư tưởng: Giáo dục không đứng ngoài chính trị mà nó là phương thức tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, đường lối chính sách của một chế độ chính trị, giai cấp hay chính đảng cầm quyền. Giáo dục trực tiếp truyền bá
tư tưởng chính trị, đường lối chính sách của giai cấp nắm quyền và trực tiếp đào tạo chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia
vào cuộc sống, bảo vệ chế độ chính trị - xã hội đương thời. Giáo dục có tác động to lớn đến việc xây dựng hệ tư tưởng
chi phối toàn xã hội, hình thành ở mỗi cá nhân thế giới quan, tư tưởng chính trị ý thức, tình cảm và hình vi đạo đức phù
hợp với chuẩn mực xã hội. Nền giáo dục Việt Nam phải phục vụ mục đích chính trị tốt đẹp và tư tưởng cao quý của
Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh.
Chức năng văn hóa – xã hội: Giáo dục không chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuyển tải nền văn góa của thế hệ này
cho thế hệ kia mà còn là phương thức đặc trưng cơ bản để bảo tồn và phát triền nền văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Thông qua các con đường giáo dục, học sinh không chỉ biết giữ gìn mà còn có khả năng làm phong phú, sáng tạo thêm
những giá trị văn hóa, những loại hình văn hóa đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội
là tác động đến tập hợp các bộ phận xã hội và tính chất của các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục “của dân, do dân, vì dân”, nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người. Nhờ đó,
trong xã hội ta, các tầng lớp xã hội tuy khác nhau về lợi ích xã hội, song cùng đoàn kết, hợp tác đấu tranh xây dựng xã
hội nhằm đạt tới mục tiêu chung: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thông qua các chức năng xã hội cơ bản, giáo dục đã góp phần vào sự phát triển của xã hội, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao về sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ xã hội, ý thức xã hội. Roja Roy Singh đã từng nói: “Giáo dục
không chỉ là sự phản ánh đơn thuần các lực lượng kinh tế và xã hội đang hoạt động trong một xã hội. Nó còn là một
phương tiện quan trọng để cấu thành các lực lượng kinh tế - xã hội và văn hóa, quyết định chiều hướng của các lực
lượng này. Đến lượt mình, động lực của các lực lượng này lại tác động đến đặc điểm của giáo dục. Do vậy, có một mối
quan hệ vòng tròn trong mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và một loạt các nhân tố xã hội và con người khác.”
Đối với sự phát triển cá nhân, theo quan điểm duy vật biện chứng, giáo dục chỉ là một trong những yếu tố ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển cá nhân, giáo dục không có tính “vạn năng”, không có tính quyết định mà chỉ đóng vai
trò chủ đạo đối với sự phát triển cá nhân.
Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển cá nhân. Nhà giáo dục cần phải xác định mục
đích, mục tiêu giáo dục, lựa chọn phương thức tổ chức và đánh giá hoạt động giáo dục phù hợp với môi trường, điều
kiện, đối tượng giáo dục, đáp ứng mục đích, mục tiêu giáo dục từ đó có thể tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp. Ví
dụ, trong quá trình dạy học môn Khoa học tự nhiên cho các em học sinh THCS, người giáo viên cần phải giúp cho học
sinh nhận biết, so sánh và phân tích các sự vật, hiện tượng, khái niệm, quy luật, quá trình của tự nhiên từ đó học sinh có
thể hình thành các kỹ năng đặt vấn đề, xây dựng giả thuyết, lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, viết báo cáo và thảo
luận, ra quyết định và đề xuất ý kiến; từ đó học sinh có thể vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào cuộc sống, giải
thích các vấn đề thực tiễn trong tự nhiên. Muốn làm được như vậy, giáo viên cần phải xây dựng một kế hoạch bài dạy,
tổ chức các hoạt động phù hợp với năng lực của học sinh để giúp học sinh hoàn thành các mục tiêu, mục đích giáo dục
đã đặt ra.
Giáo dục cần phải đi trước, đón đầu sự phát triển, muốn làm được như vậy cần phải căn cứ trên những dự báo về gia
tốc phát triển của xã hội, thiết kế nên mô hình nhân cách của con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương
ứng.
Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách . Các yếu
tố bẩm sinh – di truyền, môi trường và hoạt động cá nhân đều có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển cá nhân
ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, yếu tố giáo dục có thể tác động đến các yếu tố này để tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho sự phát triển cá nhân.
Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người có trong chương trình gen được phát triển.
Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể. Giáo dục phát hiện những tư chất
cá nhân và tạo điều kiện đều phát huy năng khiếu thành năng lực cụ thể, tìm cách khắc phục những khiếm khuyết
cơ thể để hạn chế những khó khăn của người khuyết tật trong sự phát triển cá nhân, góp phần tăng cường nhận thức
trong xã hội về trách nhiệm của cộng đồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn xã hội chia sẻ, hỗ trợ người
khuyết tật vượt qua khó khăn và sự bất hạnh của mình. Ví dụ, đối với học sinh có các khiếm khuyết về giác quan,
người giáo viên không chỉ phải giúp các em vượt qua các mặc cảm của bản thân mà còn phải giúp học sinh phát triển
các giác quan khác để bù lại những thiếu sót mà giác quan bị thiếu gây ra.
Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức và ý thức bảo vệ môi trường của con người,
khắc phục được sự mất cân bằng sinh thái, làm cho môi trường tự nhiên trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn. Giáo dục tác
động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh tế – xã hội, chức năng chính trị – xã hội, chức năng tư
tưởng – văn hóa của giáo dục. Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia đình, nhà trường
và các nhóm bạn bè, khu phố…, để các môi trường nhỏ tạo nên những tác động lành mạnh. tích cực đến sự phát triển
nhân cách con người. Hiện nay công tác giáo dục xã hội đang chú tâm xây dựng gia đình là một mái ấm dân chủ, bình
đẳng, ấm no, hạnh phúc; nhà trường là một môi trường thân thiện đối với học sinh, cộng đồng dân cư là khu vực văn
hóa của một xã hội văn minh tiến bộ.
Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp bổ ích, lành mạnh nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá
nhân; xây dựng những động cơ đúng đắn của cá nhân khi tham gia hoạt động, giao tiếp đồng thời hướng dẫn cá nhân
lựa chọn các hoạt động và giao tiếp phù hợp với khả năng của bản thân. Đặc biệt công tác giáo dục luôn xây dựng các
mối quan hệ giao tiếp tích cực giữa thầy trò, giữa bạn bè với nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia
vào các hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách. Giáo dục tạo tiền đề cho tự
giáo dục của cá nhân. Nếu cá nhân thiếu khả năng tự giáo dục thì các phẩm chất và năng lực của họ sẽ hình thành ở
mức độ thấp hoặc thậm chí không thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân phần lớn bắt nguồn từ sự
định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đề kháng
trước những tác động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ. “Chỉ có những người biết tự giáo dục mới
là những người thực sự có giáo dục.”
Giáo dục thực sự đóng vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển cá nhân cần có các điều kiện: Công tác dự
báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những định hướng đúng đắn để giáo dục thực hiện tốt chức năng đón
đầu sự phát triển. Các yếu tố trong hoạt động giáo dục phải thống nhất với nhau, nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo,
người được giáo dục thể hiện vai trò chủ động. Phải có sự kết hợp chặt chẽ ba lực lượng giáo dục: gia đình, nhà trường
và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo, gia đình và xã hội đóng vai trò chủ động, tích cực phối hợp đồng
bộ. Nhà giáo dục phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của người được giáo dục và cần phải có phẩm chất và năng lực
để làm tốt công tác giáo dục.
3. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học là gì?
Đối tượng tổng quát của Giáo dục học chính là hiện tượng giáo dục – một hiện tượng hiện thực của xã hội. Hiện
tượng giáo dục với tư cách là đối tượng của Giáo dục học có thể được coi như là những hoạt động có phạm vi xã
hội rộng rãi trên bình diện lớn (một nền giáo dục, một hệ thống giáo dục quốc dân...).
Hoạt động giáo dục – đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học giáo dục tổng thể được tổ chức một cách có mục
đích, có kể hoạch nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người. Nơi tổ chức hoạt động giáo dục
một cách có hệ thống, có kế hoạch chặt chẽ nhất là nhà trường.
Giáo dục học nghiên cứu hoạt động giáo dục là nghiên cứu bản chất, quy luật của hoạt động giáo dục con người,
mục đích, mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, nội dung, hình thức phương pháp, phương tiện giáo dục và đánh giá kết
quả giáo dục con người một cách hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Hoạt động giáo dục là một loại hoạt động xã hội nên có những đặc trưng chung như: tính định hướng; độ lâu về
thời gian; là một dạng vận động và phát triển liên tục, kế tiếp của các trạng thái; vận động do tác động của những
điều kiện bên trong và bên ngoài; tuân theo những quy luật khách quan vốn có của nó và biểu hiện thông qua hoạt
động của con người... Hoạt động giáo dục có nhưngc đặc trưng chủ yếu riêng biệt: Hoạt động giáo dục là một hoạt
động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch hợp lí, khoa học hướng vào việc hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách con người theo những mục đích và điều kiện do xã hội quy định ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Hoạt
động giáo dục luôn có sự tương tác và phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa hoạt động của nhà giáo dục (giáo viên)
và hoạt động của người được giáo dục (người học), trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo và người được giáo
dục là chủ thể hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo. Mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong
hoạt động giáo dục là một mối quan hệ xã hội đặc biệt — quan hệ giáo dục. Hoạt động giáo dục là một dạng vận
động và phát triển liên tục của các hiện tượng, các tình huống dạy học và giáo dục, các loại hình hoạt động, giao
tiếp của người được giáo dục... được nhà giáo dục tổ chức, hướng dẫn thực hiện theo những quy trình nhất định.
