Professional Documents
Culture Documents
Ly Thuyet Tro Choi 1
Ly Thuyet Tro Choi 1
Beautiful Mind là một bộ phim khá hay về cuộc đời của Nash, một
giáo sư thuộc viện Toán học trường Princeton giải Nobel kinh tế
1994.
Một điều khá thú vị về bộ phim này, mà cho đến tận gần đây, (sau
gần hai năm xem bộ phim), tôi mới biết được, là Nash vẫn còn
sống. Ông vẫn làm việc, tham gia giảng dạy và nghiên cứu tại
trường đại học Princeton. Và ông vẫn rất gắn kết với môn toán,
tuy rằng với Game Theory, ông đã được trao giải Nobel kinh tế
năm 1994.
Để hiểu được cái gọi là Game Theory, e rằng với trình độ hạn
hẹp của tôi, khó có thể giải thích tường tận hết được. Vì vậy, ở
đây tôi sẽ cố gắng trình bày sơ lược về Game Theory dựa trên
hiểu biết của mình. Một điều khá bức xúc là tôi không thể viết tất
cả bằng tiếng Việt được bởi vì sự thiếu hiểu biết về những từ
chuyên môn của Việt Nam. Vì thế, sẽ có những từ, hoặc cụm từ
Để hiểu được về Game Theory, bài viết này tôi sẽ trình bày theo
Thứ hai là Nash và Game Theory: cái mà một thời Nash đã cho là
Và thứ ba, tại sao Game Theory lại chưa đầy đủ.
Hai "phát minh" chủ yếu của ông là "invisble hand" và "division of
labour". Trong đó, "invisible hand" có liên quan trực tiếp đến chủ
đề này. Về cơ bản, Smith cho rằng tất cả mọi người trong xã hội
đều hành động rất "rationally". Ông tin rằng mỗi sáng người thợ
thức dậy, bắt tay vào sản xuất hàng hóa cho "self-interest". Thế
bán sản phẩm với giá họ đặt ra, mà trái lại, họ sẽ sản xuất theo
nhu cầu của người tiêu dùng, và bán với giá người tiêu dùng sẵn
sàng trả. Dựa vào lãi xuất hay lợi ích sẽ đạt được, người thợ
quyết định số lượng và chất lượng. Trong thị trường, không chỉ
tồn tại một người mua hay một người bán, mà hàng ngàn người
mua cùng với hàng ngàn người bán. Vì thế, tất cả đều được xem
về giá cả, nhưng mọi người đều phải cố gắng để đạt tới đỉnh
điểm của "self-interest": người bán muốn bán nhiều, tiền nhiều;
người mua muốn mua nhiều, tiền ít. Hai trạng thái tâm lí trái
ngược nhau sẽ đưa đến một điểm cân bằng trong thị trường, nơi
mà tất cả đều đạt được tối đa có thể. Nếu biểu diễn trên đồ thị
của giá cả và sản lượng sẽ là hai đường biểu diễn mà: một cái có
sản lượng tăng khi giá tăng (supply curve), một cái có sản lượng
giảm khi giá tăng (demand curve). Hai đường biểu diễn này sẽ
gặp nhau tại một điểm, gọi là điểm cân bằng (equilibrium point).
Theo Smith, điểm này sẽ là điểm mà tổng lợi ích của tất cả những
người tham gia vào thị trường (cả mua và bán) là lớn nhất. Tất
nhiên, điểm này chỉ có thể xảy ra khi không có sự tham gia của
chính phủ, "invisible hand" sẽ làm tất cả các việc còn lại.
Tuy nhiên, trên thực tế, "equilibirum point" rất ít khi xảy xa, ngay
cả khi tuyệt đối không có sự tham gia của chính phủ. Điều này
luôn đúng vì xã hội phức tạp và rộng lớn hơn Adam Smith đã
từng biết.
không nhận được những thông tin đúng đắn về sản phẩm. Thứ
hai, phải mất khá nhiều thời gian và công sức người mua mới tìm
được người bán và ngược lại. Điều này được khẳng định trên
khía cạnh rằng "giữa hàng ngàn người kia, ai sẽ là người trả giá
cao nhất,(hoặc bán với giá thấp nhất), để chọn. Khi hàng hóa
được mua (hoặc bán) bởi những người không trả giá cao nhất
(hoặc sản xuất với giá thấp nhất), điểm cân bằng không xảy ra.
