Professional Documents
Culture Documents
Tiểu Luận Triết Học Mac
Tiểu Luận Triết Học Mac
TIỂU LUẬN
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc
thúc đẩy kinh tế
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................3
ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT NAM...............................................................................37
4. Sự ảnh hưởng của nho giáo đến đời sống tinh thần người Việt.......41
KẾT LUẬN............................................................................................46
+Ưu điểm: Trước hết nó kích thích hoạt động của các chủ thể kinh
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, lấy lợi nhuận
siêu ngạch làm động lực hoạt động nên đòi hỏi các doanh nghiệp
thường xuyên phải hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi
phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó mà động viên được các nguồn
lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy việc áp
dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình
độ xã hội hoá sản xuất.
* Hai là cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi
nhanh chóng khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp
thời khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của
nhu cầu. Lí do là vì trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai
đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và sớm nhất sẽ thu được lợi
nhiều nhất.
* Ba là trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa
dạng, do vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt
hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của
mọi thành viên xã hội. Những việc này nếu để Nhà nước tự làm thì sẽ
phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lổ, có khi còn không
thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định.
+Nhược diểm: Bên cạnh những ưu điểm kể trên, kinh tế thị trường
còn có hàng loạt các khuyết tật, trước hết là sự phát triển không ổn
định của nền kinh tế, điều đó xuất phát từ tính tự phát của cơ chế kinh
tế thị trường. Những cân đối lớn trong nền kinh tế được xác lập thông
qua hàng loạt những dao động. Do đó cứ sau một thời kì phồn thịnh lại
đến thời kì trì trệ, suy thoái, khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát...là
những hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Những hiện tượng kể
trên ảnh hưởng tiêu cực tới các mặt đời sống kinh tế xã hội.
* Thứ hai, đó là sự xuất hiện độc quyền trong nền kinh tế. Độc
quyền vi phạm các điều kiện hiệu quả Pareto, điều đó làm tổn hại tới
lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội.
* Thứ ba, các ngoại ứng. Ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất hoặc
tiêu dùng một mặt hàng trực tiếp làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp
hoặc người tiêu dùng không can dự đến việc mua hoặc bán hàng hóa
đó, nhưng không được phản ánh đầy đủ trong giá cả thị trường. Ngoại
ứng dù tích cực hay tiêu cực khi không được phản ánh trong giá cả thị
trường sẽ làm cho mức sản lượng không phải là tối ưu và do đó làm
thiệt hại tới lợi ích xã hội.
* Thứ tư, hàng hoá công cộng. Đây là hàng hoá mà sự tiêu dùng của
một người không ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của ngưởi khác như:
đường cao tốc, quốc phòng, an ninh...hàng hoá công cộng hết sức cần
thiết nhưng các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp không ai chịu
bỏ tiền ra để sản xuất.
* Thứ năm, phân phối thu nhập. Do sự tác động của các quy luật
kinh tế thị trường, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, sự phân
hoá giàu nghèo là hiện tượng không tránh khỏi. Những điều đó có thể
dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí xung đột trong xã hội. Điều này sẽ trở
thành những nhân tố cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
* Thứ sáu, vấn để thông tin. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp cần rất nhiều thông tin khác nhau. Trong khi đó, khả năng của
từng doanh nghiệp trong việc thu nhập và xử lý thông tin rất hạn chế.
Mỗi doanh nghiệp không thể tự giải quyết được nhu cầu về thông tin
của chính mình.
* Thứ bảy, mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đo họ
có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, có thể gây ra ô nhiễm nguồn nước,
không khí...
* Thứ tám, khủng hoảng sản xuất thừa là căn bệnh cố hữu của các
nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây, do mức cung hàng hoá vượt
quá mức cầu có khả năng thanh toán nên dẫn tới tình trạng “dư thừa
hàng hoá” Nguyên nhân của tình trạng trên là do mâu thuẫn cơ bản
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này được thể
hiện trên tính kế hoạch cao độ ở từng doanh nghiệp với tính vô chính
phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô
hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu thuẫn đối
kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Do những khuyết tật đó mà xã hội thường xuyên phải có sự kiểm
tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của
cơ chế thị trường, đó là lí do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lí của
Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở nước ta sự
quản lí của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự
công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng
trưởng và phát triển với tốc độ cao
b) Sự vận dụng vào Việt Nam
Cùng với tiến trình phát triển chung của thế giới, nền kinh tế Việt
Nam cũng đi lên phát triển một nền kinh tế thị trường nhưng mang bản
săc riêng của Việt Nam-nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó là nền kinh tế vận động
theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng bởi lý tưởng của chủ nghĩa
xã hội. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và tất nhiên định nghĩa này đòi
hỏi phải loại trừ thành kiến"Thị trường là chủ nghĩa tư bản","kế hoạch
là chủ nghĩa xã hội" và các quan điểm cùng loại. Để hiểu rõ về nền
kinh tế thị trường của Việt Nam ta cần làm rõ một số vấn đề sau:
*Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước một thực
trạng là đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ
một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục
năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân,
phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp
- Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng
tính chất tự cấp tự túc:
+ Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp
kém
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa
đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng
để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế.
+ Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, còn mang nặng
đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh
cây lúa vẫn còn tồn tại, ngành nghề chưa phát triển. Từ Đại hội lần
thứ VI của Đảng cho đến nay tuy cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần
kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa thành được một cơ cấu
mới hợp lí
+ Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó Nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần của nước ta đã được hình thành và đang phát triển vì
vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Tuy
nhiên thị trường ở nước ta còn ở trình độ thấp, tính chất của nó còn
hoang sơ, dung lượng còn thiếu và có phần rối loạn, chúng ta mới từng
bước có thị trường hàng hoá nói chung. Về cơ bản nước ta còn chưa
có thị trường sức lao động. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và
thị trường tiền vốn, hoặc mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc
doanh với quan hệ vay, trả, mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà
nước vẫn sử dụng lãi suất, tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà
nước quy định. Chưa có lãi suất, tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế
thị trường. Thực trạng trên đây của nước ta là hậu quả của nhiều
nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan đó là do trình độ phát
triển của phân công lao động xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mang
nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng
đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị
trường có tổ chức và thị trường tư do. Một thời gian khá dài đã tồn tại
quan niệm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ
các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt, nó không được
mua bán tự do vì chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu chúng rơi
vào tay tư nhân nó sẽ trở thành những phương tiện nô dịch lao động
của người khác. Sức lao động tiền vốn cũng được quan niệm không
phải là hàng hoá...Mặt khác do quản lí theo chiều dọc theo chức năng
kinh doanh của từng ngành một cách máy móc cho nên đã dẫn tới hiện
tượng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành.
+ Năng suất lao động và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn
thấp
Do trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ
tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn
mất cân đối, thị trường trong nước còn chưa phát triển...cho nên năng
suất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước
ta tất yếu vẫn còn rất thấp.
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà
trong nhiều thập kỉ qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy
với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực tiễn hoạt động kinh tế đã
chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm cũng như những tác
động tiêu cực của nó đến nền kinh tế nước ta, nó gần như đối lập với
nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.
*Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế
Việt Nam sang kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn nếu thiếu " đòn xeo" là kinh tế hàng hoá. Chính Mac đã
coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện
quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển
của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lenin cũng
chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất đó là
sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự
sống động cuả nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị
và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ
hàng hoá tiền tệ trên thị trường.
- Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự khác
biệt với các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ), những nước này đã có
nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính
tự nhiên tự cấp tự túc như nước ta, vì vậy quá trình hình thành nền
kinh tế thị trường nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế còn
mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Mặt khác, nền kinh tế nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế
chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế này đã được phân
tích ở phần trên, nó gần như đối lập với thị trường cũng như cơ chế thị
trường. Thị trường được coi là trung tâm của quá trình sản xuất và tái
sản xuất xã hội, vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền
kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước.
- Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta đồng thời cũng là quá trình
thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị
trường thế giới. Sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá đã
phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định: kinh tế hàng hoá đã làm
cho thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới.
Chính giao lưu hàng hoá đã làm cho các quan hệ kinh tế được mở rộng
khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh
chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà
bất kì quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện nước ta, bài
học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc
đấu tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động
trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan
trọng, đã chuyển từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả
các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên
cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong
những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên,
hoạt động kinh tế quốc tế nước ta đã có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu
hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên dước 20% hàng năm (1986-
1992), bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu, cải
thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều
chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về nguồn vốn và thị trường
từ các nước SNG và Đông Âu. Hàng hoá của nước ta tìm được những
thị trường mới như Đông Nam á, Tây Âu. Nguồn vốn đầu tư vào Việt
Nam cũng tăng nhanh.
*Các giai đoạn và các biện pháp hình thành cơ chế quản lí mới
Qúa trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản
lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một
quá trình phức tạp, có nhiều khó khăn, không nên quan niệm đơn giản
và nóng vội, cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình
thành và phát triển kinh tế thị trường, quá trình đó trải qua những giai
đoạn sau đây:
- Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử
quan trọng là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ
VI (khoá IV) tháng 9 năm 1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu
từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo
đúng nghĩa nhằm tạo ra những mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc
lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn
này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan
hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Nội dung trên được thực hiện với
những giải pháp chủ yếu sau đây:
+ Một là hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá
nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá
tiền tệ.
+ Hai là đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị
trường.
+ Ba là chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu
có tính đa dạng vớinhiều hình thức sở hữu khác nhau để khắc phục
hiện tượng vô chủ, lãi giả, lỗ thật trong các doanh nghiệp Nhà nước,
để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi
thích ứng với cơ chế thị trường. Trong điều kiện của nước ta, chúng ta
đã điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo những bước sau đây: Phát huy hình
thức kinh tế hộ nông dân, thợ thủ công, xây dựng khu vực kinh tế
công cộng với chức năng là bảo đảm sự ổn định và là cơ sở cho sự
phát triển các thành phần kinh tế, hình thành và phát triển các công ty
cổ phần.
+ Bốn là, đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh
tế theo chiều dọc sang chiều ngang, từng bước đã thực hiện tự do hoá
giá cả. Thực chất là thay thế cơ chế hai giá bằng cơ chế một giá,
nhằm từ bỏ cơ chế cũ, chuyển sang cơ chế thị trường, đây là khâu
quan trọng tạo tiền đề cho việc đổi mới cơ chế trong các lĩnh vực
khác như tài chính, tiền tệ, tiền lương, quản lí thị trường. Việc tự do
hoá giá cả đã làm cho sản xuất thích ứng nhạy cảm với nhu cầu của
thị trường và đem lại sức sống mới cho sản xuất.
- Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản
lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội VI của
Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, quan niệm này được tái khẳng định rõ
hơn ở Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng ta. Nội dung chủ
yếu của giai đoạn này là phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền
tệ tạo tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển. Để thực hiện nội dung
đó, chúng ta đã và đang thực hiện những giải pháp chủ yếu sau:
+ Một là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nhưng phải đảm bảo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần tăng trưởng và phát triển, bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế
quốc dân cũng như về các mặt chính trị- xã hội, bảo đảm sự công
bằng xã hội và sự vững bền của môi trường, bảo đảm sự phát triển,
tăng trưởng đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành
mũi nhọn nhằm tạo ra sự tích luỹ nội bộ từ trong nền kinh tế.