Hoạt động giáo dục hay hoạt động sư phạm bao gồm hoạt động dạy học và các hoạt động giáo dục cụ thể. Các hoạt
động này phản ánh những quy luật chung của hoạt động giáo dục tổng thể, nhưng chúng cũng phản ánh các quy
luật đặc thù riêng của từng hoạt động giáo dục cụ thể. Hoạt động giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt
động xã hội khác.
Hoạt động giáo dục tổng thể là một hệ thống lớn (vĩ mô bao gồm những hệ thống nhỏ (vi mô) là những hoạt động
giáo dục bộ phận: hoạt động dạy học, các hoạt động giáo dục khác và hoạt động giáo dục được tạo thành bởi các
thành tố sau:
Chủ thể giáo dục: Nhà giáo dục là chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động giáo dục. Chủ thể giáo dục cũng
chính là người được giáo dục.
Đối tượng giáo dục: Người được giáo dục vừa là đối tượng giáo dục vừa là chủ thể tự giáo dục.
Mục đích giáo dục( thành tố quan trọng nhất) là mô hình nhân cách con người mà giáo dục cần đảo tạo đáp ứng yêu
cầu của xã hội trong từng giai đoạn phát triển của xã hội. Đây là thành tố hàng đầu định hướng cho sự vận động và
phát triển của toàn bộ hoạt động giáo dục.
Nội dung giáo dục là hệ thống những kinh nghiệm xã hội được chọn lọc trong kho tảng kinh nghiệm của nhân loại,
tạo nên nội dung hoạt động thống nhất cho nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm đạt được mục đích giáo dục
đã định.
Hình thức, phương pháp, phương tiện giáo dục là cách thức, phương tiện, công cụ hoạt động của nhà giáo dục và
người được giáo dục nhằm thực hiện những nội dung giáo dục và đạt tới mục đích giáo dục đã định.
Kết quả giáo dục là kết quả tổng hợp của toàn bộ hoạt động giáo dục nhưng thể hiện tập trung nhất ở mức độ phát
triển nhân cách của người được giáo dục sau mỗi hoạt động giáo dục nhất định.
Hoạt động giáo dục diễn ra trong môi trường, điều kiện giáo dục bên ngoài (môi trường xã hội), môi trường, điều
kiện giáo dục bên trong (môi trưởng nhà trưởng, gia đình).
Những thành tố của hoạt động giáo dục có mối thống nhất, tác động biện chứng với nhau, đồng thời, những thành
tố này còn có mối quan hệ biện chứng với môi trường quan hệ bên ngoài và môi trường bên trong. Khi một thành
tố thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các thành tố khác.
4. Phân tích bản chất, đặc điểm của hoạt động giáo dục và rút ra những kết luận sư phạm cần thiết.
Hoạt động giáo dục ở đây được hiểu là hoạt động giáo dục tổng thể, là sự thông nhất biện chứng giữa hoạt động chủ
đạo của nhà giáo dục (giáo viên) và hoạt động tự giác, tích cực tự giáo dục của học sinh. Hoạt động giáo dục là hoạt
động tương tác, biện chứng, thống nhất giữa hoạt động chủ đạo của nhà giáo dục và hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động của học sinh nhằm kinh thành và phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực học sinh phù hợp với mục tiêu giáo dục
và yêu cầu của xã hội.
Bản chất chung của giáo dục là quá trình hình thành bản chất người, quá trình xã hội hóa con người – quá trình tổ chức
để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã hội, chuyển hóa những yêu cầu khách quan của xã hội thành yêu
cầu chủ quan của cá nhân. Hoạt động giáo dục là hoạt động có mục đích hình thành và phát triển nhân cách con người
do nhà giáo dục tổ chức. Bản chất của hoạt động giáo dục là hoạt động trong đó, nhà giáo dục tổ chức khoa học các
hoạt động học tập, rèn luyện, giao tiếp, các hoạt động xã hội – thực tiễn phong phú, đa dạng... nhằm định hướng, thúc
đẩy học sinh chuyển hóa những kinh nghiệm, giá trị, chuẩn mực xã hội thành ý thức, thái độ, phẩm chất, năng lực thực
tiễn của học sinh. Hoạt động giáo dục về bản chất là quá trình tác động liên tục, có mục đích, có tổ chức, có sự chọn
lựa về nội dung và phương pháp giáo dục, phương pháp đánh giá nhằm hình thành và phát triển ở học sinh những
phẩm chất, năng lực học sinh. Hoạt động giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt động học tập, rèn luyện
và các mối quan hệ giao lưu đa dạng, phong phú cho học sinh với vai trò chủ đạo của giáo viên – nhà giáo dục; học
sinh là chủ thể hoạt động, tích cực. Hoạt động giáo dục là sự thống nhất biện chứng giữa tác động sư phạm của nhà
giáo dục (trong nhà trường – gia đình – xã hội) và hoạt động tự giác, tích cực, chủ động của học sinh – người được giáo
dục.
Hoạt động giáo dục là hoạt động có tính hai mặt: Giáo viên – nhà giáo dục là chủ thể đóng vai trò chủ đạo, học sinh
vừa là đối tượng vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục, tiếp nhận và hưởng ứng tích cực những tác động của nhà giáo
dục đồng thời tự cải biên, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện những năng lực, phẩm chất nhân cách cá nhân. Sự kết hợp vai
trò chủ đạo của giáo viên — nhà giáo dục và vai trò chủ thể của học sinh trong hoạt động giáo dục đã tạo nên tính
thống nhất biện chung của hoạt động giáo dục.
Hoạt động giáo dục học sinh có các đặc điểm như có tính mục đích; có tính phức hợp lâu dài và liên tục; có tính cá
biệt; hoạt động giáo dục tổng thể là sự thống nhất của hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục, trải nghiệm, hoạt động
tự giáo dục học sinh.
Hoạt động giáo dục học sinh có tính mục đích: nhằm hình thành và phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực học
sinh phù hợp với mục tiêu giáo dục và yêu cầu của xã hội. Mỗi tác động của lực lượng giáo dục như giáo viên, cha
mẹ ... đến học sinh đều hướng tới mục đích giáo dục. Mục đích giáo dục là mô hình nhân cách cần hình thành cho học
sinh, thể hiện những yêu cầu cần đạt của học sinh về phẩm chất, năng lực phù hợp mỗi giai đoạn phát triển nhân cách
học sinh theo từng cấp học. Ở mỗi quốc gia khác nhau, ở mỗi thời kì khác nhau, ở mỗi cấp học khác nhau có thể có
mục đích giáo dục, mục tiêu giáo dục khác nhau. Nhà giáo dục quân triệt mục đích, mục tiêu giáo dục để xác định cụ
thể mục tiêu, yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực của học sinh cho các hoạt động giáo dục cụ thể.
Ví dụ như ở cấp giáo dục tiểu học là giúp tất cả học sinh biết đọc, biết viết, và biết tính toán với những con số ở mức
độ căn bản, cũng như thiết lập những hiểu biết căn bản về khoa học, toán, địa lý, lịch sử, và các môn khoa học xã hội
khác. Ở cấp Trung học sơ sở thì nhằm củng cố và phát triển kết quả của giáo dục tiểu học; bảo đảm cho học sinh có học
vấn phổ thông nền tảng, hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông
hoặc chương trình giáo dục nghề nghiệp. Ở cấp THPT giáo dục phát triển phẩm chất và năng lực, theo phương thức
dạy những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại, kết hợp hài hòa giữa đức, trí, thể, mỹ và chú trọng thực hành, để học
sinh biết vận dụng những điều đã học vào thực tế.
Hoạt động giáo dục học sinh có tính phức hợp, lâu dài và liên tục. Tính phức hợp nghĩa là tổng hợp sự phức tạp.
Học sinh là đối tượng của hoạt động giáo dục luôn chịu ảnh hưởng và sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau từ nhà
trường, gia đình và xã hội. Ở nhà trường có sự tác động của giáo viên, nhà giáo dục, bạn bè,... trong gia đình có tác
động của ông bà, cha, mẹ, anh em, của nếp sống, điều kiện kinh tế, chính trị của gia đình...; trong xã hội có ảnh hưởng
của cộng đồng và các tổ chức xã hội, của nhóm bạn và các phương tiện thông tin đại chúng, phim ảnh, sách báo,...
Những tác động này có thể kết hợp với nhau, tạo thành những ảnh hưởng tự giác, tích cực, thống nhất, làm cho hiệu
quả của hoạt động giáo dục tăng lên, song chúng cũng có thể tác động tiêu cực, tự phát, mâu thuẫn, tạo ra những “lực
nhiễu” gây nhiều khó khăn cho nhà giáo dục, thậm chí có thể “vô hiệu hoá” các tác động có mục đích của nhà giáo dục.
Ví dụ như gia đình và nhà trường hỗ trợ, quan tâm tới học sinh, không có sự mâu thuận giữa học sinh với các mối quan
hệ, hoàn cảnh xã hội thì học sinh đang ở trong môi trường giáo dục tốt giúp học sinh phát triển toàn diện. Nếu cả ba có
sự đối lập lẫn nhau thì mọi sự giáo dục từ nhà trường, gia đình đối với học sinh sẽ không đạt được kết quả giáo dục tốt
khiến cho học sinh bị vùi lấp năng lực phát triển.