điều không tưởng trong cuộc sống hiện thực. Chính vì vấy, để
giải được bài toán hóc búa này, Nash's Game Theory đã vào
cuộc, đưa ra một lời giải, một điểm cân bằng thực tế hơn cho
Nash , nguyên là một học sinh trường Princeton, sau một thời
gian khó khăn vượt qua được căn bệnh tâm lí (paranoid
Về căn bản, trái ngược với "invisble hand" của Smith, Game
Theory đưa ra một cách lí giải khác cho kinh tế thị trường, đưa lại
một điểm cân bằng có thực trong hiện tại. Sau này, điểm cân
Tại đây, cũng phải nói rõ thêm rằng Nash không phải là người
đầu tiên nghiên cứu về Game Theory. Người đấu tiên phát minh
gian điều trị tâm lí trong bệnh viện đã cho Nash một cách nhìn mà
Trong bộ phim "A beautiful mind", Nash đã nghĩ ra cách giải thích
hợp cho lí thuyết của mình một cách rất tình cờ khi cùng bạn bè
tới quán bar. Lúc đó, một cô gái tóc vàng xinh đẹp xuất hiện, dĩ
nhiên, tất cả các chàng trai đều muốn có được cơ hội làm bạn với
cô. Nhưng cô gái chỉ là một người, làm sao chia sẻ cho tất cả?
Game theory của Nash nói rằng "trong một cuộc chơi, tất cả
những người tham gia đều có những chiến lược để thắng, và khi
tất cả áp dụng chiến lược của mình vào trò chơi, sẽ ngẫu nhiên
tạo nên một thế cân bằng, và bất cứ ai thay đổi chiến lược, phá
vỡ thế cân bằng, sẽ không chỉ tổn hại người khác, mà chính anh
Để làm rõ thêm điều này, hãy cũng nghĩ tới một ví dụ như sau:
Giả sử thành phố X, có một dãy phố chính là Y. Con phố Y dài
100m, và có thể có hai cây xăng trên phố. Nếu muốn không ai
phải đi quá 50m để mua xăng, và hai cây xăng có lượng khách
hàng như nhau, hai cây xăng đó nên đặt ở hai đầu của con phố.
Như thế, mỗi cây xăng sẽ bán được lượng xăng tương đối bằng
nhau. Điểm cân bằng nên là như thế vì như thế sẽ đạt được tối
đa lợi nhuận cho chủ cây xăng và khách hàng cũng không phải đi
sự can thiệp của chính phủ, mỗi chủ cây xăng sẽ luôn luôn muốn
chuyển dần vào giữa con phố vì đó là nơi tiếp xúc với nhiều dân
cư nhất. Như vậy, cuối cùng cả hai cây xăng sẽ được đặt ngay
sát nhau và cùng ở giữa con phố. Hai cây xăng cạnh nhau là một
sự lẵng phí quá không cần thiết. Và nó là kết quả của "invisible
hand" của Adam Smith. Một cách khá rõ rằng là đó không phải là
một kết quả đẹp. Và nếu như đưa vào vị thế "chỉ có một trung
điểm", hai chủ cây xăng sẽ làm gì? Nash nói rằng vì ngay từ đầu
họ thay đổi chiến thuật chung, kết quả sẽ dẫn đến chẳng ai có gì.
Hay như một vị dụ khác. Với một trò chơi có hai người chia nhau
muốn (1 chiếc, 2 chiếc, nửa chiếc...). Biết rằng nếu tổng số bánh
hai người muốn nhiều hơn 2 cái, cả hai sẽ chẳng được gì. Trong
trò chơi này, rõ ràng cả hai người sẽ cùng cố gắng lấy được càng
nhiều bánh càng tốt.
