bài số 1

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 103

Họ và Tên: Đinh Lê Bảo Phương Môn: Lí luận nhà nước và pháp luật

Lớp: CLC48E
MSSV: 2353801011244

BẢN CHẤT CỦA QUYỀN LỰC

Theo M. SCOTT PECK, quyền lực được chia làm hai loại: quyền lực chính trị và
quyền lực tinh thần. Vậy quyền lực chính trị là gì? Quyền lực chính trị “là cái khả năng
ép buộc người khác, công khai hoặc kín đáo, để thực hiện ý muốn của mình”. Cái quyền
lực này có được khi con người có địa vị, tiền tài, danh vọng như là vua, chúa, tổng
thống…Theo tác giả thì quyền lực này không nằm trong người nắm giữ chức vụ đó hay
người có tiền mà quyền lực đó LÀ chức vụ đó và số tiền đó. Vì vậy quyền lực chính trị
không có liên hệ gì với sự khôn ngoan hay ý thức của người đứng đầu. Nhưng quyền lực
tinh thần thì nằm hoàn toàn trong cá nhân con người và không liên hệ gì đến khả năng ép
buộc người khác. . Vậy quyền lực tinh thần có thể hiểu là khả năng đưa ra những quyết
định với nhận thức tối đa. Đó là ý thức
Con người thưường hành động và đưa ra quyết định với rất ít nhận thức. Họ hành động
với ít hiểu biết về những động lực thúc đẩy họ và không biết những hệ lụy do sự lựa chọn
của mình. Họ không thật sự để ý rằng những hành động tưởng chừng như vô hại của
mình có thể gây ảnh hưởng như thế nào sau này. Lấy ví dụ khi họ đánh mắng một đứa trẻ
để răn dạy chúng, liệu họ có để ý rằng chính hành động này có thể làm cho trẻ em hình
thành khuynh hướng bạo lực? Như vậy, Phải chăng làm một điều gì đúng với những lý do
sai thì tốt hơn là làm một điều gì sai với lý do đúng? Chúng ta thường mù mờ nhất khi
chúng ta biết chắc nhất, và sáng suốt nhất khi chúng ta hoang mang rối rắm nhất.
Nhận thức đến với mỗi người bằng những cách khác nhau, nhưng đa phần nó đến một
cách từ từ, chậm rãi, được phát triển bằng sự nỗ lực hỏi hỏi và quan sát mọi thứ xung
quanh. “Con đường trưởng thành tinh thần là con đường học tập suốt đời.”. Và khi chúng
ta học tập đủ lâu, đủ kiên trì để theo đuổi thì chúng ta sẽ đạt tới trình độ nhận thức nhất
định từ đó sẽ dẫn chúng ta đến với “quyền lực”
“Kinh nghiệm về quyền lực tinh thần chủ yếu là một kinh nghiệm của niềm vui. Có
một niềm vui đi đôi với sự thông suốt. Quả thật, không có sự thỏa mãn nào to lớn hơn sự
thỏa mãn của một chuyên gia, của người biết rõ mình đang làm gì.”.Khi được hỏi về
nguồn gốc của sự hiểu biết và sức mạnh nơi mình, bao giờ người có quyền lực thực sự
cũng trả lời: nó không phải là quyền lực của tôi. Cái quyền lực nhỏ bé mà tôi có được ấy
chỉ là một chút thể hiện của một quyền lực to lớn hơn nhiều.. Nhưng có quyền lực tinh
thần cũng rất khó khăn . Vì nhận thức của người ta càng sâu rộng thì càng khó hành
động. Càng suy nghĩ nhiều, chúng ta sẽ càng nhận ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết..
Nêu như nhận thức hạn hẹp thì đưa ra quyết định là chuyện vô cùng dễ dàng. Nhưng đã
hiểu biết sâu rộng thì chúng ta sẽ càng phải để ý tới những hậu quả mà quyết định của
mình có thể tạo nên Bạn sẽ phải gánh toàn bộ trách nhiệm nếu có sai sót xảy ra. Sự cô
đơn của quyền lực tinh thần thậm chí còn lớn hơn sự cô đơn của quyền lực chính trị.
Những vị vua chúa,Tổng thống đều có thể có những người ngang hàng về mắt chức vụ để
bầu bạn. Nhưng những người nổi trội về quyền lực tinh thần thì thường hiếm có ai có thể
theo kịp họ về mặt tư tưởng và nhận thức nên họ sẽ khó kiếm cho mình những người
ngang hàng để trò chuyện. Vì vậy khi càng có quyền lực thì bạn sẽ càng cô đơn.

QUYỀN LỰC CỨNG, QUYỀN LỰC MỀM, QUYỀN LỰC THÔNG


MINH
"Bài viết về "Quyền lực cứng, quyền lực mềm, quyền lực thông minh" của Bùi
Việt Hương là một phân tích sâu sắc về các khía cạnh của quyền lực và sự hiện đại hóa
của nó trong thời đại ngày nay. Tác giả giới thiệu khái niệm về quyền lực cứng, quyền
lực mềm và quyền lực thông minh, từ đó mở rộng đối thoại về cách chúng tác động và
tương tác trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội.Quyền lực cứng, như tên gọi, thường
được liên kết với sức mạnh và kiểm soát một cách rõ ràng và trực tiếp. Nó thường xuất
hiện trong các tổ chức, chính phủ, và các cấu trúc quyền lực truyền thống. Quyền lực
cứng có thể được đo lường thông qua sự kiểm soát tài nguyên, quân lực, và các yếu tố
khác có thể tạo ra sự ảnh hưởng mạnh mẽ.Mặt khác, quyền lực mềm là một khái niệm
phức tạp hơn, thường liên quan đến sức ảnh hưởng, sự thuyết phục, và khả năng tạo ra sự
đồng thuận. Quyền lực mềm thường được thực hiện thông qua nghệ thuật giao tiếp,
quảng bá hình ảnh, và quan hệ quốc tế. Nó có thể nằm trong tay cá nhân, tổ chức phi
chính trị, và thậm chí là cộng đồng trực tuyến.
Trong bối cảnh hiện đại, quyền lực thông minh là một xu hướng mới, một sự kết
hợp linh hoạt giữa quyền lực cứng và mềm. Nó yêu cầu sự hiểu biết sâu rộng về người
khác, khả năng thích nghi nhanh chóng với thay đổi, và sự linh hoạt trong các tình huống
phức tạp. Quyền lực thông minh không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên sâu mà còn đòi hỏi
sự sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề. Bài viết tập trung vào việc thảo luận về sự
chuyển đổi từ quyền lực cứng đến mềm và cuối cùng là thông minh, đồng thời nhấn
mạnh vai trò ngày càng quan trọng của quyền lực thông minh trong thế giới ngày nay.
Tác giả nhấn mạnh rằng sự hiểu biết vững về người và năng lực thích ứng với biến đổi là
chìa khóa để có quyền lực thực sự hiệu quả. Bài viết cũng nêu rõ rằng quyền lực không
chỉ là thuộc về cá nhân hay tổ chức, mà là một hệ thống phức tạp của các yếu tố tương
tác. Sự hiểu biết về cách các loại quyền lực này tương tác có thể giúp xây dựng một môi
trường xã hội nâng cao sức mạnh và sự phát triển bền vững.
Cuối cùng, tác giả kết luận bài viết với những cảm xúc về tương lai của quyền lực
trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Liệu chúng ta có thể tận dụng sức
mạnh của quyền lực thông minh để tạo ra một xã hội công bằng, bền vững và đầy sáng
tạo hay không? Bài viết kết thúc với một câu hỏi mở cửa, đồng thời thách thức độc giả
suy nghĩ về vai trò và tầm ảnh hưởng của quyền lực trong thời đại mới."

QUỐC HỘI VIỆT NAM NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


Khái niệm quyền lực: Khái niệm quyền lực được đề cập từ rất sớm. Vào thời cổ
đại, theo Arixtốt quyền lực không chỉ là cái vốn có của mọi sự vật biết cảm giác, mà của
cả giới tự nhiên vô cơ. Từ đó đến nay, con người tiếp tục bàn luận về vấn đề quyền lực
song chưa có định nghĩa nào thực sự khoa học được mọi người chấp nhận. Theo Robert
Dahl thì “quyền lực là khả năng bắt buộc mọi người phải làm cái gì đó mà họ không thể
làm khác được". Từ điển Hán- Việt của tác giả Đào Duy Anh giải thích quyền lực là "cái
sức mạnh có thể cưỡng chế người ta phải phục tùng mình". Ta có thể thấy hầu hết các
tác giả kể trên khi nói tới quyền lực là nói tới sức mạnh. Tóm lại, chúng ta có thể hiểu
quyền lực là khả năng áp đặt ý chí của mình với người khác, tác động đến khả năng
động viên các nguồn lực để đạt được mục đích của mình.
Bản chất quyền lực của Quốc hội: Quốc hội không chỉ là cơ quan đại diện cao
nhất của nhân dân mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ sự phức tạp về vấn đề quyền lực như đã trình bày ở trên
để xác định đúng tính chất quyền lực của Quốc hội là quyền lực xã hội và quyền lực
chính trị. Quyền lực xã hội thể hiện ý chí chung, nhờ đó xã hội có được tổ chức và trật
tự. Loại quyền lực này xuất phát từ sự cần thiết phải có quản lý hoạt động chung của tập
thể, của cộng đồng làm cơ sở xã hội là cái vốn có của mọi xã hội. Quyền lực này không
mang tính giai cấp. Quyền lực chính trị là quyền lực của một hay của liên minh giai cấp,
tập đoàn xã hội, là khả năng của một giai cấp thực hiện lợi ích khách quan của mình.
Tuy nhiên quyền lực chính trị không phải lúc nào cũng bị giai cấp thống trị sử dụng một
cách tiêu cực mà chỉ trong những điều kiện nhất định .Quyền lực chính trị, luôn mang
tính giai cấp. Những biểu hiện bên ngoài của nó về cơ bản luôn thống nhất. Trong quan
hệ nội bộ giai cấp, quyền lực chính trị có thể chứa đựng những mâu thuẫn nhất định.
Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị được tổ chức thành một nhà nước. Vì vậy,
quyền lực nhà nước thực chất là quyền lực của giai cấp thống trị. Nó đạt được thông qua
hệ thống độc tài do giai cấp này thiết lập.
Phạm vi quyền lực của Quốc hội: Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội nếu
chỉ duy trì hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là chưa phù hợp. Khi ban
hành Bộ luật Dân sự năm 1995, Quốc hội đã xác định nước ta trong giai đoạn hiện nay
có bảy hình thức sở hữu gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị- xã hội, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp và sở hữu chung.
BẢN CHẤT ĐANG THAY ĐỔI CỦA QUYỀN LỰC
Tác giả không chỉ tập trung vào những khía cạnh truyền thống của quyền lực
mà còn mở rộng đối thoại về sự linh hoạt và tương tác đa chiều giữa các yếu tố khác
nhau. Ngày nay, không thể đánh giá quyền lực chỉ thông qua góc độ kiểm soát vật chất
hay quân lực như trước đây. Thay vào đó, quyền lực trở thành một thực thể linh hoạt,
phản ánh sự tương tác phức tạp giữa thông tin, công nghệ, và xã hội. Tác giả lập tức chú
ý đến tầm quan trọng của thông tin trong xã hội ngày nay, nơi quyền lực không chỉ là sự
kiểm soát thông tin mà còn là khả năng quản lý dữ liệu, và đặc biệt là khả năng tác động
lên quyết định của đám đông. Một khía cạnh quan trọng khác mà bài viết đặt ra là sự tăng
cường của quyền lực cá nhân, đặc biệt là thông qua ảnh hưởng của các nhân vật nổi tiếng
và doanh nhân thành công. Truyền thông xã hội, theo tác giả, đã tạo ra một nền tảng cho
những cá nhân này để tạo ra và định hình quyền lực thông qua việc tương tác trực tiếp
với đông đảo người hâm mộ và người tiêu dùng. Điều này làm tăng cường khả năng ảnh
hưởng của cá nhân và tạo ra những "người nổi tiếng ảo" có sức ảnh hưởng lớn đối với xã
hội.
Tuy nhiên, bài viết cũng chú ý đến sự đa dạng hóa của quyền lực, từ quyền
lực truyền thống đến quyền lực phi chính trị. Điều này đặt ra câu hỏi về vai trò ngày càng
lớn của các tổ chức phi chính trị, như các tập đoàn kinh doanh và tổ chức phi lợi nhuận,
trong việc định hình quyết định xã hội. Sự tương tác giữa các yếu tố này tạo ra một quyền
lực phức tạp và toàn diện, ảnh hưởng không chỉ đến chính trị mà còn đến văn hóa, giáo
dục và các lĩnh vực khác của xã hội. Nhấn mạnh vào quan điểm tập trung vào cá nhân,
bài viết chuyển sự nhìn nhận về quyền lực từ góc độ truyền thống sang góc độ hiện đại.
Quyền lực không chỉ là một sự kiểm soát từ trên xuống mà còn là quá trình tương tác
giữa các cấp độ và tầng lớp xã hội. Sự tương tác này không chỉ giữa các cá nhân mà còn
giữa các tổ chức, ngành công nghiệp, và cả cộng đồng trực tuyến, tạo ra một mạng lưới
quyền lực phức tạp. Bài viết kết luận bằng việc nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiểu
biết sâu rộng về bản chất mới của quyền lực trong việc định hình tương lai. Việc nhìn
nhận quyền lực không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cơ sở của ảnh hưởng xã hội mà
còn giúp chúng ta xác định hướng phát triển một cách tích cực và bền vững. Quyền lực
hiện đại không chỉ là sự kiểm soát mà còn là khả năng giao tiếp, sự chia sẻ thông tin, và
khả năng tương tác với một cách sáng tạo và tích cực, tạo nên một tương lai mà quyền
lực không chỉ là của một số ít mà còn là của cộng đồng và xã hội toàn bộ.

Quyền lực mềm và ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Mỹ
dưới chính quyền Obama
Bài nghiên cứu "Quyền lực mềm và ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của
Mỹ dưới chính quyền Obama" của Nguyễn Văn Tùng không chỉ là một cái nhìn sâu sắc
vào tầm quan trọng của quyền lực mềm trong bối cảnh thế giới đương đại mà còn là một
phân tích chi tiết về cách mà nó đã hình thành và tác động trong thời kỳ chính quyền của
Tổng thống Barack Obama. Bài viết bắt đầu bằng việc đặt ra bối cảnh về tầm quan trọng
của quyền lực mềm trong thế giới đa dạng và phức tạp ngày nay. Nguyễn Văn Tùng đi
sâu vào định nghĩa quyền lực mềm, nhấn mạnh rằng nó không chỉ giới hạn trong các yếu
tố văn hóa mà còn bao gồm giáo dục, nghệ thuật, kỹ thuật, và các lĩnh vực khác đóng góp
vào hình ảnh và ảnh hưởng của một quốc gia. Tiếp theo, tác giả tập trung vào chính sách
đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Obama, đặt câu hỏi về cách mà quyền lực mềm
đã thể hiện trong quan hệ Mỹ-Trung Quốc, Mỹ-Nga, và Mỹ-Trung Đông. Từ đó, ông
trình bày một loạt các ví dụ cụ thể về cách Mỹ đã sử dụng quyền lực mềm để tạo ra mối
quan hệ mạnh mẽ và tác động tích cực trong các khu vực quan trọng.
Một điểm đáng chú ý là sự tập trung vào quan hệ Mỹ-Trung Quốc, nơi quyền
lực mềm đã đóng vai trò quan trọng trong việc định hình hình ảnh của Mỹ và tạo ra sự
tương tác tích cực giữa hai quốc gia lớn. Nguyễn Văn Tùng phân tích những chiến lược
thông tin, giáo dục, và văn hóa mà Mỹ đã triển khai để thu hút và duy trì mối quan hệ tích
cực với Trung Quốc.Bài viết không chỉ nhìn vào những thành công mà còn chấm điểm
những thất bại và thách thức mà quyền lực mềm Mỹ đã phải đối mặt. Tác giả chia sẻ
quan điểm về việc quyền lực mềm không phải là một công cụ hoàn hảo và nhấn mạnh
rằng cần phải hiểu rõ bản chất và giới hạn của nó để tận dụng tối đa. Nghiên cứu tiếp tục
bằng việc đặt ra những triển vọng cho phát triển của quyền lực mềm trong tương lai của
Mỹ. Tác giả đề xuất những hướng đi mới và nhấn mạnh rằng sự hiểu biết và tận dụng tốt
quyền lực mềm là quan trọng để duy trì và củng cố vị thế quốc tế của Mỹ trong bối cảnh
thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Cuối cùng, Nguyễn Văn Tùng kết luận bài viết bằng
cách tổng hợp lại những điểm chính và khuyến khích độc giả nghiên cứu thêm về vai trò
và tầm quan trọng của quyền lực mềm trong định hình chính sách đối ngoại của các quốc
gia. Bài viết của ông không chỉ là một tài liệu nghiên cứu chất lượng mà còn là một đóng
góp quan trọng vào lĩnh vực này.

Cách mạng thông tin, các chủ thể phi quốc gia và sự phân tán quyền lực
(P1)
Cuộc cách mạng thông tin đang làm thay đổi nền chính trị quốc tế. Bốn thế
kỷ trước, triết gia, chính trị gia người Anh Francis Bacon đã viết rằng kiến thức là sức
mạnh. Hiện nay, các chính phủ trên thế giới thường xuyên quan ngại về dòng chảy của
các nguồn thông tin và sự kiểm soát của chúng. Đó là thời kỳ thế giới bị ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi những thay đổi của công nghệ thông tin. Vào thế kỷ 15, Gutenberg đã
phát hiện ra công nghệ in ấn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc in ấn và phổ biến Kinh
thánh. Kinh thánh đã được truyền bá khắp hầu hết châu Âu vào thời điểm đó. Có thể
thấy, những thay đổi nhanh chóng trong luồng thông tin có thể dẫn đến những thay đổi
quan trọng về bản sắc và lợi ích. Như chúng ta đã biết cuộc cách mạng thông tin đương
đại bắt nguồn từ những tiến bộ kỹ thuật nhanh chóng về máy tính, truyền thông và các
phần mềm vốn giúp cho chi phí xử lý và truyền tải thông tin giảm xuống một cách đáng
kể. Điển hình như việc trong suốt 30 năm qua, cứ một năm rưỡi năng lực tính toán lại
tăng gấp đôi một lần, hay là vào năm 1993, có khoảng 50 trang web trên toàn thế giới.
Tính đến hết thập niên, con số này đã vượt quá 5 triệu website. Tuy nhiên , đặc tính quan
trọng nhất của cuộc cách mạng thông tin không phải là tốc độ truyền thông giữa các quốc
gia giàu có và quyền lực:. Vì những lý do thực tế, chi phí liên lạc đã trở nên ít hơn nên
lượng thông tin có thể được truyền đi khắp thế giới là vô tận dẫn tới sự bùng nổ thông tin,
mà trong đó các tư liệu giấy chỉ còn đóng một tỉ lệ rất nhỏ. Chúng ta có thể dự đoán xem
chúng ta sẽ phát triển tới đâu bằng cách nhìn lại sự phát triển của thế giới trong quá khứ.
Qua cuộc cách mạng công nghệp lần 1 và 2 đều tạo ra những thay đổi to lớn về kinh tế,
xã hội, và chính phủ. Các mô hình sản xuất, lao động, điều kiện sống, các tầng lớp xã hội,
và cả các quyền lực chính trị đều bị biến đổi. Những so sánh lịch sử này giúp chúng ta
hiểu được lực lượng nào sẽ định hình nền chính trị thế giới trong thế kỷ 21. Mạng lưới
kinh tế và thông tin đang thay đổi nhanh hơn tốc độ thay đổi của chính phủ thế giới. Nói
một cách đơn giản, những bộ phận cấu thành cơ bản của nền chính trị thế giới đang bị
biến đổi bởi các công nghệ mới.
Hiện nay, chúng ta vẫn đang trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng
thông tin, tác động kinh tế và chính trị của nó chưa đồng đều.Cũng như việc phát minh
ra động cơ hơi nước vào cuối thế kỷ 18 và phát minh ra điện vào cuối thế kỷ 19, năng
suất lao động không tăng tương ứng vì xã hội phải mất thời gian mới làm chủ được cách
tận dụng tối đa lợi thế của công nghệ mới. Vào giữa thế kỉ 20, xuất hiện những công
nghệ làm tăng tính cá nhân hơn nhưng cũng khiến cho chính phủ khó kiểểm soát
internet hơn so với những công nghệ của cuộc cách mạng thông tin lần thứ hai. Nếu
muốn kiểm soát được phần nào internet, nơi đang càng ngày càng xuất hiện nhiều tổ
chức dạng mạng lưới, những loại cộng đồng mới, và từ đó đòi hỏi chính phủ phải đóng
những vai trò mới.Điều này có nghĩa là nền chính trị thế giới không phải là lĩnh vực
riêng của các chính phủ. Cả các cá nhân và những tổ chức tư nhân, được tăng cường sức
mạnh để đóng một vai trò trực tiếp hơn trong nền chính trị thế giới.
Cách mạng thông tin, các chủ thể phi quốc gia và sự phân tán quyền lực
(P2)
Phần II của bài viết "Cách mạng thông tin, các chủ thể phi quốc gia và sự phân tán
quyền lực" mang đến một cái nhìn chi tiết và sâu sắc về cách mà cách mạng thông tin
đang thay đổi bức tranh quyền lực toàn cầu, với sự tập trung đặc biệt vào các chủ thể phi
quốc gia.
Mở đầu với Quyền Lực Toàn Cầu trong Thời Đại Cách Mạng Thông Tin
Bài viết bắt đầu bằng việc đặt ra những cơ sở lý luận về sự phát triển của cách mạng
thông tin và ảnh hưởng của nó đối với quyền lực toàn cầu. Các tác động không chỉ giới
hạn trong các ranh giới quốc gia mà còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác nhau, từ kinh tế
đến văn hóa và chính trị.
Chủ Thể Phi Quốc Gia và Cách Mạng Thông Tin
Bài viết đi sâu vào nghiên cứu về sự xuất hiện và ảnh hưởng của các chủ thể phi quốc
gia trong môi trường cách mạng thông tin. Các tổ chức phi chính phủ, tập đoàn đa quốc
gia và nhóm phi chính trị đang ngày càng chiếm vị thế quan trọng, không chỉ trong lĩnh
vực kinh tế mà còn trong việc định hình ý thức và quyền lực toàn cầu.
Ảnh Hưởng Kinh Tế và Chính Trị của Cách Mạng Thông Tin:
Bài viết tiếp tục phân tích cụ thể về cách mà cách mạng thông tin đã thay đổi cảnh
quan kinh tế và chính trị. Nó không chỉ là về việc quyền lực được chuyển đổi từ chính
phủ sang các chủ thể phi quốc gia mà còn về sự gia tăng của quyền lực cá nhân và tổ
chức thông qua truyền thông và mạng xã hội.\
Thách Thức về An Ninh Thông Tin và Quản Lý Dữ Liệu:
Bài viết không tránh khỏi việc đặt ra những thách thức mà cách mạng thông tin
mang lại. An ninh thông tin và quản lý dữ liệu trở thành những vấn đề nan giải khi các
chủ thể phi quốc gia sử dụng quyền lực của họ trong không gian số. Các rủi ro về an ninh
mạng và thông tin giả mạo trở thành những vấn đề cấp bách.
Sự Đa Dạng và Thách Thức trong Quản Lý Quyền Lực:
Bài viết nhấn mạnh đến sự đa dạng của cách mà các chủ thể phi quốc gia sử dụng
quyền lực của họ. Sự đa dạng này tạo ra một môi trường không đồng nhất, thách thức khả
năng kiểm soát và quản lý quyền lực toàn cầu.
Khám Phá Cơ Hội và Hướng Đi Tương Lai:
Cuối cùng, bài viết không chỉ dừng lại ở việc phân tích thách thức mà còn mở ra các
cơ hội. Việc tận dụng sự đa dạng và hợp tác quốc tế trong quản lý quyền lực toàn cầu có
thể tạo ra một tương lai có lợi cho mọi quốc gia và cộng đồng.

TƯƠNG LAI CỦA QUYỀN LỰC TOÀN CẦU


"Bài viết "Tương lai của quyền lực toàn cầu" là một hành trình sâu sắc khám
phá những khía cạnh phức tạp của quyền lực toàn cầu và những thách thức đối mặt trong
tương lai. Nhìn chung, quyền lực toàn cầu không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế và chính trị
mà còn xen lẫn vào các lĩnh vực như công nghệ, văn hóa, và truyền thông. Bài viết này
tập trung vào việc đàm phán về cảm nhận về quyền lực toàn cầu từ nhiều góc độ khác
nhau và dự báo những diễn biến tiềm ẩn. Bắt đầu với khía cạnh kinh tế, bài viết phân tích
sự chuyển đổi của trọng điểm kinh tế từ các quốc gia phương Tây sang các kinh tế mới
nổi, làm thay đổi bức tranh toàn cầu. Trung Quốc và Ấn Độ, với sự tăng trưởng mạnh
mẽ, đang ngày càng chiếm lĩnh vị thế lớn hơn trong nền kinh tế thế giới, đồng thời đặt ra
những thách thức mới cho các quốc gia khác. Cùng với đó, sự chuyển đổi này còn tạo ra
các cơ hội hợp tác và thương mại mới, mở ra những con đường phát triển không ngờ cho
nhiều quốc gia đang phát triển. Ngoài ra, quyền lực công nghệ ngày càng trở thành trọng
tâm của sự cạnh tranh toàn cầu. Cách mạng Công nghiệp 4.0 mang lại những đổi mới vô
song, từ trí tuệ nhân tạo đến Internet of Things, làm thay đổi cách chúng ta sống và làm
việc. Tuy nhiên, đồng thời, nó cũng đặt ra những thách thức đối với bảo mật thông tin và
quản lý đối với sự gia tăng về dữ liệu. Các quốc gia và doanh nghiệp phải nhanh chóng
thích nghi để không bị tụt lại trong cuộc đua công nghệ này.

Chuyển sang khía cạnh chính trị và quan hệ quốc tế, bài viết tập trung vào
sự đa dạng của các hệ thống chính trị trên thế giới. Việc xuất hiện các lực lượng chính trị
mới và sự thay đổi trong động lực chính trị của một số quốc gia đang tạo ra một môi
trường chính trị đa dạng và phức tạp. Hệ thống đa nguyên và sự đa dạng về hình thức
chính trị có thể mang lại sự phong phú và đa chiều, nhưng đồng thời cũng đặt ra thách
thức về sự ổn định và hòa bình toàn cầu. Bài viết cũng chú trọng đến tầm ảnh hưởng ngày
càng lớn của quyền lực văn hóa và truyền thông. Truyền thông xã hội ngày càng trở
thành nguồn tin cậy và ảnh hưởng đối với ý kiến công bố. Sự lan truyền nhanh chóng của
thông tin có thể tạo ra sự đồng thuận toàn cầu, nhưng đồng thời cũng tăng nguy cơ về
thông tin giả mạo và kiểm soát thông tin. Mặc dù bài viết tập trung vào những thách thức,
nhưng không ít là những cơ hội mà quyền lực toàn cầu mang lại. Hợp tác quốc tế và sự
đoàn kết trong giải quyết các vấn đề toàn cầu, từ biến đổi khí hậu đến đại dịch, có thể tạo
ra những giải pháp có lợi cho tất cả. Quản lý công bằng của nguồn lực cũng là một khía
cạnh quan trọng, giúp ngăn chặn sự tăng động và bất ổn toàn cầu. Trong khi đó, sự phát
triển bền vững đang trở thành một ưu tiên ngày càng quan trọng. Việc phải đối mặt với
những thách thức lớn như biến đổi khí hậu và giới hạn tài nguyên, thúc đẩy sự phát triển
bền vững không chỉ là trách nhiệm của một quốc gia mà còn là nhiệm vụ của cả cộng
đồng quốc tế. Cuối cùng, bài viết kết luận bằng việc đặt ra những câu hỏi sâu sắc về
tương lai của quyền lực toàn cầu. Liệu có sự cần thiết về sự đa dạng và tích cực trong
quản lý quyền lực toàn cầu?