Vì vậy, cần thống nhất yêu cầu và các tác động giáo dục của các lực lượng giáo dục theo hướng tích cực. Sự hình thành
và phát triển nhân cách là một quá trình lâu dài, kể từ khi con người chào đời cho đến cuối cuộc đời. Kết quả của giáo
dục không chỉ được đánh giá ở việc học sinh nhận thức đến mức độ nào hệ thống các yêu cầu của các chuẩn mực xã
hội mà còn thể hiện ở tình cảm, niềm tin, những kĩ năng, hành vi, năng lực thực hiện tương ứng. Hoạt động giáo dục là
quá trình hình thành và phát triển biện chứng nhân cách của học sinh. Trong quá trình đó, phải giải quyết các mâu
thuẫn giữa cái mới và cải cũ, cái tiến bộ và lạc hậu,... Vì vậy, nếu không tiếp cận đúng đắn sự lâu dài và liên tục của
hoạt động giáo dục, của quá trình phát triển nhân cách học sinh thì kết quả sẽ khó đạt được. Nếu trong một lúc hay một
giai đoạn nào đó không có sự quan tâm chỉ bảo của nhà giáo dục, học sinh thiếu ý chí, nghị lực thì kết quả của hoạt
động giáo dục thu được sẽ có thể mất đi, thậm chí học sinh có thể tiêm nhiễm các thói hư, tật xấu, dẫn đến tình trạng
“khó giáo dục”. Trong quá trình giáo dục có thể có một số phẩm chất, năng lực hay một số học sinh cần được giáo dục
lại. Quá trình giáo dục lại là một quá trình khó khăn, vừa xoá bỏ cái cũ, lại vừa hình thành cái mới phù hợp hơn, phải
lựa chọn những phương pháp giáo dục đặc thù, thích hợp.
Ví dụ: việc đi học đúng giờ, dậy sớm tập thể dục rèn luyện sức khỏe là những việc cần một quá trình lâu dài mới có thể
đạt được.
Hoạt động giáo dục học sinh có tính cá biệt: Ngoài đặc điểm chung của lứa tuổi, mỗi học sinh đều có những đặc
điểm tâm – sinh lí riêng, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, có trình độ nhận thức, vốn sống, vốn kinh nghiệm nhất định, có
những niềm tin và thói quen riêng. Vì vậy, trong hoạt động giáo dục, học sinh sẽ phản ánh rất riêng với những tác động
từ bên ngoài có học sinh thờ ơ dửng dưng, có học sinh phản ứng mạnh mẽ, quyết liệt, có học sinh tiếp thu sâu sắc, có
em lại tiếp thu nông cạn, hời hợt.... Do đó, bên cạnh những tác động phù hợp với nhiều học sinh, nhà giáo dục cần có
những tác động riêng phù hợp với từng đối tượng trong từng tình huống cụ thể, tuyệt đối tránh cách dạy học, giáo dục
rập khuôn, máy móc, hình thức. Nhà giáo dục là chủ thể tác động, tổ chức và điều khiển các tác động có định hưởng
đến học sinh; học sinh vừa là đối tượng tác động của giáo viên, lại vừa là chủ thể tự giáo dục. Vì vậy, hoạt động giáo
dục của giáo viên chỉ có thể đạt được hiệu quả cao nếu như hoạt động này kích thích và thống nhất với hoạt động tự
giáo dục của học sinh. Vai trò chủ thể và hoạt động tự giáo dục của học sinh đạt hiệu quả cao khi có sự định hướng của
giáo viên. Ví dụ, trong quá trình giảng bài trên lớp, trong lớp sẽ có những em học sinh tiếp thu nhanh, có em học sinh
tiếp thu chậm, có em tập trung, có em lại không chú ý vào bài học vì vậy người giáo viên cần phải tổ chức các hoạt
động dạy học vừa có thể giúp của tất cả học sinh trong lớp hứng thú hơn với môn học, các em học sinh có thành tích tốt
tiếp tục phát huy khả năng của bản thân, các em học sinh còn chậm hơn so với các bạn khác có thể nắm và hiểu bài trên
lớp, tạo được động lực để các em có thể tự tìm hiểu bài, tự làm bài tập ở nhà để có thể tiến bộ hơn.
Hoạt động giáo dục bao giờ cũng diễn ra trong những tình huống nhất định, những mâu thuẫn cụ thể và giải quyết
những xung đột cụ thể giữa yêu cầu khách quan và phẩm chất, năng lực chủ quan, giữa lí trí, tình cảm và hành vi của
học sinh. Vì vậy, ngoài việc chú ý đến từng cá nhân, giáo viên nên chú ý đến những tình huống, hoàn cảnh, môi trường
dạy học, giáo dục cụ thể.
Hoạt động giáo dục tổng thể là sự thống nhất của hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục, trải nghiệm, hoạt
động tự giáo dục của học sinh: Hoạt động giáo dục tổng thể là một hệ thống lớn (vĩ mô) bao gồm những hệ thống nhỏ
(vi mô) là những hoạt động giáo dục bộ phận: hoạt động dạy học; hoạt động giáo dục, trải nghiệm trong nhà trưởng và
hoạt động tự giáo dục của học sinh. Những hoạt động bộ phận này thống nhất với nhau, có mối quan hệ mật thiết, hỗ
trợ nhau và có thể thâm nhập vào nhau, nhưng chúng không phải đồng nhất mà có tính độc lập tương đối.
Hoạt động dạy học ( giáo dục trí tuệ) với chức năng trội là tổ chức hướng dẫn học sinh lĩnh hội hệ thống tri thức khoa
học, nên luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển năng lực chuyên môn đặc thù trong các môn học, góp phần phát triển những
phẩm chất và năng lực chung của nhân cách.
Hoạt động giáo dục trải nghiệm, hưởng nghiệp củng với các hoạt động giáo dục khác với chức năng trội là tổ chức,
hướng dẫn học sinh lĩnh hội hệ thống giá trị chuẩn mực xã hội, rèn luyện kĩ năng sống, phát triển năng lực tâm lí - xã
hội, góp phần phát triển những phẩm chất và năng lực chung của nhân cách.
Hai hoạt động này gắn bó chặt chẽ với nhau và có tác động biện chứng với hoạt động tự giáo dục của học sinh nhằm
thực hiện mục đích giáo dục phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực học sinh. Hoạt động giáo dục tổng thể và các
hoạt động giáo dục bộ phận ở trường phổ thông là một hệ thống, một chỉnh thể thống nhất các thành tố như chủ thể và
đối tượng giáo dục, mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương thức tổ chức giáo dục, kết quả giáo dục, môi trường
và điều kiện giáo dục.
KLSP: Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục không được nôn nóng, vội vàng, đốt cháy giai đoạn, cần phải có đức
tính kiên trì, bền bỉ, có tính tự kiềm chế cao. giáo dục phải phù hợp với từng cá nhân cụ thể, từng điều kiện hoàn cảnh
cụ thể mới có hiệu quả nên trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục phải thực sự thương yêu học sinh, quan tâm sâu sát
học sinh để hiểu tường tận về các em, có vậy mới có thể có cách tác động phù hợp với từng đối tượng.
5. Trình bày nội dung các nguyên tắc của hoạt động giáo dục và cho ví dụ vận dụng nguyên tắc trong hoạt
động dạy học và giáo dục cụ thể.
Nguyên tắc giáo dục là những luận điểm có tính quy luật, có vai trò định hướng cho việc lựa chọn, vận dụng nội dung,
phương thức tổ chức giáo dục học sinh, đảm bảo cho việc thực hiện tốt những nhiệm vụ giáo dục theo mục tiêu xác
định.
Nguyên tắc 1: Đảm bảo tính mục đích của hoạt động giáo dục
Đảm bảo tính nhất quán của mục đích, mục tiêu giáo dục theo các cấp độ rộng – hẹp trong các hoạt động giáo dục.
Mục đích giáo dục phổ thông nhằm “phát triển toàn diện cho học sinh về mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kĩ
năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao
động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Từ mục đích giáo dục tổng quát, cần xác định mục tiêu của chương trình giáo dục và thực hiện mục tiêu giáo dục cấp
học. Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học môn học và hoạt động giáo dục học sinh, giáo viên thiết kế mục
tiêu bào học, chủ đề, từng hoạt động giáo dục cụ thể phù hợp với các mức độ của mục tiêu chung.
Xác định mục tiêu của hoạt động học tập hay hoạt động giáo dục cho phù hợp với đối tượng học sinh là công việc rất
quan trọng của giáo viên - nhà giáo dục trực tiếp giáo dục học sinh. Mục đích, mục tiêu giáo dục là yếu tố định hướng
Cho toàn bộ hoạt động giáo dục đồng thời là cơ sở kiểm tra, Đánh giá kết quả hoạt động giáo dục. Việc xác định mục
đích, mục tiêu giáo dục phải đảm bảo "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt các cấp độ mục tiêu ở trên, cũng như phải linh hoạt với
từng đối tượng học sinh và hoàn cảnh dạy học, giáo dục cụ thể
Nguyên tắc 2: Đảm bảo hoạt động giáo dục gắn với thực tiễn đời sống, phối hợp giáo dục nhà trường với gia
đình và xã hội
Luật giáo dục (2019) quy định nguyên tắc giáo dục như sau: "hoạt động giáo dục được thực hiện theo nguyên lý học đi
đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội"
Học đi đôi với hành: Tư tưởng giáo dục đi đôi với hành chỉ đạo hoạt động giáo dục trong nhà trường vừa phải thực
hiện nhiệm vụ hình thành và phát triển tri thức khoa học, vừa đặc biệt chú trọng đến việc luyện tập, thực hành, vận
dụng những gì đã học vào thực tế. Những lý luận khoa học được học trong nhà trường phải được thực hành và áp dụng
để hình thành những kỹ năng, hành vi và thói quen hành vi đáp ứng nhu cầu cuộc sống.
Lý luận gắn liền với thực tiễn: Lý luận và thực tiễn là hai phạm trù có mối quan hệ biện chứng, thống nhất. Thực tiễn
không có lí luận là thực tiễn mù quáng, lí luận không có liên hệ với thực tiễn là lí luận suông. Hoạt động giáo dục trong
nhà trờng suy cho cùng cũng nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ có phẩm chất và năng lực để hoạt động và cải
tạo thực tiễn nhằm phát triển xã hội. Nguyên lí này đòi hỏi trong hoạt động giáo dục, nhà giáo dục phải xuât phát từ
thực tiên, khai thác, sử dụng thực tiễn làm minh chứng, minh họa, lí giải lí luận, đặc biệt là phải cải tạo, xây dựng môi
trường thực tiến thành môi trường giáo dục học sinh.
Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội: Nhà trường - gia đình - xã hội là ba môi trường
giáo dục nọc sinh, mỗi môi trường giáo dục đều có những ưu thế riêng. Phối hợp ba môi trường trong giáo dục tạo nên
sự thống nhất trong tác động của các lực lượng giáo dục vào đối tượng giáo dục là học sinh để tăng sức mạnh giáo dục.
Nguyên lý này yêu cầu nhà trường phải đóng vai trò chủ đạo trong kết hợp với gia đình và xã hội để cùng thực hiện
mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục. Đây là những lực lượng kết hợp chặt chẽ với nhà trường và gia đình để cùng tạo nên môi
trường thống nhất về mục tiêu giáo dục, phát triển nhân cách học sinh.
Nhà giáo dục nên phối hợp và phát huy vai trò các tổ chức Đoàn, Đội, thu hút sự hỗ trợ của các lực lượng giáo dục
ngoài nhà trường trong các hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. Nguyên tắc này cũng
định hướng hoạt động giáo dục không tắt rồi với thực tiễn cuộc sống, xã hội của chính học sinh, gia đình, cộng đồng,
đất nước.
Nguyên tắc 3: Đảm bảo giáo dục trong tập thể và bằng tập thể
Xuất phát từ lý luận, tập thể của Các Mác, tập thể là một cộng đồng xã hội đặc biệt, là hình thái tổ chức xã hội tập hợp
những người có cùng mục đích, có hoạt động chung, có tổ chức chặt chẽ và hệ thống quan hệ phụ thuộc giữa các thành
viên. Tập thể học sinh là một hình thái tổ chức cộng đồng độc đáo của học sinh, một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt
chẽ, có nguyên tắc hoạt động nhất định, có chức năng tổ chức, tập hợp, giáo dục học sinh nhằm hướng tới việc thực
hiện mục đích giáo dục.
Cần phải xây dựng, phát triển sức mạnh giáo dục của tập thể. Xây dựng truyền thống tốt, dư luận tập thể lành mạnh,
khuyến khích nhận thức, thái độ và hành vi đúng đắn, đồng thời ngăn chặn, lên án những hành vi sai trái làm ảnh
hưởng xấu đến lợi ích chung, đi ngược lại những chuẩn mực đã được thừa nhận
Nguyên tắc 4: Đảm bảo tôn trọng nhân cách kết hợp yêu cầu hợp lý đối với học sinh
Dựa trên tính 2 mặt của hoạt động giáo dục, tôn trọng nhân cách học sinh là tôn trọng tài năng, trí tuệ, phẩm giá, yêu
thương, quý trọng con người, không bỏ qua, làm ngơ trước những thói hư tật xấu của học sinh, không xúc phạm thân
thể, nhân phẩm của học sinh, luôn tin tưởng vào sự tiến bộ, khả năng của học sinh . Trong giáo dục, càng tôn trọng
nhân cách học sinh bao nhiêu, càng phải đưa ra những yêu cầu hợp lý đối với họ bấy nhiêu. Yêu cầu hợp lý là đáp ứng
yêu cầu của mục tiêu giáo dục; vừa sức đối với học sinh; có tác dụng kích thích học sinh tự giác, tích cực, chủ động
thực hiện; có tính khả thi; có khả năng mang lại hiệu quả mong muốn.
Nhà giáo dục phải là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, phải có nghệ thuật sư phạm; cần tránh tình trạng thô bạo,
khắt khe, thiếu tin tưởng học sinh, đồng thời cũng không dễ dãi, nuông chiều quá mức.
Nguyên tắc 5: Đảm bảo hoạt động giáo dục phù hợp đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm cá nhân học sinh
Hiệu quả của hoạt động giáo dục phụ thuộc khá nhiều vào việc nhà giáo dục hiểu biết đầy đủ các đặc điểm lứa tuổi và
đặc điểm cá nhân học sinh với tư cách vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục. Hơn nữa, trong hoạt
động giáo dục luôn luôn có sự phân hóa trình độ phát triển nhân cách ở các đối tượng giáo dục theo các lứa tuổi khác
nhau, thậm chí ngay trong một lứa tuổi. Vì vậy, cần phải có những tác động sao cho phù hợp với trình độ phát triển của
học sinh.
Nhà giáo dục cần nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và đặc điểm cá biệt của học sinh,
từ đó lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức giáo dục cho phù hợp; Đảm bảo phối hợp mật thiết giữa tính vừa
sức chung và tính vừa sức riêng, giữa tính đại trà và tính cá biệt
Nguyên tắc 6: Đảm bảo tính hệ thống, tính liên tục trong hoạt động giáo dục
Thực tế cho thấy, hiệu quả của hoạt động giáo dục luôn đi đôi với một kế hoạch giáo dục tổng thể, thống nhất, nâng
dần các yêu cầu về phẩm chất và năng lực (theo vòng xoáy ốc - đồng tâm), Được tiến hành một cách liên tục, thường
xuyên về mặt thời gian, nhất quán về mặt không gian (ở nhà trường- gia đình - xã hội).
Mỗi nhà giáo dục - giáo viên cần nắm vững hệ thống các nguyên tắc giáo dục để quán triệt chúng với quan điểm tổng
hợp, toàn vẹn.
Ví dụ: Trong một lớp học xuất hiện một nhóm học sinh thường xuyên bắt nạt một bạn học sinh khác trong lớp
Vận dụng nguyên tắc đảm bảo tôn trọng nhân cách kết hợp yêu cầu hợp lý đối với học sinh: giáo viên không làm ngơ
trước hành động sai trái của học sinh, tìm hiểu lí do vì sao các em bắt nạt bạn, giải thích cho các em hiểu việc bắt nạt
bạn là sai, nếu có mâu thuẫn xích mích gì thì nên bình tĩnh giải quyết hoặc nhờ cô giải quyết, yêu cầu học sinh đến xin
lỗi bạn bị bắt nạt và cam kết không tái phạm hành vi sai trái đó. An ủi, động viên học sinh bị bắt nạt, nếu lỗi đến từ cả 2
phía thì cần giúp các em hòa giải. Trong quá trình thực hiện nguyên tắc, giáo viên cần tránh tình trạng thô bạo, khắt
khe, thiếu tin tưởng học sinh, đồng thời cũng không dễ dãi, nuông chiều quá mức, cần phải nhìn nhận vấn đề từ 2 phía
để đưa ra cách xử lý phù hợp nhất.
Vận dụng nguyên tắc đảm bảo hoạt động giáo dục gắn với thực tiễn đời sống, phối hợp giáo dục nhà trường với gia
đình và xã hội: phối hợp với gia đình để giáo dục các em, cùng nhau ngăn chặn hành vi bắt nạt tái diễn, yêu cầu phụ
huynh cần sát sao hơn trong việc định hướng cho học sinh làm một công dân tốt và không áp dụng hình thức giáo dục
bạo lực với học sinh hay quá dễ dãi trong việc giáo dục học sinh.
Vận dụng nguyên tắc đảm bảo hoạt động giáo dục phù hợp đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm cá nhân học sinh: cần nghiên
cứu, tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và đặc điểm cá biệt của học sinh, tìm hiểu rõ nguyên nhân
sự việc từ đó đưa ra cách xử lý phụ hợp và đồng thời định hướng cho học sinh con đường đúng đắn.
6. Vận dụng những cơ sở lí luận về hoạt động giáo dục để xử lí các tình huống giáo dục cụ thể.
Tình huống là những sự kiện, vụ việc, hoàn cảnh có vấn đề bức xúc nãy sinh trong hoạt động và quan hệ giữa con
người với tự nhiên, xã hội và giữa con người với nhau, buộc con người phải giải quyết nhằm đưa ra kế hoạch đạo
cụ như quan hệ vào ổn định và phát triển
Quy trình giải quyết tình huống giáo dục bao gồm các bước:
Phân tích dữ kiện đã cho trong tình huống và xác định dữ kiện quan trọng, chủ yếu: yêu cầu người học nghiên cứu
kĩ tình huống, phân tích các dữ kiện đã cho trong tình huống, xác định dữ kiện nào là quan trọng, chủ yếu. Các dữ
kiên đó đề cập đến đối tượng giáo dục, chủ thê giáo dục nào, những thuộc tính, phâm chất cơ bản của họ, những
hiện tượng, sự kiện, hành động và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng, hoàn cảnh, thời gian, không gian, địa điểm
diễn ra tình huống...
Biểu đạt vấn đề cần giải quyết: Thực chất của bước này là việc người học ý thức rõ nhiệm vụ cần giải quyết, chỉ ra vấn
đề đã giải quyết đến đâu, cần phải tiếp tục giải quyết như thế nào cho thỏa đáng, phát biểu vấn đề cần giải quyết.
Nêu giả thuyết về các phương án giải quyết và lựa chọn phương án tối ưu: Thực chất của bước này là nêu ra một cách
ngắn gọn, rõ ràng, chính xác các phương án (cách thức) giải quyết có thế có (kê cả những cách giải quyết không hay,
chưa đúng), đồng thời chỉ ra phương án (cách thức) giải quyết hợp lí, tối ưu nhất.
Chứng minh giả thuyết: Bước này đòi hỏi sự vận dụng toàn bộ những tri thức khoa học về tâm lí học, giáo dục học,
những tri thức khoa học liên quan, những kĩ năng, kinh nghiệm đã tích lũy trong quá trình học tập và cuộc sống... để
phân tích, chứng minh, lí giải cơ sở khoa học của phương án (cách thức) giải quyết hợp lí, tối ưu nhất.
Rút ra kết luận sự phạm: Nêu những kết luận sư phạm, bài học kinh nghiệm cho bản thân trong công tác giáo dục học
sinh.