Nếu người thứ nhất chọn cả hai cái, người thứ hai sẽ làm gì? Tất
nhiên nếu người thứ hai chọn 0, kết quả hiển nhiên rằng người 1
kết thúc trò chơi với một cái bụng căng tròn, trong khi người 2
nhịn đói. Vậy khi người hai không muộn nhịn đói và chọn bất cứ
một phần bánh nào khác 0, tổng số bánh cả hai người muốn sẽ
lớn hơn 2 và vì vậy, cả hai người phải nhịn đói. Trong cả hai
trường hợp, người 2 đều không được gì cả, vậy người 2 sẽ làm
gì? Trong đời sống thực, người 2 chắc chắn sẽ không muốn để
người 1 "vui hưởng thái bình" một mình. Như vậy, kết quả sẽ là 0
cho cả hai, một kết quả không đẹp một chút nào.
Vậy mỗi người nên làm gì? Làm một phép toán lớp 1 cho ta biết
mỗi người chỉ nên đòi hỏi một chiếc bánh thôi, và như vậy, cả hai
Trong cuộc sống hiện tại, vấn đề sẽ không phải là chia 2 cái bánh
cho 2 người. Nó sẽ phức tạp hơn nhiều khi ta xét đến những tài
một hồ cá đầy, nông dân trong vùng ai cũng muốn bắt một ít cho
bữa tối. Nếu tất cả cùng biết hạn chế sự "thèm cá" của mình và
sinh sôi nảy nở. Tuy nhiên, nếu một người thay đổi thói quen
thường ngày bằng cách bắt nhiều hơn một con cá, hàng xóm của
ông ta cũng sẽ muốn bắt thêm một con. Hàng xóm của ông hàng
xóm cũng vậy. Kết quả là tất cả sẽ lao ra đánh bắt tùy í, vớt cạn
cá trong hồ. Chỉ một thời gian ngắn, chắc chắn sẽ chẳng còn con
quả thật là xinh đẹp tất cả đều muốn chiếm được cô. Ở một trạng
thái cân bằng, cô ta nên đứng một mình giữa tất cả. Như thế, ai
cũng sẽ được chiêm ngưỡng cô. Tuy nhiên, nếu một ai đó cả gan
xông vào làm quen (chắc không phải là Nash rồi!), thế cân bằng
bị phá vỡ, tất cả sẽ cùng xúm lại. Điều này sẽ dẫn đến "xung đột
nội bộ", cô gái sẽ không muốn ở đó nữa, lúc đấy mọi người đều
mất tất.
Một điều cần phải nói ở đây là để đoạt được giải Nobel, hiển
nhiên Nash không chỉ bàn luận về việc "cô gái tóc vàng" hay
chuyện chia bánh cho hai người. Trên thực tế, Nash đã sử dụng
phương tiện là Thương Mại Quốc Tế để biểu diễn cho trò chơi
của mình. Trong "trò chơi" của Nash, tất cả các nước tham gia
mua bán trao đổi quốc tế đều muốn một cái gì đó hơn là những
lợi nhuận thu được từ việc mua bán. Trong đó, nước Mĩ là một
thành phần trẻ, tự cho mình hơn người, và kết luận là nước khác
thiếu hiểu biết. Nhằm mục đích đạt được ảnh hưởng chính trị, Mĩ
phá vỡ thế cân bằng của Thương Mại Quốc tế bằng cách đặt một
rào quản thuế quan vào hàng hóa nhập khẩu từ nước mà Mĩ
đang nhằm vào. Bất hạnh thay cho Mĩ, sau một vài lần thành
công, đe dọa các nước bằng chiến thuật này, Mĩ phải chịu thiệt
hại nặng nề trong kinh tế. Thứ nhất, một nước nhập khẩu hàng
hóa là bởi vì nước đó không có được lợi thế về sản xuất mặt
trường thế giới hiển nhiên thấp hơn giá của thị trường trong nước
trước khi nhập khẩu. Khi Mĩ nhập khẩu một mặt hàng nào đó,
thể mua được mặt hàng đó rẻ hơn bình thường (khi mà Mĩ tự sản