+ Hai là chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các
yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị
trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
+ Ba là, hoàn chỉnh và tăng cường vận dụng các chính sách tài
chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và tạo ra và thực hiện việc đầu
tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối, phân phối lại thu nhập
quốc dân tạo ra sự ổn định về giá cả, về tiền tệ và tỷ giá hối đoái, qua
đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù
hợp với cơ chế thị trường
+ Bốn là đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh theo yêu cầu của kinh tế
thị trường. Chúng ta đã kết hợp giữa việc mở rộng quy mô đào tạo để
nâng cao dân trí với việc coi trọng chất lượng nhằm đào tạo nhân
tài.Việc đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh không chỉ chú ý đáp ứng
nhu cầu của khu vực kinh tế Nhà nước mà còn phải quan tâm tới khu
vực ngoài quốc doanh cũng như khu vực kinh tế nông thôn và miền
núi.
+ Năm là, tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước để phát huy
những ưu thế và khắc phục những của khuyết tật của cơ chế thị
trường.
- Giai đoạn hình thành và phát triển cơ chế thị trường có sự quản lí
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu
của giai đoạn 3 là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế, tạo lập cơ sở kinh tế
cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường, phát huy tác dụng một
cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế
giới. Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp then chốt sau:
+ Một là phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế
quốc dân, đây là giải pháp có tính thời đại.
+ Hai là hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản
xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn, sức lao động và các điều kiện
vật chất khác cho sản xuất.
+ Ba là thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, cần
tiếp tục thực hiện tự do hoá giá cả và thương mại hoá giá cả trong nền
kinh tế, tăng cường năng lực quản lí của Nhà nước đối với cơ chế thị
trường, đây là giải pháp có ý nghĩa gần như quyết định đối với sự hình
thành và phát triển của kinh tế thị trường nước ta.
+ Bốn là lựa chọn chính sách khoa học, công nghệ vì mục tiêu phát
triển. Hướng công nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là cộng nghệ
điện tử, tin học, công nghệ sinh học, gia công nguyên liệu...hướng
công nghệ này sẽ khắc phục được sự khan hiếm các nguồn lực và đưa
nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động trí tuệ trở
thành đặc trưng nổi bật
III- Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ở
Việt Nam
1- Nội dung( đặc trưng) của cơ chế quản lí mới
Ngoài những dặc trưng chung của một nền kinh tế thị trường là
- Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự
bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất
kinh doanh của mình, được tự do liên doanh, liên kết, tự do tổ chức
quá trình sản xuất theo luật định, đây là đặc trưng rất quan trọng của
kinh tế thị trường, nó xuất phát từ những điều kiện khách quan của
việc tồn tại kinh tế hàng hoá đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu
nội tại của kinh tế hàng hoá.
- Trên thị trường hàng hoá rất phong phú, người ta tự do mua bán
hàng hoá. Trong đó, người mua chọn người bán, người bán tìm người
mua, họ gặp nhau ở giá cả thị trường, đặc trưng này phản ánh tính ưu
việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
- Giá cả được hình thành ngay trên thị trường, giá cả thị trường vừa
là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động
của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ.
- Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường, nó tồn tại trên cơ
sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích
kinh tế.
- Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, một mặt nó phát
huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế, mặt khác tạo điều kiện tiếp
thu những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật-công nghệ thế giới. Nó
rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ
thống luật pháp của Nhà nước. Ngoài ra thị trong cơ chế quản lí kinh
tế mới của nước ta còn có những đặc trưng riêng sau:
- Hai mặt kinh tế và thị trường nước ta được chủ động kết hợp với
nhau ngay từ đầu trên cả tầm quản lí kinh tế vĩ mô và vi mô thông qua
pháp luật. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm
mục tiêu xác định hiệu quả của sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô,
Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu quản lí nhằm
thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề dân chủ và
công bằng xã hội ở đây được hiểu theo nghiã những đơn vị và cá nhân
trong xã hội được làm những gì mà pháp luật không cấm, được tự do
sản xuất và kinh doanh, được hưởng những thành quả lao động của
mình và được thừa kế tài sản theo luật định.
- Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái
của đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và
qua việc chấp hành một cách đúng đắn luật pháp, chính sách môi
trường của Nhà nước qua từng thời kì.
- Nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển cao.
Nếu như nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm và thu nhập
quốc dân thấp kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn
thấp, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định
hướng xã hội chủ nghĩa được, đành rằng chỉ có nội dung này thì chưa
đủ bởi vì nhiều nước đã có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại
không phải là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lí nền kinh tế thị trường dựa trên
mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong thời
kì đầu chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nứơc ta thực hiện vai trò
"bà đỡ " tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển
đúng hướng, vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ
quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho
nhân dân.
- Nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế
mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
vĩ mô của Nhà nước, do đó về cơ bản nền kinh tế còn thiếu đồng bộ,
mang nhiều yếu tố tự phát rối loạn, vẫn mang tính chất sản xuất nhỏ,
kỹ thuật thủ công, năng suất lao động thấp, mức sống, mức thu nhập
của dân cư còn thấp. Đội ngũ những nhà sản xuất kinh doanh còn rất
non trẻ, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ bảo thủ
trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Dấu ấn của cơ chế kinh tế bao
cấp còn ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế. Do vậy chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta là lấy tự do hoá thương mại và tự do hoá giá
cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích
thực.
- Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần( kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
Nhà nước và mới đây nhất tại Đại hội IX của Đảng ta đã xác định
thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài)
Để có thể định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế Nhà nước phải phát
huy được vai trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của
nền kinh tế. Ngoài ra Nhà nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp
trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo nhiều công ăn việc làm
cho dân cư và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành
phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau.
- Cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc trong nền kinh tế
định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền
lệ trong lịch sử và hoàn toàn chưa có một mô hình vạch sẵn. Do vậy,
không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị
trường cũng như không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc
của bước chuyển mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường. Việc
chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử và các điều kiện chính trị kinh tế xã hội nước ta, không áp
dụng các liệu pháp sốc vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng
của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Mặt khác chúng ta không phủ
định sạch trơn những kết quả đạt được của mô hình kinh tế cũ.
- Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn
định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải
cách kinh tế. Mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong
lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lí của Nhà nước, nâng
cao chất lượng, hiệu quả của quản lí của nó cho phù hợp với điều kiện
kinh tế. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ
nghĩa là không thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về chủ
nghĩa xã hội, khẳng định chủ nghĩa xã hội có thể sử dụng những công
cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các
quan hệ hàng hoá- tiền tệ, quy luật giá trị cho mục tiêu của mình.
Đảng ta cũng khẳng định nền kinh tế hoạt động theo đường hướng đổi
mới, tiến tới một Nhà nước pháp quyền là một nhân tố quan trọng bảo
đảm thành công của cải cách, khẳng định vai trò Nhà nước trong việc
đảm bảo các chính sách xã hội, xử lí hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế
và cân bằng, ổn định, giữa phát triển kinh tế và thực hiện các chính
sách xã hội và công bằng xã hội. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc
biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của thị trường
nước ta.
2.Vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ chế quản lí mới
- ở nước ta xuất phát từ tính đa dạng của sở hữu và của nền kinh tế
tồn tại nhiều thành phần hơn nữa xu hướng vận động và phát triển của
nó không tự phát đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa mà lại đi theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế không phân biệt đối
xử nhưng không phải vì thế mà vai trò của chúng giống nhau. Để đưa
nền kinh tế vận động theo đúng cơ chế quản lí mới thì kinh tế Nhà
nước phải giữ vai trò chủ đạo, ngoài yêu cầu của việc đảm bảo nền
kinh tế đi đúng hướng đã định mà còn do thành phần kinh tế này gắn
với hình thức sở hữu cao nhất và chín muồi nhất trong các hình thức
sở hữu. Hơn nữa nó còn dựa trên một trình độ lực lượng sản xuất phát
triển cao, trình độ quản lí và trình độ phân phối sản phẩm gần với mục
tiêu chủ nghĩa xã hội của thời kì quá độ. Điều này được thể hiện thông
qua việc các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ những nghành, lĩnh vực
chủ yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân
sách, bảo hiểm, những cơ sở thương mại, dịch vụ... quan trọng.
- Kinh tế Nhà nước đã và đang trở thành đòn bẩy, đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, mở đường, hướng dẫn các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết và quản lĩ vĩ mô nền kinh tế. -Nhà nước đóng
vai trò"bà đỡ" cho sự ra đời của cơ chế thị trường, hướng dẫn các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh có hiệu quả,
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong phân phối sử dụng sản
phẩm.
- Nhà nước phát triển thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động
ngoại thương.
- Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, tránh thăng
trầm và đột biến xấu.
- Nhà nước đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội. Mỗi doanh nghiệp
trong khi theo đuổi lợi ích tối đa của minh có thể làm tổn hại đến lợi
ích của xã hội, vì vậy Nhà nước phải giải quyết những vấn đề đó.
- Nhà nước đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội. Sự tác động
của cơ chế thị trường đưa đến những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội,
chẳng hạn như nghèo đói, thất nghiệp...thông qua chính sách phân
phối thu nhập quốc dân Nhà nước giải quyết những vấn đề đó.
- Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tục
quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế (như tạo ra các
đạo luật chống độc quyền, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, tạo ra các điều kiện, các tiền đề kinh tế pháp lí cho
sự hoạt động của các thị trường cần thiết như thị trường vốn, lao động,
chứng khoán...)
- Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì quyền sở
hữu các nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ chủ sở hữu đích
thực của công dân, của doanh nghiệp tư nhân, tập thể, Nhà nước (giao
quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, cho thuê hoặc đấu thầu
các tài sản sản xuất, cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ
sản xuất kinh doanh)
2.1) Mục tiêu và các chức năng quản lí vĩ mô của Nhà nước
a)Mục tiêu
- Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị
trường quan trọng nhưng hiện chưa có hay còn sơ khai như: thị trường
lao động, chứng khoán, bất động sản, khoa học công nghệ. Phát triển
thị trường hàng hoá và dịch vụ, phát huy vai trò nòng cốt, định hướng
và điều tiết của kinh tế Nhà nước trên thị trường. Mở rộng thêm thị
trường ở nước ngoài. Xoá bỏ độc quyền kinh doanh của các doanh
nghiệp. Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám
sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử dụng
lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và có hiệu quả.
Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học công nghệ và thực hiện tốt
bảo hộ sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin,
chuyển giao công nghệ. Phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là thị
trường vốn dài hạn và trung hạn. Tổ chức và vận chuyển thị trường
chứng khoán an toàn, hiệu quả. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ,
tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Chủ động tổ chức,
phát triển thị trường bất dộng sản.
- Trong 5 năm tới hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những yếu
kém hiện nay, gỡ bỏ những vướng mắc cản trở sự phát triển. Đổi mới
sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết
vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực,
lãng phí, tham nhũng, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý
thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để
phát triển.
- Phát triển mạnh kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng tăng tỉ trọng trong công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm
lượng công nghệ trong sản phẩm. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại, củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới,
tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công
nghệ, chủ động hội nhập có hiệu quả, thực hiện cam kết song phương
và đa phương.
- Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với
nền kinh tế. Cụ thể là đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, kết hợp
thị trường với kế hoạch, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, tăng
cường công tác thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế, công
tác thống kê, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kĩ thuật trong
công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh
nghiệp. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà
nước, phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính
quyền địa phương trong việc thu chi ngân sách địa phương. Xây dựng
hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nứơc thành những doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, xoá bỏ
sự can thiệp hành chính của cơ quan Nhà nước với hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại, từng bước thực hiện tự do lãi suất,
hình thành thị trường tiền tệ theo quan hệ cung cầu, nâng cao năng lực
giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Thực hiện tỉ giá linh hoạt theo
cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hoá tỉ giá hối đoái trong
sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
- Đảm bảo tăng trưởng ổn định, gắn liền với việc sử dụng hiệu quả các
nguồn lực kinh tế, tránh không gây ô nhiễm môi trường, ngăn chặn
các cuộc khủng hoảng, suy thoái, duy trì lạm phát ở mức một con số,
chỉ số giá dưới 10%, tạo công ăn việc làm, giảm hiện tượng phân hoá
giàu nghèo. Cải thiện cán cân xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất
khẩu những mặt hàng đã qua chế biến, giảm nhập khẩu những mặt
hàng có thể sản xuất trong nước. Trong Đại hội Đảng lần thứ IX vừa
qua đã đưa ra mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành
nông nghiệp, công nghiêp, dịch vụ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế, từng bước đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo
nàn và chậm phát triển, từng bước xây dựng nền tảng để trở thành một
nước công nghiệp.