CÁI GIÁ CỦA SỰ BẤT CÔNG BẰNG: VỀ GIAI CẤP “SIÊU GIÀU” MỚI
NỔI
Trước tiên chúng ta cần biết đôi nét về giới “ siêu giàu” này. Chúng ta cũng
nên biết là nguồn gốc người siêu giàu ở mỗi quốc gia là khác nhau. Song những người
siêu giàu thường được xếp vào 2 nhóm: trở thành siêu giàu vì tài năng (kể cả tài tổ chức).
Nói đến những người này thì ta sẽ thường nói đến Steve Jobs, hay Bill Gates. Nhóm còn
lại là những người siêu giàu nhờ những hoạt động bất hợp pháp (tham nhũng, cướp đoạt,
đầu cơ, buôn lậu..). Tuy nhiên cũng không thể phân biệt hai nhóm riêng biệt được. Như
Stiglitz cho thấy, tài sản kếch xù của Bill Gates, chẳng hạn, không phải chỉ nhờ vào tài
năng của ông ta nhưng phần lớn là nhờ vào vị trí độc quyền (hoặc hầu như độc quyền)
của công ty Microsoft sau khi ông thành lập nó.Tuy nhiên, cũng không thể không công
nhận “tài năng” của những người siêu giàu nhờ tham nhũng, cướp đoạt, đầu cơ, buôn
lậu….Nhìn thoáng qua tài sản của nhiều người “siêu giàu” hiện nay thì có thể cho rằng nó
hợp pháp, nhưng nếu truy ngược về quá khứ thì nguồn gốc của nó là phi pháp. Càng đào
sâu chúng ta sẽ thấy cách thức mà những người này “nhân” ra những tài sản ấy là ra sao?
Đại đa số là nương nhờ vào những quan hệ cá nhân, những lỗ hổng trong luật pháp Vậy
ảnh hưởng từ những người cực giàu này tác động như thế nào đến nền kinh tế? Những
người theo phái thị trường tự do cho rằng “bất công bằng thu nhập, dù tự nó không phải
là tốt, là đáng cổ vũ, cũng là một tiền đề khó tránh của một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh: những nguời giàu sẽ có xu hướng đầu tư nhiều hơn…” Nói cách khác, chính nhờ
những người siêu giàu này mà có thể thúc đẩy nền kỉnh tế phát triển bằng cách tăng
cường đầu tư và tạo việc làm cho người lao động.Tuy nhiên có ba cách phản biện quan
điểm này. Một là, quan điểm ấy dựa trên giả định là nền kinh tế có sự cạnh tranh hoàn
hảo:
Chỉ khi nền kinh tế “hoàn hảo” như thế thì lợi ích của các nhân mới trùng
với lợi ích của cộng đồng. Trên thực tế thì không như vậy. Lúc nào lợi ích của cá nhân
cũng sẽ được đặt trên lợi ích của tập thể. Hai là, nhiều nhà tâm lý học, nhà khoa học xã
hội tìm hiểu xem cái gì là động lực lao động của con người, và họ nhận thấy rằng, thu
nhập không phải là động cơ duy nhất. Chúng ta thường làm việc hăng say hơn khi có sự
thúc đẩy từ bên trong( chẳng hạn như sự mãn nguyện khi làm việc). Ba là, ngay trong
trường hợp mà “thù lao” của những người cực giàu (nhất là trong giới tài chính, ngân
hàng) là “kỷ lục” với lý do rằng mức độ thù lao ấy là cần thiết để những người này “cố
gắng” hơn. Ảnh hưởng xã hội của tầng lớp “siêu giàu” mới nổi như thế nào? Tình trạng
cực kỳ bất bình đẳng có một hậu quả tai hại duy nhất là gây bất ổn trong xã hội. hạnh
phúc con người còn tuỳ vào thu nhập tương đối (ngoài mức thu nhập tuyệt đối để thoả
mãn những nhu cầu sinh tồn). Hai là trong một xã hội cực kỳ bất bình đẳng, và nhất là
khi tài sản của những người cực giàu là phi pháp, thì đời sống văn hoá của toàn xã hội
cũng sẽ bị xấu đi:chẳng hạn như những lối ăn chơi phù phiếm, sa đoạ, xa xỉ… Vậy chúng
ta cần làm gì? Hầu hết các nhà lãnh đạo trên thế giới đều ít nhiều nghĩ rằng nhà nước cần
can thiệp để làm giảm sự bất bình đẳng thu nhập trong xã hội. Áp đặt một chính sách thuế
lên người giàu chẳng hạn. Hoặc có ,mô chính sách để “ điều chỉnh” những” méo mó kinh
tế”(ưu tiên gỡ bỏ những độc quyền, đặc lợi, chế độ “xin/cho”, và tạo một sân chơi bình
đẳng cho mọi người)
Augus Deaton: Nhà nước yếu kém khiến đất nước nghèo
Việc các nước giàu xem hệ thống pháp lý và hành chính, các trường công lập, dịch
vụ chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội cho người già; hệ thống đường sá, quốc phòng và
ngoại giao… là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên điều này chỉ áp dụng cho những nước giàu và
có 1 chính phủ hiệu quả, nhưng phần lớn thế giới thì không như vậy. Ở phần lớn các
nước Châu Phi và Châu Á, các nhà nước thiếu năng lực để thu thuế và cung cấp dịch vụ
một cách hiệu quả. Chẳng hạn như Ấn Độ, việc các trường công hay bệnh viện công lập
có hàng loạt việc làm thiếu trách nhiệm đều không bị xử phạt.Nếu một chính phủ không
có năng lực, việc đưa ra và thực thi các quy định sẽ không có hiệu quả, từ đó c ác doanh
nghiệp, công ty, toà án,..đều không thể vận hành một cách trơn tru. Hơn nữa, một nhà
nước không có năng lực, sẽ dẫn đến sự thiếu thốn những dịch vụ và sự bảo hộ mà người
dân đáng được hưởng.Đây chính là nguyên nhân chính gây ra nghèo đói và khốn khổ ở
người dân. Có một việc các nước giàu có làm tưởng chừng như là giúp đỡ các nước
nghèo nhưng lại làm suy yếu sự phát triển của năng lực nhà nước địa phương. Dễ thấy
nhât là ở các nước châu Phi. Những nước như vậy thường không có những khế ước rõ
rang với người dân. Có thể nói là họ chị có “ trách nhiệm” với những nhà tài trợ. Nếu trao
tận tay người nghèo thì có lẽ sẽ tốt hơn bởi ở những nước nơi viện trợ liên chính phủ rất
ít tới tay người nghèo. Và chỉ cần một khoản tiền nhỏ đến kinh ngạc – khoảng 0,15
USD/ngày từ mỗi người lớn ở các nước giàu – là đủ để đưa tất cả mọi người lên ít nhất là
ngưỡng nghèo cùng cực, tức 1 USD/ngày.
Nhưng đây chỉ là giải pháp tức thì, không phải biện pháp dài lâu. Công dân cần
chính phủ để dẫn dắt họ, loại bỏ chính phủ có thể cải thiện tình trạng ngắn hạn nhưng như
vậy các vấn đề nền tảng vẫn chưa được giải quyết. Dịch vụ y tế của các nước nghèo
không thể mãi hoạt động từ nguồn vốn nước ngoài.Tóm lại, người dân cần một chính phủ
hiệu quả có thể làm việc cùng họ lâu dài.Một điều mà chúng ta (người dân các nước giàu)
có thể làm là vận động chính phủ thôi làm những điều khiến các nước nghèo khó khăn
hơn trong việc thoát nghèo. Giảm viện trợ là một cách, nhưng cũng cần hạn chế buôn bán
vũ khí, cải thiện các chính sách thương mại và trợ cấp của các nước giàu, cung cấp tư vấn
kỹ thuật không ràng buộc với viện trợ, và phát triển những loại thuốc tốt hơn cho các căn
bệnh không ảnh hưởng tới người giàu. Chúng ta không thể giúp người nghèo bằng cách
khiến chính phủ vốn đã yếu của họ trở nên yếu hơn.

Mô hình Trung Quốc: Đối thoại giữa Francis Fukuyama và Trương Duy
Vi

Theo Trương Duy Vi, mô hình Trung Quốc có thể được tóm tắt bởi bốn đặc điểm chính: -
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lãnh đạo: ĐCSTQ là đảng duy nhất nắm quyền ở
Trung Quốc, và nó có vai trò lãnh đạo trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chủ nghĩa
xã hội đặc sắc Trung Quốc: Trung Quốc đã xây dựng một mô hình chủ nghĩa xã hội
mang đậm dấu ấn của mình, với sự kết hợp giữa kinh tế thị trường và hệ thống chính trị
chuyên chế. Khoa học và công nghệ: Trung Quốc đang đầu tư mạnh mẽ vào khoa học và
công nghệ, với mục tiêu trở thành một cường quốc khoa học và công nghệ toàn cầu. Hội
nhập quốc tế: Trung Quốc đang tích cực hội nhập với thế giới, và tham gia vào nhiều tổ
chức quốc tế và khu vực. Những thách thức và cơ hội của mô hình Trung Quốc. Trương
Duy Vi cho rằng mô hình Trung Quốc đang phải đối mặt với một số thách thức, bao gồm:
Thách thức về kinh tế: Trung Quốc đang phải đối mặt với nhiều thách thức kinh tế, như
già hóa dân số, bất bình đẳng thu nhập và ô nhiễm môi trường. Thách thức về chính
trị: Trung Quốc đang phải đối mặt với những thách thức chính trị, như sự bất mãn của
người dân và sự gia tăng của các phong trào dân chủ. Thách thức về quốc tế: Trung Quốc
đang phải đối mặt với sự cạnh tranh của các nước phương Tây và sự bất đồng với các
nước láng giềng. Tuy nhiên, mô hình Trung Quốc cũng có những cơ hội, bao gồm: Cơ
hội về kinh tế: Trung Quốc có một thị trường khổng lồ với hơn 1,4 tỷ dân, và đang là
động lực tăng trưởng kinh tế của thế giới. Cơ hội về chính trị: Trung Quốc đang xây dựng
một mô hình chính trị mang tính sáng tạo, kết hợp giữa dân chủ và chuyên chế. Cơ hội về
quốc tế: Trung Quốc đang ngày càng trở thành một cường quốc toàn cầu, và có ảnh
hưởng ngày càng lớn đến thế giới. Quan điểm của Francis Fukuyama: Trong cuộc đối
thoại, Francis Fukuyama đã bày tỏ những quan điểm của mình về mô hình Trung Quốc.
Ông cho rằng mô hình Trung Quốc là một mô hình độc đáo, nhưng nó cũng có những hạn
chế. Ông Fukuyama cho rằng ĐCSTQ là một đảng độc tài, và việc ĐCSTQ nắm quyền ở
Trung Quốc là một thách thức đối với dân chủ và nhân quyền. Ông cũng cho rằng mô
hình kinh tế của Trung Quốc là một mô hình hỗn hợp, với sự kết hợp giữa kinh tế thị
trường và kế hoạch hóa tập trung. Ông cho rằng mô hình kinh tế này có thể mang lại
thành công cho Trung Quốc trong ngắn hạn, nhưng nó có thể không bền vững trong dài
hạn. Tuy nhiên, ông Fukuyama cũng đánh giá cao những thành tựu của Trung Quốc trong
những năm gần đây. Ông cho rằng Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể về
kinh tế, xã hội và quốc phòng. Ông cũng cho rằng Trung Quốc đang trở thành một cường quốc
toàn cầu, và có ảnh hưởng ngày càng lớn đến thế giới.
Người giàu nắm quyền như thế nào?
Người giàu có nhiều quyền lực chính trị hơn kẻ nghèo vốn dĩ không phải mới mẻ,
Mới đây, hai nhà khoa học chính trị là Martin Gilens của Đại học Princeton và Benjamin
Page của Đại học Northwestern đã công bố những phát hiện đầy thuyết phục. Cuộc
nghiên cứu được dựa trên các cuộc thăm dò ý kiến cử tri về gần 2.000 vấn đề chính sách
từ năm 1981 đến năm 2002. Họ đã kiểm nghiệm xem liệu chính phủ liên bang Mỹ có lựa
chọn các chính sách đó trong vòng 4 năm sau cuộc khảo sát hay không, và tìm hiểu mức
độ gần gũi giữa kết quả lựa chọn chính sách với nguyện vọng của các cử tri có những
mức thu nhập khác nhau. Nhìn chung,mong muốn của cử tri có thu nhập trung bình
dường như có tác động cực kỳ tích cực đến phản ứng cuối cùng của chính phủ. Các chính
sách được nhóm cử tri này ủng hộ có nhiều khả năng được thực hiện hơn. Nhưng khi
thực hiện cuộc khảo sát kĩ càng hơn, khi mà hai tần lớp là trung lưu và tinh hoa kinh tế có
những nhu cầu khác nhau thì họ nhận thấy rằng sự ảnh hưởng của tầng lớp trung lưu
giảm xuống đến mức không còn đáng kể trong khi tầng lớp “ tinh hoa kinh tế” thì vẫn giữ
nguyên mức ảnh hưởng của mình. Qua đó có thể thấy được sự ảnh hưởng không nhỏ của
những người giàu đối với nền kinh tế. Những kết quả đáng buồn này nêu bật lên một câu
hỏi lớn, rằng làm sao mà các chính trị gia, những người không đáp ứng mong mỏi của đại
đa số các cử tri lại đắc cử, và quan trọng hơn là tái đắc cử, trong khi họ chỉ biết chạy theo
những thành phần giàu có? Gilens và Page đã nhấn mạnh những bằng chứng họ đưa ra
không có ý nói các chính sách của chính phủ làm cho tầng lớp trung lưu trở nên tồi tệ
hơn.
Tầng lớp này vẫn thường đạt được những gì họ muốn nhờ vào thực tế rằng nguyện
vọng của họ thường tương đồng với nguyện vọng của giới tinh hoa. Sự tương đồng trong
mong muốn của hai nhóm này có thể gây trở ngại cho các cử tri trong việc nhận ra sự
thiên vị của các chính trị gia.Tuy nhiên, một phần câu trả lời nguy hiểm hơn nằm ở các
chiến lược mà các lãnh đạo chính trị sử dụng để được đắc cử. Sự thay thế đó có thể là chủ
nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phe nhóm, và bản sắc – những thủ đoạn chính trị dựa vào các
giá trị và hình tượng văn hóa hơn là các lợi ích kinh tế thiết yếu. Karl Marx đã nói một
câu rất nổi tiếng rằng “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Ý ông muốn nói rằng niềm
tin tôn giáo có thể che khuất những sự tước đoạt vật chất mà người lao động và những
người dân bị bóc lột phải trải qua trong cuộc sống hàng ngày của họ.Nền chính trị bản sắc
rất nguy hiểm vì nó có xu hướng tạo ra biên giới xung quanh một nhóm đặc quyền bên
trong và loại trừ các nhóm bên ngoài – các nhóm từ các quốc gia, các giá trị, tôn giáo,
hay sắc tộc khác. Sự bất bình đẳng lan rộng ở các nước phát triển và đang phát triển trên
thế giới vì thế gây ra hai tác hại cho nền chính trị dân chủ. Nó vừa làm mất dần đi vai trò
bầu cử của tầng lớp trung lưu và thấp hơn, đồng thời tạo mầm mống cho một nền chính
trị độc hại mang màu sắc chủ nghĩa phe nhóm trong giới tinh hoa.

Quyền lực chuẩn tắc: Cuộc đối đầu địa chính trị mới
Hiện nay, quyền lực cứng không còn hữu dụng nữa. Tuy nhiên, đe doạ hay sử
dụng vũ lực sẽ không bao giờ biến mất nhưng nó sẽ chỉ là biện pháp cuối cùng. Quyền
lực mềm cũng vậy.Vậy thì còn quyền lực mềm thì thế nào? Cũng không hữu hiệu.Trong
một môi trường vẫn bị thống trị bởi sự phụ thuộc lẫn nhau, các quốc gia phải tiếp tục,
bằng một cách nào đó, ảnh hưởng các quốc gia khác. Để làm được điều đó, họ đã sử dụng
một hình thức quyền lực sáng tạo hơn: Quyền lực chuẩn tắc (Standard Power).Quyền lực
chuẩn tắc có môt số tính chất nổi bật: nó vừa riêng biệt nhưng cũng vừa mang tính đột
phá. Riêng biệt ở chỗ quyền lực chuẩn tắc được sinh ra từ quá trình thảo luận phức tạp
mang tính kỹ thuật; đột phá ở chỗ một khi đã được định hình và áp dụng, thì chuẩn tắc rất
khó thay đổi.Ví dụ dễ nhận thấy nhất gần đây của quyền lực chuẩn tắc là quá trình đàm
phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Thương mại và Đầu
tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP), cả hai đều là một phần của cuộc đua thiết lập chuẩn tắc
thương mại toàn cầu thế kỷ 21.Một phần của lý do tại sao quyền lực chuẩn tắc thu hút sự
chú ý của chúng ta trong hiện tại hơn bất cứ lúc nào khác là do chúng ta đang ở trong một
thời điểm bùng nổ quá trình xây dựng chuẩn tắc mới.Hai lãnh vực đặc biệt kết hợp giữa
tiềm năng thương mại khổng lồ với một hệ thống quy tắc ít ỏi ở mức độ thấp chính là:
Internet của vạn vật (Internet of things) và các loại phương tiện bay không người lái dạng
thương mại. Và chưa lĩnh vực nào kể trên sở hữu các chuẩn tắc rõ ràng để định hình luật
chơi, có nghĩa rằng chúng đang được để ngỏ và những “người giữ cửa” mới cho quá trình
định hình luật chơi này sẽ nhanh chóng xuất hiện.
Bất cứ ai thành công trong việc định hình các chuẩn tắc thắng thế trong tương lai ở
mỗi lĩnh vực kể trên sẽ đạt được các lợi ích kinh tế và – quan trọng nhất – các lợi ích địa
chính trị. Vì quyền lực chuẩn tắc là quá trình viết ra ngôn ngữ chung của thương mại toàn
cầu, có thể thấy qua ví dụ: “Không giống như ngành điện toán, với những chuẩn mực liên
quan tới bàn phím máy tính và các kết nối USB, không có chuẩn mực nào là ưu việt hơn
trong các thiết kế công nghiệp”.
Những chuẩn tắc dẫn đầu không xuất hiện từ hư vô. Thay vào đó, chúng được tạo
ra thông qua quá trình cạnh tranh gay gắt. Ngày nay trận chiến mới đã nổ ra. c. Mặc dù
thận trọng, Bắc Kinh đã cho phép các công ty tư nhân chuyên sản xuất và vận hành các
thiết bị bay không người lái được tự mình đề ra các chuẩn mực riêng.
Chúng ta gặp phải một nghịch lý: các chính phủ sẽ là bên được lợi nhiều nhất nếu
như quốc gia của họ dẫn đầu trong việc thiết lập nên các chuẩn tắc mới, thế nhưng chính
những chủ thể phi nhà nước mới chính là nhân tố dẫn đầu trong việc đưa ra các sáng kiến
thiết lập chuẩn tắc. quyền lực chuẩn tắc được định nghĩa là kỹ năng sử dụng chuẩn tắc để
xây dựng nên các lợi thế về địa chính trị, chứ không phải là khả năng sử dụng các chiến
thuật không thể lay chuyển nhằm vượt qua những chi tiết kỹ thuật lỗi thời hay vô dụng.

Vai trò của nhà nước


“Tái cấu trúc nền kinh tế” đang là vấn đề được các chuyên gia kinh tế, các nhà
hoạch định chính sách và công luận quan tâm.ái cấu trúc kinh tế không phải là hoạt động
áp đặt từ bên ngoài, mà gắn liền và nằm ngay trong hoạt động của từng chủ thể kinh tế..
Vì vậy trong điều kiện kinh tế thị trường nhiều thành phần, Nhà nước không thể dùng
quyền lực để tái cấu trúc nền kinh tế, mà chỉ có thể sử dụng những chính sách khuyến
khích của Nhà nước hướng dẫn quá trình này đi theo một quỹ đạo mong muốn. Đặt vấn
đề lập và thực hiện một kế hoạch tái cơ cấu cho cả nền kinh tế là điều không thể và cũng
không cần.Tái cấu trúc kinh tế phải do từng chủ thể kinh tế làm, thông qua các dự án đầu
tư của mình. Cấu trúc mới của nền kinh tế sẽ hình thành như là kết quả chung của những
tái cơ cấu thực hiện ở từng chủ thể kinh tế.Như vậy sẽ xuất hiện hai hạn chế: Các chủ thể
kinh tế không thể có tầm nhìn rộng và xa như Nhà nước; Họ thường không có đủ vốn cần
cho tái cấu trúc. Như vậy, nhiệm vụ của nhà nước là khắc phục hai hạn chế này. Nếu Nhà
nước không thể và cũng không cần vạch ra kế hoạch tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế, thì
lại có thể và rất cần đề ra những định hướng chung về tái cấu trúc kinh tế phù hợp với
yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay và có những chính sách hỗ trợ các chủ thể
kinh tế khắc phục những hạn chế trong lập và thực hiện những dự án tái cấu trúc theo
những định hướng Nhà nước mong muốn.Chính sách quan trọng hàng đầu là những ưu
đãi thuế, bảo đảm cho các doanh nghiệp có được mức lãi hợp lý khi thực hiện tái cấu trúc
kinh tế., tín dụng, đất đai, lao động, chính sách đào tạo nhân lực, xây dựng hạ tầng kinh tế
– xã hội và nhiều chính sách khác.
Tóm lại, muốn quản lý thì nhà nước phải đưa ra các chính sách khuyến khích thúc
đẩy và tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế theo định hướng chung.Đây là những biện
pháp Nhà nước phải thực hiện để tái cấu trúc khu vực ngoài quốc doanh. Đối với khu vực
ngoài quốc doanh Nhà nước không chỉ quản lý vĩ mô, mà phải quản lý kinh doanh các
doanh nghiệp khu vực này với tư cách chủ sở hữu, bao gồm cả quản lý tái cấu trúc kinh
tế. Tuy nhiên vấn đề cần được đặt ra ở đây là ngay cơ chế quản lý kinh doanh khu vực
quốc doanh hiện vẫn còn đang lúng túng. Bước sang kinh tế thị trường, chúng ta ngày
càng thấy cần tách chức năng quản lý kinh doanh với chức năng quản lý nhà nước.
Nhưng thực tế cho thấy không được như vậy. Tiếp theo, kỳ vọng dường như được chuyển
sang cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). như báo cáo kiểm
toán mới được công bố, SCIC cũng không có khả năng thực hiện được chức năng này.
Vậy là trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước, mảng quản lý kinh
doanh doanh nghiệp nhà nước đã bị bỏ trống.Vậy ai nắm quyền chủ sở hữu và là cấp trên
của hội đồng quản trị tại các doanh nghiệp nhà nước? Trên văn bản thì đó là Thủ tướng
hoặc chủ tịch UBND các tỉnh (thành phố). Nhưng để Thủ tướng và các chủ tịch UBND
tỉnh thực sự quản lý kinh doanh các doanh nghiệp nhà nước, thì phải có bộ máy chuyên
trách giúp việc. Bộ máy này hiện chưa có bởi thế hội đồng quản trị vô hình trung trở
thành cơ quan quyền lực cao nhất, chủ sở hữu mặc nhiên bị lạm quyền!
Tại sao chủ nghĩa tân tự do kinh tế đã hết thời?
Sự xuất hiện của chủ nghĩa tân tự do đã đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong
chính sách kinh tế. Chủ nghĩa tân tự do nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường tự do,
tư nhân hóa, bãi bỏ quy định và giảm sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, khuếch
tán sức mạnh thị trường. Tuy nhiên sự khuếch tan này đi đôi cùng với sự tập trung.
Chẳng hạn như trong một vài ngành coong nghiệp ở Mỹ, ta có thể thấy ngành tài chính
chỉ tạo ra 4% việc làm, nhưng chiếm hơn 25% lợi nhuận doanh nghiệp. Hơn nữa chính sự
tập trung này giúp rất nhiều cho việc giải thích sự bất bình đẳng về kinh tế đang ngày
càng gia tăng. Theo Cesar Hidalgo và các đồng nghiệp của ông tại MIT cho thấy, những
nước có sự tập trung ngành giảm thì sự bất bình đẳng cũng giảm và ngược lại.Ở cấp tổ
chức cũng có xu huớng giống như vậy. Nhà kinh tế học Nicholas Bloom và David Price
của Stanford lập luận rằng hầu như toàn bộ sự gia tăng về bất bình đẳng thu nhập ở Mỹ
bắt nguồn từ sự gia tăng khoảng cách giữa các mức lương trung bình mà các doanh
nghiệp chi trả. Vào cuối những năm 1970, khi mà chủ nghĩa kinh tế tân tư do còn có sức
ảnh hưởng các nhà hoạch định chính sách trở nên bớt lo ngại rằng các công ty có thể biến
lợi nhuận trở thành ảnh hưởng chính trị. Thay vào đó, họ lo rằng các chính phủ đang bảo
hộ các công ty không có khả năng cạnh tranh.Với ý nghĩ này, các nhà hoạch định chính
sách bắt đầu dỡ bỏ các quy định và luật lệ về kinh tế đã được thực hiện, những quyết định
này đóng vai trò quan trongj trong việc tạo ra làn sóng toàn cầu hoá mới và sự tăng
trưởng của các quốc gia nhưng cũng đặt nền tảng cho sự tập trung của thu nhập và sự
giàu có trong nội bộ từng quốc gia. Ví dụ như dạng “ kinh tế số”.
Tại Trung Quốc, công ty thương mại điện tử khổng lồ Alibaba đang dẫn đầu một
nỗ lực rất lớn để kết nối khu vực nông thôn với các thị trường quốc gia và toàn cầu, bao
gồm cả nền tảng Taobao kết nối người tiêu dùng với người tiêu dùng. Nỗ lực này dẫn đến
sự khuếch tán đáng kể.Khi Alibaba xây dựng một nền kinh tế bao trùm gồm hàng triệu
công ty đa quốc gia nhỏ tham gia vào nền kinh tế, Alibaba cũng đang mở rộng sức mạnh
thị trường của chính mình.Giờ đây, các nhà hoạch định chính sách cần một cách tiếp cận
mới chống lại sự tập trung quá mức. Sự tập trung này có thể làm tăng hiệu quả, nhưng
cũng khuyến khích các công ty tích luỹ lợi nhuận và chi tiêu ít hơn. Để chống lại sự tập
trung như vậy thì chúng ta cần thực hiện luật cạnh tranh một cách thông minh hơn, tập
trung phát triển nhiều hình thức tìm kiếm đặc lợi, từ các quy định về bản quyền và bằng
sáng chế hoặc có thể lạm dụng tầm quan trọng của họ trong mạng lưới (internet). Hơn
nữa, các nhà hoạch định chính sách phải vượt qua sự cao ngạo tân tự do cho rằng những
người làm việc chăm chỉ và chơi đúng luật sẽ là những người sẽ vươn cao.Điều này có
nghĩa là việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo kỹ năng, cho dù là cần thiết, sẽ không đủ để
làm giảm bất bình đẳng thu nhập.Kinh tế học tân tự do đã đạt đến đỉnh điểm, khiến sự
chia rẽ tả-hữu trong chính trị được thay thế bằng một sự chia rẽ khác.

Chủ nghĩa tân tự do – Hệ tư tưởng nằm trong cội rễ tất cả các vấn đề
của chúng ta
Chủ nghĩa tân tự do là một hệ tư tưởng sâu sắc, nằm ở nguyên gốc của mọi thách
thức và vấn đề mà xã hội chúng ta đang đối mặt. Bài viết này sẽ đi sâu vào ý nghĩa,
nguồn gốc và ảnh hưởng của chủ nghĩa tân tự do trong việc định hình thế giới hiện đại.
Chủ nghĩa tân tự do không chỉ là một triết lý chính trị, mà còn là một hệ tư tưởng
toàn diện về cách nhìn nhận về tự do, công bằng và nhân quyền. Nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa này là sự tôn trọng đối với quyền tự do cá nhân và ý thức về sự đa dạng của xã
hội. Nó xâm nhận mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ chính trị đến văn hóa và kinh tế.
Tân tự do không chỉ là một khái niệm, mà là một lối sống. Nó đề cao quyền lực
của cá nhân và khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới. Trong một xã hội tân tự do, mọi
người được khuyến khích theo đuổi đam mê cá nhân và phát triển tiềm năng của mình
một cách tự do, không bị ràng buộc bởi các hệ thống chính trị hay xã hội tự trị.
Nhưng nguồn gốc của chủ nghĩa tân tự do là gì? Là sản phẩm của sự phát triển lịch
sử của con người, chủ nghĩa tân tự do nảy sinh từ những nỗ lực chiến đấu cho quyền tự
do và nhân quyền. Nó có nguồn gốc từ những phong trào cách mạng và những ý tưởng
triết học của những tác giả như John Locke và Jean-Jacques Rousseau.
Bài viết cũng sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ nghĩa tân tự do trong việc giải
quyết những thách thức đương đại. Đối mặt với các vấn đề như biến đổi khí hậu, chủ
nghĩa tân tự do thúc đẩy sự sáng tạo và tìm kiếm giải pháp bền vững. Trong lĩnh vực kinh
tế, nó thúc đẩy sự cạnh tranh và sự đổi mới, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế bền
vững và công bằng.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tân tự do cũng đối mặt với những thách thức và tranh cãi.
Một số người cho rằng nó có thể dẫn đến sự bất bình đẳng và tăng cường quyền lực của
tầng lớp thượng lưu. Bài viết sẽ thảo luận về những ý kiến phản đối này và đề xuất cách
giải quyết để đảm bảo rằng chủ nghĩa tân tự do không làm gia tăng khoảng cách xã hội.
Cuối cùng, bài viết sẽ đặt ra câu hỏi về tương lai của chủ nghĩa tân tự do trong một
thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Liệu nó có thể đối mặt với những thách thức mới
như sự tự độc của công nghệ và thay đổi toàn cầu về quan hệ quốc tế? Đồng thời, nó sẽ
kết luận bằng việc nhấn mạnh vai trò quan trọng của chủ nghĩa tân tự do trong việc xây
dựng một xã hội tự do, công bằng và bền vững.

TẠI SAO CÁC CHÍNH PHỦ CẦN LIÊN TỤC ĐỔI MỚI?
Vạn vật trên thế giới này kể cả con người, các công ty đều phát triển và thay đổi
theo thời gian. Chúng ta luôn bắt đầu với những thứ nhỏ nhặt, cơ bản nhưng nếu muốn “
sống sót” trong môi trường mà mọi thứ luôn thay đổi như thế này thì buộc chúng ta phải
trải qua quá trình học tập,cạnh tranh, tiếp thu những cái mới để trưởng thành hơn và trụ
vững. Cuộc chạy đua về sức cạnh tranh giữa các quốc gia cũng khốc liệt như cuộc cạnh
tranh giữa những công ty trên thị trường vậy. Các quốc gia cạnh tranh về nguồn vốn đầu
tư, các nhân sự tài năng, mức tăng trưởng và cơ hội trong một thế giới toàn cầu hóa.
Những quốc gia nào không theo kịp sẽ bị đẩy ra khỏi sự phát triển toàn cầu mà các quốc
gia khác đang hướng đến để trở thành “thế giới thứ 3”. Và những quốc gia bị “loại bỏ” đó
sẽ không đạt được sự phát triển về con người cũng như hạnh phúc cho người dân của họ.
Để tránh viễn cảnh này, các chính phủ phải tập trung vào điều quan trọng: sự đổi
mới. Nhìn vào các công ty, tổ chức tồn tại từ lâu đời đến nay, chúng ta đều có thể thấy
rằng muốn tồn tại và được mọi người công nhận thì phải chịu khó thay đổi, tìm tòi những
cái mới để phù hợp vs thời đại. “Nó là công thức cho sự sống sót và phát triển của loài
người, là nhiên liệu cho sự phát triển, và bản vẽ cho sự trỗi dậy của một đất nước.”
Chìa khoá đầu tiên cho sự đổi mới chính là tập trung vào các kĩ năng. Các chính
phủ cần liên tục bồi dưỡng, nâng cao kĩ năng của các nhân viên, cập nhật những xu
hướng mới nhất trong lĩnh vực chính của nền kinh tế và hệ thống giáo dục của họ đ đào
tạo ra những người tài giỏi có ích. Chìa khóa thứ hai để biến các chính phủ thành những
động cơ cho sự đổi mới là thay đổi cán cân đầu tư sang những tài sản vô hình. Đơn giản
hơn có nghĩa là chuyển đổi những thứ tài sản vật chất như tiền bạc thành kiến thức, kĩ
năng. Có thể hiểu là sự chăm chút đầu tư vào con người, vào giáo dục, nghiên cứu và
phát triển.
Ta có thể thấy những ví dụ điển hình như nước Anh hay Mỹ đều đầu tư cho các tài
sản” vô hình” nhiều hơn là “ hữu hình”. Một việc quan trọng hơn nữa là giữ chân được
những nhân tài, những người giỏi trong nhiều lĩnh vực. Trong bối cảnh mà các nước con
phải tranh dành các “nhân tài” thì việc nhà nước, chính phủ đưa ra các chính sách, đãi
ngộ để giư chân những người giỏi là vô cùng quan trọng.Vì vậy đối với các chính phủ,
đổi mới là một câu hỏi sống còn. Chỉ có những quốc gia nào duy trì sự đổi mới mới có
thể thúc đẩy thay đổi thế giới này, bới vì họ là những chính phủ không bao giờ già cỗi.