xuất). Khi Mĩ đặt ra một hàng rào thuế quan, cũng sẽ vẫn chỉ là
người dân Mĩ phải chịu thiệt thòi, khi mà họ không còn thể nào
mua được rẻ nữa. Lúc có, trong thị trường Mĩ sẽ xuất hiện một
Tóm lại, kẻ thay đổi chiến thuật, phá vớ thế cân bằng, là kẻ thua
của ông, Lý Thuyết Trò Chơi, chủ yếu cố gắng đưa ra một cân
bằng mới cho thị trường kinh tế, khác biệt với điểm cân bằng mà
Adam Smith đã đề cập đến từ hơn 200 năm trước. Cũng thật bất
ngờ rằng phần chủ yếu của Lý Thuyết Trò Chơi được Nash hoàn
thành từ lúc còn đang học đại học. Đến khi tới Princeton với một
bức thư tiến cử của một giáo sư kinh tế, vẻn vẹn một câu "Người
này là thiên tài" ("This men is a genius." , Nash đã có trong tay tới
90% lý thuyết của mình. Ông hoàn thành, tổng kết, và trình bày
Trong trò chơi của Nash, ông luôn đặt ra điều kiện của trò chơi là
"không hợp tác" (nonco-operative). Và chỉ trong điều kiện này thì
điểm cân bằng Nash mới xảy ra. Thế có nghĩa là trong trò chơi,
không ai liên kết với ai, tất cả chỉ hành động trên phương diện cá
nhân. Ông đã xuất sắc chứng minh thành công trường hợp này.
Tuy nhiên, khi được đặt câu hỏi về trò chơi với điều kiện "hợp
tất cả các trò chơi hợp tác đều có thể bị chia nhỏ thành từng
phần, mỗi phần là một trò chơi "không hợp tác". Thế nhưng, cho
đến bây giờ (năm 2000), Nash vẫn chưa chứng minh một cách
thuyết phục được mệnh đề này. Những người tin vào Nash đều
công nhận cách chứng minh "sơ sài" của ông (sơ sài được để
vào trong ngoặc kép là bởi vì mặc dù "sơ sài" cách chứng minh
với cái tên "Nash Programme". Đó là điểm yếu thứ nhất mà mỗi
khi nói đến Lý Thuyết trò chơi, những người chống lại ông đều
Thứ hai, trò chơi của Nash đã vô tình, nếu ai không để ý kĩ có thể
không nhận ra, trói buộc người chơi phải chơi đến cùng. Theo
Nash, người chơi hoặc chấp nhận giữ nguyên chiến lược và
nhận phần của mình, hoặc thay đổi chiển lược để rồi mất tất cả.
Tuy nhiên, khi tồn tại một người chơi (có thể là một quốc gia..) tự
ý rút ra khỏi trò chơi để đem lại lợi nhuận cho họ, hoặc ít nhất là
không thiệt thòi gì, thì lý thuyết trò chơi trở thành vô nghĩa.
Để hiểu rõ thêm hai điều lý luận trên, thử ngẫm lại ví dụ về 2 cây
xăng trên một con phố đã nói ở trên. Trong ví dụ, hai chủ cây
xăng đã không hợp tác với nhau, hành động theo ý riêng của
mình. Tuy nhiên nếu họ gặp nhau và cùng thỏa thuận về địa thế
và lợi ích của mỗi người, cân bằng Nash sẽ không bao giờ xảy
ra. Hoặc xét trên một khía cạnh khác, khi một trong hai ông chủ
thấy rằng sẽ chẳng lợi ích gì tranh chấp trên một con phố và
quyết định chuyển sang con phố bên cạnh. Rõ ràng trò chơi trên
con phố đó bây giờ chỉ còn một người chơi, và trên hết là không
Thêm vào đó nữa, khi áp dụng lý thuyết của ông vào chính cuộc
đời ông, Nash có thể sẽ thấy ngay sự sai lầm của mình.