- Kế hoạch 5 năm tới 2001-2005 là bước quan trọng thực hiện chiến
lược trên với một số chỉ tiêu cơ bản: GDP 7%/năm, sản lượng lương
thực dự kiến năm 2005 là 37-38 triệu tấn, tốc độ xuất khẩu hàng hoá
đạt trung bình 15%/năm, nhập khẩu 13-14%/năm, tạo việc làm cho
1,4-1,5 triệu người/năm. Cụ thể năm 2001 phấn đấu đạt GDP là 7,5%,
xuất khẩu tăng 15-16%.
b) Các chức năng Vai trò kinh tế của Nhà nước được thực hiện qua
các chức năng chủ yếu sau
- Định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân qua các dự báo, các chiến lược kinh tế xã hội, các kế hoạch trung
hạn, ngắn hạn và các chính sách nhằm định hướng cho việc bố trí cơ
cấu kinh tế, phân bổ các nguồn lực...nhằm hướng các hoạt động của
các chủ thể trên thị trường vào thực hiện các mục tiêu của Nhà nước.
- Tạo môi trường kinh tế xã hội và khuôn khổ pháp lí cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật
và các cơ quan thi hành pháp luật đủ mạnh để bảo vệ lợi ích chính
đáng cho các doanh nghiệp và các chủ thể khác, phải phát triển hệ
thống giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực
có chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu dầu về nhân lực của quá
trình tăng trưởng, phát triển hệ thông y tế nhằm bảo vệ sức khoẻ và
nâng cao thể lực cho người lao động...
- Phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường: năng động, duy trì động
lực mạnh mẽ để cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất... bằng
cách duy trì và phát triển các quan hệ thị trường, khuyến khích cạnh
tranh lành mạnh... đồng thời ngăn ngừa mặt tiêu cực, khắc phục các
khuyết tật thị trường (cạnh tranh không lành mạnh, khủng hoảng, thất
nghiệp...)
- Điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội. Thông qua các chính sách tài khoá Nhà nước hoàn toàn có khả
năng điều tiết được lợi ích giữa các thành phần kinh tế, hạn chế bất
bình đẳng xã hội, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng...
- Quản lí kinh tế trực tiếp, chức năng này liên quan tới vai trò đặc biệt
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, với tư cách là một trung tâm kinh tế
của đất nước, Nhà nước phải hoạch định kế hoạch bảo đảm sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân như một tổng thể nhằm phục vụ lợi ích,
nâng cao phúc lợi và sự phát triển toàn diện của các thành viên xã hội,
thể hiện ưu thế quan diểm kinh tế quốc dân trong sự phát triển mọi
đơn vị sản xuất của nền sản xuất xã hội. Quản lí kinh tế trực tiếp là
Nhà nước phải quan tâm giải quyết các mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình chiếm hữu và tái tạo tự nhiên phụ vụ cho nhu
câu xã hội trong một tổng thể thống nhất vì lợi ích xã hội. Nhà nước
còn quản lí các hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau và điều tiết các hoạt động ấy. Điều cần chú ý là Nhà
nước quản lí các đơn vị đó trên quan điểm là định hướng chứ không
phải là Nhà nước can thiệp sâu vào những tác nghiệp cụ thể, kìm hãm
sự sáng tạo, sự chủ động của các đơn vị đó.
- Nhà nước xác dịnh những quy tắc ứng xử kinh tế của mỗi chủ thể
quản lí. Chức năng này được thực hiện thông qua việc thường xuyên
củng cố và hoàn thiện cơ sở pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghiã.
Pháp luật có vai trò to lớn trong việc tổ chức các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, điều chỉnh các quá trình phát triển của nó phù hợp các mục
tỉêu đã đề ra, thiết lập và duy trì trật tự xã hội mới
- Nhà nước còn chỉ đạo các hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhà nước
trực tiếp và thông qua các cơ quan quản lí của mình diều tiết các quan
hệ kinh tế đối ngoại, cũng như phân quyền cho các Bộ và các doanh
nghiệp, hỗ trợ trực tiếp quan hệ với thị trường nước ngoài.
Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ:" Nhà nước quản lí nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo dịnh hướng xã hội chủ nghĩa, vận
động theo cơ chế thị trường bằng pháp luật, bằng kế hoạch và các
công cụ, chính sách kinh tế trong đó kế hoạch hoá vẫn là khâu trung
tâm, là công cụ chủ yếu, Dĩ nhiên kế hoạch hoá trong diều kiện của
nền kinh tế hàng hoá phải khác với kế hoạch hoá trong nền kinh tế
hiện vật"
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì việc quản lí kinh
tế của Nhà nước rõ ràng không thể dựa vào kế hoạch hoá trực tiếp như
trong nền kinh tế hiện vật mà phải chuyển sang kế hoạch hoá gián tiếp
là chủ yếu, mang tính tổng hợp và định hướng, nghĩa là phải đảm bảo
quyền chủ thể kế hoạch cho các chủ thể sản xuất kinh doanh, phải xoá
bỏ mọi hình thức áp đặt trong việc giao nhiệm vụ kế hoạch sản xuất,
phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mở rộng liên doanh, liên
kết, kí kết các hợp đồng và dơn đặt hàng giữa các chủ thể sản xuất
kinh doanh trong xây dựng và thức hiện kế hoạch.
- Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hoá, mối
quan hệ giữa kế hoạch và thị trường là mối quan hệ giữa chủ quan và
cái khách quan, vì vậy để có thể điều khiển được thị trường, công tác
kế hoạch hoá cần chú ý các vấn đề: Phải nhận thức, tiếp cận và tạo
môi trường cho thị trường vận động phù hợp quy luật chứ không thể
áp đặt quyền lực hành chính lên thị trường, phải xuất phát từ yêu cầu
của thị trường, nghiên cứu thị trường để lựa chọn những mục tiêu và
giải pháp kế hoạch hợp lí.
- Trong điều kiện nước ta, khi nền kinh tế hàng hoá và thị trường
đang hình thành, còn chưa phát triển, thì kế hoạch hoá có nhiệm vụ
góp phần hình thành, phát triển kinh tế hàng hoá và thị trường thống
nhất trong cả nước. Kế hoạch hoá định hướng trước hết là xác định
phướng hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kì
tương đối dài thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội, mỗi định
hướng được cụ thể hoá thành những chương trình mục tiêu cụ thể, có
sự bảo đảm cho Nhà nứơc, cho các tổ chức kinh tế tham gia vào các
chương trình, không phân biệt các tổ chức đó thuộc thành phần kinh tế
nào. Kế hoạch hoá cũng nhằm xác định mục tiêu, các cân đối lớn, tính
toán sức mua trên thị trường, các biện pháp bảo đảm cân đối cung-cầu
để định hướng cho sự vận động của thị trường, bảo đảm cho nền kinh
tế ổn định, tăng trưởng và phát trỉển. Kế hoạch hoá phải nắm vững và
sử dụng linh hoạt các công cụ kinh tế: thuế, tài chính, tính dụng...để
điều chỉnh thị trường theo những mục tiêu đã định.
- Phương hướng đổi mới công tác kế hoạch hóa theo cơ chế thị
trường ở nước ta: Sử dụng công tác kế hoạch hoá định hướng và gián
tiếp là chủ yếu, thực hiện chế độ kế hoạch hoá 2 cấp là Nhà nước và
đơn vị kinh tế cơ sở, gắn kế hoạch hóa kinh tế và kế hoạch hoá xã hội,
vận dụng các quy luật kinh tế, quan hệ thị trường và cơ chế thị trường
nhằm nâng cao tính hiệu quả của kế hoạch.
*Nhà nước với công cụ tài chính
Tài chính là một phạm trù kinh tế gắn liền với các hoạt động kinh tế
dưới hình thức vận động của giá trị. Trong cơ chế thị trường, tài chính
không bị ràng buộc bởi các hàng rào kế hoạch hoá pháp lệnh, sự vận
động của các quỹ tiền tệ trở nên đa dạng, nó trở thành nguồn lực tài
chính với đầy đủ ý nghĩa của nó. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng
các chủ thể kinh tế xã hội hay các tế bào của thị trường tài chính
không chỉ là các thực thể tài chính của khu vực Nhà nước, nó còn mở
rộng và phát triển ở cả khu vực tư nhân.
- Đối với nước ta hiện nay sự quản lý của Nhà nước bằng công cụ
tài chính nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là phải dùng công cụ tài chính dưới nhiều mức độ thích
hợp để quản lí nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, không thể
áp dụng máy móc hệ thống tài chính của các nước tư bản vào nước ta,
đồng thời phải xoá bỏ các khuyết tật cố hữu của hệ thống tài chính
trong cơ chế quản lí mệnh lệnh, tập trung quan liêu bao cấp cũ. Vấn đề
đặt ra là phải đổi mới công cụ tài chính bằng cách: đặt tài chính trong
sự vận động và phát triền của kinh tế hàng hoá, phần thu chủ yếu của
ngân sách phải là thu thúê, trong đó phần chia cho bộ máy quản lí Nhà
nước rất nhỏ, còn phần chi cho phúc lợi xã hội, các sự nghiệp y tế,
giáo dục... chiếm tỉ trọng lớn và ngày càng lớn. Ngoài ra Nhà nước
cũng tập trung phần quan trọng của ngân sách cho các dịch vụ thiết
yếu cho nhân dân, các dịch vụ kinh tế, cũng như cho các nhiệm vụ
kinh tế lớn khác. Phải khẳng định thuế là một công cụ tài chính quan
trọng không chỉ tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn có
tác dụng điều chỉnh nền kinh tế ở tầm vĩ mô, thu thuế là quyền của
Nhà nước và nộp thuế là nghĩa vụ của công dân, gắn tài chính với
hạch toán kinh doanh.
*Nhà nước với chính sách tiền tệ- tín dụng.
Chính sách tiền tệ tín dụng có vai trò to lớn, đó là các hoạt động
bơm và hút tiền bằng cách tăng, giảm dự trữ của các Ngân hàng
thương mại nhằm giải quyết quan hệ cung cầu về tiền tệ tín dụng của
nền kinh tế, sử dụng lãi suất chiết khấu để điều tiết quan hệ tín dụng
trong cho vay bổ sung đối với các ngân hàng thương mại, làm thay đổi
tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại và các thể chế tài
chính khác. Chính sách này nói chung nhằm giảm tốc độ lạm phát, ổn
định sức mua đồng tiền, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân thực tế,
cân bằng ngân sách, tăng việc làm và tăng thu nhập, cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế. Tuy nhiên chính sách này áp dụng ở nước ta còn
nhiều sai sót như trong chủ trương cơ chế, điều hành, quản lí vĩ mô
của Nhà nứơc, của ngân hàng trung ương đối với hoạt động kinh
doanh- tín dụng- ngân hàng, chính sách lãi suất còn nhiều bất hợp lí,
chưa được xử lí một cách nhạy bén, tỷ trọng cho vay vốn đối với kinh
tế quốc doanh và công ty hợp doanh quá lớn và có xu hướng tăng lên,
tình trạng công nợ dây dưa và chiếm dụng vốn lẫn nhau quá lớn. Do
vậy, phương hướng giải quyết là chính sách tiền tệ- tín dụng phải tác
động trong sự thống nhất với chính sách tài chính-tiền tệtín dụng quốc
gia, phát huy mạnh mẽ vai trò đòn bẩy và công cụ điều tiết vĩ mô, thúc
đẩy nâng cao tính tự chủ tài chính của doanh nghiệp, phát triển mạnh
mẽ thị trường tiền tệ- tín dụng ở nông thôn nhằm thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp, cùng các cơ quan hữu quan nhanh chóng giải quyết các
công nợ dây dưa, mở rộng các hoạt động tín dụng với nhiều hình thức
phong phú.