TỪ NHÀ NƯỚC PHÚC LỢI TỚI NHÀ NƯỚC ĐỔI MỚI


Hiện nay đang có một thực trạng đáng buồn đối với nền kinh tế thế giới– viễn
cảnh công nghệ tước đi công ăn việc làm. Do giai cấp công nhân công nghiệp mới bắt
đầu tổ chức nên chính phủ tránh được nguy cơ cách mạng từ bên dưới và tái cơ cấu hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa để nền kinh tế có lợi hơn, mang lại lợi ích cho mọi thành
phần và tạo cho người lao động một vị trí trong hệ thống. Những khám phá và ứng dụng
mới trong robot, công nghệ sinh học, công nghệ kỹ thuật số và các lĩnh vực khác Cùng
với các lĩnh vực khác xung quanh chúng ta, nhiều người tin rằng nền kinh tế thế giới có
thể đang trên đà bùng nổ công nghệ mới.
Hầu hết các công nghệ mới này đều làm giảm nhân lực, thậm chí đến mức những
công nhân có trình độ thấp và trung bình phải được thay thế bằng máy móc. Tuy nhiên,
điều quan trọng cần nhận ra là một số công việc đòi hỏi kỹ năng cấp thấp không thể dễ
dàng tự động hóa được. Trong một thế giới mà robot và máy móc cùng tồn tại, làm việc
cho con người không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp cao trên thế giới. Nhưng đây chắc chắn
là một thế giới trong đó phần lớn lực lượng lao động sẽ thất nghiệp hoặc được trả lương
thấp.
Điều quan trọng là phải nhận ra rằng các công nghệ mới mang tính đột phá, tuy
mang lại lợi ích đáng kể cho xã hội, nhưng cũng có thể gây hại cho người khác. Rủi ro
đặc biệt cao khi bắt đầu một giai đoạn đổi mới mới. Để đạt được mức độ đổi mới mà toàn
xã hội mong đợi đòi hỏi các doanh nhân phải dũng cảm - sẵn sàng chấp nhận rủi ro - hoặc
có đủ nguồn vốn đầu tư mạo hiểm.Như Mariana Mazzucato đã chỉ ra, nhà nước đóng vai
trò quan trọng trong việc đầu tư vào công nghệ mới.
Xã hội, thông qua chính phủ đại diện của mình, sẽ trở thành đồng sở hữu của một
thế hệ công nghệ và máy móc mới. Nhà nước phúc lợi là một sự đổi mới mang tính dân
chủ hóa, qua đó hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa của thế kỷ 20 được ổn định. Thế kỷ 21
đòi hỏi một sự chuyển đổi tương tự hướng tới “trạng thái đổi mới”. Điểm yếu của nhà
nước phúc lợi là nó yêu cầu thuế cao mà không bù đắp cho các khoản đầu tư nhằm kích
thích năng lực đổi mới. Một nhà nước đổi mới được thành lập như mô tả ở trên sẽ điều
phối các lợi ích và ưu đãi đầu tư.
VỐN VĂN HOÁ
Khi nghe nói đến hai từ “văn hoá , chúng ta sẽ có những cảm xúc vô cùng phức
tạp. Nó khơi dậy trong chúng ta niềm tự hào dân tộc, về các di sản, phong tục truyền
thống của nước ta. Tuy nhiên, trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá như hiện nay,
chúng ta mở rộng giao lưu văn hoá với những nước khác trong khu vực và trên thế giới,
nên những văn hoá đang ngày càng mai một đi. Đâu đâu cũng có thể bắt gặp những
người lớn tuổi ngao ngán về lối sống hiện đại, “mất văn hoá thời nay”. Vậy chúng ta có
thể làm được gì cho văn hoá, để tạo dựng một nước Việt Nam ngày càng tươi đẹp, phồn
vinh hơn? Trước tiên chúng ta cần biết văn hoá là gì? Theo một phúc trình của Uỷ ban
Thế Giới về Văn Hoá và Phát Triển của Liên Hợp Quốc (1995) thì từ "văn hoá" có thể
được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, văn hoá của một nước là những sinh hoạt trong
"lãnh vực văn hoá", hay là "khu vực công nghiệp văn hoá" của nước ấy. Đó là viết văn,
làm thơ, soạn nhạc, tạc tượng, vẽ tranh... nói chung là những hoạt động có tính văn
chương nghệ thuật. Thứ hai (nhìn theo quan điểm nhân chủng và xã hội học), văn hoá là
tập họp những phong thái, tập quán và tín ngưỡng, là nền tảng, là chất keo không thể
thiếu cho sự vận hành nhuần nhuyễn của xã hội.Văn hoá có thể hiểu thành 2 dạng:vật thể
và phi vật thể. Vốn văn hoá vật thể là gồm những công trình kiến trúc, đền đài cung
miếu, di tích lịch sử, những địa điểm có ý nghĩa văn hoá. Vốn văn hoá phi vật thể là
những tập quán, phong tục, tín ngưỡng, và các giá trị khác của xã hội. Nhiều học giả về
kinh tế muốn hiểu văn hoá như một nhân tố trong đời sống kinh tế, và nhất là muốn đánh
giá vai trò của nó trong tiến trình phát triển. Từ những nhận xét trên, vài nét chính về liên
hệ giữa văn hoá, kinh tế, và phát triển dần hiện rõ. Một là, muốn hội nhập vốn văn hoá
vào phân tích kinh tế ta phải xác định liên hệ giữa giá trị văn hoá và giá trị kinh tế. Chẳng
hạn như một ngôi nhà có gi trị văn hoá như một di tích lịch sử và có cả giá trị kinh tees để
làm nhà ở, mọi người sẽ bỏ nhiều tiền hơn để mua nó nếu như nó có giá trị văn hoá lớn.
Tức là chúng bơm tiêm giá trị văn hoá vào giá trị kinh tế của vật thể, làm tăng thêm, có
thể gấp nhiều lần, giá trị của vật thể ấy.Hai là, nên hỏi, vốn văn hoá đóng góp được gì vào
tổng thu nhập và tốc độ phát triển của một nước?Trong các mô hình phân tích tăng
trưởng kinh tế, có hai yếu tố luôn được coi là cốt lõi cho phát triển: lao động và vốn vật
thể. Như thế, đối với các nhà kinh tế thì nếu hội nhập vốn văn hoá vào mô hình ấy thì kết
quả sẽ ra sao? Vốn văn hoá có thể thay thế các loại vốn khác, các tài nguyên khác (ví dụ
như lao động), hoặc ngược lại, hay chăng? Giải đáp những câu hỏi này sẽ làm sáng tỏ
những tranh luận về vai trò của văn hoá trong phát triển kinh tế.Ba là, vốn văn hoá giúp ta
hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát triển. Bốn là, chế độ thị trường và xu thế
toàn cầu hóa đặt ra những thử thách và những cơ hội mới. Trong lãnh vực văn hoá, quyết
định của người sản xuất cũng như người tiêu dùng ngày càng bị chi phối hơn bởi những
quy luật, những tình huống kinh tế.Chúng ta cần một chính sách văn hoá, nhưng chính
sách đó phải tôn trọng thực tế của kinh tế thị trường, trong thời đại mở cửa, không vướng
mắc những ảo tưởng, cảm tính chủ quan.

1. Tư duy về nhà nước và pháp luật trong thời đại ngày nay

Bài viết “Tư duy về nhà nước và pháp luật trong thời đại ngày nay” của tác giả
Đào Trí Úc là một bài viết tổng quan, đánh giá về những tư duy mới về nhà nước
và pháp luật trong thời đại ngày nay. Bài viết đề cập đến những vấn đề cơ bản như:
bản chất của nhà nước và pháp luật, chức năng của nhà nước, mối quan hệ giữa
nhà nước và pháp luật, và định hướng phát triển của nhà nước và pháp luật trong
thời đại ngày nay.

1. Bản chất của nhà nước và pháp luật

Tác giả cho rằng, bản chất của nhà nước và pháp luật là sự thống nhất giữa hai yếu
tố: quyền lực và pháp luật. Quyền lực là yếu tố cơ bản, nền tảng của nhà nước và
pháp luật. Pháp luật là phương tiện để nhà nước thực hiện quyền lực của mình.

Tác giả cũng phân tích rằng, bản chất của nhà nước và pháp luật có thể được thể
hiện ở một số khía cạnh cụ thể sau:

 Tính quyền lực: Nhà nước và pháp luật là những hiện tượng mang tính
quyền lực. Nhà nước có quyền lực tối cao trong xã hội, còn pháp luật là ý
chí của nhà nước được thể hiện dưới hình thức văn bản.

 Tính công cộng: Nhà nước và pháp luật mang tính công cộng, tức là phục vụ
lợi ích chung của xã hội.

 Tính khách quan: Nhà nước và pháp luật mang tính khách quan, tức là tồn
tại và phát triển theo quy luật khách quan của xã hội.
2. Chức năng của nhà nước

Tác giả cho rằng, chức năng của nhà nước là những nhiệm vụ cơ bản, thường
xuyên mà nhà nước phải thực hiện để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Tác giả cũng phân tích rằng, chức năng của nhà nước có thể được phân loại theo
nhiều tiêu chí khác nhau, nhưng có thể chia thành hai loại chính: chức năng chính
trị và chức năng kinh tế - xã hội.

 Chức năng chính trị: Chức năng chính trị là chức năng cơ bản của nhà nước,
bao gồm các nhiệm vụ như: bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của quốc gia; bảo vệ chế độ chính trị, kinh tế - xã hội; xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức.

 Chức năng kinh tế - xã hội: Chức năng kinh tế - xã hội là chức năng nhằm
đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bao gồm các nhiệm vụ
như: phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; giải quyết các vấn đề xã hội; nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

3. Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật

Tác giả cho rằng, nhà nước và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau.
Nhà nước là chủ thể ban hành pháp luật, còn pháp luật là phương tiện để nhà nước
thực hiện quyền lực của mình.

Tác giả cũng phân tích rằng, mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật có thể được
thể hiện ở một số khía cạnh cụ thể sau:
 Nhà nước là cơ sở của pháp luật: Nhà nước là chủ thể ban hành pháp luật, là
lực lượng bảo đảm pháp luật được thực hiện.

 Pháp luật là cơ sở của nhà nước: Pháp luật là nền tảng, cơ sở pháp lý cho sự
tồn tại và hoạt động của nhà nước.

 Nhà nước và pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại: Nhà nước tác động
đến pháp luật thông qua việc ban hành, sửa đổi, bổ sung pháp luật. Pháp luật
tác động đến nhà nước thông qua việc điều chỉnh các hoạt động của nhà
nước, bảo đảm cho nhà nước hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.

4. Định hướng phát triển của nhà nước và pháp luật trong thời đại ngày nay

Tác giả cho rằng, trong thời đại ngày nay, nhà nước và pháp luật cần có những
định hướng phát triển mới để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của xã hội.

Tác giả cũng phân tích rằng, những định hướng phát triển của nhà nước và pháp
luật trong thời đại ngày nay có thể được thể hiện ở một số khía cạnh cụ thể sau:

 Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa:

 Pháp luật cần được đổi mới, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển
của xã hội: Pháp luật cần được đổi mới, hoàn thiện về nội dung, hình thức,
phương thức thực hiện,... để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển của xã hội,
đặc biệt là sự phát triển của khoa học, công nghệ, kinh tế - xã hội,...
 Cần tăng cường giáo dục pháp luật cho nhân dân: Giáo dục pháp luật là một
trong những yếu tố quan trọng để nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân,
tạo điều kiện cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả.
Cần tăng cường hợp tác quốc tế về nhà nước và pháp luật: Hợp tác quốc tế về
nhà nước và pháp luật là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước, xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

2. Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước


Theo Thạc sĩ Nguyễn Minh Đoan quyền lực được xem là khả năng của cá
nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí
của mình được sinh ra từ nhu cầu tổ chức hoạt động chung, nhu cầu phân công lao
động xã hội và quản lý xã hội là điều kiện và phương tiện cần thiết khách quan
đảm bảo sự hoạt động bình thường của bất kỳ cộng đồng xã hội nào .Nó thể hiện
mối quan hệ chỉ huy lệ thuộc hoặc mệnh lệnh phục tùng thể hiện sự áp đặt ý chí
của chủ thể có quyền đối với chủ thể dưới quyền và sức mạnh của nó xác định ở
mức độ phụ thuộc phục tùng của chủ thể dưới quyền đối với ý chí của chủ thể có
quyền.Quyền lực tồn tại ở mọi cộng đồng và tổ chức trong xã hội có giai cấp cũng
như trong xã hội không có giai cấp và đối với các bộ phận khác nhau.Trong đó
cưỡng chế là là nội dung và phương pháp mang tính quyết định để thực hiện quyền
lực. Trong xã hội tồn tại rất nhiều loại quyền lực khác nhau như quyền lực thị tộc,
quyền lực nhà nước, quyền lực của mỗi tổ chức trong xã hội… Quyền lực có quan
hệ mật thiết với hoạt động quản lý là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm sự
thống nhất ý chí của nhiều cá nhân nhằm thực hiện những công việc chung. Quyền
lực nhà nước gắn gắn liền với chủ quyền quốc gia, được thể hiện thông qua
những định chế nhà nước- pháp luật. Nó mang tính giai cấp và mục đích chính trị
rõ ràng và luôn thuộc về giai cấp thống trị và luôn phục vụ chủ yếu cho lợi ích của
giai cấp thống trị. Trong trường hợp quyền lực tối cao nhà nước tập trung trong tay
một cá nhân thì dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền và lạm quyền. Khi quyền lực
nhà nước được phân định một cách ưu việt trong các vùng lãnh thổ khác nhau
trong đất nước dẫn đến tình trạng phân quyền các cứ, địa phương chủ nghĩa, không
tập trung thống nhất. Để tránh tình trạng đó lý thuyết phân chia quyền lực ra đời.

Quyền lực được chia làm ba quyền lập pháp hành pháp và tư pháp giao cho
các cơ quan nhà nước khác nhau ở trung ương nắm giữ và thực hiện các loại quyền
lực này. Lý thuyết phân chia được sử dụng khá phổ biến ở các nước tư sản. Tuy
nhiên mỗi nước thì cách phân chia không giống nhau. Ở một số nước tình trạng
xung đột và mâu thuẫn giữa các nhánh quyền lực thường xuyên xảy ra. Để khắc
phục tình trạng đó quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa thay đổi tổ chức theo
nguyên tắc tập trung thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp thực hiện quyền
lực giữa các cơ quan nhà nước một cách hợp lý. Theo quy định của hiến pháp và
các đạo luật tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta thì nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Tuy nhiên
quyền lực nhà nước tối cao được trao cho Quốc hội vì vậy, Quốc hội được coi là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất thay mặt cho nhân dân cả nước quyết định
những vấn đề cơ bản, trọng đại nhất của đất nước.

Muốn thực hiện quyền lực nhà nước thì không chỉ cần Quốc hội và hội đồng
nhân dân Mà cần phải có các cơ quan nhà nước khác để cùng với các cơ quan
quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. Tất cả các cơ quan khác của
nhà nước đều do Quốc hội và hội đồng nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập
để đảm bảo sự thống nhất và không phân chia quyền lực. Bằng cách này quyền lực
nhà nước của nước ta sẽ được tập trung thống nhất vào các cơ quan quyền lực nhà
nước. Vì vậy sự tập trung này là cần thiết nó đảm bảo cho sự thống nhất của cơ chế
thực hiện quyền lực nhà nước tránh được hiện tượng mâu thuẫn xung đột. Để đảm
bảo việc quản lý toàn diện thống nhất các mặt quan trọng của đời sống xã hội cần
thành lập hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương kết hợp
theo ngành và các lãnh thổ.

Có thể thấy tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng nhân dân sử
dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.Vì vậy
khi nói quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là để chỉ cái gốc, điểm xuất phát
của quyền lực nhà nước là từ nhân dân. Nó được biểu thị cụ thể ở hệ thống các cơ
quan tổ chức và những nguyên tắc vận hành của hệ thống đó tạo nên cơ chế thực
hiện quyền lực nhà nước .Quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân nhưng chủ thể
trực tiếp mang và thực hiện quyền lực nhà nước là nhà nước ( thông qua các cơ
quan nhà nước). Nếu không có bộ máy nhà nước mang và thực hiện quyền lực
nhân dân thì chưa phải là quyền lực nhà nước. Tuy nhiên một số nhà khoa học cho
rằng quyền lực nhà nước không thể phân chia thành 3. Nếu quyền lực nhà nước
không thể phân chia thì nói “quyền lực nhà nước là thống nhất không thể phân
chia” là thừa và không nên nói bộ máy nhà nước tư sản tổ chức theo nguyên tắc
phân chia quyền lực còn bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa tổ chức theo nguyên
tắc quyền lực tập trung thống nhất. Là thiết kế quyền lực mỗi cơ quan nhà nước
đều thể hiện quyền năng của mình trong phạm vi thẩm quyền của mình. Do vậy
nếu nói quyền lập pháp hành pháp và tư pháp chỉ làm quyền năng tức là nói nghị
viện chỉ có quyền năng lập pháp, tổng thống chỉ có quyền năng hành pháp và Tòa
án thì chỉ có quyền năng tư pháp là không có cơ sở thực tiễn. Từ những trình bày
trên ta có thể thấy quyền lực nhân dân thì không thể phân chia nhân quyền lực mà
các cơ quan nhà nước mang và thực hiện thì có thể phân chia được theo đơn vị
lãnh thổ giữa trung ương và địa phương hoặc giữa các cơ quan nhà nước theo
chiều ngang. Như đã khẳng định quyền lực nhà nước ở nước ta là tập trung thống
nhất không phân chia nhưng trong quá trình thực hiện quyền được nhà nước thì
giữa các cơ quan nhà nước phải có sự phân công và phối hợp với nhau. Vấn đề mà
chúng ta quan tâm hiện nay là hoàn thiện hơn nữa bộ máy Nhà nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm
sao bảo đảm được tính hiệu quả trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà
nước của nhân dân.

3. QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ VIỆC BỔ SUNG SỬA ĐỔI


MỘT SỐ ĐIỀU CỦA HP 1992

Quyền lực nhà nước là khả năng nhà nước có thể buộc các nhân, tổ chức
phải phục tùng. Nó luôn tồn tại trong những mối loại quan hệ xác định. Tuy nhiên,
sự phục tùng nhà nước không phải lúc nào cũng dựa trên “ khả năng” - được hiểu
là sức mạnh bạo lực nhà nước , trong nhiều trường hợp, sự phục tùng nhà nước còn
có được bởi các cá nhân, tổ chức trong xã hội chẳng hạn như tâm lí lo lắng, sợ hãi
trước những hiện tượng bạo lực nên muốn được nhà nước chở che.

Các cá nhân tổ chức phải phục tùng nhà nước nhưng nhà nước cũng phải
phục tùng nhân dân. Nhân dân có thể để chính quyền tồn tại và có thể phá bỏ nó.
Đây gọi là quyền lực nhân dân. Quyền lực nhân dân vẫn luôn tồn tại. Nó tồn tại
trong những mối quan hệ giữa nhân dân và nhà nước và các tổ chức khác của họ.
Trong bộ máy nhà nước luôn có những cơ quan đại biểu của nhân dân để kiểm tra,
giám sát hoạt động nhà nước. Quyền lực ấy có thể được sử dụng để tổ chức và
quản lí đời sống xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá… đem lại lợi ích cho toàn thể
nhân dân .Vì vậy, nhân dân là chủ thể quyền lực của nhân dân, khi thực hiện quyền
lực của mình thì nhân dân lấy nhà nước là công cụ thay mặt nhân dân. Quyền lực
nhân dân là tối thượng. Cơ chế vận hành nhà nước cũng rất quan trọng. Cách thức
tổ chức nhà nước sẽ quyết định hiệu lực, hiệu quả của nó. Quyền lực được vận
hành theo cơ chế: Chủ thể quyền lực thể hiện ý chí, đối tượng quyền lực, bằng
hành vi của mình thực hiện nội dung ý chí ấy. Ý chí nhà nước thường được thể
hiện dưới những quy tắc xử sự chung, được đặt ra không phải cho cá nhân, tổ chức
cụ thể nào mà cho loại đối tượng nhất định, áp dụng trên địa bàn rộng rãi.

Theo cách phân chia quyền lực theo tư tưởng của Montesquyeu thì phân
quyền lực thành tư pháp, lập pháp và hành pháp là sự “ phân công lao động quyền
lực” là phân chia các mắt, các khâu trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước.
Khái niệm quyền lực và quyền lực nhà nuớc rất trừu tượng, phải bằng tư duy trừu
tượng mới nhận ra được, nên phải hiểu là phân chia tức là phân chia Ra thành
những phần những bộ phận thì quyền lực nhà nước hay quyền lực nói chung không
thể phân chia được. Chính vì vậy không thể nói quyền lực nhà nước được phân
chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp người ta chỉ có thể
phân chia các mắt, khâu, các giai đoạn trong quá trình thực thi quyền lực nhà
nước.Tuy nhiên cũng không thể nói quyền lực nhà Nước là tập trung một cách
tuyệt đối được. Như vậy thuộc tính vốn có của quyền lực nói chung quyền lực nhà
nước nói riêng là không thể phân chia chỉ có sự phân chia khác mắc khâu trong quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước mà thôi.

Do đó khi nói quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất phải hiểu theo
nghĩa đối lập với phân tán. Ở nghĩa này tập trung được hiểu là dù là một chỗ một
nơi còn thống nhất được hiểu là quy về một mối. Từ đó tập trung thống nhất quyền
lực nhà nước và hiểu là tập trung vào trung ương quy về trung ương chứ không
phải các cứ phân tán Tản Mạn. Sức mạnh bạo lực của nhà nước tiềm lực vật chất
hay khả năng tác động về mặt tinh thần của nó đều tập trung thống nhất ở Trung
ương.

Liên hệ với Việt Nam thấy có một số vấn đề cũng nên được trao đổi:
+Thứ nhất từ cách hiểu về quyền lực nhà nước quyền lực nhân dân chúng ta thấy
điều 2 hiến pháp 1992 có ý quy định rằng không phải tất cả quyền lực trong xã hội
đều thuộc về nhân dân.n Nhân dân chỉ là chủ thể của một bộ phận quyền lực trong
xã hội quyền lực nhân dân. Tuy nhiên quyền lực nhân dân luôn luôn là tối cao biểu
hiện ở chỗ nhân dân là người quyết định cao nhất các vấn đề của đất nước. Chính
vì vậy Điều 2 Hiến pháp năm 1992 nên được sửa lại là “quyền lực tối cao trong xã
hội thuộc về nhân dân”
+Thứ hai quy định như điều 6 Hiến pháp năm 1992 có ý quy định rằng quyền lực
nhân dân được thực hiện bằng nhiều hình thức, thông qua nhiều công cụ khác
nhau, trong đó chủ yếu là thông qua các cơ quan đại biểu nhân dân. Vì vậy điều 6
Hiến pháp 1992 nên được sửa lại là “nhân dân thực hiện quyền lực của mình chủ
yếu thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp”
+ Thứ ba quan niệm như trên là dẫn đến một vấn đề cần được làm sáng tỏ đó là
Quốc hội, hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước hay cơ quan quyền
lực nhân dân? Nhiều ý kiến cho rằng hiến pháp không nên quy định Quốc hội, Hội
đồng nhân dân là những cơ quan quyền lực nhà nước bởi lẽ quyền lực nhà nước
được thực thi bằng cả bộ máy nhà nước chứ không phải chỉ bằng Quốc hội hay Hội
đồng Nhân dân các cấp. Mặt khác quy định hội đồng nhân dân là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương là mâu thuẫn với nguyên tắc quyền lực nhà nước tập
trung thống nhất. Có thể thấy Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp là những cơ
quan của nhân dân thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhân dân đồng thời với
tư cách là cơ quan Nhà nước. Quốc hội thay mặt Nhà nước thể hiện ý chí Nhà
Nước. Nói cách khác Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp mặc dù là những cơ
quan đại biểu của nhân dân do nhân dân bầu ra nhưng lại thực hiện quyền lực nhà
nước. Bởi vậy quốc hội và hội đồng nhân dân phải được coi là những cơ quan
quyền lực nhà nước .Tuy nhiên việc Quốc hội đồng nhân dân thực hiện cả hai loại
“nhiệm vụ” đó sẽ dẫn đến điều chúng ta thường nói là ai sẽ là người kiểm tra giám
sát Quốc hội và hội đồng nhân dân. Hoạt động của Quốc hội, Hội đồng Nhân dân
các cấp vì thế khó có thể đạt được hiệu quả cao, Đây là vấn đề lớn và vô cùng phức
tạp vì vậy cần phải được suy nghĩ một cách thực sự sâu sắc. Trong điều kiện hiện
nay khi mô hình trên có thể chưa được thực hiện thì việc tăng cường chức năng
giám sát của quốc hội hội đồng nhân dân các cấp là vô cùng cấp thiết. Theo dõi
hoạt động của Quốc hội chúng ta thấy rất hiếm các phiên họp toàn thể của Quốc
hội có đầy đủ các vị đại biểu quốc hội tham dự. Quốc hội, Hội đồng nhân dân liệu
có thể làm tròn chức năng giám sát của mình khi nhiều đại biểu quốc hội đồng
nhân dân vừa là người giám sát vừa là người bị giám sát.
+ Thứ tư quyền lực nhà nước ta là tập trung thống nhất nhưng tập trung vào đâu?
Vấn đề này có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền lực
nhà nước Tập trung thống nhất nơi nhân dân còn quan điểm khác thì cho rằng
quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất ở Quốc hội.

4. “Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự


phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp”, Lê Minh Tâm, Tạp chí
Luật học, số 5/2003
1. Quyền lực
Quyền lực được hợp thành từ quyền và lực trong đó quyền được hiểu là khả
năng thực hiện những hành vi và lực là sức mạnh bảo đảm cho Quyền có tính hiện
thực và tính khả thi. Quỳnh có nội dung rất rộng và nhiều loại vì quyền hình thành
từ những nhu cầu khách quan và sự ước muốn chủ quan, Phạm vi quyền lực luôn
có xu hướng mở rộng.Nhưng lực thì luôn có những giới hạn nhất định. Vì vậy Nội
hàm của khái niệm quyền lực luôn thể hiện sự giới hạn bởi mức độ kết hợp với
mức độ tương tác giữa quyền và lực. Theo đó quyền lực là khả năng được bảo đảm
bằng sức mạnh để thực hiện những hành vi hoặc một người khác phải thực hiện
những hành vi nhất định theo ý chí của người có quyền hoặc được trao quyền lực.
Nói cách khác quyền lực là sức mạnh có thể khiến người này phải phục tùng người
kia, quyền lực biểu thị mức độ kiểm soát và mức độ phụ thuộc của người này với
người khác.Quyền lực là khái niệm vừa có tính khái quát lại vừa có tính cụ thể.
Nhờ có tính khái quát và tính cụ thể mà quyền lực vừa có chiều sâu bản chất thâm
trầm lại vừa có những hình thức biểu hiện phong phú, Vừa thống nhất lại vừa đa
dạng. Mức độ khái quát và cụ thể của quyền lực được biểu hiện tùy thuộc vào
những yếu tố khách quan và chủ quan. Có nhiều loại quyền lực khác nhau như
quyền lực luân lí, Quyền lực kinh tế, quyền lực tư tưởng, quyền lực chính trị,...
Mỗi loại quyền lực đều có nguồn gốc ,cơ sở tồn tại và được đảm bảo bằng những
sức mạnh với các thiết chế khác nhau.

Quyền lực luôn có sự vận động phát triển theo thời gian, không gian cùng
với sự biến đổi của các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong quá trình
vận động và phát triển sự tương tác và thâm nhập lẫn nhau giữa các loại quyền lực
và giữa các biến dạng của mỗi quyền lực ngày càng gia tăng, khiến cho sự phân
định giữa chúng trở nên phức tạp hơn.

2. Quyền lực nhà nước


Quyền lực nhà nước là một dạng đặc biệt của quyền lực chính trị. Tính chất
đặc biệt của quyền lực Nhà nước thể hiện ở chỗ, Nó là quyền lực công khai, thống
nhất, bao trùm toàn bộ xã hội quyền lực nhà nước có đủ sức mạnh đã kiểm soát và
ràng buộc những chủ thể theo nghĩa rộng nhất phải phục tùng. Quyền lực nhà nước
có những đặc điểm cơ bản:

Thứ nhất quyền lực nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến
trình độ nhất định dẫn đến sự ra đời của Nhà nước.
Thứ Hai cơ sở tồn tại của quyền lực nhà nước bao gồm nhiều yếu tố: Được
sự thừa nhận rộng rãi về mặt xã hội; Được hợp pháp hóa dưới các hình thức pháp
lý; được đảm bảo bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước và các tiềm năng kinh tế
hợp pháp.

Thứ Ba phạm vi tác động của quyền lực nhà nước rất rộng lớn về thời gian
không gian và đối tượng

Thứ tư quyền lực nhà nước có tính thống nhất cao nhất đồng thời cũng có
tính thứ bậc phức tạp nhất.

Thứ năm quyền lực nhà nước được biểu hiện công khai với danh nghĩa chủ
quyền nhân dân chủ quyền quốc gia và được thừa nhận về mặt quốc tế

Với tính chất của những đặc điểm cơ bản này mặc dù quyền lực nhà nước là
một trong những dạng đặc biệt của quyền lực chính trị nhưng ở các mức độ khác
nhau, quyền lực Nhà nước luôn hàm chứa trong đó nhiều yếu tố các loại quyền lực
khác nhau, được kết tin bằng các phương pháp đặc thù, Biểu hiện dưới các hình
thức hết sức phong phú, đa dạng, tinh tế.

3. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước

Thống nhất là một những thuộc tính cơ bản của quyền lực nhà nước. Tính
năng xuất phát từ những cơ sở sau:

Xét về nguồn gốc quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự thân mà
bắt nguồn từ quyền lực nhân dân nhân dân quyền lực nhân dân và lưu trữ sự kiểm
soát của quyền lực nhân dân. Lúc đầu nhà nước tồn tại với quy mô nhỏ đa số các
vấn đề quan trọng đã được cộng đồng dân cư trong quốc gia đó trực tiếp bàn và
quyết định. Khi quy mô nhà nước lớn dần lên phương thức dân chủ trực tiếp không
thể thực hiện một cách phổ biến nữa thì phương thức dân chủ gián tiếp thông qua
cơ quan dân cử để tổ chức ra quyền lực Nhà nước đã được tìm ra vào ngày càng áp
dụng rộng rãi. Tuy nhiên quyền lực nhân dân vẫn là cơ sở và sự biểu hiện dễ nhận
thấy là vì các nhà nước phải tôn trọng quyền bầu cử bãi miễn những đại biểu cho
nhân dân bầu ra và đối với những vấn đề trọng đại của đất nước phải đưa ra trưng
cầu dân ý….. Vì vậy Có thể nói quyền lực nhà nước là sức mạnh của quyền lực
nhân dân đã được học pháp hóa Dưới Các hình thức pháp lý và được trao cho bộ
máy nhà nước và các chủ thể xác định của bộ máy đó dưới hình thức ủy quyền. Do
đó xét về bản chất và cội nguồn xã hội thì quyền lực nhà nước là một chỉnh thể
thống nhất không thể chia các thành các bộ phận biệt lập. Tuy nhiên, xuất phát từ
nhu cầu của tổ chức lao động quyền lực vì phân định quyền lực nhà nước thành các
bộ phận để từ đó có sự phân công hợp lý là cần thiết. Nhưng sự phân công đó phải
được đặt trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất và tính chỉnh thể của quyền lực nhà
nước. Có thể nói tính thống nhất quyền được nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc
và đảm bảo tính thống nhất của quyền lực là yêu cầu có tính khách quan. Sự tương
tác giữa quyền và lực tính chất và đặc điểm của quyền lực nhà nước tự nó ra đòi
hỏi quyền lực nhà nước phải được tổ chức thống nhất để tổ chức quản lý và điều
hành các vấn đề của một quốc gia trên các lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, linh hoạt và
nhạy cảm đòi hỏi Nhà nước phải có một bộ máy có đủ các cơ cấu và sức mạnh
theo nghĩa rộng nhất của từ này. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước hoàn
toàn không phải là sự tập. Tính thống nhất là thuộc tính thể hiện bản chất của
quyền lực Còn tập trung quyền lực hay phân tán quyền lực là phương thức, cơ chế,
tổ chức và thực thi nội dung của quyền lực.

4. Sự phân định tương đối của quyền lực nhà nước


Nếu như tính thống nhất của quyền lực nhà nước là vấn đề tất yếu và xuyên
suốt quá trình tồn tại và phát triển của quyền lực nhà nước thì sự phân định tương
đối của quyền lực nhà nước cũng xuất phát từ nhu cầu có tính khách quan. Nhưng
đó là phương thức tổ chức và thực thi quyền lực và quá trình xuất hiện tồn tại và
phát triển của nó có những đặc điểm riêng: Sự xuất hiện chậm hơn có nhiều biến
dạng và luôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau.

Nhu cầu về phân định và phân công quyền lực nhà nước còn xuất phát từ
chính nhà nước. Là đại diện chính thức của toàn xã hội hoạt động của nhà nước
bao trùm tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội vì thế bộ máy nhà nước là thiết
chế lớn nhất và có cơ cấu phức tạp nhất. Đòi hỏi phải có sự tổ chức lao động quyền
lực một cách khoa học và sự phân định quyền lực một cách tương đối sẽ là giải
pháp có thể đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước vừa phát huy được
sức mạnh của mỗi bộ phận quyền lực trong quản lý và điều hành xã hội tạo ra cơ
chế để đảm bảo cho quyền lực nhà nước được tổ chức công khai, Có thể kiểm soát
được nhằm chống độc đoán, lạm quyền, vi phạm tự do dân chủ của nhân dân. Sự
giới hạn tương tác giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự cần thiết phải
có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền.

Các quyền lập pháp hành pháp và tư pháp là những bộ phận quyền lực nhà
nước. Mỗi bộ phận đều có sự độc lập nhất định nhưng giữa chúng luôn có sự tác
động qua lại, đan xen và hòa quyện với nhau. Việc phân định rạch ròi mỗi bộ phận
quyền lực đó chỉ có thể thực hiện được về mặt Lý thuyết còn trên thực tiễn là
không thể thực hiện được. Vì vậy giải pháp tốt nhất và có ý nghĩa thực tiễn nhất là
trên cơ sở xác định rõ tính chất, Đặc điểm, Nội dung, Hình thức và phương pháp
biểu hiện đặc thù của mỗi loại quyền lực để xây dựng cơ sở khoa học cho việc tìm
ra mức độ hợp lý trong việc phân công và phối hợp thực hiện có hiệu quả cao nhất
Mỗi loại quyền lực đó nói riêng và quyền lực nhà nước nói chung.
5. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp hành pháp tư pháp

1. Quyền lực nhà nước là thống nhất


Quyền lực nhà nước là một dạng quyền lực xã hội mang tính ý chí gắn liền
với chủ quyền quốc gia. Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân. Nhà nước
nhận quyền từ nhân dân tạo nên một khả năng thống nhất vô cùng to lớn trong đời
sống xã hội. Nó không chỉ bắt nguồn từ nhân dân mà còn bởi bản thân nhà nước.
Quyền lực nhà nước sinh ra do nhu cầu phân công lao động xã hội và nhu cầu quản
lý quyền lực xã hội từ phía nhà nước. Do sự phát triển của nhà nước và nhu cầu
quản lý đời sống xã hội mà đội ngũ những người thực hiện quyền lực nhà nước
ngày càng đông đảo về số lượng được nâng cao về chất lượng và ngày càng phải
thực hiện nhiều những công việc khác nhau của xã hội. Sự phân chia quyền lực
theo chiều ngang( giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp) và cả chiều dọc (giữa các
cơ quan nhà nước thuộc các phạm vi lãnh thổ các cấp khác nhau). Ở nước ta theo
quy định của hiến pháp và các luật tổ chức bộ máy nhà nước thì tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Để đảm bảo việc quản lý toàn diện thống nhất
các mặt quan trọng trong đời sống xã hội cần thành lập hệ thống các cơ quan nhà
nước từ trung ương tới địa phương kết hợp theo ngành và theo lãnh thổ. Các cơ
quan nhà nước ở địa phương thay mặt cho nhân dân cả nước thực hiện quyền lực
nhà nước ở phạm vi địa phương đồng thời đại diện cho ý chí nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Trong quá trình thực hiện quyền lực nhà
nước thì giữa các cơ quan nhà nước phải có sự phân công phối hợp với nhau
2. Sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước
Quyền lực Nhà nước thường liên quan đến ba hoạt động cơ bản là xây dựng
pháp luật, công bố và tổ chức thực hiện pháp luật xét xử để giải quyết những tranh
chấp và xử lý vi phạm pháp luật. Gắn liền với 3 hoạt động cơ bản đó người ta chia
quyền lực nhà nước bao gồm ít nhất ba thứ quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Phân công thực hiện quyền lực nhà nước giao cho từng nhóm các cơ quan
nhà nước thực hiện một quyền lực nhất định nào đó có tính chất chuyên nghiệp sự
chuyên nghiệp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm nâng cao năng suất
lao động trong hoạt động quản lý nhà nước. Không chỉ có tác dụng nâng cao năng
suất lao động mà sự phân công phù hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lực nhà nước cần tránh được sự ôm đồm bao biện hoặc chồng chéo
chức năng nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước. Việc phân công thực hiện quyền
lực nhà nước cũng hạn chế được sự độc đoán chuyên quyền. Sự lạm dụng quyền
lực trong bộ máy nhà nước bởi nguy cơ mang tính phổ biến của những người
những cơ quan cầm quyền là dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền. Sự phân công hợp
lý công việc giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lực nhà nước sẽ tạo
ra sự chủ động linh hoạt năng động của mỗi cơ quan cũng như cả bộ máy nhà
nước. Sự phân công thực hiện quyền lực luôn diễn ra theo nhiều chiều khác nhau:
Theo chiều ngang giữa các cơ quan cùng cấp theo chiều dọc giữa các cùng một
loại cơ quan ở các cấp khác nhau. Trên cơ sở sự phân công hợp lý và nhiệm vụ
quyền hạn trong pháp luật sẽ là tiêu chí để đánh giá tính hợp pháp trách nhiệm hiệu
quả trong hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước.
Vậy ai sẽ làm nhiệm vụ phân công việc thực hiện quyền lực nhà nước đối
với các cơ quan nhà nước? Câu trả lời là nhân dân và các cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, các cơ quan nhà nước tự phân công. Đối với các nhà nước đương
đại thì việc phân công thực hiện quyền lực nhà nước được quy định trong văn bản
pháp luật mà quan trọng nhất là Hiến Pháp. Sự phân công những các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ mang tính tương đối.
Nghĩa là làm sao để cơ quan được phân công thực hiện quyền lực nào đó vừa có sự
độc lập tương đối bảo đảm tính chuyên nghiệp đối với công việc được giao và bồi
dưỡng được các mối liên hệ giữa ràng buộc chế ước từ phía các cơ quan khác trong
một cơ chế thống nhất của bộ máy nhà nước. Do vậy thông thường người ta giao
cho một cơ quan chủ yếu thực hiện một quyền nào đó còn các cơ quan khác cùng
tham gia hỗ trợ cho cơ quan nói trên trong việc thực hiện quyền lực đó. Sự phân
công thuộc hệ tuần hoàn nhà nước không chỉ dừng lại ở giữa các loại cơ quan nhà
nước khác nhau mà còn bao hàm cả sự phân công trong mỗi loại cơ quan nhà nước
khi cùng thực hiện một loại quyền lực. Nếu sự phân công không rõ ràng quy định
nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan nhà nước không chặt chẽ sẽ dẫn đến hiện
tượng không liên kết được trách nhiệm cho các cơ quan hoặc sự khó khăn trong
việc phối hợp công việc giữa các cơ quan. Ngoài ra có thể có nguy cơ một số cơ
quan sẽ “chạy trọt” để được phân công những công việc “ngon” có nhiều lợi ích
cho cơ quan của mình chuyển việc khó ít lợi ích cho cơ quan khác.
3 Sự phối hợp thực hiện quyền lực
Bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, thực hiện quyền lực nhà nước
thống nhất, xuất phát từ tính thống nhất của quyền lực nhà nước, sự thống nhất ở
mục đích cuối cùng trong hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước đòi hỏi phải
có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước. Ở phạm vi hạn chế hơn là sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước đã
thực hiện một quyền lực nào đó chẳng hạn để giải quyết một vụ án hình sự cần
phải có sự phối hợp giữa các cơ quan điều tra,cơ quan giám sát, viện kiểm sát, cơ
quan tòa án cơ quan, cơ quan thi hành án…
Phối hợp là sự hỗ trợ lẫn nhau để cùng thực hiện quyền lực nhà nước thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước cùng
tham gia thực hiện giải quyết một vấn đề có sự phối hợp với nhau sẽ dễ dàng thực
hiện nhiệm vụ của mỗi cơ quan cũng như nhiệm vụ chung của bộ máy nhà nước.
Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước
có tác dụng chế ước kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước để tránh nguy
cơ lạm dụng quyền lực đồng thời còn hạn chế hoặc tránh được sự xung đột do
quyền lực. Do vậy pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước này có thể đảm nhận
trợ giúp một công việc thuộc thẩm quyền của cơ quan khác. Sự phối hợp còn tạo ra
sự hiểu biết thông cảm lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước hạn chế những sai sót khuyết điểm trong hoạt động của mỗi cơ
quan nhà nước. Sự phối hợp trong cùng một hệ thống các cơ quan nhà nước thực
hiện cùng một quyền lực chính là việc thực thi nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm
của mỗi cơ quan. Mặc dù trong pháp luật luôn quy định chế độ thông tin chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác giữa các cơ quan nhà nước với nhau tùy vậy trên thực tế
các cơ quan nhà nước ít quan tâm đến công việc của các cơ quan khác.

6. Góp phần đổi mới nhận thức về chức năng của nhà nước”
Lê Thu Hằng Tạp chí Luật học, số 1/2000
Chức năng là nước là một trong những vấn đề cơ bản của Lý luận Nhà nước
và pháp luật là khái niệm phức tạp luôn gắn với những phạm trù như bản chất
nhiệm vụ các hình thức và phương pháp hoạt động của nhà nước… Từ khi chuyển
sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khoa học pháp lý ở nước
ta xuất hiện nhiều quan điểm và chức năng của nhà nước.
Theo cách hiểu truyền thống thì chức năng của nhà nước là những phương
diện hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước
nhà nước. Như bất kỳ hiện tượng xã hội nào nhà nước tồn tại và phát triển thông
qua những mối liên hệ biện chứng của nó thể hiện trong các hoạt động của Nhà
nước tác động vào thế giới tự nhiên thế giới vật chất vào các quan hệ xã hội và thế
giới tinh thần của con người. Mỗi chức năng cụ thể của Nhà nước thể hiện sự
thống nhất của nội dung hình thức và biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước
trong lĩnh vực hoạt động nhất định của nhà nước .Nhưng chức năng của nhà nước
không chỉ tồn tại trong mối liên hệ với nhiệm vụ nhà nước mà còn phản ánh bản
chất và vai trò vị trí của nhà nước đối với xã hội. Do đó quan điểm này tôi đã lý
giải được chức năng của nhà nước tương xứng với hiện tượng nhà nước là phù hợp
hơn cả so với một số quan điểm khác nhưng vẫn chưa đầy đủ.
Quan điểm thứ hai xuất phát từ bản chất nhà nước cho rằng chức năng của
nhà nước được xem xét như một thuộc tính cơ bản bên trong của nhà nước phản
ánh hai thuộc tính đặc trưng cơ bản nhất của Nhà nước với tư cách là tổ chức thống
trị giai cấp và tổ chức đại diện chính thức cho xã hội.Quan điểm này hợp lý ở chỗ
khẳng định sự tồn tại khách quan của nhà nước với hai tính chất tính giai cấp và
tính xã hội và mối liên hệ giữa bản chất với chức năng của nhà nước tuy nhiên
chưa phản ánh được nội dung đối tượng của chức năng.
Quan điểm thứ ba xác định chức năng nhà nước là sự thể hiện vai trò của nhà
nước đối với xã hội là biểu hiện cụ thể năng lực của nhà nước và đưa ra kết luận
rằng cần nhận thức khái niệm chức năng nhà nước trên ba góc độ thống nhất hữu
cơ: Chức năng nhà nước là cái mà xã hội cần nhà nước và nhà nước cần phải làm,
là cái mà nhà nước có thể làm được, là cái mà nhà nước được làm. Tuy nhiên Quan
điểm này chưa Đưa ra định nghĩa.
Có quan điểm có chức năng nhà nước không chỉ là phương hướng hoạt động
chủ yếu mà còn là cơ chế tác động của Nhà nước lên quá trình xã hội. Quan điểm
khác thì cho rằng chức năng của nhà nước là những nhiệm vụ cơ bản của nhà nước
trong từng giai đoạn phát triển cụ thể…. Tuy có những khác biệt nhất định trong
mỗi cách hiểu chức năng của nhà nước như đã đề cập ở trên Nhưng nhìn chung
chúng đề xuất phát trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch
sử của triết học mác-lênin. Trong bối cảnh hiện nay tác giả đã góp phần xác định
khái niệm đầy đủ về chức năng của nhà nước thì cần làm sáng tỏ một số luận điểm
sau:
1. Chức năng của nhà nước gắn liền với điều kiện xuất hiện và bản chất của
nhà nước. Xuất phát từ những phân tích về sự tồn tại phát triển và tan rã của chế độ
Cộng Sản Nguyên Thủy để tìm ra nguồn gốc Nhà nước học thuyết mác-lênin
khẳng định rằng nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại trong những giai đoạn nhất định
của lịch sử xã hội loài người với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
+Chức năng của nhà nước và bản chất của nhà nước có mối liên hệ khách
quan:Chức năng của nhà nước được xác định từ bản chất nhà nước và ngược lại
bản chất nhà nước được thể hiện thông qua các chức năng của nhà nước - được cụ
thể hóa và thể hiện trong nhiều mặt hoạt động của nhà nước .
Chức năng của nhà nước phản ánh đầy đủ hai tính chất cơ bản của bản chất
nhà nước về tính giai cấp và tính xã hội. Xuất phát từ bản chất giai cấp Nhà nước
là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế và vì các cấp có giai cấp có
quyền lợi đối nghịch nhau nên chức năng của nhà nước trước tiên được hình thành
Nhằm để bảo vệ quyền lợi của chỉ có thống trị. Nhưng đồng thời xuất phát từ bản
chất Xã hội bất kỳ nhà nước nào cũng thực hiện các hoạt động với tư cách là người
đại diện chính thức cho quyền lợi của toàn xã hội nên có những chức năng của nhà
nước phát sinh từ bản chất tự nhiên của xã hội. Tôi nhận thức về nguồn gốc bản
chất và vị trí vai trò của nhà nước chúng ta có thể khẳng định rằng nhà nước xuất
hiện là để thực hiện sứ mệnh của thiết kế quản lý xã hội với hai nhiệm vụ cơ bản là
duy trì thống trị giai cấp và duy trì sự tồn tại phát triển của toàn xã hội. Một mặt
nhà nước là công cụ đảm bảo duy trì củng cố sự thống trị của giai cấp lực lượng
nhất định trong xã hội mặt khác nhà nước là công cụ tác động điều tiết các quan hệ
xã hội tổ chức đời sống cộng đồng giải quyết những nhu cầu phát triển của toàn xã
hội giữ cho xã hội vận động và phát triển.
2. Tương quan dự tính giai cấp và tính xã hội của chất nhân nhà nước lại
thuộc và điều kiện lịch sử trong các nhà nước khác nhau
Tính giai cấp và tính xã hội theo chức năng nhà nước luôn tồn tại một cách
khách quan không phụ thuộc vào sự nhận thức của con người. Nếu lấy tính chất đại
diện tập trung cho lợi ích chung của xã hội Vai trò tổ chức thực hiện các công việc
chung của xã hội và mục đích vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội của nhà nước
làm tiêu chí để xem xét thì ở mức độ khác nhau các chức năng của nhà nước đều
chứa đựng tính xã hội và giai cấp nhưng mức độ thể hiện của tính chất đó khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể .Tương quan giữa hai tính chất trong
chức năng của nhà nước phụ thuộc vào sự tương quan lực lượng xã hội xung đột
lợi ích giai cấp thể hiện cho các lĩnh vực kinh tế xã hội và chính trị trong điều kiện
xã hội mà nhà nước đó còn tồn tại. Cơ sở kinh tế của chế độ xã hội là toàn bộ nền
sản xuất vật chất của xã hội đó tạo ra những của cải vật chất phục vụ cho Mọi nhu
cầu của con người của xã hội. Bất cứ chế độ nào cũng đều được xây dựng tồn tại
và phát triển trên cơ sở xã hội nhất định tương ứng với nó bao gồm các giai cấp
tầng lớp xã hội cùng với những mối quan hệ giữa các giai cấp tầng lớp đó trong xã
hội. Cơ cấu giai cấp và sự thay đổi cơ cấu giai cấp trong các chế độ xã hội cũng
như sự vận động phát triển và thay đổi vị trí vai trò của các giai tầng nhóm xã hội
cộng đồng dân tộc tôn giáo…. trong từng chế độ xã hội là một trong những nhân tố
quyết định đến chức năng của nhà nước
3. Chức năng của nhà nước trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước và
trình độ dân chủ
Quyền lực nhà nước và chức năng nhà nước tồn tại như điều tất yếu trong xã
hội có giai cấp và nhà nước. Chức năng nhà nước là một trong những hình thức thể
hiện quyền lực của nhà nước. Chức năng nhà nước là các phương diện hoạt động
chủ yếu của nhà nước nhằm thực thi quyền lực nhà nước gắn với cơ cấu quyền lực
nhà nước. Một trong những yếu tố góp phần quyết định đến chức năng nhà nước là
trình độ dân trí của xã hội mà nhà nước đó tồn tại. Trong chế độ dân chủ nhà nước
với tính cách là một tổ chức công quyền thực hiện công quản đóng vai trò người tổ
chức các quá trình xã hội theo hướng dân chủ trên cơ sở tuân theo các quy luật vận
động khách quan của xã hội. Tuy nhiên trong từng chế độ xã hội khác nhau Tính
chất của nền dân chủ cũng khác nhau.
Chủ trương xã hội hóa trong việc thực hiện các chức năng nhà nước ở nước
ta hiện nay là một biểu hiện rõ nét của chế độ dân chủ để nhân dân tự giải quyết lấy
các công việc của mình mà giảm bớt sự can thiệp của công quyền góp phần chia sẻ
gánh nặng với nhà nước.Nếu dân chủ được đảm bảo thì các chức năng kinh tế xã
hội của nhà nước được thể hiện rõ rét Nếu ngược lại cái chút nào đó sẽ mờ nhạt
hơn chức năng chuyên chính giai cấp

7. Về vai trò và chức năng của nhà nước

1. Vai trò của nhà nước

Nhà nước có vai trò rất to lớn đối với xã hội. Mặc dù xã hội giữ vai trò quyết
định đối với nhà nước vì nó là cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà
nước, song xã hội có giai cấp cũng không thể tồn tại nếu không có nhà nước. Nhà
nước là lực lượng có khả năng tổ chức, điều hành, quản lý xã hội, làm dịu xung
đột hoặc giữ cho xung đột ấy trong “trật tự” nhất định để xã hội có thể tồn tại và
phát triển.Vai trò của nhà nước đối với xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua
việc đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, chiến lược phát triển
của đất nước trong từng giai đoạn và tổ chức thực hiện. Nếu chủ trương, đường lối,
chính sách pháp luật của nhà nước phù hợp với thực tại khách quan của đất nước
và được thực hiện tốt thì hoạt động của nhà nước có thể đẩy mạnh sự phát triển
kinh tế xã hội.Ngược lại nếu chính sách, pháp luật của nhà nước không phù hợp
với yêu cầu của cuộc sống hoặc không được thực hiện hoặc thực hiện tồi thì sẽ làm
cho xã hội trì trệ hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Ta có thể thấy vai trò của nhà nước đối với xã hội không như nhau từ khi nó
ra đời tới nay mà có sự thay đổi rất lớn theo thời gian và theo không gian, qua các
giai đoạn phát triển của nhà nước và từ nhà nước này sang nhà nước khác.

Ở các nhà nước công nghiệp đã phải chú ý đến ba vấn đề chính là cần phải
cung cấp những lợi ích phúc lợi cho những người bị mất thu nhập nhất thời hay
những thiệt thòi khác Quốc Hữu hóa một loạt những ngành công nghiệp chiến lược
về nhu cầu cấp thiết của một nền kinh tế công ty hỗn hợp và còn có chính sách
kinh tế vĩ mô để phối hợp chặt chẽ với thị trường.Ở cái nước đang phát triển thì
một số nước theo khuynh hướng là nhà nước sẽ huy động các nguồn tài nguyên và
dân chúng và hướng họ tới sự tăng trưởng nhanh về kinh tế và giảm bớt bất công
xã hội nhà nước kiểm soát nền kinh tế theo gương Liên Xô. Một số nhà nước đã đi
theo mô hình công nghiệp hóa do nhà nước chi phối và thay thế nhập khẩu.Một số
nhà nước đã đi theo mô hình công nghiệp hóa do nhà nước chi phối và thay thế
nhập khẩu .Tất cả những nhà nước này đã nhấn mạnh những khiếm khuyết của nền
kinh tế thị trường và trao cho nhà nước vai trò trung tâm trong việc Chỉnh đốn
những khiếm khuyết này. Như vậy nhà nước từ lâu đã đóng vai trò sống còn trong
việc thúc đẩy những thành phần phát triển lâu dài bằng việc cung cấp cơ sở hạ
tầng, an ninh và một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.

Nhà nước can thiệp và nền kinh tế thị trường thông qua việc ban hành và tổ
chức thực hiện các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế thông qua các chính
sách tài chính tiền tệ giá cả đầu tư thuế cơ chế phương pháp quản lý kinh tế…..
Bằng các phương tiện trên nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển của ngành này
hạn chế sự phát triển của ngành kia khuyến khích cạnh tranh hạn chế độc quyền
qua đó mà tác động đến cả sự tăng trưởng lẫn sự ổn định của nền kinh tế có thể
phát huy những tác động tích cực và ngăn chặn giảm bớt những tác động tiêu cực
của nền kinh tế thị trường.

Từ những bài học lịch sử ta thấy nhà nước có thể cải thiện kết quả phát triển
bằng cách như: tạo một môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô trong đó những hình
thức kích thích đúng cho hoạt động kinh tế có hiệu quả, tạo một cơ sở hạ tầng thể
chế quyền sở hữu tài sản. hòa bình. luật pháp và trật tự và những quy tắc có khả
năng khuyến khích đầu tư dài hạn đảm bảo cung cấp giáo dục cơ sở y tế và cơ sở
hạ tầng vật chất cần thiết cho hoạt động kinh tế và bảo vệ môi trường thiên
nhiên.Tuy nhiên nhà nước cũng có thể gây ra những tác hại lớn cho xã hội. Chẳng
hạn những quy tắc không đúng có thể làm nản chí việc tạo ra của cải cản trở hoặc
kìm hãm sự phát triển của xã hội. Có thể chính sách của nhà nước là đúng nhưng bị
các nhân viên và cơ quan Nhà nước áp dụng sai dẫn đến những tác hại to lớn.

Nói chung phần lớn các nhà nước hiện tại cố gắng bảo đảm công bằng xã hội,
chú trọng phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, y tế, bảo trợ xã hội,
giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội thông qua việc quy định mức lương
tối thiểu cho người lao động lương hưu và chế độ thuế thu nhập lũy tiến,...Nhà
nước ngày càng được coi như người chịu trách nhiệm chính trong việc phòng ngừa
giải quyết hậu quả những rủi ro trong xã hội bảo đảm sự đoàn kết xã hội và sự phổ
biến trí thức.

2.Và chức năng của nhà nước

+ Chức năng của nhà nước cũng là một vấn đề phức tạp và luôn được xem
xét gắn với bản chất vai trò nhiệm vụ hình thức và phương pháp hoạt động của nhà
nước
+ Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà
nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ nhà nước

+ Chức năng nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước
được xác định từ bản chất nhà nước, do cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp quyết
định, nhằm tác động có định hướng lên các lĩnh vực đời sống xã hội và thực hiện
nhiệm vụ đặt ra của nhà nước

+ Chức năng của nhà nước nói chung là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai
trò của nhà nước đối với xã hội

+ Chức năng của nhà nước được xem là thuộc tính cơ bản, bên trong của nhà
nước phản ánh hai thuộc tính đặc trưng của nhà nước với tư cách là tổ chức thống
trị giai cấp và tổ chức đại diện chính thức cho xã hội. Chức năng của nhà nước
chính là những nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển cụ
thể

+ Chức năng của nhà nước là vai trò xã hội của nhà nước
Qua các khái niệm trên ta có thể thấy có người quan điểm chức năng nhà
nước là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước.Nhà nước xuất phát từ bản
chất vai trò đối với xã hội của nhà nước và những nhiệm vụ cơ Nhà nước xuất phát
từ bản chất, vai trò đối với xã hội của nhà nước và những nhiệm vụ cơ bản của nó.
Những yếu tố chưa có sự thay đổi nhất định trong các nhà nước khác nhau và qua
các giai đoạn phát triển của nhà nước nên chức năng của nhà nước có sự biến động
theo các yếu tố đó. Chức năng của nhà nước có mối quan hệ khá chặt chẽ với
nhiệm vụ của nhà nước và mối quan hệ có sự thay đổi theo từng loại nhiệm vụ.
Chức năng của nhà nước rất đa dạng và phong phú nên có thể phân loại theo nhiều
cách khác nhau. Trong khoa học pháp lý nước ta có một cách phân loại phổ biến và
truyền thống là căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước để chia chức năng nhà
nước thành hai loại: Một là chức năng đối nội Tức là những mặt hoạt động chủ yếu
của nhà nước trong nội bộ đất nước. Hai là chức năng đối ngoại Tức là những hoạt
động cơ bản của nhà nước thể hiện mối quan hệ giữa nó với các quốc gia dân tộc
khác nhau. Có thể phân loại chức năng nhà nước theo một số cách khác. Chẳng
hạn Nếu căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của nhà nước có thể chia chức năng nhà
nước thành chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng trấn áp… Nếu căn cứ
vào mục đích hoạt động của nhà nước có thể chỉ chức năng của nó thành hai loại là
chức năng tổ chức Vvà quản lý bao gồm một số chức năng cụ thể như chức năng
kinh tế, xã hội, thiết lập các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác…

8. Chức năng của nhà nước trước tác động của xu thế
toàn cầu hóa

Bài viết tập trung vào quan điểm Mác-xít về nhà nước và chức năng của nó
trong xã hội. Theo bài viết, nhà nước được xem là một cơ cấu xã hội thực hiện các
chức năng xã hội chung, nhưng nội dung của chúng thường do tính chất của nhà
nước quy định. Nhà nước được coi là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về
kinh tế, và chức năng của nó thường thể hiện lập trường của giai cấp thống trị. Bài
viết nêu rõ rằng khi quyền lực nhà nước thuộc về một nhóm nhỏ, mối quan tâm
hàng đầu của nhà nước là thực thi những mục đích của nhóm hay tập đoàn đó. Tuy
nhiên, chức năng của nhà nước không chỉ bị ảnh hưởng bởi lập trường của giai cấp
thống trị mà còn bởi các yếu tố khác như quan hệ kinh tế, chính trị, và xã hội trong
xã hội. Bài viết tiếp tục thảo luận về chức năng của nhà nước, chia thành các loại
như chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, sinh thái, và nói về cách thức
thực hiện chúng thông qua tổ chức và pháp lý. Phương pháp này tùy thuộc vào tính
chất cụ thể của nhà nước, ví dụ, nhà nước dân chủ thường sử dụng phương pháp tổ
chức hơn, trong khi chế độ phi dân chủ dựa nhiều vào pháp lý và cưỡng chế. Bài
viết nêu rõ rằng mỗi chức năng của nhà nước có mục đích riêng, như chức năng
chính trị hướng đến phát triển dân chủ, chức năng sinh thái tập trung vào bảo vệ
môi trường, và chức năng quốc phòng - an ninh nhằm bảo vệ đất nước. Tuy nhiên,
mỗi nhà nước cũng phải giải quyết những nhiệm vụ xã hội chung, đảm bảo sự cân
bằng và an ninh cho đời sống xã hội. Bài viết cũng đề cập đến xu hướng toàn cầu
hóa và tác động của nó đối với chính sách đối nội và đối ngoại của các quốc gia,
khi mà sự hợp tác toàn cầu trở thành xu thế không thể đảo ngược. Việc giải quyết
những vấn đề toàn cầu cấp bách đòi hỏi sự hợp tác và trách nhiệm cao từ tất cả các
quốc gia, đẩy chính sách quốc gia và quốc tế vào những thay đổi quan trọng.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và quốc tế hóa sản xuất, sự phân công lao động
và trao đổi giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc. Sự cách mạng khoa học và công
nghệ thúc đẩy trao đổi văn hóa và văn minh toàn cầu. Bài viết chỉ ra rằng mọi quốc
gia đều phải tích cực tham gia giải quyết vấn đề toàn cầu và xây dựng trật tự thế
giới mới. Sự cách mạng này làm cho thuật ngữ "toàn cầu hóa" và "hội nhập"
thường được sử dụng đồng nghĩa. Tuy nhiên, bài viết phân biệt rằng "toàn cầu hóa"
rộng hơn "hội nhập," với "hội nhập" chỉ ám chỉ sự xích lại gần giữa các hệ thống
của một quốc gia hay khu vực. Toàn cầu hóa bao gồm tất cả các quốc gia và tất cả
các tương tác ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, bài viết cũng nhấn mạnh rằng toàn
cầu hóa không tạo ra sự thống nhất hoàn toàn. Vẫn còn những khác biệt lớn trong
sự phát triển kinh tế và chính trị giữa các quốc gia, tạo ra sự đa cực và không thể
khẳng định rằng thế giới đã thống nhất hoặc thiết lập trật tự đơn cực. Toàn cầu hóa
mặc dù mang lại cơ hội hợp tác rộng lớn giữa các quốc gia, nhưng không thể phủ
nhận sự tồn tại của những lợi ích loại trừ và không công bằng, cũng như sự xuất
hiện của nhiều rào cản. Toàn cầu hóa ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống pháp luật
quốc gia, tạo ra sự giao tiếp chủ yếu thông qua các phương tiện pháp lý và ảnh
hưởng đến chuẩn mực luật quốc tế. Sự thay đổi này cũng đặt ra thách thức cho
chức năng của nhà nước, đặc biệt là vai trò đối nội và đối ngoại. Toàn cầu hóa
cũng tác động đến chức năng kinh tế của nhà nước, làm thay đổi thị trường và quan
hệ lao động.