Trong thời gian giảng dạy tại trường đại học công nghệ
làm quen được với một sinh viên khoa Vật lí, Alica, người sau
này đã trở thành vợ ông. Với trò chơi cuộc đời, Nash quả thật là
may mắn khi lý thuyết của ông sai. Khi ông phải nhập viện với
chứng tâm thần hoang tưởng, người ta cho phép vợ ông li dị.
vỡ thế cân bằng, quả thật ,ông khó có thể có được ngày hôm
nay. Mặc dù Alica đã kí giấy li dị (hình như ba lần thì phải), nhưng
bà lại quyết định ở lại để chăm sóc ông. Cộng với sự giúp đỡ của
một vài đồng nghiệp trong khoa toán trường Princeton, ông tiếp
tục làm việc tại đây và, như đã rõ, đánh bại những hình ảnh, âm
Để kết luận bài viết này, tôi xin trích dẫn lời một giáo sư kinh tế
của Mĩ: "Lý thuyết trò chơi của Nash bao gồm những định nghĩa
nhớ rằng Nash không phải là người đầu tiên và duy nhất nghiên
cứu về vấn đề này), nó có thể được áp dụng vào Chính Trí, Kinh
Tế, Tâm lí học, và nhiều môn khoa học khác. Nó là một công cụ
hữu dụng cho mọi nghiên cứu, nhưng không nhiều hơn thế (ý
nhiên, cho đến nay, Nash vẫn được đề cập đến rất nhiều trong
các buổi đàm thoại kinh tế, mặc dù rằng nó đã không còn được
Do hai người chủ cây xăng đều có xu hướng tiến tới Trung điểm
của dẫy phố để bán, nếu không ai bảo ai thì sẽ dẫn tới tình trạng
chịu thiệt, tất nhiên nếu tốt nhất là cả hai đều bán được thì không
nói làm gì , Nếu họ ngồi lại với nhau và thỏa thuận phân chia thị
trường thì tỷ lệ % thành công của hai người sẽ cao hơn . Tuy
nhiên đây là trường hợp bất hợp tác mà Nash đã chứng minh và
tìm được điểm cân bằng nghĩa là 2 người chủ cây xăng sẽ không
Với trường hợp hợp tác thì lời giải tối ưu là như thế này.
Một dẫy phố dài 100m , có 2 cây xăng (tất nhiên là trên lý thuyết,
còn ngoài cuộc sống con số 100m này có thể là 4km hoặc hơn) ,
cần tìm điểm đặt hai cây xăng sao cho đạt hiệu quả tuyệt đối về
Kết quả chúng ta nên đặt cây xăng ở điểm 1/4 và 3/4 con phố
Đầu phố...........Câyxăng1...........Trung
nghiên cứu .
Tất nhiên là ông nghiên cứu rất rộng và lớn hơn nhiều , nó gồm
rất nhiều bài toán nhỏ và lớn để xây dựng nên lý thuyết của mình
Ở Việt Nam chúng ta cũng có một ngành toán học rất phát triển
Đọc tuyển tập 30 năm Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ , có bài viết
Bác rất quan tâm tới việc ứng dụng Toán học vào việc sản xuất
và xây dựng mô hình Kinh tế được biểu diễn qua các phương
trình Toán học , một giờ được gặp gỡ Bác Hồ kính yêu của
chúng ta đã hướng dẫn và động viên khuyến khích Giáo sư trên
Bác dùng những từ rất bình dân để giải thích những từ chuyên
ngành của Toán học , ví dụ Vận trù học là gì thực ra cũng chỉ là
nghiên cứu những giải pháp tối ưu để phục vụ lợi ích của nhân
Có những bài toán mà cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự
của nó , đó là bài toán Dây chuyền sản xuất được phát biểu như
sau.