*Nhà nước với công cụ pháp luật quản lí về kinh tế.
Các chiến lược phát triển kinh tế kế hoạch hoá định hướng và các
chính sách kinh tế chỉ có thể đi vào cuộc sống khi nó được thể chế hóa
pháp luật. Trong nền kinh tế có sự quản lí của Nhà nước, pháp luật thể
hiện vai trò trên hai phương diện: Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành
vi của doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ
làm tổn hại tới lợi ích của toàn xá hội, tạo ra môi trường tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường
nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh nhu cầu phải
hạn chế các yếu tố bóc lột, phân hoá xã hội, đảm bảo sự phát triển cân
đối hài hoà, phân phối theo nguyên tắc lao động, kết hợp với các chính
sách xã hội khác. Đặc điểm mới ấy của nền kinh tế thị trường nước ta
đòi hỏi chất lượng điều chỉnh bằng pháp luật cao hơn so với việc điều
chỉnh bằng pháp luật trong các chế độ kinh tế khác. Tuy nhiên trên
thực tế hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành nước ta còn thiếu tính hệ
thống, thiếu đồng bộ, tính phối hợp nhiều văn bản cùng điều chỉnh
một loại quan hệ kinh tế còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, nguyên tắc
hàng đầu là mọi người, mọi doanh nghiệp phải được bình đẳng trong
sản xuất và kinh doanh vẫn chưa được thể hiện một cách đầy đủ,
xuyên suốt, việc tuân thủ, chấp hành và áp dụng luật pháp kinh tế còn
chưa tương xứng. Do vậy chúng ta cần nhanh chóng hoàn thiện pháp
luật về hợp đồng kinh tế, hoàn thành việc ban hành các quy chế pháp
lý của các chủ thể quan hệ kinh tế, đổi mới và hoàn thiện chế định
pháp lý về quyền sở hữu của Nhà nước đối với tài sản giao cho các
doanh nghiệp Nhà nước, cải cách hệ thống tổ chức bảo đảm thi hành
pháp luật quản lí kinh tế, đẩy mạnh đấu tranh chống các tệ nạn và
khuyết tật xã hội, chống tệ quan liêu, tham nhũng, các tội ác kinh tế...
*Nhà nước với kinh tế quốc doanh và đặc khu kinh tế.
- Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay,
kinh tế quốc doanh từng bước đóng vai trò chủ đạo, nó là nhân tố cơ
bản mang đầy đủ bản chất của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
của sự phát triển cân đối, có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, là
thực lực kinh tế quan trọng. là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước
để điều chỉnh nền kinh tế nhiều thành phần. Do vậy, các đơn vị kinh tế
quốc doanh phải là trung tâm tiêu biểu của tiến bộ khoa học kĩ thuật và
công nghệ, là tấm gương về quản lí, không chỉ phục vụ cho các đơn vị
mình mà phải góp phần phổ biến kiến thức, đào tạo cán bộ cho tất cả
các thành phần khác, phải nắm giữ những ngành, vị trí then chốt nhất
Tuy nhiên thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều cơ sở
còn khó khăn như chưa thấy được vị trí của mình trong nền kinh tế,
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm kém, công nghệ lạc hậu...Vì vậy cần chấn
chỉnh, đổi mới và nâng cao hiệu quả các khu vực doanh nghiệp Nhà
nước, làm tốt vai trò chủ đạo, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần khác
cùng phát triển, chú trọng phát triển quốc doanh cả trong lĩnh vực kết
cấu hạ tầng, sản xuất và lưu thông phân phối, phân loại doanh nghiệp
Nhà nước để có chính sách và cơ chế quản lí phù hợp.
- Đặc khu kinh tế (khu chế xuất): Nhà nước ta đã ban hành quy chế
khu chế xuất tại Việt Nam do chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ký gồm 10
chương, 67 điều đã tạo điều kiện cho các thành phố lớn bước đầu thực
hiện thành lập các khu chế xuất này với mục tiêu chủ yếu là thu hút
vốn, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm, tác phong quản lí theo
hướng thị trường, tạo nguồn thu nhập ngoại tệ, thêm việc làm, đào tạo
cán bộ và công nhân lành nghề tại chỗ, khai thác tiềm năng thiên
nhiên, mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút đầu tư...tuy nhiên cũng cần
chú ý xây dựng quy chế khu chế xuất hoàn thiện, chuẩn xác, phát hiện
kịp thời những âm mưu của các thế lực thù địch chính trị núp dưới
chiêu bài kinh tế để phá hoại...
2.3)Thực trạng quản lí Nhà nước ta hiện nay
Cùng với việc xây dựng và từng bước thực hiện cơ chế quản lí mới,
nền kinh tế nước ta đã có những sự thay dổi cơ bản sau:
- Nền kinh tế từ chỗ chỉ với 2 hình thức sở hữu toàn dân và tập thể
đã dần dần chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, và các thành
phần này có quyền bình đẳng trước pháp luật.
- Nền kinh tế từ chỗ mang nặng tính tự nhiên hiện vật, tự cung tự
cấp đã từng bước chuyển sang kinh tế hàng hoá.