Ví dụ: Trong một lớp học xuất hiện một nhóm học sinh thường xuyên bắt nạt một bạn học sinh khác trong lớp chỉ vì
bạn học sinh đó học tốt nhưng không chịu cho nhóm các bạn học sinh chép bài kiểm tra, bạn bị bắt nạt không dám nói
với ai vì sợ bị đánh.
Phân tích dữ kiện đã cho trong tình huống và xác định dữ kiện quan trọng, chủ yếu: bạn bị bắt nạt sẽ không dám nói ra
vì sợ bị nhóm bạn đánh vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải luôn theo sát tình hình của lớp để kịp thời phát hiện, cần
phải tìm hiểu kỹ tình huống, lý do nhóm học sinh bắt nạt bạn có thể hỏi trực tiếp 2 bên hoặc thông qua các bạn học sinh
khác trong lớp. Từ đó xác định được các dữ kiện quan trọng về nguyên nhân của sự việc.
Biểu đạt vấn đề cần giải quyết: người giáo viên cần phải ý thức rõ vấn đề cần giải quyết là chấm dứt hoàn toàn tình
trạng bắt nạt của nhóm học sinh với bạn cùng lớp, không chỉ đối với nhóm bạn mà cần đảm bảo rằng không ai trong
lớp sẽ lặp lại tình trạng trên.
Nêu giả thuyết về các phương án giải quyết và lựa chọn phương án tối ưu:
Cách giải quyết 1: Phê bình nhóm học sinh trước lớp, tùy theo mức độ nghiêm trọng của sự việc, có thể mời
phụ huynh lên giải quyết hoặc hạ hạnh kiểm. → Cách này có tính răn đe cao tuy nhiên có thể khiến nhóm học
sinh nảy sinh ý định chống đối với giáo viên.
Cách giải quyết 2: Giáo viên nói chuyện riêng với nhóm học sinh, phân tích cho các em hiểu hành vi bắt nạt và
yêu cầu bạn cho mình chép bài trong giờ kiểm tra là sai trái, nếu muốn có thể nhờ bạn hướng dẫn lại bài tập
trước giờ kiểm tra, yêu cầu các em xin lỗi bạn. An ủi học sinh bị bắt nạt, nếu có thể thì nhờ em giúp đỡ các bạn
trong học tập. Phối hợp với gia đình để giáo dục các em, cùng nhau ngăn chặn hành vi bắt nạt tái diễn, yêu cầu
phụ huynh cần sát sao hơn trong việc định hướng cho học sinh làm một công dân tốt và không áp dụng hình
thức giáo dục bạo lực với học sinh hay quá dễ dãi trong việc giáo dục học sinh. Phê bình nhóm học sinh trước
lớp, cần tránh dùng từ ngữ nặng nề nhưng vẫn phải đảm bảo được sự răn đe, khiến các em phục và hiểu mình
sai, nhắc nhở nếu các em còn tái phạm sẽ hạ hạnh kiểm, từ đó yêu cầu các bạn trong lớp đoàn kết lại và không
để tình trạng lặp lại với bất kì bạn nào trong lớp → cách giải quyết khả thi hơn, sẽ giúp học sinh điều chỉnh lại
ý thức, hành vi của mình để tiến bộ.
Chứng minh giả thuyết: áp dụng cách 2 để giải quyết vấn đề, trong quá trình thực hiện cần giữ được bình tĩnh, tránh
tình trạng thô bạo, khắt khe, thiếu tin tưởng học sinh, đồng thời cũng không dễ dãi, mềm lòng, nuông chiều quá mức.
Rút ra kết luận sự phạm: qua sự việc này, giáo viên cần rút ra những kinh nghiệm trong việc xử lý những học sinh có
hành vi bạo lực học đường, cần theo dõi sát sao các em học sinh để ngăn chặn kịp thời hành vi tương tự, tin tưởng học
sinh có thể sửa đổi nhưng cũng cần theo dõi quá trình thay đổi của học sinh để đảm bảo cách giải quyết của mình là
đúng hoặc nếu có sai sót thì cần điều chỉnh kịp thời để tránh học sinh tái diễn hành vi trên. Trong quá trình xử lý thì
cần đảm bảo các nguyên tắc của hoạt động giáo dục, tránh làm tổn thương tâm lý của bất kỳ em học sinh nào.
7. Phân tích các phương pháp tìm hiểu học sinh lớp chủ nhiệm và minh họa bằng một tình huống giáo dục
giáo viên chủ nhiệm đã thực hiện thành công (hoặc chưa thành công).
Để thực hiện được chức năng quản lí - giáo dục toàn diện bọc sinh, giáo viên chủ nhiệm phải tim hiểu, nắm vững học
sinh lớp chủ nhiệm, từ đó lựa chọn những biện pháp tác động phù hợp, biến quá trình giáo dục của giáo viên thành quả
trình tự giáo dục của học sinh với tư cách học sinh là chủ thể mới đánh giá đúng đắn và chính xác chất lượng và hiệu
quả giáo dục. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giảo dục vui là nội dung, vừa là điều kiện để làm tốt công tác giáo dục.
Tìm hiểu tập thể học sinh: Việc nghiên cứu, tìm hiểu tập thể học sinh giúp giáo viên chủ nhiệm nắm được tình hình
mọi mặt của lớp, từ đó có được những căn cứ khách quan để xây dựng kế hoạch chủ nhiệm với những mục tiêu, nội
dụng hàn giải pháp phù hợp nhất. Tìm hiểu tập thể học sinh gôm tim hiểu trình độ phát triển, truyền thống của tập thế,
bầu không khí, các mỗi quan hệ trong tập thể, sự phân hóa cắc nhóm tự phát, các thù lĩnh tự phát, một số vấn để về xu
hướng chung cua tập thể, mặt mạnh, mặt yếu...
Tìm hiểu cá nhân học sinh: Giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về tâm sinh lí, tính
cách, năng lực, sức khoe, trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, xu hướng, năng khiếu, tư tưởng, phẩm chất đạo đức của học
sinh, về hoàn cảnh sống, về mối quan hệ với tập thể, bè bạn và những người xung quanh. Qua đó, thấy được mặt mạnh,
mặt yếu của từng học sinh, của tập thể lớp để phát huy và khắc phục. Trên cơ sở đó, phát hiện những yếu tố mới,
những nhân tố tích cực làm nòng cốt cho phong trào chung.
Cách thức tìm hiểu học sinh: Nghiên cứu hồ sơ học sinh (lí lịch, học bạ, số liên lạc,...); Trao đổi với học sinh, bạn bè,
giáo viên chủ nhiệm năm học trước, giáo viên bộ môn, cha mẹ học sinh và các lực lượng giáo dục khác về học sinh
thông qua phương pháp đàm thoại; Quan sát có chủ định hoặc ngẫu nhiên học sinh thông qua hoạt động hoặc thông qua
các tình huống tự nhiên hay nhân tạo, nơi mà học sinh có thể bộc lộ thái độ, tình cảm, trình độ, năng lực của bản thân
một cách chân thật nhất bằng phương pháp quan sát; Sử dụng phương pháp nghiên cứu để nghiên cứu sản phẩm: hoạt
động của học sinh: bài làm, báo tường, nhật kí, các sản phẩm lao động, học tập...; Thu thập thông tin bằng phiếu hỏi,
phiếu khảo sát...
Thông qua các phương pháp nghiên cứu, giáo viên cần thu thập được thông tin chính xác, đồng thời phân tích được
nguyên nhân của các hiện trạng để tìm biện pháp giáo dục.
Tình huống giáo dục: Vào năm học mới, cô giáo A được phân công chủ nhiệm lớp 11B, lớp mà trước đây cô chưa từng
tiếp xúc vì vậy cô cần lập ra kế hoạch để tìm hiểu rõ về lớp từ đó lập ra kế hoạch chủ nhiệm phù hợp.
- Cô A cần liên hệ với giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn năm học trước để có thể nắm rõ tình hình sơ
lược của lớp 11B về mặt học tập, phong trào; đặc biệt, cô A cần trao đổi kĩ hơn với giáo viên chủ nhiệm năm
học trước về những học sinh đặc biệt trong lớp về học tập, phong trào, kỉ luật để hiểu hơn về học sinh trước khi
gặp lớp buổi đầu tiên.
- Thông qua bảng điểm, học bạ của các học sinh, cần nắm rõ tình hình học tập của lớp, bạn nào học tốt môn nào,
chưa tốt môn nào.
- Buổi gặp mặt đầu tiên với lớp, cô A sẽ yêu cầu các bạn học sinh giới thiệu về bản thân 1 lần nữa và điền sơ yếu
lí lịch để có thể hiểu hơn về tính cách, năng lực, sức khoe, trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, xu hướng, năng
khiếu, tư tưởng, phẩm chất đạo đức của học sinh, về hoàn cảnh sống, về mối quan hệ với tập thể, bè bạn và
những người xung quanh của từng bạn.
→ Thông qua lời của các giáo viên phụ trách lớp năm học trước, lời giới thiệu của các em, sơ yếu lí lịch, học bạ,… cô
A phân tích được nguyên nhân của các hiện trạng để tìm biện pháp giáo dục. Cần phân tích, tổng hợp, so sánh,
phân loại để rút ra kết luận chính xác, khách quan, tránh hời hợt chủ quan, thiên vị, cảm tính trong đánh giá học
sinh. Từ đó lập ra kế hoạch theo dõi, tác động phù hợp đối với từng học sinh.
8. Phân tích các phương pháp xây dựng và phát triển tập thể học sinh lớp chủ nhiệm và minh họa bằng một ví dụ
trong thực tiễn giáo dục giáo viên chủ nhiệm đã thực hiện thành công (hoặc chưa thành công).