Áp lực từ thị trường lao động toàn cầu và ảnh hưởng của công nghệ mới
khiến những điều kiện lao động và việc làm thay đổi, đồng thời giảm số lượng lao
động trong sản xuất. Những thách thức này đòi hỏi nhà nước xem xét lại chính
sách xã hội và vai trò của mình trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho người lao
động. Chức năng bảo vệ quyền con người và tự do cá nhân của nhà nước cũng chịu
ảnh hưởng. Quốc tế hóa vấn đề quyền con người đã chuyển từ công việc nội bộ
thành một nhân tố chính trị và pháp quyền quốc tế. Các quyền con người trở thành
tiêu chí chủ yếu để đánh giá tính dân chủ của một quốc gia và tạo cơ sở cho việc
thiết lập quan hệ với cộng đồng quốc tế. Sự toàn cầu hóa cũng đặt ra những thách
thức lớn đối với chức năng bảo vệ môi trường của nhà nước. Vấn đề sinh thái đã
trở thành một quan tâm toàn cầu, đặc biệt là với sự gia tăng của "hiệu ứng nhà
kính" và biến đổi khí hậu. Các nhà nước phải đối mặt với áp lực từ cộng đồng quốc
tế để thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường.Toàn cầu hóa không chỉ mở ra
những cơ hội mà còn đặt ra những thách thức lớn cho chức năng của nhà nước
trong các lĩnh vực khác nhau. Nhà nước phải thích ứng và điều chỉnh chức năng
của mình để đáp ứng yêu cầu của một thế giới ngày càng toàn cầu hóa, đồng thời
đảm bảo lợi ích cơ bản của cộng đồng quốc gia và toàn bộ nhân loại.Bài viết thảo
luận về sự ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với chức năng của nhà nước, đặc biệt là
trong lĩnh vực đối ngoại. Tác động của toàn cầu hóa không chỉ giới hạn ở mức độ
quốc gia mà còn mở ra một thế giới nơi mà sự tương tác giữa các quốc gia trở nên
ngày càng phức tạp và chặt chẽ.
Một điểm quan trọng được đề cập là vấn đề môi trường, khi mà sự xấu đi của
môi trường và biến đổi khí hậu đang trở thành mối quan tâm toàn cầu. Bài viết
nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc tất cả các quốc gia phải cùng nhau nỗ lực
và thiết lập mối quan hệ hợp tác để bảo vệ môi trường. Cần có sự đồng thuận và sự
kết nối chặt chẽ giữa các quốc gia để xây dựng hệ thống cảnh báo môi trường,
cũng như để nhanh chóng trao đổi thông tin và thực hiện chính sách môi trường.
Trong lĩnh vực đối ngoại, toàn cầu hóa không chỉ làm thay đổi hình thức mà còn
tăng cường quy mô của hoạt động chính trị quốc tế và kinh tế đối ngoại. Bài viết
đề cập đến sự xuất hiện lợi ích chung ở các quốc gia và sự hợp nhất chúng trên cơ
sở lợi ích chung nhân loại. Tuy nhiên, nhấn mạnh rằng lợi ích quốc gia và chính
sách dân tộc vẫn giữ vững ưu tiên trong chức năng của nhà nước.
Một khía cạnh khác là sự gia tăng tình trạng tội phạm xuyên quốc gia, với sự
xuất hiện của các cộng đồng tội phạm có tổ chức chặt chẽ. Bài viết bàn về cần thiết
của sự hợp tác quốc tế để đối phó với tội phạm này, với nhận định rằng chỉ có
thông qua nỗ lực quốc tế, sự can thiệp quốc tế, và hợp tác toàn cầu, chúng ta mới
có thể đối mặt hiệu quả với các thách thức này và nhấn mạnh rằng mặc dù quan hệ
quốc tế đã trở nên phức tạp hơn và toàn cầu hóa đã làm thay đổi quy mô của
chúng, nhưng nhà nước vẫn giữ quyền lực và trách nhiệm trong việc duy trì trật tự
nội bộ và đối ngoại. Quyền chủ quyền của các quốc gia không bị làm mờ, và mỗi
quốc gia vẫn giữ những lợi ích và ưu tiên bản địa. Hơn nữa, bài viết lưu ý rằng việc
duy trì sự độc lập, chủ quyền, và an ninh vẫn là những mục tiêu quan trọng của
chính sách đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa.

9. Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về “bàn tay nhà
nước”
1. Thế giới đang biến đổi
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, thế giới đang biến
chuyển mạnh mẽ cả về lượng và chất, với các xu hướng chủ yếu:
 Thứ nhất, tăng cường đối thoại, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, phụ thuộc và
chế định lẫn nhau trong quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa, đồng nhất hóa
môi trường kinh doanh, hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả vận hành
của các nguyên tắc và thiết chế thị trường mở, vì sự phát triển bền vững của
mỗi nước, cũng như của toàn thể cộng đồng.
 Thứ hai, tăng cường quá trình tái cấu trúc mới, đa dạng hóa và đa cực hóa về
trung tâm, mô hình, động lực và cả mục tiêu phát triển, đa phương hóa việc
quản lý và giải quyết các vấn đề của mỗi quốc gia cũng như quốc tế.
Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đang và sẽ có sự cải thiện căn bản theo
hướng đa dạng hơn, gọn nhỏ hơn, nhiều chức năng hơn, tiện lợi, tinh xảo hơn, tiết
kiệm năng lượng và rẻ hơn, do đó, phổ cập hơn và có tính chất cá nhân hơn; xuất
hiện hàng loạt sản phẩm hoàn toàn mới với vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại,
thậm chí rất ngắn. Các công ty, một mặt, được tổ chức theo quy mô nhỏ (thậm chí
có công ty một người), phi tập trung hoá, giảm bớt các khâu trung gian, cơ cấu
thành nhiều đơn vị độc lập, có quyền tự chủ cao, giảm bớt tệ nạn quan liêu, được
chuyên môn hoá cao, có tinh thần hợp tác, hoạt động mang tính toàn cầu chặt chẽ,
và tuân thủ những tiêu chuẩn đạo đức ngày càng cao hơn; mặt khác, xu hướng hợp
nhất để trở thành lớn, mạnh hơn, toàn cầu hơn, giảm chi phí và có sức cạnh tranh
hơn cũng sẽ ngày càng gia tăng.Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng to
lớn trong việc tạo động lực cho tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế toàn cầu.
Các nền kinh tế quốc gia và quốc tế sẽ chuyển dịch theo hướng thu hẹp và mất
dần đi các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống và hàng loạt ngành
sản xuất mới sẽ xuất hiện và phát triển mạnh hơn. Các ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ
trọng lớn nhất và đem lại nhiều lợi nhuận hơn trong nền kinh tế quốc gia và quốc tế
Các công nghệ mới, các xa lộ thông tin, vận tải toàn cầu phát triển khiến thế giới
trở nên “phẳng” hơn.Con người lao động mới sẽ có tri thức toàn diện hơn, năng
động, tự chủ hơn, di chuyển chỗ làm việc thường xuyên và trên phạm vi ngày càng
rộng hơn, ngày càng trở thành trung tâm động lực và mục tiêu của phát triển. Đô
thị hoá sẽ tăng nhanh. Các cấu trúc chính trị và giao lưu văn hoá – xã hội quốc gia
và quốc tế sẽ có sự dịch chuyển tương ứng. “Nền kinh tế nợ” sẽ trở thành đặc trưng
cho mọi công ty và quốc gia, kéo theo những xung lực tiềm ẩn gây bất ổn định thị
trường tài chính – tiền tệ quốc gia và quốc tế,
 Thứ ba, chu kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa không mất đi và có sự rút ngắn
khoảng cách giữa các chu kỳ, sự “mờ dần” ranh giới giữa các giai đoạn của
một chu kỳ; ngày càng có sự gắn kết sâu đậm và tác động qua lại nhạy cảm
và trực tiếp hơn giữa khủng hoảng chu kỳ kinh tế và khủng hoảng cơ cấu,
đặc biệt là khủng hoảng tài chính – tiền tệ; thành thử, những giải pháp đối
phó với chu kỳ ngày càng mang tính chất tài chính – tiền tệ, tri thức và quốc
tế hoá hơn…
Các cuộc khủng hoảng chu kỳ và cơ cấu của các nền kinh tế thị trường trên
thế giới ngày càng mang tính quốc tế rất cao cả về nguyên nhân, tác động lẫn
những giải pháp được đề xuất và ứng dụng nhằm đối phó với chúng. Đồng thời,
vai trò của can thiệp kinh tế đang dịch chuyển dần từ “nhà nước quốc gia”, sang
những “nhà nước quốc tế”. Các nguyên nhân và giải pháp đối phó với chu kỳ ngày
càng đa dạng hơn, nhưng gắn liền và mang đậm hơn tính chất tài chính – tiền tệ,
nhân tố con người và khoa học công nghệ.
Với những quan hệ dây chuyền phức tạp, một sự đổ vỡ thậm chí từ thị trường
của một nước cũng có thể tạo ra chuỗi bùng nổ, đổ vỡ nhanh, mạnh trên diện rộng,
lan đến trung tâm thông qua các kênh nợ nần và lưu thông tự do trên thị trường
vốn, thị trường hàng hoá và dịch vụ quốc tế. Chính sự phát triển vô hạn độ khả
năng tích tụ, dồn nén, vận chuyển những năng lực tài chính toàn cầu cho các hoạt
động đầu tư kinh doanh quốc gia và quốc tế, trong khi thiếu một cơ chế quốc tế
giám sát an toàn cần thiết cho những hoạt động này, lại được khuếch đại thêm bởi
nhu cầu thị trường vô cùng linh hoạt, vòng đời sản phẩm rút ngắn hơn và thông tin
thị trường chưa được coi trọng phát triển đúng mức. Để chống khủng hoảng, Chính
phủ các nước ngày càng tuân theo công thức: một là, mở rộng nhu cầu xã hội thông
qua nới lỏng chính sách tài chính – tín dụng; hai là, khai thác thị trường quốc tế; ba
là, điều chỉnh chuyển hướng năng lực sản xuất và cơ cấu sản phẩm cung ứng để
phù hợp cầu hoặc kích thích lượng cầu mới có khả năng thanh toán cao…
Việc cung cấp và giám sát thông tin đầy đủ, hệ thống, cập nhật, chất lượng
cao sẽ không chỉ cho phép cảnh báo sớm những nguy cơ, định hướng lối thoát cho
các doanh nghiệp và chính phủ, mà còn có tác dụng ngăn chặn những tác hại của
hành vi tự phát vì mù quáng hoặc tính dễ lây lan tâm lý cảm tính đám đông – nhân
tố nhạy cảm của chu kỳ hiện đại.
2. Tư duy mới về “bàn tay Nhà nước”
Thực tế đã, đang và còn cho thấy sức mạnh mù quáng khó lường của thị
trường khi thiếu hoặc chậm sử dụng “bàn tay Nhà nước” mạnh. Tổng thống Pháp
Sarkozy thẳng thừng chỉ trích sự đơn giản thái quá của chủ nghĩa “tân cổ điển”, với
tư duy “thị trường sẽ tự điều tiết tất cả”, “nền kinh tế thị trường tự điều chỉnh mọi
vấn đề”, “thị trường luôn có lý”, “kinh tế có sức mạnh tự điều tiết”. Nhiều nhà lãnh
đạo các quốc gia phát triển trên thế giới ngày càng tìm thấy tiếng nói chung, cùng
nhấn mạnh giải pháp căn bản cho cuộc khủng hoảng hiện nay là phải “tìm ra được
một sự cân bằng mới giữa vai trò của Nhà nước và thị trường”. Tư duy mới về
“bàn tay của Nhà nước” trong một thế giới đang biến đổi ngày càng đậm nét dần…
Tư duy mới về “bàn tay Nhà nước” đang và sẽ ngày càng trở nên rõ nét, bao
quát và chi phối toàn diện các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế –
xã hội quốc gia và quốc tế, với các biểu hiện và yêu cầu chủ yếu sau:
- Không duy ý chí, giáo điều, cực đoan, hoặc quá nhấn mạnh và tuyệt đối hóa
vai trò chỉ huy tập trung, mang tính áp đặt một chiều của Nhà nước, hoặc thả nổi
hoàn toàn và đặt toàn bộ quá trình phát triển kinh tế theo sự dẫn dắt có tính đầu cơ,
mù quáng, “bầy đàn” cao của các tín hiệu và sức mạnh thị trường tự do, nhấn mạnh
lợi ích tư nhân, cục bộ và ngắn hạn…
- Chủ động tham khảo, đan xen và phối hợp chính sách giữa các quốc gia trong
phạm vi khu vực, cũng như toàn cầu với mức tăng tiến cùng chiều với sự gia tăng
khối lượng trao đổi quốc tế song phương và đa phương, trước hết trong các lĩnh
vực thương mại, đầu tư, dịch vụ và lao động; coi trọng các yêu cầu và thúc đẩy
hoàn thiện các định chế quốc gia và quốc tế quản lý các quá trình phối hợp và trao
đổi đó, để gia tăng sức mạnh, khả năng và hiệu quả giải quyết các vấn đề quốc gia,
khu vực và toàn cầu
- Vai trò đầu tư trực tiếp, cũng như là trụ cột phát triển của Nhà nước ngày càng
giảm hoặc được định hướng hỗ trợ phát triển đầu tư tư nhân, song Nhà nước có vai
trò ngày càng to lớn trong cuộc chiến với các chấn động cơ cấu hoặc chu kỳ kinh tế
bột phát, nhất là khủng hoảng tài chính – ngân hàng
- “Bàn tay” điều chỉnh của Nhà nước cần chuyển dịch theo hướng giảm can
thiệp hành chính, trực tiếp, để chuyển sang phương thức can thiệp gián tiếp, có tính
định hướng và giám sát nhiều hơn, vừa tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường,
vừa không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích
trong quá trình phát triển, nhất là không lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh nặng
khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng.
3. “Bàn tay Nhà nước” ở Việt Nam
Thực tế cho thấy, “bàn tay Nhà nước” Việt Nam về cơ bản đã đón nhận và bắt
nhịp được với các xu thế chung của thế giới, nhờ đó đã góp phần chèo lái đúng
hướng và vững vàng con thuyền kinh tế Việt Nam vượt bao thác ghềnh, khó khăn
và thách thức to lớn
“Bàn tay Nhà nước” Việt Nam thường bộc lộ tập trung và có thêm cơ hội
hoàn thiện hơn khi xảy ra các chấn động kinh tế – tài chính mạnh trong và ngoài
nước, như những năm 1986-1992, 1997-2000 và những năm 2007-2008.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, “bàn tay Nhà nước” ở Việt Nam vẫn còn
một số bất cập. Để nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối
với quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta,liệu pháp “bàn tay Nhà nước” ở
Việt Nam cần được hoàn thiện theo một số phương hướng và nội dung trọng tâm
sau:
- Tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về một số vấn đề lớn và mới trong
chủ trương phát triển và quản lý Nhà nước.
- Tôn trọng yêu cầu khách quan của các quy luật và quy trình quản lý kinh tế,
các cam kết hội nhập và sự hài hoà các lợi ích phát triển, không ngừng cải thiện
môi trường kinh doanh.
- Coi trọng công tác dự báo, thông tin, phản biện chính sách trong quản lý nhà
nước.
- Đảm bảo sự gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với quan tâm phát triển văn
hóa, giải quyết các vấn đề bức xúc xã hội – môi trường, nâng cao chất lượng và
yêu cầu phát triển bền vững.

10. QUAN NIỆM VỀ PHÁP LUẬT VÀ MỘT VÀI SUY


NGHĨ
Pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp với nhiều biểu hiện khác nhau. Từ
xa xưa triết gia người Đức Canto nhận xét “Các luật gia luôn đi tìm một định nghĩa
về pháp luật” câu nói đó vẫn còn nguyên giá trị cho tới thời đại ngày nay. Con
người luôn đặt câu hỏi pháp luật là gì, những cái gì được cho là pháp luật, pháp
luật do đâu mà ra và mục đích tồn tại của nó là gì? Thời xa xưa các hoàng đế đều
đã tuyên bố giống nhau: “pháp luật là ta, ta là pháp luật”. Từ phương diện mối
tương quan với đạo đức, pháp luật được xác định pháp luật có giá trị đạo đức, pháp
luật là hiện tượng đạo đức.Từ phương diện công bằng và tự do, pháp luật là đại
lượng công bằng, là đại lượng của tự do. Tiếp cận từ góc độ chức năng ,pháp luật
được xác định là công cụ phương tiện điều chỉnh hành vi và quan hệ xã hội. Nhìn
từ góc độ tranh chấp đủ loại, pháp luật được đánh giá như là công cụ phương thức
giải quyết tranh chấp. Trong mối tương quan với nhà nước pháp luật được xác định
là phương tiện giới hạn quyền lực của nhà nước là công cụ chủ yếu để quản lý xã
hội. Tóm lại pháp luật có thể được nhận thức từ nhiều góc độ khác nhau bởi các
chủ thể nhận thức khác nhau với những lợi ích ý đồ toan tính khác nhau trong
những không gian và thời gian khác nhau. Về bản chất, quan niệm về pháp luật có
tầm quan trọng đặc biệt trong số các phạm trù cơ bản của pháp luật. Từ đó ảnh
hưởng và liên quan đến việc nhận thức các phạm trù các hiện tượng pháp lý cơ bản
khác và vận dụng pháp luật trong cuộc sống. Pháp luật là sự phản ánh cái đang tồn
tại, cái hiện thực, cái có sẵn hay pháp luật là cái phải có? Có người nói pháp luật
là lý tưởng cần đạt cần hướng tới tức là về pháp luật lý tưởng. Từ lâu đã tồn tại
nhiều quan về pháp luật từ đó tạo nên những trường phái đặc thù như trường phái
tôn giáo về pháp luật, pháp luật tự nhiên, pháp luật thực định, xã hội học pháp luật,
triết học pháp luật, tâm lý pháp luật, quan niệm giai cấp về pháp luật. Hiện Nay
quan niệm pháp luật là đại lượng của tự do công bằng đang là xu thế thời đại
Theo trường phái tâm lý pháp luật không chỉ là hệ thống quy phạm của nhà
nước mà còn bao hàm những cảm xúc tâm lý của con người do vậy tính cưỡng chế
không phải là thuộc tính cơ bản của pháp luật mà là cảm xúc tâm lý cá nhân.
Trường phái xã hội học pháp luật lại chú trọng đến quá trình thực hiện pháp luật
pháp luật trong hành động trường phái này cổ vũ cho tư tưởng linh hoạt pháp luật,
nghĩa là có thể thay đổi quy phạm pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật, cổ
vũ cho sự tự do đánh giá của tòa án. Tòa án không bị ràng buộc bởi luật và có thể
áp dụng luật theo sự đánh giá của mình. Học thuyết Mác Lênin đưa pháp luật dựa
trên cơ sở triết học duy vật. Thuyết pháp luật tự nhiên xuất hiện từ thời cổ đại, tuy
nhiên chỉ trở thành một trong những khuynh hướng chủ yếu về nhận thức pháp luật
vào cách mạng tư sản. Pháp luật tự nhiên là tổng hợp các quyền và tất cả mọi
người có được tự tạo hóa tự nhiên từ lúc sinh ra và bất khả xâm phạm là lý trí và
công bằng không bị giới hạn bởi lãnh thổ và các quốc gia dân tộc. Pháp luật thực
định có vai trò quan trọng để thực hiện hóa các lý tưởng của pháp luật tự nhiên.
Với lập luận triết học Heeghen khẳng định rằng pháp luật là ý chí chung tồn tại tự
nó và cho nó biểu hiện cái hợp lý khách quan… pháp luật là tự do nói chung như ý
niệm. Luật có ở mọi hiện tượng, những luật với con người phải thể hiện lý trí và
hợp với quy luật hợp pháp, công bằng. Mỗi trường phái pháp luật đều có những ưu
điểm và hạn chế tất cả có thể đều vừa đúng và vừa gây ra tranh cãi Do vậy nên
thích hợp ưu việt của các trường phái và loại trừ những hạn chế theo đó cần chú
trọng pháp luật thực định pháp luật phải phù hợp với lý trí công bằng với các
quyền tự nhiên của con người pháp luật phải được kiểm nghiệm từ trong thực tiễn
đồng thời luôn hướng đến pháp luật lý tưởng. Pháp luật không đúng đắn không
công bằng thì không còn là pháp luật. Như vậy pháp luật không có khái niệm định
nghĩa thống nhất mà chỉ có thể thừa nhận sự tích hợp các quan niệm pháp luật khác
nhau. Pháp luật được hiểu và sử dụng ở cả nghĩa khách quan và chủ quan. Theo
nghĩa khách quan pháp luật là tổng hợp các quy định pháp luật của nhà nước, là
trật tự pháp luật của cuộc sống . Pháp luật chủ quan là sự tự do khả năng lựa chọn
hành vi theo quy định của pháp luật khách quan quan niệm vật chất và pháp luật
tức pháp luật thuộc định là hệ thống các quy phạm pháp luật được ban hành và tồn
tại chính thức trong xã hội pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp đa dạng . Những
định nghĩa về pháp luật nhận thức hay quan điểm pháp luật là những vấn đề tuy
tương đồng rằng buộc với nhau xong cũng không hoàn toàn đồng nhất hơn nữa lại
tùy thuộc vào quan điểm truyền thống của từng quốc gia dân tộc từng thời kỳ lịch
sử đánh giá về vị trí vai trò và giá trị của các hiện tượng pháp luật. Do vậy quan
niệm rộng và pháp luật có tính hợp lý đã từng phù hợp trong quá khứ và tiếp tục
phù hợp trong tương lai. Pháp luật tồn tại và phát triển trên cả ba lĩnh vực hệ
thống: quy phạm pháp luật, tư tưởng pháp luật, ý thức pháp luật và văn hóa pháp
luật, thực tiễn pháp luật. Điều quan trọng trong nhận thức về pháp luật không chỉ ở
nội dung mà còn ở các hình thức thể hiện của Pháp Luật
Hiện nay đang có quan điểm cho rằng định nghĩa truyền thống lâu nay của
chúng ta về pháp luật cần được xem xét lại thậm chí có ý kiến cho rằng định nghĩa
đó là sai là lạc hậu. Tuy nhiên định nghĩa này vẫn đúng không sai nhưng chưa đầy
đủ và chưa hoàn toàn phù hợp với xã hội đương đại. Định nghĩa pháp luật ta có thể
thấy rằng trong định nghĩa truyền thống này có các thuộc tính cơ bản của pháp luật
xuất xứ trực tiếp của pháp luật và mục đích của pháp luật cố gắng được đưa vào.
Cách xác định định nghĩa về sự vật hiện tượng từ phương diện triết học và Logic
học như chúng ta đã biết cần chỉ rõ những yếu tố cơ bản sau: thuộc tính tiêu biểu
nhất, chức năng và mục đích tồn tại của chúng. Định nghĩa về pháp luật “như là hệ
thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước…. đặt ra hay thừa nhận” mới chỉ đề
cập pháp luật thực định. Thời gian gần đây thực trạng này đã được quan tâm và
khắc phục rất nhiều nền luật học mới đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ đạt nhiều thành
tựu. Tất nhiên không thể cắt bỏ hoàn toàn việc dẫn chiếu, phân tích các quy định
pháp luật thực định. Vấn đề tranh luận và rắc rối đặt ra là những gì thuộc phạm trù
pháp luật và có giá trị áp dụng tham khảo chỉ đạo các hành vi của các chủ thể pháp
luật từ Công Quyền đến cá nhân tổ chức? Chẳng hạn trong quá trình xét xử hay
thực hiện các giao dịch hành chính những yếu tố nào đóng vai trò chi phối chỉ đạo
các chủ thể và đưa họ đến những quyết định pháp lý tương ứng? Phải chăng chỉ có
các quy định pháp luật hiện hành trong các văn bản pháp luật? Dẫu biết là các căn
cứ pháp lý viện dẫn chỉ có thể là các quy định thép ở đó các quốc gia theo truyền
thống văn bản quy phạm pháp luật những yếu tố đó có ở đâu nguồn nào? Định
nghĩa truyền thống đã cố gắng đưa vào những thuộc tính cơ bản tiêu biểu nhất của
pháp luật và mục đích chức năng của pháp luật định nghĩa đó cũng chỉ đạo lý
thuyết về ngành luật hệ thống pháp luật lâu nay của chúng ta. Ngày nay việc phân
định ngành luật đã cho thấy chỉ mang tính tương đối và đôi khi khái niệm lĩnh vực
pháp luật lại tỏ ra hợp lý hơn ở mức độ nhất định cần có một định nghĩa pháp luật
cả về phương diện nội dung xã hội và hình thức pháp lý bản chất pháp luật là một
hệ thống bao gồm hai phương diện cấu thành phương diện giai cấp và phương diện
xã hội. Từ phương diện thứ hai của pháp luật pháp luật như là công cụ điều chỉnh
chung của xã hội phải thể hiện được các nhu cầu lợi ích của xã hội các giá trị tự do
dân chủ nhân đạo và công bằng. Đó là những tiêu chí cơ bản của pháp luật trong
nhà nước pháp quyền. Một định nghĩa pháp luật mang tính chính thức phù hợp với
chúng ta hiện nay và như đã đề cập cũng chỉ là tương đối. Định nghĩa pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung với nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận được xác định chặt chẽ về hình thức thể hiện ý chí của nhà nước…..” định
nghĩa này thể hiện được những thuộc tính đặc trưng của pháp luật và mục đích điều
chỉnh của pháp luật trong xã hội hiện đại. Mỗi cách tiếp cận pháp luật đều có tính
hợp lý nhất định nhưng dù có tiếp cận dưới góc độ nào thì pháp luật vẫn là phương
tiện để xác định thiết lập trật tự xã hội có hiệu lực bắt buộc và được kiểm soát đảm
bảo bảo vệ bởi quyền lực nhà nước đều cốt lõi nhất không thể thiếu trong quan
niệm về pháp luật trong định nghĩa pháp luật đó chính là hệ thống các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành hay thừa nhận trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu lợi
ích của toàn xã hội
11. Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội
Bài viết của Hoàng Thị Kim Quế mở đầu một cuộc trò chuyện sâu sắc về mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong ngữ cảnh của hệ thống điều chỉnh xã hội.
Tác giả mở đầu với một loạt câu hỏi khám phá về cách hai yếu tố này tương tác, và
vai trò quan trọng của chúng trong việc duy trì sự ổn định và công bằng xã hội.

Pháp Luật như Công Cụ Điều Chỉnh Xã Hội


Bài viết đi sâu vào vai trò của pháp luật như một công cụ quan trọng trong việc
định hình và duy trì trật tự xã hội. Tác giả phân tích sự hợp nhất và minh bạch của
hệ thống pháp luật, nhấn mạnh sự quan trọng của việc giữ cho quy định liên tục
phản ánh và bảo vệ giá trị cộng đồng.
Nói về vai trò của pháp luật trong xã hội, tác giả đặt ra câu hỏi cụ thể về cách
mà các quy định pháp luật không chỉ là các nguyên tắc mà còn là những công cụ có
thể hình thành và điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng.

Đạo Đức như Nền Tảng Hình Thành Nhân Cách Công Dân
Bài viết chuyển đến vai trò quan trọng của đạo đức trong việc hình thành nhân
cách công dân. Tác giả nhấn mạnh không chỉ giáo dục và gia đình mà còn giáo dục
công dân đóng góp vào việc hình thành nhân cách và tính cách xã hội. Đạo đức
không chỉ là một nguồn gốc của hành vi, mà còn là lực lượng định hình xã hội.
Tác giả chấn chừng dừng lại ở khái niệm rằng đạo đức không chỉ tồn tại trong
giáo dục chính thức mà còn nảy sinh từ mối quan hệ gia đình, sự tương tác xã hội,
và môi trường xã hội nói chung.

Tương Tác và Sự Ảnh Hưởng Lẫn Nhau


Một phần lớn của bài viết tập trung vào sự tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau
giữa pháp luật và đạo đức. Tác giả không chỉ tìm kiếm sự đồng thuận giữa chúng
mà còn nghiên cứu cách mà pháp luật có thể phản ánh giá trị đạo đức, và ngược lại.
Bằng cách này, bài viết không chỉ xem xét cách chúng tương tác, mà còn nói về
cách chúng có thể hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau để xây dựng một cơ sở vững chắc
cho hệ thống điều chỉnh xã hội.
Tác giả thậm chí đề cập đến khả năng của pháp luật và đạo đức chói sáng lẫn
nhau trong việc đảm bảo sự minh bạch và tạo niềm tin từ phía công dân. Điều này
giúp làm rõ sự quan trọng của việc đối thoại mở cửa giữa cả hai, đặc biệt trong một
xã hội nơi giáo dục và thông tin ngày càng trở nên đa dạng.

