- Đường lối của Đảng được xây dựng, phát triển và từng bước hoàn chỉnh qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định lực lượng kháng chiến là toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt. Phương pháp cách mạng là nhiệm vụ kháng chiến được đặt lên hàng đầu; thực hiện vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Phương thức tiến hành kháng chiến là kết hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các đơn vị bộ đội chủ lực. Đây thực sự là một sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam– đường lối kháng chiến – mà Đảng ta với tư cách chủ thể. - Nghệ thuật quân sự là nét đặc sắc nổi bật của đường lối kháng chiến, được biểu hiện tập trung ở sự chỉ đạo tác chiến chiến dịch, chiến lược thông qua các chiến dịch - Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta vô cùng đúng đắn và sáng tạo: Đường lối không chỉ là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự truyền thống dân tộc, mà còn phù hợp với nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tình hình đất nước lúc bấy giờ. - Vận dụng kết hợp giữa nguyên lý chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm quân sự nước ngoài vào Việt Nam. Đây chính là đường lối chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh” và “lấy chính nghĩa thắng hung tàn”. - Việc thực hiện đúng đắn đường lối của Đảng ta đã giúp chúng ta đánh bại sự xâm lược của Pháp, buộc chúng phải công nhận độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam và các nước Đông Dương. Làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiên tranh của đế quốc Mỹ. giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện cho miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam. Là điều kiện để đi đến thống nhất đất nước. CÔNG TÁC HẬU CẦN TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ 1954: - Bảo đảm hậu cần cho chiến dịch trong điều kiện rất khó khăn: chiến trường ở xa hậu phương tới 500-600 km, trên địa hình rừng núi hiểm trở, đường vận tải cơ giới đã hư hỏng, không có đường thuỷ, thời tiết khí hậu thất thường, dân cư thưa thớt, kinh tế nghèo nàn lạc hậu. Trong khi đó, quân Pháp lại có ưu thế về không quân, vừa thuận lợi cho tiếp tế, vừa có hỏa lực mạnh để đánh phá, ngăn chặn lực lượng ta. - Đứng trước những khó khăn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm: "Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này". - Để khắc phục khó khăn, đáp ứng nhu cầu hậu cần chiến dịch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương: Huy động tại chỗ và tích cực vận chuyển từ hậu phương ra tiền tuyến. Thực hiện phương châm đó, trong chiến dịch Điện Biên Phủ chúng ta đã tiến hành một cuộc vận động nhân dân chi viện tiền tuyến lớn lao chưa từng có trong kháng chiến chống Pháp, đã huy động một khối lượng lớn sức người, sức của ở cả vùng tạm bị địch chiếm, vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Việt Bắc và đặc biệt là Tây Bắc - hậu phương hậu cần tại chỗ của chiến dịch. - Từ đầu năm 1954, Trung ương Đảng, Chính phủ ra lời kêu gọi “Tất cả cho mặt trận”, “Tất cả để chiến thắng”, nhằm dốc toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ. Theo đó, cả nước đều hướng ra mặt trận; nhân dân vừa tích cực đóng thuế, bán thực phẩm, vừa cho vay, ủng hộ để cung cấp tiếp tế cho bộ đội và tích cực tham gia dân công phục vụ Chiến dịch. Nhờ phát huy cao nhất việc khai thác, huy động nguồn vật chất từ hậu phương đưa lên, kết hợp khai thác nguồn tại chỗ trên địa bàn Chiến dịch nên chỉ trong thời gian ngắn, ta đã huy động được khối lượng lớn sức người, sức của từ vùng tự do (Thanh - Nghệ - Tĩnh, Việt Bắc,...) đến vùng bị địch tạm chiếm để chi viện cho Chiến dịch, với hơn 23.000 tấn gạo, 266 tấn muối, gần 2.000 tấn thực phẩm, cùng gần 21.000 xe đạp thồ, gần 1.000 con ngựa thồ, hơn 3.000 chiếc thuyền và hơn 261.400 lượt dân công với 12 triệu ngày công. - Trong Chiến dịch, do nhu cầu vận tải lớn, tuyến vận tải dài, hiểm trở, địch lại đánh phá ác liệt, nên công tác vận tải được đặc biệt quan tâm. Trung ương chỉ đạo: bằng mọi cách và phải vượt qua khó khăn, đưa sức mạnh đến tiền tuyến. Để thực hiện, Tổng cục Cung cấp xác định phương châm: lấy vận tải cơ giới là chủ yếu, triệt để phát huy cơ giới, đồng thời tranh thủ mọi phương tiện vận tải thô sơ. Ta đã huy động cao nhất vận tải cơ giới, với toàn bộ 16 đại đội ô tô vận tải và kết hợp chặt chẽ với các phương tiện vận tải khác, như: xe đạp thồ, ngựa thồ, thuyền, mảng, người gánh,... tạo nên hệ thống vận tải đa dạng. Đây là sự vận dụng rất sáng tạo, phát huy thế mạnh của từng phương thức vận tải, phù hợp với điều kiện cụ thể nhằm hỗ trợ, chi viện lẫn nhau. - Lường trước mức độ ác liệt của Chiến dịch khi chúng ta tiến công Điện Biên Phủ, ngành Hậu cần đã huy động toàn bộ lực lượng của 11 đội điều trị, trong đó 05 đội được xây dựng thành bệnh viện mặt trận, 03 đội triển khai ở tuyến hậu cần hỏa tuyến để cứu chữa thương binh, bệnh binh. Đặc biệt, nhiều giáo viên và sinh viên ngành y, dược được điều động đến tăng cường cho mặt trận. Thực hiện mỗi xe chuyển thương là một “bệnh xá lưu động”, mỗi tổ cáng thương là một “gia đình yêu thương”,... ta đã cứu chữa hàng vạn thương binh, bệnh binh để bổ sung cho các đơn vị chiến đấu và kịp thời chuyển hàng nghìn thương, bệnh binh nặng (cả ta và địch) về tuyến sau điều trị. - Song, với quyết tâm cao, tinh thần tự lực, tự cường, ý chí quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, phát huy cao nhất vai trò của hậu phương, hậu cần nhân dân, hậu cần Quân đội, tạo sức mạnh tổng hợp, đáp ứng kịp thời lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang bị cho hoạt động tác chiến, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch.
Đoàn ngựa thồ vận tải cho bộ đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. (Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2015) 2. (Thiếu tướng TRẦN DUY GIANG, 2019) 3. Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1, Nxb QĐND, H. 1993, tr. 305 - 306. 4. Tổng kết Công tác hậu cần Chiến dịch Điện Biên Phủ, Nxb QĐND, H. 1979, tr. 131. 5. Chiến thắng Điện Biên Phủ cột mốc vàng lịch sử, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 258. 6. Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, tr.933-935, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ được đề ra ngay từ đầu cuộc kháng chiến và không ngừng được bổ sung hoàn chỉnh trong quá trình tiến hành kháng chiến