Tập thể học sinh là một hình thái tổ chức cộng đồng độc đáo của học sinh ,một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ , có
nguyên tắc hoạt động nhất định, có chức năng tổ chức, tập hợp, giáo dục học sinh nhằm hướng tới việc thực hiện mục
đích giáo dục
Tổ chức mạng lưới tự quản: GVCN cần phân lựa chọn và phân công đội ngũ cán bộ lớp dựa trên cơ sở tham khảo kết
quả học tập, rèn luyện trước đó, qua trao đổi, nhận thông tin từ giáo viên chủ nhiệm của các năm học trước hoặc thông
qua bầu chọn của học sinh trong lớp. Khuyến khích học sinh tự nhận nhiệm vụ là một cách kích thích nhu cầu bộc lộ và
khẳng định mình, từ đó tăng cường tinh thần trách nhiệm, sự gắn bó, khả năng sáng tạo của học sinh với công việc tự
lựa chọn và nhận lãnh. GVCN cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí trong đội ngũ cán bộ lớp nhằm đảm
bảo cho các em nắm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, tránh tình trạng âm đồm, giẫm chân nhau hoặc
né tránh công việc. GVCN có vai trò hướng dẫn cụ thể phương pháp làm việc, kĩ năng cơ bản, thực hiện đúng vai trò cố
vấn, mạnh dạn giao việc, tin tưởng và tạo mọi điều kiện để cán bộ lớp phát huy vai trò lãnh đạo, chủ động trong các hoạt
động của lớp. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, giúp khắc phục khó khăn, động viên kịp thời những cố gắng của cán bộ
lớp. Xây dựng, củng cố và bảo vệ uy tín của cán bộ lớp trước tập thể.
Đề ra các mục tiêu phát triển tập thể theo từng giai đoạn: bao gồm:
Mục tiêu ngăn hạn: là các mục tiêu đơn giản, thời gian thực hiện ngăn như một tuần, một tháng. Việc xây dựng
mục tiêu ngăn hạn phải xuất phát từ yêu cầu của tập thể và nhu cầu cá nhân, hoạt động của các nhóm, tập thể
như là những viễn cảnh gần có thể tạo ra trạng thái mong đợi đầy hứng thú. Dựa trên những xúc cảm cá nhân,
nhà giáo dục cần hướng học sinh đến loại thỏa mãn đòi hỏi phải làm việc mới đạt được, như: để có được buổi
biểu diễn văn nghệ trong tuần sau, học sinh phải tập luyện, qua việc tập luyện, học sinh có được cảm giác thỏa
mãn khi tập luyện thành công, cho ra đời những tiết mục vừa ý.
Mục tiêu dài hạn: là các mục tiêu khó khăn hơn, đòi hỏi tương đối nhiều thời gian, có tác dụng lôi cuốn sự quan
tâm chú ý của học sinh trong một thời gian tương đối dài, buộc các em phải tập trung chuẩn bị trong sự hưng
phấn chờ đợi. Ví dụ: Đầu tháng 12, giáo viên thông báo cho học sinh kế hoạch cắm trại dành cho toàn thể học
sinh của trường vào dịp cuối năm âm lịch hay mục tiêu thì tốt nghiệp, thi đại học...
→Giáo viên chủ nhiệm cụ thể hóa thành các yêu cầu cho học sinh thực hiện. Yêu cầu giáo dục đảm bảo phù hợp với
mục tiêu giáo dục chung của tập thể, đặc điểm, điều kiện, khả năng thực hiện của cá nhân hoặc tập thể học sinh, đạt
được sự thống nhất trong tập thể và yêu cầu có độ khó tăng dần một cách phù hợp. Khi đưa ra yêu cầu, giáo viên chủ
nhiệm cần phải có thái độ kiên quyết, tự tin, làm cho học sinh thấy được đó là yêu cầu thật sự cần thiết cho quá trình
rèn luyện của mình; Giải thích đầy đủ về ý nghĩa của yêu cầu và việc thực hiện chúng nhằm làm cho học sinh tự giác
chấp nhận yêu cầu; Phân tích, hướng dẫn cách thức thực hiện; Thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá
học sinh trong quá trình thực hiện yêu cầu và hỗ trợ khi cần thiết, không để cho học sinh nghĩ rằng giáo viên chỉ đặt ra
yêu cầu theo kiểu “chiêu lện đứt đoạn giữa chừng, làm giảm tác dụng của yêu cầu và việc thực hiện các yêu cầu khác
sau đó.
Giáo dục kỉ luật tích cực: Các tác động xây dựng tập thể học sinh vững mạnh sẽ vô hiệu nếu không có kỉ luật tập thể.
Ki luật tích cực không phải là sự cưỡng bức mà chính là kết của quá trình giáo dục ý thức ở học sinh, là kết quả của
những cố gắng tự giác, tích cực của tập thể. Giáo viên chủ nhiệm cần ý thức sâu sắc giá trị của kỉ luật tích cực, cương
quyết xác lập kỉ luật tích cực và giáo dục ý thức thực hiện ki luật cho học sinh. Cần làm cho học sinh hiểu được kỉ luật
là cần thiết cho tập thể, giúp cho tập thể đạt đến mục đích một cách tốt hơn và nhanh hơn. Trong tập thể, kỉ luật tập thể
phải được đặt trên quyền lợi cá nhân, tuân theo ki luật chính là thái độ văn minh. Tập thể có kỉ luật tích cực là môi
trường rèn luyện, phát triển tốt cho các cá nhân.
Giáo dục truyền thống tốt và dư luận tập thể lành mạnh: Hình thành cho học sinh ý thức giữ gìn, phát huy, phát
triển những mặt mạnh của lớp. Dư luận tập thể lành mạnh phản ánh những quan niệm, nhận định, đánh giá đúng đắn
của tập thể về các vấn đề có liên quan đến sự phát triển của tập thể và cá nhân học sinh, có tác dụng điều khiển và điều
chỉnh mạnh mẽ đối với ý thức, thái độ, hành vi của học sinh. Thái độ đánh giá của tập thể, các ý kiến ủng hộ hay phản
đối, chấp nhận hay phủ nhận, tôn vinh hay lên án của đa số các thành viên trong tập thể là công cụ quan trọng định
hướng và đánh giá hành vi của cá phản. Vì vậy, việc hình thành dư luận tập thể lãnh mạnh, tiến bộ là điều kiện quan
trọng để củng cố và phát triển tập thể, làm cho tập thể thật sự trở thành phương tiến giáo dục có hiệu quả.
Giáo viên chủ nhiệm thực hiện giáo dục truyền thống tốt hình thành dư luận lành mạnh bằng các biện pháp: Tìm
hiểu và năm vững đặc điểm, tình hình lớp và học sinh, xác định mặt mạnh và yếu của lớp; Tổ chức hoạt động, sinh hoạt
tập thể, đặc biệt là các hoạt động hội nghị, hội thảo, các buổi họp lớp, các diễn đàn tập thể (háo tường, tập san, bảng
thông tin...); Tổ chức hoạt động theo các chủ điểm giáo dục của trường lớp, giáo dục các giá trị và kĩ năng sống đúng
dẫn qua bài học và các hoạt động hằng ngày; Phát huy vai trò mạng lưới tự quản, tích cực; Qua tác động của nhà
trường; Phối hợp tốt với cha mẹ và các lực lượng giáo dục khác.
Tình huống: Vào năm học mới, cô giáo A được phân công chủ nhiệm lớp 11B, sau khi đã nắm được tình hình của lớp
thì cô cần lập ra kế hoạch chủ nhiệm để có thể giúp tập thể lớp phát triển.
Lựa chọn ban cán sự lớp căn cứ vào “Sơ yếu lý lịch và bảng khảo sát chất lượng đầu năm học”. GVCN chỉ định ban
cán sự lớp lâm thời hoạt động 3 tuần đầu năm học. Theo dõi và tuần 4 cho lớp tiến hành đại hội lớp công khai, bầu
chọn. Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp thông qua bầu dân chủ qua đại hội lớp, đại hội chi đoàn.
Để có thể lựa chọn các thành viên trong ban cán sự lớp một cách phù hợp, đầu tiên GVCN cần xác định được tiêu
chuẩn của cán bộ lớp: Có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có khả năng gương mẫu; Tính tình thẳng thắn, dám đấu tranh, dám
phê bình; Năng nổ hoạt động và sẵn sàng hoạt động; Có khả năng học tập tốt, từ khá trở lên; Được tập thể lớp tín
nhiệm.
Lập sơ đồ lớp học:Căn cứ vào học lực của HS, chia đều số HS trung bình cho mỗi tổ và xen kẽ nhau; Căn cứ vào tình
trạng sức khoẻ như mắt và chiều cao; Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp, cán sự lớp phải có mặt rải khắp các tổ
và ở vị trí dễ kiểm soát các thành viên của lớp. Các HS hiếu động xếp ở những vị trí tập trung tầm nhìn của GV (Bàn
đầu, đầu bàn, đầu dãy).
Đặt ra các mục tiêu: căn cứ vào tình hình lớp 11B, cô A sẽ đưa ra các mục tiêu ngắn hạn về phong trào như xếp hạng
thi đua hàng tuần, thứ hạng văn nghệ, điểm kiểm tra của lớp bao nhiêu phần trăm đạt điểm giỏi và bao nhiêu phần trăm
trên trung bình; các mục tiêu dài hạn như xếp hạng thi đua cả năm của lớp, bao nhiêu phần trăm học sinh đạt hạnh kiểm
tốt, đạt học sinh xuất sắc, khá,…
9. Phân tích các phương pháp tổ chức hoạt động học tập,hoạt động giáo dục cho học sinh lớp chủ nhiệm
và minh họa bằng một ví dụ trong thực tiễn giáo dục giáo viên chủ nhiệm đã thực hiện thành công (hoặc
chưa thành công).