Thách Thức và Cơ Hội


Bài viết không tránh khỏi việc đặt ra những thách thức và đồng thời tìm kiếm
cơ hội. Tác giả làm nổi bật sự đa dạng trong pháp luật và đạo đức, chú ý đến những
thách thức về tính công bằng và đồng nhất. Bài viết đề cập đến khả năng của đa
dạng này mang lại sự linh hoạt và ổn định cho hệ thống điều chỉnh xã hội, nhất là
trong bối cảnh xã hội đa văn hóa và đa ngôn ngữ.
Tác giả không chỉ nêu rõ những thách thức mà còn mô tả chúng như là cơ hội
cho sự đổi mới và phát triển. Việc đối mặt với những thách thức này có thể thúc
đẩy sự tiến bộ và đổi mới trong cách mà hệ thống điều chỉnh xã hội đáp ứng và
tương tác với đạo đức và pháp luật. Sự đa dạng này không chỉ là một thách thức
mà còn là một cơ hội để xây dựng một cộng đồng hòa bình và công bằng, đồng
thời thúc đẩy sự hiểu biết và tôn trọng đối với các giá trị đa dạng.

Tác giả cũng không quên nhấn mạnh về sự quan trọng của tính công bằng trong
hệ thống pháp luật và đạo đức. Việc đảm bảo rằng mọi cá nhân và nhóm xã hội đều
được đối xử bình đẳng và công bằng trong mắt pháp luật và đạo đức là một thách
thức, nhưng đồng thời cũng là một cơ hội để tạo ra một xã hội chân chính và phát
triển.
Cuối cùng, bài viết tổng kết các điểm chính và mở rộng tầm nhìn về tương lai.
Tác giả không chỉ dừng lại ở việc kết luận mà còn thách thức độc giả suy nghĩ về
những khía cạnh đa chiều của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức.
Tầm nhìn tương lai mà bài viết đặt ra là một xã hội nơi mà pháp luật và đạo đức
không chỉ là những công cụ của chính phủ mà còn là sức mạnh của cộng đồng. Sự
tương tác tích cực giữa pháp luật và đạo đức có thể là động lực cho sự đổi mới và
thích ứng, tạo ra một môi trường xã hội linh hoạt, công bằng và đáng tin cậy.
Ngoài ra, bài viết còn đặt ra những câu hỏi sâu sắc về những thách thức lớn
nhất mà xã hội đang đối mặt ngày nay, như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng xã hội,
và đảm bảo an sinh xã hội. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức có vai trò quan
trọng trong việc giải quyết những vấn đề này và xây dựng một tương lai bền vững
cho thế hệ tiếp theo.
Tóm lại, bài viết của Hoàng Thị Kim Quế không chỉ là một phân tích sâu sắc về
mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức mà còn là một thách thức và tầm nhìn cho
xã hội hiện đại. Sự tương tác tích cực giữa hai yếu tố này có thể là chìa khóa cho
sự phát triển và tiến bộ, tạo ra một xã hội công bằng và nhân quyền.

12. Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Điều chỉnh hành vi con người có nhiều công cụ khác nhau trong đó pháp
luật và đạo đức là công cụ rất quan trọng. Trong các xã hội khác nhau pháp luật và
đạo đức được nhận thức và sử dụng một cách khác nhau, Tuy nhiên không phủ
nhận sự tác động bổ sung cho nhau giữa chúng. Đạo đức được tiếp cận trên nhiều
bình diện khác nhau. Nó có thể được hiểu là tổng thể các quan niệm quan niệm của
một cộng đồng dân cư về thật giả đúng sai thiện - ác,tốt - xấu…. Cùng các quy tắc
xử sự được hình thành trên cơ sở các quan niệm quan điểm đó nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội chúng cũng được thực hiện bởi lương tâm tình cảm cá nhân và sức
mạnh của dư luận xã hội. Đạo đức cũng có thể được hiểu là nhân cách, đức hạnh,
phẩm hạnh hay những phẩm chất tốt đẹp của con người có được nhờ tu dưỡng rèn
luyện theo những tiêu chuẩn đạo đức xã hội. Như vậy đạo đức được hiểu theo cả
hai nghĩa vừa là những quan niệm quan điểm quy tắc đạo đức xã hội vừa là những
phẩm chất đạo đức cá nhân. Pháp luật về cơ bản là hệ thống các quan niệm quan
điểm của nhà nước được thể hiện thành các quy định cụ thể cùng các quy tắc xử sự
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện thể hiện ý chí của nhà
nước là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1. Những điểm giống nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức
Pháp luật và đạo đức là những phương tiện điều chỉnh quan trọng bậc nhất
đối với các quan hệ xã hội. Chúng giữ vai trò rất quan trọng đảm bảo cho xã hội
tồn tại và phát triển trong ổn định trật tự. Nhờ có pháp luật và đạo đức các công cụ
điều chỉnh khác mà trật tự xã hội được thiết lập củng cố và duy trì sử dụng pháp
luật đạo đức để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội nhà nước với mong muốn
bảo vệ và định hướng phát triển những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của lực
lượng cầm quyền cũng như toàn xã hội. Hạn chế sự phát triển và đi tới loại bỏ khỏi
đời sống những quan hệ xã hội không phù hợp hoặc trái với những lợi ích đó
cả pháp luật và đạo đức đều mang tính quy phạm phổ biến. Chúng đều là những
khuôn mẫu chuẩn mực cho hành vi con người. Ba là giữa pháp luật và đạo đức
luôn có sự phù hợp ở mức độ nhất định. Về cơ bản pháp luật luôn có sự phù hợp ở
những mức độ khác nhau với các chuẩn mực đạo đức cơ bản phổ biến được thừa
nhận rộng rãi trong xã hội với đạo đức truyền thống dân tộc. Bốn là pháp luật và
đạo đức đều thuộc phạm trù ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội trong những giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Chúng đều là sản phẩm của bộ óc con người
là kết quả quá trình con người nhận thức đời sống của chính mình. Ở góc độ khác
chúng ta lại thấy pháp luật và đạo đức đều thuộc kiến trúc thượng tầng chịu sự chi
phối của cơ sở hạ tầng và có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Năm là trong xã hội
giai cấp pháp luật và đạo đức vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội đều là
những vũ khí chính trị của giai cấp nắm chính quyền.
2. Những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật với đạo đức
Một là con đường hình thành: Pháp luật hình thành thông qua hoạt động
xây dựng pháp luật của Nhà nước trong khi đạo đức có thể hình thành một cách tự
phát trong đời sống chung của cộng đồng. Hai là hình thức thể hiện: Có thể nói
hình thức thể hiện của đạo đức khá phức tạp đạo đức thường được thể hiện thông
qua tục ngữ ca dao hò vè không học tập quán hoặc được thể hiện trong các kinh
sách tôn giáo chính trị văn học nghệ thuật trong các quy định của thuyết chế xã
hội… Như vậy biểu hiện của đạo đức rất đa dạng và không có những hình thức đặc
thù cho riêng mình. Pháp luật thì luôn được thể hiện giữa những hình thức xác định
và xu hướng chung là ngày càng tồn tại phổ biến dưới hình thức văn bản quy phạm
pháp luật.Ba là tính xác định về hình thức: Ta có thể thấy rõ tính trội của pháp luật
so với đạo đức thông qua các quy phạm pháp luật các chủ thể biết được trong điều
kiện nào họ được làm gì phải làm gì không được làm gì Hậu quả gánh chịu sẽ như
thế nào. Trái lại tính xác định về hình thức của đạo đức thường không chặt chẽ như
pháp luật bởi các quan niệm về đạo đức thường rất khái quát như vậy các quy tắc
đạo đức được hình thành trên cơ sở đó khá đa dạng và phức tạp. Bốn là phạm vi
điều chỉnh: Theo tác giả thì phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn pháp luật.
Pháp luật chỉ có thể điều chỉnh những quan hệ xã hội bị chi phối bởi ý chí lý trí của
các chủ thể trong khi đó đạo đức còn điều chỉnh những quan hệ xã hội bị chi phối
bởi tỉnh tình cảm của các chủ thể. Nói cách khác đạo đức điều chỉnh tất cả các
quan hệ xã hội mà chủ thể của nó là những con người có ý chí lý trí và tình cảm.
Năm là cách thức điều chỉnh pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách
quy định cho chủ thể những hành vi được phép những hành vi bắt buộc và những
hành vi bị cấm. Đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách xác định cho các
chủ thể những hành vi nên làm không nên làm cần phải làm không được làm. Nói
cách khác pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách xác định các quyền
nghĩa vụ cho chủ thể còn đạo đức điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng cách
xác định những nghĩa vụ bổn phận cho chủ thể. Xấu là cơ chế điều chỉnh có một số
điểm khác nhau. Trong điều chỉnh luật về thiết lập khuôn mẫu cho hành vi con
người do nhà nước tiến hành. Trong điều chỉnh đạo đức việc xây dựng các quy tắc
đạo đức được thực hiện bởi rất nhiều chủ thể khác nhau hoạt động này luôn được
thực hiện song song với hoạt động truyền bá các quan điểm tư tưởng đạo đức .Tuy
nhiên để nâng cao hiệu quả của điều chỉnh đạo đức vấn đề cơ bản và quan trọng là
truyền bá giáo dục khách quan điểm tư tưởng đạo đức. bảy là biện pháp đảm bảo
thực hiện. Pháp luật nhà nước ban hành nên nó được bảo đảm thực hiện bằng các
biện pháp nhà nước.Trong khi đó đạo đức được đảm bảo trước hết nhờ vào những
yếu tố kích thích nội tâm của con người sức mạnh từ bên trong từ lương tâm từ
những thói quen xử sự và từ sức mạnh bên ngoài dư luận xã hội.
3. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức
Sự tác động của đạo đức đến pháp luật
Đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định trong hệ thống pháp
luật có thể nói bất kỳ hệ thống pháp luật nào bao giờ cũng ra đời tồn tại phát triển
trên một nền tảng đạo đức nhất định. Đạo đức như là môi trường cho sự phát sinh
tồn tại và phát triển của pháp luật là chất liệu làm nên các quy định trong hệ thống
pháp luật. Pháp luật được xây dựng trên cơ sở đạo đức xã hội sẽ phản ánh được ý
chí nhu cầu lợi ích của các thành viên trong xã hội do vậy mọi người sẽ tự giác
thực hiện bởi lương tâm và tình cảm của họ khi đó xử sự theo pháp luật sẽ dần trở
thành thói quen hàng ngày của mỗi người vì thế hiệu quả điều chỉnh pháp luật đạt
được là khá lớn. Sự tác động của đạo đức đến việc hình thành các quy định trong
pháp luật diễn ra ở nhiều cấp độ. Ở cấp độ thấp nhất các quy phạm pháp luật được
xây dựng không trái với đạo đức xã hội cấp độ cao hơn các quy định được ban
hành có sự thống nhất phù hợp với những quan điểm đạo đức. Trong toàn bộ đạo
đức xã hội đạo đức của giai cấp thống trị có ảnh hưởng đến pháp luật mạnh mẽ
nhất bởi vì bộ máy nhà nước được cấu thành trước hết và chủ yếu từ các thành viên
trên giai cấp thống trị đồng thời nắm được bộ máy Nhà nước các công cụ tuyên
truyền lại có tiềm lực kinh tế đạo đức của giai cấp thống trị có ảnh hưởng rất sâu
rộng trên toàn xã hội. Đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ
thể khi pháp luật được xây dựng phù hợp với các quan điểm chuẩn mực đạo đức
trong xã hội thông thường sẽ thực hiện một cách nghiêm chỉnh Bởi lẽ hành vi thực
hiện pháp luật hoàn toàn phù hợp với các đòi hỏi của đạo đức xã hội. Đạo đức cá
nhân cũng có ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến hoạt động áp dụng pháp luật. Nhà chức
trách có phẩm chất đạo đức tốt khi đưa ra các quyết định áp dụng pháp luật bao giờ
cũng phải tính đến các quan điểm đạo đức xã hội sao cho đạt lý nhưng cũng thấu
tình. Sự tác động của đạo đức càng đặc biệt quan trọng hơn trong trường hợp phải
áp dụng tương tự pháp luật khi đó nhà chức trách không còn không có các quy
phạm pháp luật để làm căn cứ họ phải dựa vào các quan niệm chuẩn mực đạo đức
xã hội dựa vào những lẽ phải trong cuộc sống để ra quyết định
Sự tác động của pháp luật đến đạo đức
Pháp luật ghi nhận những quan niệm tư tưởng chuẩn mực đạo đức bằng
cách này pháp luật góp phần củng cố giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức đảm
bảo cho đạo đức trở thành phổ biến hơn trên toàn xã hội đồng thời nó góp phần hỗ
trợ bổ sung cho đạo đức Đảm bảo chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế.
Pháp luật loại trừ những quan điểm tư tưởng đạo đức lạc hậu trái với lợi ích giai
cấp thống trị lợi ích chung của cộng đồng cũng như tiến bộ xã hội .bằng những quy
định cụ thể pháp luật nghiêm cấm việc tuyên truyền những tư tưởng đạo đức lạc
hậu Phạm Tiến bộ trái với lợi ích giai cấp thống trị lợi ích chung của cộng đồng.
Pháp luật góp phần ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức ngăn chặn việc
hình thành những quan điểm đạo đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc .Có
thể nói pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để diệt trừ cái ác ngăn chặn sự băng hoại
của đạo đức bên cạnh việc pháp luật hóa các quan niệm tư tưởng đạo đức pháp luật
còn quy định các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi trái với đạo
đức xã hội. Tóm lại pháp luật và đạo đức có mối quan hệ mật thiết với động qua lại
lẫn nhau Khi phù hợp với nhau khẳng định là bổ sung cho nhau tạo nên điều chỉnh
mạnh mẽ nhất đối với hành vi con người .

13. Pháp luật và đạo đức xã hội


1. Khái quát chung về pháp luật và đạo đức
Theo quan điểm pháp luật thuộc định pháp luật được hiểu là phép tắc khi
nhà nước đặt ra để quy định hành vi con người nói cách khác pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận thể
hiện ý chí Nhà Nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi
ích của toàn xã hội được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh quan
hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã
hội. Như vậy pháp luật là một hiện tượng xã hội đặc biệt quan trọng là vô cùng
phức tạp nên cũng có rất nhiều quan niệm nhận thức khác nhau. Xét về mặt nguồn
gốc pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan vừa
mang tính chủ quan:Pháp luật ra đời do nhu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội để
phát triển đến một trình độ nhất định; Pháp luật phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
Nhà nước do nhà nước đặt ra trên cơ sở khái quát những quy luật của đời sống xã
hội thông qua lăng kính chủ quan của nhà cầm quyền. Có thể thấy pháp luật không
đơn thuần chỉ là ý chí của lực lượng cầm quyền để lên thành luật mà còn là sự
phản ánh tập trung các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội là biểu hiện
các quan hệ lợi ích của các nhóm xã hội, các cộng đồng trong những điều kiện lịch
sử cụ thể nhất định. Pháp luật có những dấu hiệu( thuộc tính, đặc trưng)Mà các quy
phạm xã hội khác không có như Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, tính quy
phạm phổ biến, tính được đảm bảo bởi nhà nước. Mặc dù quan trọng nhưng pháp
luật cũng không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội.
Trong đó đạo đức tác động tới hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng. Con người
tham gia vào rất nhiều các mối quan hệ xã hội khác nhau từ đó hình thành ở họ
những quan điểm quan niệm về chân, thiện, mỹ, về trách nhiệm, bổn phận…..

Vậy đạo đức là gì? Đạo đức là những tiêu chuẩn nguyên tắc được dư luận
xã hội Thừa nhận quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với
xã hội. Là chuẩn mực ứng xử của con người đạo đức có vai trò chi phối tác động
tới hành vi của con người trong các mối quan hệ với cộng đồng nói chung. Đạo
đức là một phạm trù vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Ở góc độ cá
nhân, đạo đức cũng là chuẩn mực để đánh giá những hành vi của các thành viên
trong cộng đồng thể hiện ở dư luận xã hội, thái độ của xã hội đối với hành vi của
mình. Ở góc độ xã hội đạo đức cũng là chuẩn mực để đánh giá về những hành vi
của các thành viên trong cộng đồng thể hiện ở dư luận xã hội, thái độ xã hội đối
với các hành vi của chủ thể. Đạo đức cũng chịu ảnh hưởng bởi đời sống sinh hoạt
vật chất của xã hội. Nó có thể thay đổi và có thể rất khác nhau tùy vào từng giai
đoạn của lịch sử tùy vào từng vùng miền lãnh thổ. Chính vì vậy đạo đức cũng
mang tính giai cấp. Mỗi hành vi đạo đức được thực hiện trên thực tế thường hình
thành ở chủ thể những xúc cảm tình cảm thanh thản hay bị dày vò cắn rứt đối với
lương tâm của họ. Có thể khẳng định rằng đạo đức giữ vai trò quan trọng trong
việc hình thành nhân cách lối sống của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân, Góp
phần quan trọng trong việc củng cố, duy trì sự ổn định, trật tự trong gia đình và xã
hội.
2. Những điểm giống nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức
 Thứ nhất Pháp Luật và đạo đức đều là công cụ điều chỉnh xã hội, là chuẩn
mực, khuôn mẫu cho hành vi của các cá nhân tổ chức:Trong đời sống xã hội
pháp luật không phải là “công cụ quản lý xã hội duy nhất và vạn năng” để
điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội trong xã hội bao giờ cũng tồn tại một
khoảng trống mà pháp luật chưa thể lấp đầy khi đó các chuẩn mực xã hội
khác trong đó có đạo đức sẽ làm nhiệm vụ tạm thời lắp vào các lỗ hổng, các
khoảng trống đó”.
 Thứ hai pháp luật và đạo đức đều hình thành trên cùng một nền tảng cơ sở
kinh tế- xã hội:Là các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng nên cả pháp luật và
đạo đức đều chịu sự chi phối của cơ sở hạ tầng. Điều đó có nghĩa là các quy
tắc pháp luật hay quy tắc đạo đức sẽ không giống nhau ở những điều kiện
kinh tế xã hội- khác nhau.
 Thứ ba trong nhiều trường hợp cả pháp luật và đạo đức đều vừa phục vụ cho
lợi ích của giai cấp cầm quyền và vừa phục vụ cho lợi ích của xã hội nói
chung: Về nguyên tắc trong nhiều trường hợp đạo đức có thể thay thế pháp
luật hoàn toàn trong quản lý xã hội. Đạo đức có thể tác động tới hầu hết các
quan hệ xã hội kể cả quan hệ xã hội mà pháp luật không điều chỉnh như
quan hệ tình bạn, tình yêu nam nữ,...
 Thứ tư pháp luật và đạo đức có nhiều điểm tương đồng:Nhà nước thừa nhận
và chuyển hóa nhiều quy tắc đạo đức thành pháp luật khi chúng phù hợp với
nhu cầu xã hội như trách nhiệm và nghĩa vụ giữa cha mẹ với con, nghĩa vụ
chung thủy giữa vợ và chồng… Phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo
đức trong nhiều trường hợp là thống nhất với nhau.
3. Những điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức xã hội
 Thứ nhất, về nguồn gốc hình thành: Đạo đức chủ yếu hình thành một cách tự
nhiên trong đời sống xã hội cho thành viên xã hội tự đặt ra, được xã hội chấp
nhận và tự nguyện tuân theo những nguyên tắc đạo đức cũng được hình
thành từ rất sớm. Pháp luật chỉ xuất hiện khi nhà nước ra đờ,i xã hội đã phát
triển đến một trình độ nhất định.
 Thứ hai, về hình thức thể hiện: Các quy tắc đạo đức thường không có hình
thức xác định thường thể hiện dưới dạng bất thành văn và được lưu truyền từ
đời này sang đời khác. Pháp luật do nhà nước ban hành nên có hình thức
xác định như tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật,..Tùy
vào từng thời kỳ lịch sử nhà nước khác nhau mà hình thức pháp luật nào
được coi là phổ biến.
 Thứ ba, về phạm vi tác động: Phạm vi tác động của đạo đức là rất rộng so
với pháp luật. Đạo đức không chỉ điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật mà còn tác động tới những quan hệ
xã hội mà vốn dĩ pháp luật không thể điều chỉnh
 Thứ tư, về khả năng áp dụng và cơ chế điều chỉnh: Cả pháp luật và đạo đức
đều là khuôn mẫu hành vi. Tuy nhiên nếu các quy định pháp luật thường
chặt chẽ, chính xác được áp dụng thống nhất trong phạm vi hiệu lực của nó
thì các quy định của đạo đức thường rất khái quát và chung chung. Các
chuẩn mực đạo đức không có tính thống nhất.
 Thứ Năm, về biện pháp đảm bảo thực hiện: Mặc dù đều là khuôn mẫu chuẩn
mực cho hành vi xử sự của con người nhưng biện pháp đảm bảo của hai loại
quy phạm này là khác nhau. Nếu quy phạm pháp luật được nhà nước đảm
bảo thực hiện trên cả hai phương diện cụ thể thì quy phạm đạo đức lại được
đảm bảo thực hiện chỉ bằng các biện pháp mang tính xã hội như sự lên án
của cộng đồng, sự tẩy chay của xã hội…
4. Mối quan hệ giữa pháp luật và đời sống xã hội
 Thứ nhất Pháp luật được hình thành chủ yếu trên cơ sở nền tảng đạo đức xã
hội.
 Thứ hai pháp luật thể chế nhiều quy phạm đạo đức thành pháp luật.
 Thứ ba pháp luật góp phần hình thành những quan điểm, chuẩn mực đạo đức
mới.
 Thứ tư đạo đức hỗ trợ góp phần đưa pháp luật vào đời sống.
5. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của các quan hệ xã hội của
pháp luật và đạo đức
 Thứ nhất xác định đúng về vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong đời
sống xã hội
 Thứ hai xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như các chuẩn mực
đạo đức phù hợp kết hợp với việc nâng cao ý thức cá nhân
 Thứ ba Tăng cường công tác phổ biến pháp luật, giáo dục đạo đức

14. Bài viết: “Tập tục và pháp luật”, Nguyễn Minh


Đoan, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12/2003

Ở nước ta có nhiều thuật ngữ để chỉ những cách xử sự được lặp đi lặp lại
nhiều lần thành thói quen và được nhiều người thừa nhận, tuân theo như “tập
quán”, “phong tục”, “luật tục”, “tập tục”…Dưới đây là một số cách hiểu về
những thuật ngữ đã nêu. Tập quán là “thói quen” hoặc “những tác phong được
lặp lại theo thời gian ở cá thể hay tập thể”. Tập quán bao hàm những thói quen về
sản xuất và sinh hoạt trong đời sống xã hội, phạm vi điều chỉnh rộng, tính bắt
buộc không cao, nếu không làm theo sẽ bị dư luận phê phán, dị nghị, tẩy
chay...Phong tục là “tập quán và nếp sống có ý nghĩa lâu đời và ăn sâu vào đời
sống”, là những khuôn mẫu ứng xử có tính cách bắt buộc đối với mọi thành viên
như chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và khoa học của cả cộng đồng, xã hội nên
những người vi phạm có thể chịu những hình phạt rất nghiêm khắc. Mặc dù
phong tục bắt nguồn từ tập quán nhưng có mục đích và tính bắt buộc cao hơn,
được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp trừng trị nghiêm khắc. Luật tục
chỉ những quy ước có giá trị và có tính bắt buộc gần như pháp luật nhưng không
phải pháp luật vì không phải do nhà nước ban hành. Nếu tất cả những lề lối (quy
tắc) được đặt ra để điều chỉnh hành vi của con người là “luật”, thì phong tục, tập
quán cũng là “luật tục”. Theo quan điểm này, luật tục là những tập quán đã trở
thành quy ước chung của cả cộng đồng và được bảo đảm thực hiện bằng những
biện pháp nghiêm khắc nên việc tuân theo luật tục là bắt buộc. Tập tục là cách
nói tắt của tập quán và phong tục vừa bao quát vừa ngắn gọn.

Phong tục được phát triển từ tập quán, nhưng trong điều kiện nhất định thì
phong tục có thể trở lại thành tập quán. Như vậy, giữa phong tục và tập quán có
thể hoán đổi, chuyển hóa cho nhau nên việc phân biệt rạch ròi sẽ rất khó khăn.
Tập tục ra đời và tồn tại như một tất yếu khách quan, một nhu cầu không thể
thiếu trong đời sống của con người. Tập tục mang tính cục bộ, địa phương nên
mỗi cộng đồng dân cư có những tập tục khác nhau. Do hình thức phổ biến là
truyền miệng nên tập tục có tính uyển chuyển, xác định không cao, áp dụng
nhiều khi không thống nhất, dễ tùy tiện; hình thức thành văn đầu tiên của tập tục
là hương ước. Tập tục nói chung và hương ước nói riêng có vai trò to lớn, là
những chuẩn mực cho hành vi của con người. Tuy nhiên do nhà nước can thiệp
nhiều vào các lĩnh vực tự quản của các cộng đồng nên vai trò của tập tục đã bị
thu hẹp lại. Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta
nhiều tập tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp đã được khôi phục. Ở nước ta hiện
nay, tập tục đã, đang và sẽ còn tiếp tục thể hiện vai trò tích cực và giá trị xã hội
của mình trong nhiều lĩnh vực của đời sống.

Tập tục thường có phần nội dung đề cập đến những quy tắc, cách ứng xử
cần tuân theo và phần xác định hình thức khen thưởng hoặc xử phạt. Do chủ yếu
liên quan đến đời sống cộng đồng nên nội dung tập tục tập trung vào các lĩnh vực
chính của đời sống xã hội. Những biện pháp xử lí vi phạm tập tục rất khắc nghiệt,
có tác dụng răn đe lớn nên ít người vi phạm. Tập tục được người đứng đầu tổ
chức thực hiện rất nghiêm minh nếu phát hiện sự thiên vị, không công minh
trong xét xử thì người đó sẽ không được tín nhiệm nữa. Mục đích của hầu hết tập
tục là hướng thiện nhưng cũng có những tập tục phản tiến bộ, cản trở việc thực
hiện pháp luật của nhà nước. Tập tục được cho là do các bậc tiền nhân để lại nên
được xem như một thứ cẩm nang thiêng liêng, được mọi người tôn trọng. Ở
nhiều cộng đồng, tập tục được ưu tiên sử dụng nếu tập tục không thể giải quyết
được tranh chấp thì sẽ dùng pháp luật. Nghĩa vụ chấp hành không chỉ bắt buộc
đối với người có liên quan mà những người thân trong cộng đồng cũng phải tham
gia thực hiện như một loại “trách nhiệm liên đới”.

Một số người đã quá đề cao vai trò của pháp luật và xem nhẹ giá trị tập tục
và những công cụ khác khi quan niệm rằng chỉ có pháp luật được ban hành đầy
đủ, công minh mới có khả năng duy trì trật tự và tạo điều kiện phát triển xã hội.
Khi pháp luật xuất hiện thì tập tục không mất đi, pháp luật chỉ thay thế một phần
các tập tục trong điều chỉnh quan hệ xã hội. Trong thực tế, chúng ta nên kết hợp
hài hòa giữa pháp luật và tập tục trong giải quyết tranh chấp, nhất là đối với đồng
bào dân tọc ít người. Tập tục và pháp luật tuy có những điểm tương đồng về chức
năng nhưng cũng có những sự khác biệt lớn. Quan hệ giữa tập tục và pháp luật
được thể hiện trên ba phương diện: xây dựng, thực hiện pháp luật và hoạt động
xét xử. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, một số tập tục có thế được thừa
nhận thành pháp luật. Trong thực hiện và áp dụng pháp luật một số tập tục có thể
được áp dụng để giải quyết vụ việc. Pháp luật ngăn cấm, loại bỏ những tập tục
trái với pháp luật, có hại cho xã hội. Nhà nước nên sưu tầm, tập hợp hóa các tập
tục quan trọng ở nhiều quy mô và phạm vi khác nhau để giữ gìn, phát huy những
tập tục tốt đẹp và loại trừ những tập tục có hại. Chú trọng đúng mức tới việc xây
dựng hương ước mới và nội dung hương ước nên quy định những vấn đề cụ thể,
mang tính nguyên tắc để góp phần tích cực cho việc quản lí nhà nước bằng pháp
luật. Những người đứng đầu cộng đồng vừa vận dụng pháp luật vừa kết hợp với
tập tục để giải quyết các công việc. Đồng thời, họ cũng là người có uy tín, am
hiểu tập tục, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

15. Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã


hội

Điều chỉnh xã hội nói chung, điều chỉnh pháp luật nói riêng là quá trình
phức tạp trong nhận thức luận và trong thực tiễn. để đem lại hiệu quả và đảm bảo
tính hợp pháp hợp lý Quá trình tác động tới quan hệ xã hội cần xem xét mối quan
hệ hữu cơ giữa pháp luật và các hiện tượng xã hội trong đó có mối quan hệ với
tập quán

Tập quán được định nghĩa là thói quen hình thành đã lâu trong đời sống
được mọi người tuân theo. Tập quán xuất hiện tồn tại gắn liền với hoạt động của
con người trên các lĩnh vực và có mặt trong mọi giai đoạn phát triển của xã hội
loài người. Trong tác phẩm “bàn về khế ước xã hội” Rút xô đã cho rằng phong
tục tập quán và truyền thống đạo đức Nói chung là dư luận nhân dân ,là “loại
Pháp Luật” quan trọng. Giá trị của tập quán là ở tính quy phạm nó đảm bảo cho
hành vi của cá nhân hoặc cộng đồng vận hành trong trật tự nhất định. Tuy nhiên
tập quán xuất hiện tồn tại mang tính tự phát cục bộ và khó thay đổi. Tập quán có
nhiều loại được hình thành ở nhiều cấp độ khác nhau( cấp độ cá nhân, tập hợp
quần cư con người,...). Tập quán của cá nhân là thói quen xử sự mang tính cá thể
là yếu tố thể hiện nhân cách danh tính và lối sống của con người. Giữa tập quán
cá nhân và tập quán xã hội không phải bao giờ cũng thống nhất mà nhiều khi có
sự khác nhau về mục đích nội dung và giá trị của sự điều chỉnh. Trong đời sống
xã hội có giai cấp pháp luật và tập quán là các phương tiện Điều chỉnh xã hội
đảm bảo cho các quan hệ xã hội phát triển trong trật tự có lợi ích cho giai cấp
cầm quyền. So với pháp luật thì phạm vi tác động tính bắt buộc ,các biện pháp
đảm bảo cũng như khả năng linh hoạt trong điều chỉnh tập quán thấp hơn .hơn
nữa tập quán còn mang tính bảo thủ tồn tại chủ yếu thông qua truyền miệng hoặc
dưới dạng mô thức hành vi mẫu cứng nhắc không cụ thể về nội dung nên quá
trình áp dụng thường thụ động và tùy tiện.Tập quán để trở thành yếu tố cần thiết
của văn hóa làng xã và lối sống cộng đồng mang tính bền vững ở nước ta trong
mọi thời kỳ phát triển tập quán ở đây không chỉ điều chỉnh hành vi hiện thực mà
còn điều chỉnh Cả hành vi mang tính siêu thực trong đời sống tâm linh tính
ngưỡng. Ngày nay với lối sống theo pháp luật tập quán là yếu tố góp phần thúc
đẩy việc xác lập hành vi hợp pháp tích cực nhưng nó có thể là yếu tố cản trở quá
trình đó pháp luật và tập quán có thể chung sống với nhau trong các khả năng
trạng thái của quá trình điều chỉnh xã hội: Một là tập quán được nhà nước thừa
nhận và nâng lên thành các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung trong trường
hợp này tập quán trở thành hình thức pháp luật gọi là tập quán pháp. điều kiện để
trở thành tập quán Pháp về nguyên tắc tập quán đó là phải hữu ích được sử dụng
rộng rãi trong đời sống ,phù hợp với truyền thống dân tộc điều kiện kinh tế xã hội
hiện tại. Hai là các tập quán tốt đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc được nhà
nước bảo vệ bằng việc tạo lập các môi trường pháp lý cần thiết cho sự phát triển
thuận lợi của chúng trong đời sống xã hội. Ba là tập quán được sử dụng để giải
quyết các vụ việc trong trường hợp pháp luật không quy định .việc áp dụng tập
quán ở đây có tính cá biệt và độc lập cho từng trường hợp.