- Có M sản phẩm cần sản xuất trên N dây chuyền , sản phẩm i
nào đó ở thời điểm t sẽ gia công trên dây chuyền j mất k thời
gian, sau đó lại chuyển sang dây chuyền khác . Bài toán đặt ra là
cần sắp xếp tối ưu quy trình sản xuất để hoàn thiện M sản phẩm
tế , mà Lý thuyết Trò chơi cũng là một phần trong Vận trù học và
Các vị dụ và bài toán nhỏ ở trên chỉ để minh họa cho lý thuyết trò
chơi .
none-zero-sum game kia. Trường hợp này phức tạp hơn nhiều
bao nhiêu điểm như thế và nó ở đâu thì chịu (thường là có rất
hình của Nash và sự khác nhau giữa khái niệm điểm cân bằng và
điểm "hiệu quả nhất - Pareto optimal) là trò chơi giữa hai thằng tù
(2 prisoner's dilemma).
giam, tòa thiếu bằng chứng để kêt tội, nếu cả 2 cùng im không
khai thì mỗi tên bị tạm giam 3 tháng; nếu 1 tên khai còn ng kia
không thì tên 0 khai bị tù 3 năm, tên khai được trắng án; nếu cả
hai cùng khai thì mỗi tên chịu án 1 năm. Khi không có liên kết hay
thỏa hiệp (eg. 2 tên 0 được liên lạc với nhau) best strategy cho
mỗi tên là khai, và như thế mỗi tên sẽ phải bóc lịch 1 năm, còn
best strategy cho cả nhóm là cả hai cùng câm như hến, và mỗi
assumptions như người chơi phải đi cùng một lúc, các thông tin
ngày càng động đến những mô hình phức tạp hơn, ví dụ như mô
hình trò chơi với thông tin không đầy đủ của John Harsanyi (ví dụ
khi chơi bài, mỗi nguời đuợc chia các quân bài riêng, không ai
biết bài của ai), trò chơi nhiều bước (nguời chơi thay nhau đi), trò
chơi lập lại (chơi cùng một trò trong nhiều lần). Đặc biệt những
trò như chơi bài (với thông tin không đầy đủ) phức tạp hơn rất
nhiều những trò như chơi cờ, khi tất cả mọi thông tin được bày ra
trên bàn cờ. Đây cũng chính là lý do lập trình cho máy tình chơi
bài khó hơn nhiều so với máy tính chơi cờ.
Nói tóm lại mô hình của Game Theory mà thực tế một chút là
chưa thể giải quyết đuợc với công cụ toán và máy tính hiện tại,
do đó những ứng dụng của Game Theory mới chỉ dừng lại ở các
Ngày nay thị trường chứng khoán (TTCK) tập trung được coi là
quá trình có tổ chức chặt chẽ, quy tắc, luật lệ chặt chẽ và minh
bạch. Ðây là quá trình xã hội hóa quan trọng để TTCK trở thành
một chủ điểm trong đời sống kinh tế hiện đại, bất kể là cá nhân,
TTCK Việt Nam dù ra đời sau cũng chẳng thể ngoại lệ trong "họ
hàng" các TTCK thế giới. Nhân một Mùa Xuân, xin điểm lại 2 luận
thuyết khoa học đặc trưng mà TTCK hiện đại kế thừa từ hàng
trăm năm phát triển. Việc phát hiện ra chúng chính là báo hiệu
Mùa Xuân rực rỡ của TTCK toàn thế giới. Các đặc trưng này
không chỉ phục vụ hình thành thế giới quan đầu tư mà cả quá
Chúng ta đều biết hàng hóa của TTCK là tài sản tài chính, ở trạng
thái vật lý (cổ phiếu, giấy nợ...) và dạng danh định (right, options,
swaps...). Ngoài bản chất chung "tài sản tài chính" chúng còn đặc
tính chung nổi bật nào? Câu hỏi thú vị này có một câu trả lời cũng
thú vị, đó là đặc tính ngẫu nhiên. Người khẳng định đặc tính này
đầu tiên và chặt chẽ là nhà toán học Pháp Louis Bachelier (1870-
spéculation, tại khoa Các bộ môn khoa học, Viện Hàn lâm Paris.