Tổ chức hoạt động học tập: nhằm nâng cao kết quả học tập thể hiện ở kết quả nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, kết
quả phát triển phẩm chất và năng lực ở học sinh. Để nâng cao kết quả hoạt động học tập của học sinh, giáo viên chủ
nhiệm cần chú trọng một số biện pháp sau:
Tổ chức xây dựng và thực hiện nề nếp, nội quy, yêu cầu: giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng nề nếp học tập, để
ra những nội quy, yêu cầu cần thiết trong mỗi giờ học, nên có sự tham khảo ý kiến ý đóng góp từ phía học sinh
vì một nội quy có sự thống nhất giữa giáo viên và học sinh sẽ có hiệu quả kép. Từ những nội quy học tập, giáo
viên thường xuyên đề ra các yêu cầu, nhiệm vụ học tập phù hợp cho học sinh là một trong những yếu tố thúc
đẩy tính tích cực học tập. Nếu học sinh khá giỏi sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ do giáo viên đề ra mà
không được giao thêm bài tập sẽ gây mất trật tự và ảnh hưởng đến những học sinh khác ở trên lớp. Còn khi học
sinh được giao nhiệm vụ khó và không phù hợp với tầm hiểu biết thì học sinh sẽ sao những nhiệm vụ và dẫn
tới vi phạm kỉ luật.
Đổi mới phương pháp dạy học: Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với các giáo viên bộ môn tích cực đổi mới
phương pháp dạy học nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn
luyện khả năng tự học của học sinh bằng cách ứng dụng các phương pháp đàm thoại, nêu vấn đề, thuyết
trình… vào quá trình dạy học. Mặt khác, giáo viên thường xuyên hướng dẫn học sinh cách thức, phương pháp
học tập tích cực, tiến hành các hoạt động học tập đạt hiệu quả cao, trong đó cần chú ý theo dõi sự tham gia hoạt
động học tập của tất cả học sinh. Điều này đòi hỏi người giáo viên không phải chỉ bằng lòng với một vài học
sinh thường xuyên tích cực trả lời các câu hỏi của giáo viên mà phải làm cho tất cả học sinh ở các loại trình độ
khác nhau đều phải thực hiện các nhiệm vụ học tập bằng nhiều hình thức: nghĩ, nói, viết... dưới sự hướng dẫn
của giáo viên.
Phát động phong trào thi đua học tập: phương pháp thi đua có tác dụng kích thích, động viên học sinh nỗ lực
vươn lên, khẳng định vị trí của mình, lôi cuốn những học sinh chưa có ý thức trong học tập. Những phong trào
thi đua học tập trên lớp như phong trào học tập dành nhiều điểm tốt, phong trào tuần học tốt, phong trào phát
biểu xây dựng bài... Thông qua các đợt thi đua, hiệu trưởng thường xuyên động viên tinh thần học tập của học
sinh bằng các hình thức khen thưởng. Động viên, khen thưởng đối với học sinh có ý nghĩa giáo dục cao, vì vậy
cần đặt ra các tiêu chuẩn khen thưởng với nhiều mức độ và nhiều hình thức khen thưởng rộng rãi, tiến hành
thường xuyên định kì tuần, tháng, học kì, cuối năm, khen ở lớp, ở trường, đồng thời cần hết sức chú ý nêu
gương và xây dựng những điển hình học tốt.
Tổ chức phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh giỏi: bằng phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ, giáo
viên chủ nhiệm phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh kém của lớp. Đối với học
sinh yếu, kém phải tìm mọi cách khắc phục những lỗ hổng về kiến thức cho học sinh, giúp học sinh tiến bộ
trong học tập bằng cách cải tiến phương pháp dạy học, đề ra những bài tập vừa sức để khuyến khích học sinh,
khen kịp thời khi học sinh có sự tiến bộ dù nhỏ. Nếu giáo viên đã tiến hành những biện pháp tích cực mà vẫn
không có hiệu quả (hoặc có rất ít) thi cần tổ chức phụ đạo cho học sinh. Đối với học sinh giỏi, phát hiện các
học sinh có năng khiếu về bộ môn và bồi dưỡng thường xuyên.
Sử dụng có hiệu quả các biện pháp tâm lí – giao tiếp: nhằm động viên tinh thần, tư tưởng, cổ vũ, lôi cuốn học
sinh tham gia vào giờ học trong bầu không khí sư phạm dân chủ, cởi mở; khích lệ sự đối thoại cũng như tinh
thần cầu thị, học hỏi trong học sinh. Giáo viên chủ nhiệm coi trọng việc tổ chức các hình thức dạy học hợp tác.
Tổ chức hoạt động trải nghiệm và các hoạt động giáo dục: là những hoạt động giáo dục được tổ chức song song và
độc lập với hoạt động dạy học các môn học nhưng tạo nên sự thống nhất trong mục đích giáo dục hình thành, phát triển
toàn diện nhân cách cho học sinh. Giáo viên chủ nhiễm có nhiệm vụ thiết kế và tổ chức các hoạt động trải nghiệm theo
các loại hình hoạt động ở trường phổ thông gồm sinh hoạt dưới cờ, hoạt động giáo dục theo chủ đề và sinh hoạt lớp.
Trong đó, giáo viên chủ nhiệm là người phụ trách chinh tiết Sinh hoạt lớp theo Chương trình Hoạt động trải nghiệm.
Bên cạnh hoạt động học tập, hoạt động trải nghiệm trong chương trình chính khóa, giáo viên chủ nhiệm cần phải quan
tâm tổ chức các hoạt động giáo dục, trải nghiệm ngoại khóa cho học sinh nhằm mục đích củng cố, bổ sung, mở rộng,
nâng cao và vận dụng các kiến thức của các môn học vào thực tiễn, giáo dục các giá trị sống, rèn luyện kĩ năng sống
cho học sinh.
Tình huống: Cô B là giáo viên chủ nhiệm lớp 11A, lớp có thành tích học tập không đều giữa các học sinh và xuất hiện
tình trạng một học sinh học lệch các môn xã hội, yếu các môn tự nhiên.
Để có thể khắc phục tình trạng trên, cô B đã thực hiện các phương pháp sau:
- Tổ chức xây dựng và thực hiện nề nếp, nội quy, yêu cầu: cùng với các em học sinh trong lớp xây dựng nội quy
lớp học để giúp các em có thể tập trung hơn cho việc học. Phối hợp với các GVBM để theo dõi tình hình học
tập trong lớp của các em để đưa ra nhiệm vụ học tập phù hợp giúp các bạn học chưa tốt xây dựng động lực để
tiến bộ hằng ngày còn các bạn học tốt có thể giữ vững phong độ học tập, tránh xao nhãng.
- Đổi mới phương pháp dạy học: tổ chức các hoạt động học tập tạo hứng thú cho học sinh, giúp học sinh chủ
động tìm hiểu bài chứ không tiếp thu bài học một cách thụ động như trước nữa. Một số hoạt động học tập được
cô B phối hợp với các GVBM áp dụng như: làm việc nhóm và thuyết trình trước lớp, các trò chơi củng cố bài
học vào cuối giờ như Ai là triệu phú?, Nhanh như chớp,…, hướng dẫn các cán sự bộ môn tổ chức giờ tự học
vào 15 phút đầu giờ để giải đáp thắc mắc của các bạn về bài tập về nhà và bài mới,…
- Tổ chức phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh giỏi: cô B đã thường xuyên thảo luận với các GVBM
về tình hình học tập của lớp để cùng nhau đưa ra cách giúp các bạn học sinh còn yếu tiến bộ như phối hợp với
nhà trường tổ chức giờ học phụ đạo ngoài giờ để khắc phục lỗ hổng kiến thức cho không chỉ học sinh lơp 11A
mà còn là học sinh toàn trường. Đồng thời cô B cũng quan sát và phát hiện những học sinh học tốt trong lớp để
chọn vào đội tuyển học sinh giỏi của trường, tạo cơ hội cho các em tiếp thu được nhiều kiến thức cao hơn và
cọ xát với các cuộc thi như học sinh giỏi thành phố hay Olympic 30/4.
- Phát động phong trào thi đua học tập: cô B tổ chức các đợt thi đua về học tập trong lớp theo từng tuần, cuối
tuần sẽ tổng kết kết quả thi đua và có những phần quà nhỏ để động viên tinh thần cho các bạn. Ngoài ra cô còn
vận động, khuyến khích học sinh cùng nhau tham gia thi đua trong các phong trào về học tập của nhà trường
như Hoa điểm 10.
- Sử dụng có hiệu quả các biện pháp tâm lí – giao tiếp: cô thường xuyên có những lời khen, khuyến khích đối
với các bạn học sinh có thành tích tốt trong lớp và động viên, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc trong học
tập đối với các bạn học sinh yếu đồng cô luôn thể hiện niềm tin của cô vào sự tiến bộ của các bạn, từ đó khiến
tất cả các bạn học sinh trong lớp luôn cảm thấy cô B là điểm tựa tinh thần vững chắc giúp các bạn phấn đấu
mỗi ngày.
10. Trình bày mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp và đánh giá kết quả hoạt động trải nghiệm trong nhà
trường phổ thông.
Mục tiêu chung của hoạt động trải nghiệm giúp hình thành và phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu: yêu nước,
nhân ái, chăm chỉ trung thực, trách nhiệm; năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng
tạo; năng lực đặc thù gồm: năng lực thích ứng với cuộc sống, năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định
hướng nghề nghiệp.
Mục tiêu hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cấp trung học cơ sở giúp học sinh củng cố thói quen tích cực, nền nếp
trong học tập và sinh hoạt, hành vi giao tiếp ứng xử có văn hoá và tập trung hơn vào phát triển trách nhiệm cá nhân:
trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với gia đình, cộng đồng; hình thành các giá trị của cá nhân theo chuẩn mực
chung của xã hội; hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong cuộc sống; biết tổ chức công việc một cách
khoa học; có hứng thú, hiểu biết về một số lĩnh vực nghề nghiệp, có ý thức rèn luyện những phẩm chất cần thiết của
người lao động và lập được kế hoạch học tập, rèn luyện phù hợp với định hướng nghề nghiệp khi kết thúc giai đoạn
giáo dục cơ bản.