Việc áp dụng tập quán có nhiều điểm khác biệt so với áp dụng quy phạm
pháp luật Do đó cần phải làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản: Có phải mọi trường
hợp pháp luật không quy định điều chỉnh có tranh chấp và khởi kiện thì tòa án
giải quyết bằng cách áp dụng tập quán hay tương tự quy phạm pháp luật hay chỉ
với một số quan hệ dân sự nhất định? Việc lựa chọn tập quán để áp dụng là
quyền của tòa án hay là sự thỏa thuận của các bên đương sự? những căn cứ được
đặt ra để lựa chọn tập quán áp dụng là gì? Nguyên tắc trình tự thủ tục áp dụng tập
quán là gì? Xung đột tập quán trong áp dụng và biện pháp xử lý? Hiệu lực và
thời gian của tập quán được xác định như thế nào có thể áp dụng tập quán đã bị
mai một từ lâu hay tập quán đương thời? Hiện nay trong pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự cũng chưa có điều khoản cụ thể nào dành riêng trình tự
thủ tục áp dụng tập quán và tương tự quy phạm pháp luật điều này gây vướng
mắc trong quá trình giải quyết các vụ án trên thực tế Nhất là đối với vùng Sau
vùng xa nơi mà nó lối sống của đồng bào còn chịu sự điều chỉnh rất lớn của
phong tục tập quán .Ngoài ra còn có khả năng pháp luật xảy ra tương khắc đối
với tập quán. Nguyên nhân là do những tập tục đó đã trở thành thủ tục ảnh hưởng
đến lối sống mới của cộng đồng bị pháp luật kìm hãm hoặc triệt tiêu tính phổ
biến của nó Hoặc có thể là các sản phẩm trực tiếp của hủ tục được coi là các
nguồn mầm mống gây độc hại đối với sự an toàn của các quan hệ xã hội truyền
thống tốt đẹp của dân tộc bị pháp luật phủ nhận loại bỏ

Thừa nhận nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật không có nghĩa là
chúng ta có thể ban hành đủ quy phạm pháp luật để đáp ứng Mọi nhu cầu điều
chỉnh các quan hệ xã hội được trong các giao dịch dân sự quốc tế cũng không
loại trừ khả năng không có quy phạm pháp luật điều chỉnh. Có một số vấn đề cần
được quan tâm trong mối quan hệ giữa pháp luật với tập quán trong điều chỉnh
quan hệ xã hội ở nước ta: Cần sưu tầm tuyển tập tuyển chọn các tập quán điển
hình tích cực có khả năng tương hợp cao với pháp luật. Nước ta với hơn 54 dân
tộc đa số dân cư sống ở nông thôn Miền núi dân trí pháp lý rất thấp sự ràng buộc
của phong tục tập quán là rất lớn kinh nghiệm thực tế về tự quản của đồng bào ở
nông thôn Miền núi cho thấy sự cần thiết về việc xây dựng hương ước tộc ước và
chuẩn hóa Lệ làng luật tục trong điều kiện hiện nay. Cần có những giải pháp
mang tính tổng thể và cụ thể để xây dựng Các thiết chế làng văn hóa xã thực hiện
xóa đói giảm nghèo giảm dần sự khác biệt xã hội nhằm bảo tồn phát triển các giá
trị văn hóa phi vật thể.

16. VỀ KHÁI NIỆM NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT


Trong phạm vi bài viết :“Về khái niệm nguồn của pháp luật” của tác giả
Nguyễn Thị Hồi đã đưa ra một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước và
quan điểm của tác về vấn đề này như sau:
1. Một số khái niệm theo từ điển và công trình nghiên cứu nước ngoài
- Theo Từ điển Black Law Dictionary nguồn của pháp luật quy định quyền lực
của luật và các quyết định của tòa án; điểm khởi nguồn pháp luật hoặc sự phân
tích pháp lí… Nguồn pháp luật gồm: Các đạo luật, án lệ của tòa án, tập quán,
quan điểm của các chuyên gia, đạo đức và luật công bằng. Từ “nguồn” theo
nghĩa rộng hơn rất nhiều so với nghĩa thông thường trong các tài liệu luật học…
Có ba vấn đề về các nguồn của pháp luật. Nguồn pháp luật nói đến nguồn gốc
các khái niệm và tư tưởng pháp lí… Nguồn pháp luật nói đến các cơ quan, tổ
chức chính phủ tạo ra các quy định pháp luật…Nguồn của pháp luật nói đến quy
định pháp luật đã được công bố rõ ràng. Nguồn của pháp luật là khái niệm rộng,
được hiểu theo nhiều nghĩa, góc độ khác nhau. Theo nghĩa hẹp, là khái niệm
dùng để chỉ tất cả những nơi có chứa đựng các quy định để giải quyết vụ án.
Theo nghĩa rộng, là nguồn gốc của các khái niệm, các tư tưởng pháp lí; các chủ
thể có thẩm quyền ban hành pháp luật; các quy định của pháp luật; nơi chứa
đựng các quy định của pháp luật nói chung và các quy định về hiệu lực của các
đạo luật và các quyết định của toà án; … Một số học giả Pháp cho rằng, pháp
luật có hai nguồn là nguồn nội dung và nguồn hình thức. Nguồn nội dung là
nguồn quan trọng nhất cơ bản nhất, nó thể hiện lí do ban hành, thời hạn, trật tự
ưu tiên cần thiết của quy phạm pháp luật; là căn nguyên của pháp luật: các động
cơ chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, văn hoá, đạo đức v.v…Nguồn hình thức là:
các cách thức và văn bản các quy phạm tồn tại về mặt pháp lí, trở thành bộ phận
của pháp luật thực định và phát huy hiệu lực, chính là cơ quan ban hành những
quy phạm pháp luật, người có thẩm quyền xây dựng nên quy phạm pháp luật
=>Đây là điểm giúp chúng ta phân biệt giữa các nguồn hình thức được thiết lập
làm nguồn với các nguồn hình thức tự nhiên
Trên thực tế, những nguồn này có một số hạn chế nhất định. Chúng có tính
chất tương đối bất biến, nó gây ra một số khó khăn: Sẽ có những thiếu hụt,
những trường hợp không lường trước, lỗ hổng ít nhiều nghiêm trọng, khó phù
hợp được với những sự thay đổi phát triển không ngừng của thực tế, một số trở
nên lỗi thời hoặc mất hiệu lực; ngoài ra còn có một số quy phạm tối nghĩa; một
số loại mâu thuẫn do khác biệt về thời gian ban hành và lí luận. Để khắc phục,
các nguồn hình thức tự nhiên được thừa nhận vì nó giải quyết các vấn đề xảy ra
trong thực tiễn. Nhưng vấn đề gây tranh luận là chúng không được tạo ra để trở
thành nguồn, hiệu lực của chúng =>Nói chung, quy phạm và nguồn tự nhiên
xuất phát từ cái được cho là mối tương quan hợp lí, sự phân chia công bằng lợi
ích giữa các chủ thể pháp luật theo trật tự tự nhiên. Nguồn luật có các loại và
được xếp theo thứ bậc: Hiến pháp, luật, văn bản dưới luật, tập quán và án lệ;
còn nguồn pháp luật quốc tế được xếp: Điều ước quốc tế, tập quán, các nguồn
khác. Có học giả cho rằng nguồn của pháp luật là khái niệm không rõ ràng và
có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Có hai phương pháp tạo nên quy
phạm chung là sự ban hành quy định và quy định bất thành văn. Nguồn của
pháp luật ở nghĩa rộng còn biểu thị những quy phạm pháp luật riêng biệt, các
quy phạm đặt ra quyền hoặc nghĩa vụ pháp lí. => Nó gây sự mơ hồ, tối nghĩa
của cụm từ “nguồn của pháp luật”. Đây là quan niệm chủ yếu đề cập nguồn
hình thức của pháp luật
2. Một số quan điểm về nguồn của pháp luật ở Việt Nam
- Nhiều người coi hai thuật ngữ “nguồn của pháp luật” và “hình thức của pháp
luật” với nghĩa như nhau. Hình thức của pháp luật gồm hình thức bên trong và
bên ngoài. Một số học giả khác quan niệm rằng “Hình thức pháp luật là cách
thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành
pháp luật” => Đây là một quan niệm cũ không hoàn toàn chính xác bởi nội dung
pháp luật mang ý chí của nhà nước thì vừa có ý chí của giai cấp thống trị vừa có
ý chí chung của toàn xã hội. Có học giả lại cho rằng khái niệm hình thức pháp
luật và nguồn pháp luật không
hoàn toàn đồng nhất mà có nhiều điểm khác nhau. Có tác giả quan niệm rằng
hình thức bên ngoài hay nguồn là sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, những
cái chứa đựng nội dung các quy tắc pháp luật - quy tắc hành vi theo ý chí nhà
nước. Nguồn được tiếp cận dưới góc độ pháp lí và thực tiễn là những hình thức
chính thức thể hiện các quy tắc bắt buộc chung được nhà nước thừa nhận có giá
trị pháp lí để áp dụng vào việc giải quyết các sự việc trong thực tiễn pháp lí và là
phương thức tồn tại trên thực tế của các quy phạm pháp luật => Nguồn của pháp
luật ở đây chỉ là nguồn hình thức mà chưa đề cập nguồn nội dung. Cá biệt có tác
giả dùng thuật ngữ “nguồn gốc của pháp luật” để chỉ nguồn của pháp luật, gồm có
nguồn gốc quốc nội pháp luật quốc tế.
3. Quan điểm của tác giả về nguồn của pháp luật
Nguồn và hình thức của pháp luật là những khái niệm khác nhau, không thể
đồng nhất với nhau, mặc dù chúng có mối liên hệ gắn bó với nhau.Nguồn của
pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở
để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật để áp dụng vào việc giải quyết các vụ
việc pháp lí xảy ra trong thực tế; gồm có nguồn nội dung và nguồn hình thức.
- Nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, căn nguyên của pháp luật bởi vì nó
được các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích
phápluật. Ở Việt Nam, đường lối chính sách của Đảng là một nguồn quan trọng
của pháp luật. Các nguồn khác như nguyên tắc chung của pháp luật, điều ước quốc
tế, học thuyết khoa học pháp lí,nhu cầu quản lí kinh tế xã hội… Nguồn hình thức
của pháp luật là phương thức tồn tại hay nơi chứa đựng, cung cấp các quy phạm
pháp luật, tức là những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải
quyết các vụ việc pháp lí xảy ra trong thực tế. Pháp luật của đa số các nước trên thế
giới trong các giai đoạn phát triển có các nguồn hình thức cơ bản và các nguồn
không cơ bản. Trong xu thế hiện nay, đa số các nhà nước có thêm nguồn mới là tập
quán và điều ước quốc tế mà nhà nước đó công nhận hoặc phê chuẩn. Trong các
công trình nghiên cứu thì các nguồn hình thức thường được quan tâm nghiên cứu
và được đề cập nhiều hơn các nguồn nội dung.

17. CÁC LOẠI NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM


HIỆN NAY
Nguồn của pháp luật bao gồm: nguồn nội dung và nguồn hình thức; nguồn chủ
yếu (nguồn cơ bản) và nguồn thứ yếu, tùy vào căn cứ phân biệt. Khi xem xét về
nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, cần phải quan tâm cả nguồn nội dung và
nguồn hình thức của nó, trong đó, “nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là căn
nguyên của pháp luật. Nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức
tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể
cung cấp các quy phạm pháp luật.Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất
tương đối.
1. Một số nguồn nội dung của pháp luật Việt Nam
+Đường lối, chính sách của Đảng
Đường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp luật bởi
vì chúng định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
trong một giai đoạn nhất định cũng như những phương pháp, cách thức cơ bản để
thực hiện những mục tiêu, phương hướng này. Đường lối, chính sách của Đảng
được coi là nguồn nội dung của pháp luật bởi vì chúng định ra mục tiêu, phương
hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong một giai đoạn nhất định cũng
như những phương pháp, cách thức cơ bản để thực hiện những mục tiêu, phương
hướng này. Đường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp
luật bởi vì chúng định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước trong một giai đoạn nhất định cũng như những phương pháp, cách thức
cơ bản để thực hiện những mục tiêu, phương hướng này.
+Nhu cầu quản lý kinh tế – xã hội của đất nước
Đây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật, một
trong những cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức, quản lý và điều
hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải ban
hành các quy định pháp luật cụ thể nhằm xây dựng đồng bộ các loại thị trường,điều
chỉnh các quan hệ kinh tế theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn, chiều
hướng vừa thúc đẩy sự tăng trưởng, vừa bảo đảm sự cân đối và ổn định của nền
kinh tế – xã hội.
+Các tư tưởng, học thuyết pháp lý
Các tư tưởng, học thuyết pháp lý cũng có thể trở thành nguồn nội dung của
pháp luật.Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.Quy định này của
Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; tư tưởng chủ quyền nhân
dân; tư tưởng nhà nước pháp quyền và tiếp nhận các yếu tố hợp lý của học thuyết
phân chia quyền lực nhà nước.
2. Các loại nguồn hỗn hợp
Bên cạnh các nguồn nội dung kể trên, còn có các nguồn vừa là nguồn nội dung,
vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Đó là các nguồn cơ bản sau:
+Các nguyên tắc chung của pháp luật
Đây là những nguyên lý, những tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ quá
trình xây dựng và thực hiện pháp luật trong thực tế. Có những nguyên tắc chỉ là
nguồn nội dung của pháp luật. Song, có những nguyên tắc vừa là nguồn nội dung,
vừa là nguồn hình thức của pháp luật.Với tư cách là nguồn hình thức của pháp luật,
nguyên tắc này đòi hỏi khi xác định mức bồi thường thiệt hại xảy ra trong thực tế
phải tuỳ từng trường hợp cụ thể của nạn nhân và của người gây thiệt hại, có trường
hợp chỉ yêu cầu bồi thường những thiệt hại trực tiếp; song, có trường hợp lại phải
yêu cầu bồi thường cả những thiệt hại trực tiếp lẫn những thiệt hại gián tiếp.
+Văn bản quy phạm pháp luật
Đây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật,
bởi lẽ, các cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế
thuộc thẩm quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các VBQPPL. VBQPPL là văn
bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật
định, trong đó có quy tắc xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.BQPPL cũng có
thể đáp ứng được kịp thời các yêu của cuộc sống nên nó được coi là loại nguồn
hình thức cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật nước ta hiện nay. Tuy
nhiên, VBQPPL không phải là loại nguồn hình thức duy nhất của pháp luật bởi
VBQPPL vẫn có những điểm hạn chế nhất định cần được khắc phục VBQPPL có
tính ổn định tương đối cao nên nhiều khi kém linh hoạt hơn các nguồn khác. Quy
trình xây dựng và ban hành VBQPPL cũng lâu dài và tốn kém hơn một số nguồn
khác. VBQPPL không chỉ là nguồn hình thức mà còn có thể là nguồn nội dung của
pháp luật.
+Các điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế trở thành nguồn hình thức của pháp luật trong trường hợp nó
được áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần vào việc giải quyết các vụ việc xảy
ra trong thực tế. Việc áp dụng này đã được thừa nhận trong Luật Ký kết, gia nhập
và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của nước ta.
Nói chung, trong lĩnh vực luật quốc tế thì điều ước quốc tế là nguồn cơ bản,
chủ yếu và quan trọng nhất. Còn đối với pháp luật quốc gia, vai trò của điều ước
quốc tế ngày càng quan trọng và có vị thế ngày càng cao hơn, nhất là trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay. Điều đó được thể hiện rõ trong các quy định được nêu trong
nhiều VBQPPL hiện hành của nước ta là: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà
CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của văn
bản này thì tuân theo các quy định của điều ước quốc tế đó”.
+Phong tục tập quán
Phong tục tập quán là những cách ứng xử hay những thói quen ứng xử hoặc
những quy tắc xử sự chung được hình thành một cách tự phát trong một cộng đồng
dân cư nhất định, được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết phục
của chúng, bằng dư luận xã hội và có thể bằng cả một số biện pháp cưỡng chế phi
nhà nước.Theo quan niệm trên thì tất cả các loại tập quán như tập quán thông
thường, tập quán chung, tập quán pháp luật và tập quán địa phương đều có thể trở
thành nguồn của pháp luật.
Phong tục tập quán vừa có thể là nguồn nội dung, vừa có thể là nguồn hình thức
của pháp luật. Những phong tục tập quán tiến bộ, tốt đẹp, phù hợp với ý chí của
Nhà nước, được Nhà nước thừa nhận sẽ trở thành nguồn nội dung của pháp
luật.Ngược lại, có những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu, phản tiến bộ khiến
Nhà nước ban hành VBQPPL nhằm xóa bỏ, loại trừ dần chúng khỏi đời sống xã
hội.
Án lệ hay các quyết định, bản án của tòa án
Có thể hiểu án lệ là quyết định hoặc lập luận, nguyên tắc hoặc sự giải thích
pháp luật do toà án đưa ra khi giải quyết một vụ việc cụ thể được nhà nước thừa
nhận làm mẫu hoặc làm cơ sở để toà án dựa vào đó đưa ra quyết định hoặc lập luận
để giải quyết vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình tiết tương tự. Án lệ
được coi là nguồn của pháp luật cũng bao gồm nhiều loại như: án lệ bắt buộc, án lệ
để giải thích, án lệ gốc.Án lệ là loại nguồn rất quan trọng của pháp luật ở các nước
thuộc hệ thống thông luật. Nó có một số ưu điểm sau: đề cập đến các vụ việc đã
xảy ra trong thực tế mà không phải là những giả thuyết có tính lý luận về những
tình huống có thể xảy ra trong tương lai, vì vậy, nó thường phong phú và đa dạng
hơn pháp luật thành văn.Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, án lệ vẫn chưa được thừa
nhận một cách chính thức; song, nếu theo tinh thần của Nghị quyết số 48 thì trong
tương lai gần, án lệ có thể được coi là một trong các nguồn hình thức của pháp luật
nước ta.
Quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp
Loại nguồn dự kiến này mới chỉ được đề cập đến trong Nghị quyết số 48 nói trên
mà dường như chưa có tiền lệ ở Việt Nam và cũng chưa được thừa nhận chính thức
về mặt Nhà nước. Chỉ mới có quy định của các tổ chức chính trị – xã hội là đã
được thừa nhận một cách gián tiếp trong một số văn bản.

18. Bài viết: “Nhận thức và áp dụng án lệ - Nhìn từ phán


quyết Bosman và gợi mở cho Việt Nam”, Phạm Vĩnh Hà,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2017
Phán quyết Bosman được đưa ra bởi Tòa án công lý châu Âu (EJC) vào ngày
15/12/1995 liên quan đến vụ kiện của cầu thủ Jean-Marc Bosman. Phán quyết
này vẫn phát huy những giá trị vô cùng to lớn đến tận ngày nay và được viện dẫn
thường xuyên bởi các luật gia cũng như nhiều phương tiện thông tin đại chúng.

1. Nội dung vụ kiện và nội dung phán quyết.


Bosman là một cầu thủ thi đấu cho câu lạc bộ (CLB) R.F.C de Liège (Sau đây
gọi tắt là Liège). Tháng 6/1990, Bosman từ chối ký hợp đồng mới với CLB và
được đưa lên thị trường chuyển nhượng với mức giá cao vô lý, khiến Bosman
gặp nguy cơ bị treo giày. Ngày 6/10/1993, Bosman kiện cả Liège, Liên đoàn
bóng đá Bỉ lẫn UEFA ra EJC và thắng kiện sau 5 năm khi EJC cho rằng không
có cơ sở pháp lý nào công nhận quyền sở hữu của CLB đối với một cầu thủ đã
hết hạn hợp đồng; đòi hỏi của Liège là vi phạm đến quyền tự do di chuyển của
người lao động được quy định trong Hiệp ước Cộng đồng châu Âu (EEC). Theo
đó Bosman được quyền tự do ra đi (đàm phán, ký kết với CLB mà anh muốn)
với mức phí chuyển nhượng bằng 0.

Phán quyết này đã tạo ra một cuộc cách mạng trong toàn bộ hệ thống chuyển
nhượng cầu thủ ở châu Âu, được thể hiện rõ trong ba điểm tại điều 48 của Hiệp
ước EEC, cụ thể loại bỏ các việc: a) một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp là công
dân của một quốc gia thành viên khi đáo hạn hợp đồng với một CLB không thể
đầu quân cho một CLB khác thuộc một quốc gia thành viên khác nếu CLB sau
không trả cho CLB trước một khoản phí chuyển nhượng, đào tạo và phát triển
cầu thủ; b) việc áp dụng các quy tắc được đặt ra bởi các Liên đoàn thể thao mà
trong những trận đấu thuộc các giải đấu họ tổ chức, các CLB bóng đá chỉ được
phép đưa ra sân một số lượng nhất định các cầu thủ chuyên nghiệp mang quốc
tịch của các quốc gia thành viên khác; c) hiệu lực trực tiếp của Điều này không
thể được dựa vào để phục vụ cho việc đưa ra những yêu cầu liên quan đến một
khoản phí về chuyển nhượng, đào tạo và phát triển đã được hoặc vẫn phải thanh
toán theo một nghĩa vụ phát sinh trước ngày đưa ra phán quyết này, trừ một số
trường hợp
2. Những yếu tố làm nên thành công của phán quyết Bosman

+ Thứ nhất, phán quyết Bosman có phạm vi áp dụng rất rộng.

Vấn đề pháp lý trong vụ việc Bosman mang tính điển hình cao do việc quyền
lợi của vận động viên chuyên nghiệp bị xâm hại luôn phổ biến. Với đối tượng tác
động là “các liên đoàn thể thao”, “các vận động viên chuyên nghiệp”, bản án trở
thành quy phạm chung. Năm 2003, “the Kolpak ruling” hình thành, khiến hiệu lực
của điểm 2 trong phán quyết Bosman mở rộng sang các môn thể thao khác với các
quốc gia có hiệp định liên kết với EU.

+ Thứ hai, phán quyết Bosman vừa mang tính giải thích vừa tạo ra quy phạm.

Do phần giải thích trong phán quyết Bosman mang tính quy phạm nên người
ta thường viện dẫn luôn phần phán quyết, khiến nó có sức nặng và tính thuyết phục
cao khi làm căn cứ giải quyết cho các vụ việc về sau. UEFA đã phải sửa lại nhiều
quy định trong điều lệ của họ.

+ Thứ ba, án lệ Bosman được sử dụng chủ yếu trong giai đoạn tiền tố tụng.

Cả hai bên cầu thủ và CLB đều nhận thức rõ được lợi thế của mình, vì vậy đều
không muốn đưa những tranh chấp về hợp đồng ra tòa.

Một số gợi mở về nhận thức và áp dụng án lệ ở Việt Nam

Nên xem xét kỹ khả năng thừa nhận những án lệ tạo ra quy phạm mới.

Việt Nam không thừa nhận án lệ tạo ra quy phạm, nguyên tắc pháp lý mới nên
chưa đủ để lấp đầy những lỗ hổng của luật thành. Để tận dụng tối đa chức năng của
án lệ cần thừa nhận những loại án lệ này.
Cần nhìn nhận lại một số ưu, nhược điểm của án lệ:

Tác giả cho rằng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật luôn bị giới hạn
bởi yếu tố
thời gian, lãnh thổ và phạm vi điều chỉnh cố định. Trong khi đó, án lệ có tính linh
hoạt hơn, có thể được phát triển bởi các án lệ khác. Tuy có nhược điểm như việc
được phép áp dụng rộng rãi, nhưng nếu quy phạm được tạo ra từ án lệ được các
chủ thể tôn trọng thì cũng không nên coi đây là một yếu tố tiêu cực.

Cần xác định rõ đâu là nội dung án lệ và trình bày nội dung đó một cách
trung thực nhất.
Ở Việt Nam, án lệ luôn mang tính chất cá biệt và khó khái quát. Cấu trúc
một bản án lệ gồm hai bộ phận: “nội dung án lệ” – đoạn trích nguyên văn phần
lập luận của tòa án – và “khái quát nội dung án lệ” – sự diễn giải khái quát hóa
lập luận đó cho các trường hợp tương tự. Cách này làm mất đi một số tính chất
vốn có của án lệ.

Thứ nhất, “nội dung án lệ” không có nhiều giá trị khi các tòa khác không
được tiếp cận toàn văn bản án gốc, không thể tìm thấy các lập luận phụ để phục
vụ cho lập luận chính khi giải quyết vụ việc tương tự (chưa kể có thể có nhiều
hơn một lập luận chính).

Thứ hai, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đang làm sai vai trò
tuyển chọn, thông qua án lệ khi diễn đạt lại “nội dung án lệ” thành “khái quát án
lệ”. Theo tác giả, lập luận cần giữ nguyên bản để đảm bảo tính trung thực và tính
linh hoạt.

Thứ ba, nguồn của các án lệ hiện hành là từ Hội đồng thẩm phán, và cơ
quan này cũng có thẩm quyền tuyển chọn, thông qua án lệ. Vậy liệu có cần phần
“nội dung án lệ” nữa hay không?

Theo tác giả, chúng ta có thể đơn giản hóa án lệ bằng cách: đăng tải toàn
văn phán quyết, chỉ bổ sung các dấu hiệu nhận dạng án lệ.

Cần tận dụng sức mạnh của truyền thông trong việc hỗ trợ quá trình đưa các
án lệ vào đời sống.Ở Việt Nam, số lượng án lệ ít, tần suất không nhiều nên có thể
đào sâu vào ý nghĩa của từng án lệ, giới thiệu nội dung phổ biến.

19. Bàn về cơ cấu của quy phạm pháp luật


Quy phạm pháp luật và “tế bào” của hệ thống pháp luật. Nó đóng vai trò như
những “viên gạch” để xây nên “tòa nhà” pháp luật. Do đó việc tạo ra các quy phạm
pháp luật hoàn chỉnh và có cơ sở khoa học mang ý nghĩa thiết thực đối với việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong khoa học pháp lý nhất là trong lý luận về nhà nước và pháp luật có nhiều
quan điểm khác nhau về cơ cấu của quy phạm pháp luật cũng như thành phần cụ
thể của quy phạm pháp luật. Có quan điểm cho rằng quy phạm pháp luật bao gồm
đầy đủ ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài. Có quan điểm đồng nhất quy
phạm pháp luật với điều luật được ghi cho các văn bản quy phạm pháp luật . Trước
hết quan điểm xuất phát từ khái niệm chung về pháp luật cho rằng quy phạm pháp
luật là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước. Đặc trưng của cơ
bản pháp luật là tính nhà nước nhưng cưỡng chế không phải là phương pháp duy
nhất mà nhà nước sử dụng đã thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Để đảm
bảo cho pháp luật được thực hiện, ngoài biện pháp bắt buộc bằng sức mạnh cưỡng
chế nhà nước còn đưa ra biện pháp khuyến khích về vật chất tinh thần cũng như
biện pháp giáo dục động viên mọi người tôn trọng và tự giác thực hiện pháp luật.
Vì vậy nếu chúng ta cho rằng pháp luật chỉ được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng
chế của Nhà nước và theo đó mà “tế bào” của quy phạm pháp luật cũng được đảm
bảo bằng sự cưỡng chế của Nhà nước thì không hoàn toàn chính xác. Mặt khác
pháp luật mang tính bắt buộc chung do các “tế bào” của nó có mối liên hệ mật thiết
với nhau tạo thành hệ thống thống nhất. Do đó nếu có quy phạm pháp luật nào đó
xác định quyền của chủ thể này thì sẽ có quy phạm pháp luật tương ứng với nó xác
định nghĩa vụ của chủ thể khác, nếu có chủ thể pháp luật được hưởng quyền nào đó
thì chủ thể đó cũng đồng thời có khả năng được hưởng quyền như thế và họ có
nghĩa vụ tôn trọng các quyền của nhau đã được pháp luật ghi nhận. Do đó vì cái
chủ thể của pháp luật tôn trọng các quyền của chủ thể nào đó tức là họ đã xử sự
theo những quy phạm mà trong đó xác định nghĩa vụ của họ chứ không phải là
thực hiện quy phạm pháp luật xác định quyền cho chủ thể kia. Vì vậy không thể
cho rằng tất cả các quy phạm pháp luật đều mang tính bắt buộc chung đối với mọi
người .Chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quy phạm pháp luật như sau: quy phạm
pháp luật là quy tắc xử sự như nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực
hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Quan điểm chung cho rằng bộ phận giả định của quy phạm pháp luật xác định
điều kiện và hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà khi gặp điều kiện và hoàn
cảnh đó các chủ thể sẽ xử sự theo cách thức nhất định mà nhà nước đặt ra. Nó trả
lời cho câu hỏi cá nhân nào? Tổ chức nào? Khi nào? Trong hoàn cảnh hai điều kiện
nào? Bộ phận quy định trả lời cho câu hỏi được làm gì? Không được làm gì? Phải
được làm gì và làm như thế nào? Nói cách khác bộ phận quy định xác định cách
xử sự cho chủ thể mà nội dung đó là quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Vì vậy nếu
chúng ta cho rằng bộ phận quy định nêu lên cách xử sự buộc chủ thể phải tuân theo
khi gặp điều kiện và hoàn cảnh được nêu ra ở phần giả định của quy phạm pháp
luật là không hoàn toàn chính xác bởi vì nếu phần quy định chỉ xác định quyền cho
chủ thể thì rõ ràng nó không thể được coi là chủ thể bắt buộc phải tuân theo những
phân tích ở trên. Do đó bộ phận quy định xác định khuôn mẫu hành vi cho chủ thể
khi họ ở điều kiện hay hoàn cảnh nào đã được xác định trong phần giả định của
quy phạm pháp luật. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà chúng ta có thể xác
định được khuôn mẫu hành vi đó có bắt buộc chủ thể phải tuân theo hay không?
Bộ phận chế tài theo quan điểm chung là bộ phận xác định biện pháp tác động mà
nhà nước thực dự kiến áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh
được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật thực chất chế tài là biện
pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý của chủ thể. Tuy nhiên đó
không phải là biện pháp duy nhất mà nhà nước sử dụng ở đảm bảo sự tôn trọng
pháp luật của chủ thể như đã phân tích ở trên. Thường quy phạm pháp luật sẽ có 3
bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Thực tế có nhiều cách trình bày các quy
phạm pháp luật trong các văn bản mà khi nghiên cứu điều luật cụ thể, chúng ta
thường thấy không có đầy đủ cả ba bộ phận nêu trên. Lý do là vì nội dung nào đó
có thể sử dụng chung cho nhiều quy phạm pháp luật thì việc lặp đi lặp lại nội dung
đó là không cần thiết hoặc do tính chất cấu trúc ngôn ngữ và bộ phận nào đó của
quy phạm pháp luật có thể được trình bày ẩn đi. Tuy nhiên nếu chúng ta là trường
những trường hợp nêu trên thì vẫn có những quy phạm pháp luật không có bộ phận
chế tài nếu xét theo góc độ logic của nội dung quy phạm pháp luật trong hai trường
hợp sau đây: Thứ nhất, phần quy định của quy luật pháp luật chỉ được xác định
quyền của chủ thể. Thứ hai quy phạm pháp luật mà nội dung của nó liên quan đến
thủ tục pháp lý hoặc trường hợp mà nội dung của nghĩa vụ gắn liền với lợi ích của
chủ thể pháp luật.Trong trường hợp nghĩa vụ của chủ thể gắn liền với lợi ích của
họ nếu chủ thể không thực hiện nghĩa vụ thì lợi ích của họ có thể bị thiệt hại. Như
vậy nếu các đương sự không thực hiện hành vi này thì cũng không cần biện pháp
chế tài nào bởi vì nghĩa vụ này gắn liền với lợi ích của chính họ.
Bên cạnh đó trên thực tế có những quy phạm pháp luật cần xác định nghĩa vụ
của chủ thể pháp luật nhưng không đạt ra phần chế tạo cho nhiều lý do khác nhau.
Có thể chúng ta chưa có cơ chế hợp lý cho việc áp dụng chế tài pháp luật cũng có
thể nhà làm luật chưa lường trước được biện pháp chế tài cần thiết hoặc trong một
số trường hợp nhà nước thấy rằng để đảm bảo các quy phạm pháp luật được thực
hiện thì việc sử dụng biện pháp thuyết phục sẽ có hiệu quả hơn so với việc sử
dụng các biện pháp bắt buộc cứng rắn như các chế tài của pháp luật. Vì thế phần
chế tạo của pháp luật không được đặt ra trong các quy phạm pháp luật đó. Như
vậy không phải bất kỳ nghĩa vụ pháp lý nào cũng cần phải có chế tài đã đảm bảo
cho nó được thực hiện mà nghĩa vụ đó có thể được đảm bảo bằng các biện pháp
thuyết phục hoặc việc thực hiện nghĩa vụ đó gắn liền với lợi ích trực tiếp của một
chủ thể có nghĩa vụ.