quan hệ với lãi suất và giá cổ phiếu từ số liệu thống kê của TTCK
Paris. Từ các lập luận ban đầu về giả định bài toán, ông tiến đến
biểu diễn hình học của cơ chế giá lợi nhuận option. Tiếp theo,
phân phối xác suất của giá, bao gồm phân phối xác suất như là
hàm của thời gian theo dạng tương tự Gauss và nhị thức. Ông đi
tới phương trình Fourier đặc tả quan hệ giữa giá option, thời gian
và giá chứng khoán. Bachelier còn đưa ra nhiều lập luận về các
tính chất và biểu thức tính toán trên cổ phiếu thông qua logic toán
học chặt chẽ. Nhưng đáng quan tâm nhất là kết luận:
"Thị trường, một cách vô thức, tuân theo một quy luật chế ngự
Bằng công trình này, ông là người đầu tiên kết luận mạch lạc về
đặc tính ngẫu nhiên của TTCK và đặt nền móng cho sự ra đời
của 2 lĩnh vực liên quan chặt chẽ (i) Ngành tài chính kế toán (ii)
Mô hình chuyển động Brown trong lý thuyết xác suất hiện đại.
ngành xác suất đã bước sang lĩnh vực ứng dụng rộng rãi mới
Trò chơi?
nguồn gốc từ sự xung đột lợi ích trên TTCK, thuộc về công lao
của nhà toán học gốc Hungary, John von Neumann (1903-1957);
ông cũng được coi là cha đẻ của các thuật toán máy tính hiện đại
đầu tiên. Thực ra, nhà toán học Emile Borel là người đặt nền
móng phân lớp bài toán mô hình LTTC từ đầu những năm 1920
và dựa trên các tiên đề xác suất của nhà toán học Xô - Viết
điều kiện tổng quát. Bên cạnh đó, ông còn nỗ lực đưa LTTC vào
đời sống kinh tế, qua tác phẩm kinh điển: Theory of games and
"nhằn" vào lĩnh vực kinh tế học hành vi. Ðó là một trong những
mốc tiến quan trọng nhất của ngành kinh tế toán hiện đại.
Cái tên LTTC tự nó cũng đã nói lên đặc tính của TTCK, thị trường
của một đám đông các tác nhân và có tính chất xã hội hóa cao
độ. Ðối với 2 cha đẻ của LTTC, TTCK và các giao dịch có bản
chất giống như một quá trình mặc cả và mỗi người chơi đã mang
sẵn một hàm "lợi ích" riêng biệt (utility function). LTTC là hướng
nghiên cứu trừu tượng hóa và có ứng dụng rất rộng rãi, đặc biệt
trong kinh tế tài chính. Từ các luận điểm cơ bản của Neumann và
năm 1994 ) tiếp tục phát triển mô hình và giải bàn toán cân bằng
tổng quát cho N người chơi trong một ván bài. Kết quả được
đánh giá cao của Nash là điểm cân bằng với N-người chơi, mà
ngày nay người ta gọi là cân bằng Nash. Cân bằng Nash có thể
áp dụng trong rất nhiều tính huống kinh tế xã hội, từ TTCK tới
buôn lậu, tham nhũng... khi ta mở rộng định nghĩa của trò chơi và
là một trong những kết quả quan trọng nhất của kinh tế học hiện
đại.
Hai đặc tính quan trọng TTCK nói trên đã góp phần định hướng
nghiên cứu và ứng dụng cho nhiều nhà khoa học kế tiếp. Những
nhân vật nói ở trung tâm vấn đề lý thuyết ta đang đề cập nhưng
còn nhiều tên tuổi khác mà một bài báo ngắn thường thức không
thể đề cập hết như Kuhn, Tucker, Wald, Shapley.. cũng là những
nhà khoa học tiên phong trong khoa học tài chính tính toán.
Ở TTCK Việt Nam, các nghiên cứu mới chỉ bắt đầu, nhưng không
vì thế mà quá trình định hướng lại kém quan trọng, thậm chí
ngược lại. Ðiều chắc chắn là các hướng nghiên cứu và ứng dụng
trên TTCK Việt Nam trong tương lai sẽ chạm tới 2 đặc tính và