Nội dung hoạt động trải nghiệm trong Chương trình Hoạt động trải nghiệm và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
(2018) được triển khai qua bốn mạch nội dung hoạt động chính như sau:
- Hoạt động hướng vào bản thân: Hoạt động khám phá bản thân; Hoạt động rèn luyện bản thân;
- Hoạt động hướng đến xã hội: Hoạt động chăm sóc gia đình; Hoạt động xây dựng nhà trường; Hoạt động xây dựng
cộng đồng;
- Hoạt động hướng đến tự nhiên: Hoạt động tìm hiểu và bảo tồn cảnh quan thiên nhiên; Hoạt động tìm hiểu và bảo
vệ môi trường;
- Hoạt động hướng nghiệp: Hoạt động tìm hiểu về nghề nghiệp; Hoạt động rèn luyện phẩm chất, năng lực phù hợp
với định hướng nghề nghiệp: Hoạt động lựa chọn hướng nghề nghiệp và lập kế hoạch học tập theo định hướng
nghề nghiệp.
Ở cấp trung học cơ sở: nội dung hoạt động trải nghiệm tập trung hơn vào các hoạt động xã hội , hoạt động hướng đến
tự nhiên và hoạt động hướng nghiệp, đồng thời vẫn tiếp tục hoạt động hướng vào bản thân.
Các phương thức tổ chức hoạt động trải nghiệm ở nhà trường phổ thông là: 1) Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh, làm cho mỗi học sinh đều sẵn sàng tham gia trải nghiệm tích cực. 2) Tạo điều kiện cho học sinh trải
nghiệm , sáng tạo thông qua các hoạt động tìm tòi, vận dụng kiến thức và kinh nghiệm đã có vào đời sống, hình thành,
phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định dựa trên những tri thức và ý tưởng mới thu được từ trải nghiệm. 3)
Tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ, phân tích, khái quát hóa những trải nghiệm để kiến tạo kinh nghiệm, kiến thức và kĩ
năng mới. 4) Lựa chọn linh hoạt, sáng tạo các phương pháp giáo dục phù hợp: pp nêu gương; pp giáo dục bằng tập thể;
pp thuyết phục; pp tranh luận; pp luyện tập; pp khích lệ, động viên; pp tạo sản phẩm và các pp giáo dục khác.
Hình thức thể nghiệm, tương tác: Cách tổ chức hoạt động tạo cơ hội cho học sinh giao lưu, tác nghiệp và thể nghiệm ý
tưởng như sân khấu tương tác (sân khấu hóa), diễn đàn, đóng kịch, hội thảo, hội thi, trò chơi và các hình thức tương tự
khác.
Phương pháp tổ chức tọa đàm, hội nghị, hội thảo chuyên đề:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch tổ chức hội thảo
+ Lựa chọn chủ đề và đặt tên cho hội thảo;
+ Xác định mục tiêu hội thảo;
+ Xác định thời gian và địa điểm tổ chức hội thảo;
+ Dự kiến các nguồn lực cần huy động ( nhân lực, vật lực, tài lực).
Bước 2: Chuẩn bị hội thảo chuyên đề.
Bước 3: Tiến hành thảo luận nhóm.
Bước 4: Kết thúc hội thảo chuyên đề.
Phương pháp tổ chức diễn đàn, giao lưu:
Bước 1: Lập kế hoạch hoạt động diễn đàn:
+ Lựa chọn tên chủ đề cho diễn đàn, giao lưu;
+ Xác định mục tiêu diễn đàn;
+ Lựa chọn nội dung và cách thức tổ chức diễn đàn;
+ Xác định đối tượng tương tác, giao lưu cho phù hợp với những nội dung đã định;
+ Quy mô diễn đàn và thành phần tham gia diễn đàn;
+ Xác định thời gian và địa điểm tổ chức diễn đàn;
+ Dự kiến các nguồn lực cần huy động;
+ Lập bảng chi tiết chương trình hoạt động cụ thể của diễn đàn.
Bước 2: Chuẩn bị các điều kiện tổ chức diễn đàn.
Bước 3: Thực hiện diễn đàn.
Bước 4: Tổng kết diễn đàn.
Phương pháp tổ chức trò chơi:
Bước 1: Chuẩn bị trò chơi.
Bước 2: Tiến hành trò chơi.
Bước 3: Kết thúc trò chơi.
Phương pháp tổ chức sân khấu tương tác:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch, chuẩn bị kịch bản và phân công nhiệm vụ.
+ Lựa chọn chủ đề;
+ Xác định mục tiêu;
+ Xác định thời gian, địa điểm, quy mô tổ chức;
+ Chuẩn bị kịch bản.
Bước 2: Tập luyện diễn xuất theo kịch bản, hoàn thiện công tác chuẩn bị.
Bước 3: Thực hiện vở diễn theo kịch bản ( phần mở đầu).
Bước 4: Tương tác với khán giả ( diễn biến và kết thúc).
Bước 5: Tổng kết, đánh giá.
Hình thức khám phá: Cách thức tổ chức hoạt động tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm thế giới tự nhiên, thực tế cuộc
sống và công việc, giúp học sinh khám phá những điều mới lạ, tìm hiểu, phát hiện vấn đề từ môi trường xung quanh,
bồi dưỡng những cảm xúc tích cực và tình yêu quê hương đất nước. Nhóm hình thức tổ chức này bao gồm các hoạt
động tham quan, cắm trại, thực địa, dã ngoại và các hoạt động tương tự khác.
Phương pháp tổ chức tham quan:
Bước 1: Chuẩn bị hoạt động tham quan.
Bước 2: Tổ chức hoạt động tham quan.
Bước 3: Kết thúc hoạt động tham quan.
Hình thức cống hiến: cách thức tổ chức hoạt động tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm những giá trị xã hội bằng những
đóng góp và cống hiến thực tế của mình thông qua các hoạt động tình nguyện nhân đạo, lao động công ích, tuyên
truyền và các hình thức tương tự khác. Về cơ bản, hình thức cống hiến vì cộng đồng thường có chung cách thức tổ
chức. Điểm khác biệt trong các hoạt động này là mục tiêu, nội dung và đối tượng hướng đến của từng hoạt động. Trong
hình thức cống hiển, hoạt động tình nguyện và lao động công ích thể hiện rõ nét nhất bản chất của hình thức này.
Phương pháo tổ chức hoạt động tình nguyện:
Bước 1: Khảo sát địa bàn theo chủ đề ( tiền trạm 1).
Bước 2: Lập kế hoạch: Xác định chủ đề và mục tiêu hoạt động tình nguyện; xác định nội dung hoạt
động tình nguyện; lựa chọn thời gian và địa điểm; dự kiến các điều kiện tổ chức.
Bước 3: Huy động các nguồn lực.
Bước 4: Triển khai thực tế.
Bước 5: Kết thúc.
Phương pháp tổ chức lao động công ích:
Bước 1: Xác định địa điểm, nội dung lao động công ích.
Bước 2: Chuẩn bị.
Bước 3: Tổ chức, hướng dẫn thực hiện.
Bước 4: Tổng kết.
Hình thức nghiên cứu: Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm tạo cơ hội cho học sinh tham gia các đề tài, dự án
nghiên cứu khoa học nhờ cảm hứng từ những trải nghiệm thực tế, qua đó đề xuất những biện pháp giải quyết vấn đề
một cách khoa học. Nhóm hình thức tổ chức này bao gồm các hoạt động nghiên cứu, làm dự án, sáng tạo công nghệ,
nghệ thuật và các hình thức tương tự khác.
Phương pháp tổ chức hoạt động NCKH của học sinh:
 Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu:
Bước 1: Chọn đề tài nghiên cứu.
Bước 2: Xây dựng đề cương nghiên cứu.
Bước 3: Xây dựng kế hoạch nghiên cứu.
 Giai đoạn tiến hành nghiên cứu:
Bước 4: Thu thập, xử lí thông tin lí luận.
Bước 5: Thu thập, xử lí thông tin thực tiễn.
Bước 6: Đề xuất giải pháp hoặc tác động.
 Giai đoạn hoàn thành:
Bước 7: Viết báo cáo.
Bước 8: Nghiệm thu và triển khai ứng dụng (nếu có).
Phương pháp tổ chức dự án:
Bước 1: Chọn chủ đề và xác định mục đích của dự án.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch dự án.
Bước 3: Thực hiện dự án.
Bước 4: Tổng hợp kết quả và công bố sản phẩm.
Bước 5: Đánh giá dự án.
Hình thức đánh giá kết quả hoạt động trải nghiệm: gồm 2 hình thức đánh giá thường xuyên và đánh giá
định kì.
Phương pháp đánh giá kết quả hoạt động trải nghiệm:
Phương pháp trắc nghiệm: đánh giá nhận thức của học sinh về nội dung, cách thức và con đường
thực hiện chủ đề.
Phương pháp quan sát: đánh giá quá trình làm việc, hành vi, thái độ của học sinh hoặc sẳn phẩm học
sinh làm ra.
Phương pháp khảo sát phản hồi của học sinh: đo nhận thức của học sinh về nội dung khảo sát hoặc
phân loại học sinh trong các nhóm hoạt động.
Phương pháp đánh giá sản phẩm của học sinh: đánh giá kết quả tham gia các hoạt động trải nghiệm
của học sinh được thể hiện bằng video, tranh vẽ, mô hình,…
Phương pháp đánh giá hồ sơ hoạt động trải nghiệm của học sinh: đánh giá thông qua tài liệu minh
chứng (hồ sơ) cho sự tiến bộ của học sinh, trong đó học sinh tự đánh giá bản thân, tự ghi lại kết quả
trong quá trình tham gia hoạt động trải nghiệm.
Phương pháp trao đổi ý kiến của các bên liên quan: các bên liên quan đến chủ đề hoạt động trực tiếp
làm việc với học sinh , cùng thảo luận đưa ra nhận xét, đánh giá, nhận xét về học sinh.

You might also like