20. Vấn đề cơ cấu của quy phạm pháp luật


Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về cơ cấu
của quy phạm pháp luật. Tuy nhiên mối quan điểm đó có những ưu điểm và hạn
chế nhất định.

Quan điểm thứ nhất xuất phát từ những khái niệm cơ bản là giả định, quy
định và chế tài để xác định cơ cấu quy phạm pháp luật. Trong đó giả định là bộ
phận nêu lên những hoàn cảnh điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống và cá nhân
hay tổ chức nào ở vào những điều kiện hay hoàn cảnh đó thì xử sự theo những
cách thức được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Bộ phận quy
định nêu lên các xử sự của chủ thể khi gặp những điều kiện hay hoàn cảnh được
nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Bộ phận chế tài xác định những
biện pháp áp dụng đối với những chủ thể không thực hiện đúng yêu cầu được xác
định trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Có hai ý kiến khác nhau cho
rằng: Thứ nhất cho rằng quy phạm pháp luật bao gồm giả định quy định và chế tài.
Ý kiến thứ hai cho rằng quy phạm pháp luật chỉ bao gồm giả định và kết hậu quả
pháp lý mà hậu quả đó có thể là quy định hoặc chế tài.

Quan điểm này đã được giải quyết được vấn đề cấu trúc mang tính chất cơ
học của quy phạm pháp luật tại điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức được đúng
những đòi hỏi của pháp luật đối với thành viên của xã hội đồng thời cũng tạo ra
những cơ sở xây dựng những khái niệm khác của pháp luật. Tuy nhiên quan điểm
này có một số hạn chế:

Thứ nhất nếu quy phạm pháp luật có ba bộ phận: giả định, quy định và chế
tài chúng ta sẽ thấy phần giả định là phần xác định tình huống để chủ thể xử sự
theo yêu cầu trong phần quy định còn phần chế tài thì ngoài những biện pháp được
dự kiến đã áp dụng đối với chủ thể vi phạm cần phải có điều kiện để áp dụng chế
tài.

Thứ hai việc quan niệm chế tài là biện pháp để xử lý đối với chủ thể vi phạm
cho quan điểm này là chưa bao quát hết các biện pháp để đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện. Bởi vì bên cạnh những biện pháp chế tài còn có những biện pháp
khuyến khích đối với chủ thể thực hiện pháp luật.

Quan điểm thứ hai tiếp cận từ khía cạnh cấu trúc nội dung của quy phạm
pháp luật đã xem xét cơ cấu của quy phạm pháp luật với những thành phần cụ thể
khác. Quan điểm này cũng có hai ý kiến. Ý kiến thứ nhất cho rằng mỗi quyền sản
pháp luật có hai phần là phần quy định và phần mệnh đề. Ý kiến thứ hai trong
nhóm này chỉ tập trung phân tích cơ cấu của quy phạm với các bộ phận của phần
quy định trong quan điểm nêu trên. Theo đó nội dung của quy và pháp luật bao
gồm bốn bộ phận là đặc tính quy phạm, chủ thể của quy phạm hành động và điều
kiện thực hiện. Quan điểm thứ hai này đã làm sáng tỏ những vấn đề có tính bản
chất của quy phạm pháp luật và được phân biệt trong cấu trúc của quy phạm pháp
luật nội dung nào là sự thể hiện ý chí của nhà nước và hành vi của chủ thể trong
những hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên điểm hạn chế lớn nhất của nhóm này là chỉ tập
trung sáng tỏ phần quy tắc của quy phạm pháp luật mà chưa sáng tỏ biện pháp đảm
bảo cho quy tắc đó thực hiện hoặc chỉ coi chúng là những mệnh đề về chính sách.

Quan điểm thứ ba cho rằng mỗi quy phạm pháp luật có một phần quy tắc và
một vài quy phạm có một vấn đề về chính sách xử phạt. Những quy phạm chỉ cần
có phần quy tắc là những quy phạm khi chúng có quy phạm về xử phạt tương ứng.
Quan điểm này đã làm sáng tỏ một cách khái quát cơ có một quy phạm pháp luật
với việc làm sáng tỏ được mối quan hệ giữa cả cấu trúc và nội dung quy phạm
pháp luật và đã giải quyết được phần nào những hạn chế.Tuy nhiên quan điểm là
chỉ có việc đảm bảo thực hiện quy phạm pháp luật bằng những biện pháp chế tài vì
thế nó chưa phản ánh được đầy đủ vấn đề có tính bản chất của quy phạm pháp luật
nói chung. Quan điểm này cũng không phân biệt một cách rõ ràng quy phạm pháp
luật với điều luật của một văn bản

Xuất phát từ chính nội dung cơ bản của khái niệm quy phạm pháp luật là
“quy tắc xử sự” và được “nhà nước đảm bảo thực hiện” thì quy phạm pháp luật có
hai bộ phận cơ bản là phần quy tắc và phần bảo đảm

a. phần quy tắc

Phần quy tắc của quy phạm pháp luật là phần xác định cách xử sự của chủ
thể gắn liền với hoàn cảnh hay điều kiện nhất định cho đời sống xã hội. Đây là
phần cơ bản và không thể thiếu trong các quy phạm pháp luật bởi vì nhờ nó mà
chúng ta biết mình được, làm gì không được làm gì hay phải làm như thế nào…?
Cũng nhờ đó mà nhà nước có cơ sở cho việc xác lập những nội dung trong phần
bảo đảm của quy phạm pháp luật với các biện pháp chế tài và biện pháp khen
thưởng trong những trường hợp cụ thể. Phần quy tắc gồm hai nội dung là giả định
và quy định. Trong đó giả định là phần dự liệu điều kiện hoàn cảnh có thể xảy ra
trong đời sống cá nhân tổ chức mà hành vi của họ được xác định trong phần quy
định của quy phạm pháp luật. Cũng gồm hai nội dung là tình huống hành vi và chủ
thể hành vi. Quy định là phần xác định hành vi của chủ thể trong những điều kiện
hoàn cảnh được xác định trong phần giả định của mệnh lệnh và thể thức của hành
vi đó

b. Phần bảo đảm

Phần bảo đảm sẽ được những biện pháp mà nhà nước dự kiến áp dụng đối
với các chủ thể trong trường hợp họ đã tiến hành những xử sự nhất định khi ở vào
điều kiện hay hoàn cảnh được xác định trong giả định của phần quy tắc của quy
phạm pháp luật và những điều kiện nhất định. Giả định của phần đảm bảo có
những điểm giống với phần giả định của phần quy tắc là nêu lên giả định về tình
huống có thể xảy ra cho thực tế trong đời sống. Tuy nhiên giả định của phần bảo
đảm khác với giả định của phần quy tắc ở chỗ nội dung giả định của phần quy tắc
và những tình huống có thể xảy ra trong thực tế. Giả định của phần bảo đảm luôn
xác định hành vi nào đó mà chủ thể thực hiện trong điều kiện hay hoàn cảnh được
xác định ở giả định của phần quy tắc. Biện pháp bảo đảm là phần xác định những
hình thức hoặc mức độ cụ thể của biện pháp mà nhà nước áp dụng đối với những
chủ thể được giả định thực hiện một hành vi nào đó trong điều kiện hoàn cảnh
trong phần giả định của quy tắc xử sự.

Giữa phần quy tắc và phần bảo đảm có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trong đó giả định của phần bảo đảm chính là sự kết hợp các nội dung của phần
quy tắc. Sử vi phạm phần quy tắc là giả định của phần bảo đảm tiêu cực.
Có một số điểm cần lưu ý :

Thứ nhất không phải bất kỳ quy phạm pháp luật nào cũng có đầy đủ các bộ
phận Trong cấu trúc theo lý thuyết bởi vì: Những quy định về quyền của chủ thể
nghĩa vụ gắn với những lợi ích của chủ thể và những trường hợp phần quy định
thuộc vào loại không bắt buộc thì nhà nước không cần phải đưa ra các biện pháp
đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện. Hai là những quy phạm xác
định nghĩa vụ của chủ thể gắn liền với thủ tục pháp lý nào đó thì việc thực hiện
quy phạm pháp luật đó sẽ dẫn đến những quyền hoặc nghĩa vụ khác trong quy
phạm pháp luật khác

Thứ hai một quy phạm pháp luật với một phần quy tắc có thể kèm theo nó
nhiều phần đảm bảo khác nhau. Điều này tùy thuộc vào quan điểm về việc bảo
đảm thực hiện của nhà làm luật đối với quy tắc đó cũng như những tình huống đặt
ra đối với những trường hợp khác nhau khi chủ thể thực hiện tốt hoặc vi phạm
những yêu cầu được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật

Thứ ba giữa các quy phạm pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau

Quan niệm như vậy về cơ cấu của quy phạm pháp luật giúp chúng ta dễ
dàng phân biệt hai khái niệm gần nhau như hoàn toàn khác biệt đó là khái niệm
điều luật của văn bản quy phạm pháp luật và khái niệm quy phạm pháp luật. Vì
vậy không thể đồng nhất một điều luật với một quy phạm pháp luật vì: Một điều
luật chỉ có thể chứa đựng một hoặc nhiều phần quy tắc hay một hoặc nhiều phần
bảo đảm của các quy phạm pháp luật khác nhau. Một lý do khác dẫn đến việc các
điều luật chỉ chứa đựng một phần của quy phạm pháp luật là xuất phát từ kỹ thuật
là pháp nhằm đảm bảo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật. Thứ hai có những
điều luật chỉ chứa đựng những mệnh đề của quy phạm pháp luật như khái niệm các
quy định mang tính định hướng hoặc những quy định liên quan đến hiệu lực của
văn bản quy phạm pháp luật hoặc các quy phạm.

Có quan niệm như trên về cấu trúc của quy phạm pháp luật có thể thấy rằng
nó đã giải quyết được những vấn đề đặt ra trong khoa học Lý luận Nhà nước và
pháp luật về vấn đề này.

21. Một cách tiếp cận đối với quy phạm pháp luật
1 Khái niệm về quy phạm pháp luật
Một trong những thuộc tính cơ bản quan trọng của pháp luật và tính quy
phạm phổ biến nó cụ thể hơn thì pháp luật luôn là hệ thống các quy phạm pháp
luật. Nói đến pháp luật phải nói đến quy phạm pháp luật thiếu quy phạm thì pháp
luật không còn là pháp luật,song “không phải pháp luật chỉ là các quy phạm” mà
còn nhiều những vấn đề khác nữa trong nội dung pháp luật như các chính sách
pháp luật, các nguyên tắc pháp luật và các quy định khác của pháp luật.
Với cách tiếp cận như vậy thì không phải tất cả những quy định của pháp
luật đều được coi là quy phạm pháp luật. Một số quy định của pháp luật không thể
coi là quy tắc xử sự chung vì chúng “chưa mang đầy đủ những đặc trưng của một
quy phạm pháp luật”.Do vậy cần mở rộng khái niệm pháp luật, không chỉ về mặt lý
luận mà còn về cả pháp luật thực định. Nghĩa là pháp luật cùng hệ thống các quy
định mà chủ yếu là các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện
thì sẽ đầy đủ và chính xác hơn.Điều này cho thấy các quy định pháp luật có thể là
những nguyên tắc pháp lý những chính sách pháp luật những quy tắc xử sự và cả
những quy định khác mà nhà nước thấy cần thiết. Từ đó cho thấy chỉ những quy
định nào của pháp luật mà là quy tắc xử sự thì mới xem là quy phạm pháp luật bởi
quy phạm pháp luật là quy tắc khuôn mẫu, mệnh lệnh, chuẩn mực để mọi người
đối chiếu và lựa chọn cách ứng xử phù hợp.
Đời sống cộng là của con người đòi hỏi phải đặt ra rất nhiều những quy
phạm khác nhau và những quy phạm nào hình thành trong quá trình hoạt động của
xã hội con người dùng để điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người thì
được gọi là quy phạm xã hội. Trong đời sống cộng đồng xã hội không thể thiếu
được các quy phạm xã hội, chúng là những phương tiện để quản lý xã hội, phối
hợp ý chí và quy tụ có mục đích hoạt động của từng cá nhân riêng rẽ lại nhằm đạt
được những lợi ích và mục đích mong muốn tạo điều kiện cho xã hội ổn định và
phát triển.
Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội vì vậy nó mang đầy đủ
những thuộc tính chung của quy phạm xã hội vừa có những thuộc tính của riêng
mình Cụ thể là:
 Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự. Với tư cách là quy tắc xử sự, quy
phạm pháp luật luôn là khuôn mẫu cho hành vi của con người Nó chỉ dẫn
mọi người cách xử sự trong những hoàn cảnh điều kiện nhất định.
 Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi
của con người. Không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi quy phạm pháp luật còn
là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của chủ thể tham gia
quan hệ mà nó điều chỉnh từ phía nhà nước, từ những người có quyền hạn,
chức vụ.
 Quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện.Quy phạm
pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra thừa nhận hoặc phê
chuẩn do vậy bản chất của chúng trùng với bản chất của pháp luật.
 Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung. Quy phạm pháp luật được ban
hành không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ
chức và cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà Nó điều chỉnh
 quy phạm pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội mà nội dung của
nó thường thể hiện hai mặt: Cho phép và bắt buộc. Nghĩa là quy phạm pháp
luật là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
 Quy phạm pháp luật có tính hệ thống. Mỗi quy phạm pháp luật không tác
động một cách biệt, riêng rẽ mà giữa chúng luôn có sự liên kết mật thiết và
thống nhất với nhau tạo nên những chỉnh thể thống nhất cùng điều chỉnh các
quan hệ xã hội vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Như chúng ta đã biết quy phạm pháp luật cũng như các quy phạm xã hội
khác thường chứa trong những câu hỏi ai? Khi nào? thì sẽ xử sự như thế nào hoặc
hậu quả gì cần phải gánh chịu.?Tôi cắt tiếp cận này chúng ta có thể cho rằng cấu
trúc của quy luật pháp luật luôn có hai phần phần giả định và phần mệnh lệnh.
a. Phần giả định
Gia đình là một phần của quy luật pháp luật trong đó nêu ra những hoàn cảnh
điều kiện có thể xảy ra trong đời sống xã hội nào quy phạm pháp luật sẽ tác động
đối với những chủ thể nhất định. Nói cách khác giả định nêu lên phạm vi tác động
của quy phạm pháp luật đối với ai? trong những hoàn cảnh điều kiện nào?
b. Chỉ dẫn
Chỉ dẫn là một phần của quy phạm pháp luật nêu lên những cách xử sự mà
các chủ thể có thể hoặc buộc phải thực hiện gắn với những hoàn cảnh điều kiện đã
nêu ở phần giả định của quy phạm pháp luật.Phần chỉ dẫn của quy phạm pháp luật
được coi là phần cốt lõi của quy phạm. Nó thể hiện ý chí của nhà nước đối với các
tổ chức cá nhân khi xảy ra những hoàn cảnh điều kiện đã được nêu lên trong phần
giả định của quy phạm pháp luật.Những chỉ dẫn của nhà nước được nêu lên trong
quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có thể là:
 Những hành vi mà chủ thể được phép hoặc không được phép thực hiện
 Những lợi ích hoặc những quyền mà chủ thể
 Những hành vi mà chủ thể buộc phải thực hiện thậm chí phải thực hiện
Chúng như thế nào
 Những hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu
Như vậy chỉ dẫn của nhà nước trong quy phạm pháp luật có thể chia thành hai
nhóm
 Nhóm thứ nhất thường được gọi là bộ phận quy định của quy phạm pháp
luật trong đó chỉ ra các quyền và các tổ chức cá nhân được hưởng hoặc các
nghĩa vụ pháp lý mà họ phải thực hiện mặc dù không phải khi nào thuật ngữ
quyền và nghĩa vụ cũng được trực tiếp thể hiện trong lời văn của quy phạm.
 Nhóm thứ hai là những biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thực hiện
trong đó chỉ ra các biện pháp mà các chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng
đối với các chủ thể đã được nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật.
Đối với những hành vi mang lại lợi ích đáng kể cho nhà nước xã hội, hành vi
thực hiện pháp luật chính xác, đầy đủ Nhà nước thường chỉ dẫn áp dụng những
biện pháp mang tính khuyến khích về lợi ích vật chất, tinh thần hoặc các lợi ích
khác để khen thưởng động viên các tổ chức cá nhân thực hiện pháp luật ngày 1 tốt
hơn. Đối với những hành vi không tuân theo đầy đủ các quy định của pháp luật,
hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật thì Nhà nước thường chỉ dẫn áp
dụng những biện pháp bất lợi đối với chủ thể thực hiện hành vi đó. Các biện pháp
bất lợi mà nhà nước nêu ra trong phần chỉ dẫn của quy phạm pháp luật rất đa dạng
Nó có thể là
 Các biện pháp mang tính trừng phạt có liên quan trực tiếp tới pháp lý các
biện pháp này được gọi là chế tài pháp luật gồm có chế tạo hình sự, chế tài
hành chính, chế tài kỉ luật, chế tài dân sự.
 Các biện pháp đi cho chủ thể những hậu quả bất lợi như đình chỉ bãi bỏ các
văn bản sai trái của cấp dưới, tuyên bố hợp đồng vô hiệu và các biện pháp
khác.
22. Góp phần thống nhất nhận thức về khái niệm quan hệ
pháp luật
Việc nghiên cứu quan hệ pháp luật thường được xem xét gắn với từng loại
quan hệ pháp luật chuyên ngành cụ thể, gắn Với thực tiễn việc giải quyết về quyền
nghĩa vụ trách nhiệm pháp lý cụ thể. Ưu điểm của cách tiếp cận này là cho phép
nhìn nhận một cách đa chiều về tính sống động của quan hệ pháp luật trong đời
sống thực tế. Hơn nữa phù hợp với cấu trúc của các loại quan hệ pháp luật các học
giả tư sản đã giải quyết được nhiều vấn đề đặt ra mới mẻ trong đời sống pháp lý
thực tiễn, góp phần xác định khuynh hướng và trạng thái của cơ chế điều chỉnh
pháp luật trong từng giai đoạn cụ thể. Tuy vậy cũng có quan điểm khi xem xét
quan hệ pháp luật với tính cách là mối quan hệ giữa hai chủ thể có liên quan theo
quy định của pháp luật và bị ràng buộc lẫn nhau bởi quyền và nghĩa vụ của pháp lý
thì họ cho rằng nghĩa vụ là cái cơ bản cho quan hệ pháp luật. Chủ thể này thực hiện
nghĩa vụ của mình tốt thì mới đáp ứng được quyền của chủ thể khác. Với cách tiếp
cận muốn có thực quyền phải gắn với nghĩa vụ nên đã thực sự đề cao nghĩa vụ
pháp lý trong quan hệ pháp luật. Tuy nhiên trong khoa học pháp lý tư sản thì ranh
giới lại không rõ ràng giữa “có quyền” và “vô quyền”. Sự nhập nhằng giữa “có
quyền” và “vô quyền” ở đây có thể đem lại cơ chế giải quyết các nội dung pháp lý
không thông qua tòa án. Điều này đã đem lại một thực trạng là một số quan hệ
pháp luật được điều chỉnh bằng pháp luật nhưng theo ý chí của các bên tham gia
quan hệ đó nó có thể bị đặt ra ngoài phạm vi tác động của pháp luật. Nhìn chung
khái niệm quan hệ pháp luật chủ yếu được dùng để phân tích quyền chủ thể và
việc thực hiện nó trong các quan hệ pháp luật cụ thể. Hơn nữa việc tiếp cận khách
quan hệ pháp luật chủ yếu từ các giao ước dân sự thương mại nên khuynh hướng
nghiên cứu khái niệm quan hệ pháp luật gắn liền với khái niệm hợp đồng lý luận.
Quan hệ pháp luật trước hết phải xây dựng trên lý luận về hợp đồng.
Trong khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa vấn đề quan hệ pháp luật được
nghiên cứu một cách có hệ thống. Các nhà khoa học pháp lý Xô Viết trước hết đã
nghiên cứu cơ sở pháp luận của nó, từ đó xác định vai trò vị trí quan hệ pháp luật
trong hệ thống các khái niệm pháp lý. Việc khẳng định khái niệm quan hệ pháp
luật là một trong những khái niệm có tính nền tảng của khoa học pháp lý được lý
giải từ góc độ triết học mác xít. Một trong những vấn đề có tính quy định về
phương pháp luận của học thuyết lý luận này là thể hiện ở việc xác định mối liên
hệ giữa nó với thực tiễn.
Mặc dù khái niệm quan hệ pháp luật được xây dựng dựa trên nhiều cách tiếp
cận khác nhau nhưng nhìn chung các nhà khoa học đều thống nhất ở điểm cơ bản.
Đó chính là hình thức việc thực hiện pháp luật. Về khái niệm quan hệ pháp luật
được coi là một trong các khái niệm của nền tảng khoa học pháp lý đã nói rõ vị trí
của nó như là mô hình cấu trúc cơ bản cho các hệ thống lý luận quan hệ pháp luật
chuyên ngành. Chính vì vậy việc coi trọng tính nền tảng của khái niệm quan hệ
pháp luật có ý nghĩa thực tiễn đối với khoa học pháp lý chuyên ngành khi nghiên
cứu các dạng thức quan hệ của nó, tạo nên tính thống nhất đồng bộ giữa lý luận và
thực tế. Do đó khi nghiên cứu đối chiếu giữa lý luận với thực tế chúng ta không
khỏi thắc mắc là tại sao khái niệm quan hệ pháp luật lại không có sự bao quát hết
các tình huống trạng thái thực tế hoặc tại sao một số đặc điểm của quan hệ pháp
luật cụ thể lại không thích ứng với nội hàm khái niệm quan hệ pháp luật chung.
Thực tế ở nước ta quan hệ pháp luật cũng đã được nghiên cứu với mức độ nhất
định của khoa học lý luận chung và khoa học pháp lý chuyên ngành. Mặc dù trong
nghiên cứu cũng chưa hình thành các trường phái lý luận riêng biệt mà chỉ mới
dừng lại bằng việc tổng hợp hoặc phân tích so sánh quan điểm của nước ngoài. Do
đó chưa có sự thống nhất trong nhận thức về nhiều vấn đề cụ thể, trước hết là nội
hàm khái niệm quan hệ pháp luật.
Công cuộc đổi mới ở nước ta cho thấy sự biến đổi về tính chất cơ cấu của quan
hệ xã hội đã kéo theo sự thay đổi nhất định về nội dung của các quy định pháp luật
và các đặc trưng pháp lý của các quan hệ pháp luật cụ thể. Điều này đặt ra cho
khoa học lý luận về pháp luật nhiều vấn đề phải làm sáng tỏ khi mà việc nghiên
cứu quan hệ pháp luật dựa trên cơ sở nhận thức của tư duy pháp lý cũ đã bộc lộ
nhiều điểm không còn phù hợp. Nguyên nhân cơ bản theo tác giả là chưa có sự
thống nhất trong cách tiếp cận đối với quan hệ pháp luật. Một số quan điểm hiện
được sử dụng phổ biến hiện nay ở nước ta:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ
xã hội. Hình thức pháp lý này xuất hiện trên cơ sở sự điều chỉnh của pháp luật đối
với các quan hệ xã hội tương ứng và các bên tham gia quan hệ pháp luật đó đều
mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy phạm pháp luật quy định.
+ Quan điểm thứ hai khẳng định quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội
được quy phạm pháp luật điều chỉnh.
+ Quan điểm thứ ba có cách lý giải khác “quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội
đặc biệt nảy sinh do sự tác động hữu cơ giữa quy phạm pháp luật và sự kiện pháp
lý”.
+Quan điểm thứ tư lại hiểu “quan hệ pháp luật là quan hệ có tính chất tác động
qua lại về mặt xã hội trên cơ sở những sự kiện pháp lý nhất định Để qua đó chủ thể
đạt được những mục đích của mình do pháp luật quy định”.
Tóm lại có thể nói quan hệ pháp luật trước hết và đương nhiên phải khẳng định
nó là một dạng thức của quan hệ xã hội có sự hiện diện của quyền nghĩa vụ pháp lý
và được đảm bảo của nhà nước. Có thể khẳng định quan hệ pháp luật là dạng quan
hệ xã hội được hình thành tồn tại vận động trên cơ sở pháp luật đặc trưng bởi sự
hiện diện và tương tác của quyền nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
So sánh những điểm giống và khác nhau trong quan điểm của tác giả bài viết
với cách hiểu được học trong môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
mà cụ thể là trong giáo trình

+ Giống nhau

- Khái niệm: Nguồn của pháp luật là nơi cung cấp cho cơ quan nhà
nước cơ sở pháp lý để giải quyết vụ việc
- Nguồn pháp luật và hình thức pháp lý có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau
- Nhìn chung trên thế giới nguồn của pháp luật khá phong phú
- Các loại nguồn pháp luật cơ bản bao gồm văn bản pháp luật, thực tiễn
pháp lý và án lệ.
- Mỗi quốc gia có thể có các loại nguồn pháp luật khác nhau
- Trong từng giai đoạn phát triển của từng nước cũng có thể có các loại
nguồn của pháp luật khác nhau
+ Khác nhau

+ Khái niệm nguồn của pháp luật:

Giáo trình: nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp
căn cứ pháp lý cho hoạt động của cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền
cũng như các chủ thể khác trong xã hội

Quan điểm của tác giả: nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ để chủ thể có
thẩm quyền sử dụng làm cơ sơ để xây dựng ban hành giải thích pháp luật cũng như
để áp dụng vào giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế
– Tác giả bài viết cho rằng nguồn của của pháp luật là tất cả căn cứ để xây dựng
ban hành giải thích pháp luật và áp dụng giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra
trong thực tế; tuy nhiên ở giáo trình lại cho rằng nguồn của pháp luật là nơi chứa
đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lý, tức là không có căn cứ để xây dựng ban
hành pháp luật. Cũng trong giáo trình căn cứ pháp lý được cung cấp cho hoạt
động của cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền và chủ thể khác trong
xã hội nhưng trong bài viết thì cho rằng chỉ là căn cứ cho chủ thể có thẩm quyền
còn các chủ thể khác trong xã hội thì không được
– Trong giáo trình, điều ước quốc tế được coi là một nguồn cơ bản của pháp luật
trong khi ở bài viết điều ước quốc tế không được nhắc đến như một nguồn cơ
bản của pháp luật

Quan điểm cá nhân

– Theo em, em đồng ý vói quan điểm của tác giả bài viết hơn là quan điểm được
nêu trong giáo trình. Vì tác giả bài viết đề cập đến nguồn của pháp luật trên hai
khía cạnh là nguồn hình thức và nguồn nội dung của pháp luật trong khi giáo
trình chỉ phân tích khía cạnh nguồn hình thức còn nguồn nội dung chỉ được giới
thiệu qua. Trong giáo trình có sự đánh giá rằng trong khoa học pháp lý thực tiễn,
vấn đề nguồn nội dung của pháp luật nhìn chung không có nhiều ý nghĩa, ngược
lại thì nguồn nội dung của pháp luật lại luôn được quan tâm trên bình diện nhận
thức cũng như trong hoạt động thực tiễn còn trong quan điểm của tác giả không
có sự phân biệt này.

You might also like