- Nền kinh tế thị trường nước ta vẫn chỉ là đang trong quá trình hình
thành vừa thiếu vừa rối loạn, những nhân tố làm mất ổn định còn tiềm
ẩn trong khi các nhân tố tạo trật tự mới như hệ thống ngân hàng, tài
chính, bộ máy quản lí Nhà nước còn yếu kém và tiêu cực. Trên một số
mặt, Nhà nước vẫn làm thay chức năng thị trường như quy định giá, tỷ
giá, lãi suất, tuyển lao động theo biên chế, quy định mức thu nhập mà
thực chất là cản trở việc hình thành thị trường
IV.Các giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò kinh tế của
Nhà nước
Mac và Anghen đã khẳng định:"Vai trò bà đỡ" của Nhà nước chỉ có
thể thực hiện khi hệ thống chuyên chính vô sản, trong đó bộ phận quan
trọng là Nhà nước, phải tự đổi mới để có đủ năng lực và phẩm chất,
khi Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, do vậy cần phải xây
dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Trong qua trình chuyển đổi cơ chế kinh tế theo hướng đưa nền
kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của Nhà
nước, đòi hỏi Nhà nước phải có sự nhất quán trong việc thừa nhận và
sử dụng các phạm trù của kinh tế thị trường như cạnh tranh, thất
nghiệp, khủng hoảng, phá sản, lạm phát, hàng hoá sức lao động...Từ
đó sớm khắc phục những định kiến không đúng trước đây trong cơ chế
kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, một cơ chế xa lạ với cơ chế
kinh tế trong nền kinh tế thị trường, phát triển đất nước theo hướng"
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".
- Nhà nước cần hoàn thiện các công cụ quản lí kinh tế của mình, xây
dựng những chương trình kế hoạch trung và dài hạn phù hợp với điều
kiện đất nước và bối cảnh quốc tế, mang tính định hướng với hình
thức dự báo dài hạn hoặc có sự ưu tiên cho các mục tiêu cụ thể. Phải
đồng bộ hoá hệ thống pháp luật hiện nay của nước ta, đảm bảo thực thi
pháp luật một cách nghiêm chỉnh, trong đó đặc biệt luật kinh tế của
nước ta còn rất non kém. Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới
kinh tế, hoàn thiện cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân
làm chủ
- Làm trong sạch bộ máy Nhà nước, chống quan liêu, tham
nhũng...xây dựng đội ngũ công chức có đủ phẩm chất và năng lực.
Chỉnh đốn hoạt động của các tổ chức thương nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, đổi mới hệ thống thương nghiệp Nhà nước, vừa khuyến
khích mọi thành phần tham gia lưu thông hàng hoá, vừa tăng cường,
từng bước phát huy vai trò nòng cốt của thương nghiệp quốc doanh và
tập thể. Đổi mới cơ chế quản lí, trước hết cần xác định các quyền đại
diện sở hữu hợp pháp và địa vị pháp lí của DNNN, làm rõ quan hệ
giữa doanh nghiệp với Nhà nước, giữa doanh nghiệp với các đối tác
kinh doanh, Nhà nước thực hiện trao quyền tự chủ rộng rãi cho các
DNNN, thực hiện tổ chức lại DNNN theo 2 tiêu thức cơ bản là tính
chiến lược và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Tạo môi trường hợp tác cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất và
kinh doanh, Nhà nước phải can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần
thiết, thực hiện độc quyền Nhà nước trong một số ngành, lĩnh vực nhất
định gắn với lợi ích của đất nước, hạn chế độc quyền kinh doanh,
không để lợi dụng địa vị độc quyền để đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn
thị trường.
- Thị trường nước ta phát triển chưa đồng bộ vì vậy cần tạo ra các
tiền đề cần thiết về kinh tế xã hội cho thị trường ra đời và hoạt động
theo các quy luật của nó, để có điều đó thì vấn đề sở hữu cần được giải
quyết, mỗi nguồn lực sử dụng đều có quyền sở hữu đích thực. Hình
thức sở hữu nào cho phép sử dụng có hiệu quả nhất các yếu tố sản
xuất sẽ là thích hợp nhất.
- Quản lí tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lí.
Tiến hành hoạt động phân phối đảm bảo công băng và hiệu quả, điều
hoà lợi ích cả ở đầu ra và đầu vào.
- Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thực hành tiết kiệm để tạo thêm
nguồn vốn, học hỏi kĩ thuật công nghệ, phát huy lợi thế so sánh, coi
trọng công tác đào tạo cán bộ qua đó tạo điều kiện tăng trưởng cao và
bền vững, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, môi
trường, dân số, phân phối thu nhập
C . Kết luận
-Việc xây dựng mô hình quản lý ở Việt Nam cho phù với nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN là một vấn đề vô cùng quan
trọng trong chiến lược đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Đối với nước ta
việc quản lý kinh tế trong giai đoạn này là mới mẻ, phức tạp và đầy
thử thách. Chính vì vậy, sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân
nên nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc để sau này tham gia
quản lý kinh tế có hiệu quả, phục vụ cho công cuộc đổi mới của Đảng
và Nhà nước. Đối với các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách cũng
như những nhà quản lý kinh doanh thì vấn đề này cũng đòi hỏi phải
được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để đề ra các biện pháp quản lý kinh
tế nhằm phát triển một nền kinh tế đồng bộ, lành mạnh, tạo điều kiện
cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả.
- Chúng ta đang ở vào lúc giao thời giữa cơ chế kinh tế quản lí tập
trung với cơ chế thị trường có sự quản lí, một giải pháp sai lầm vào
thời điểm này có thể làm cho nền kinh tế bị kẹt giữa 2 cơ chế, chính vì
vậy việc xác định những điều kiện và giải pháp để tiếp tục chuyển đổi
cơ chế kinh tế phải xuất phát từ quan điểm đúng đắn về cơ chế thị
trường và vai trò quản lí của Nhà nứơc. Song cũng cần chú ý là sự can
thiệp của Nhà nước chỉ thành công khi bản thân Nhà nước phải tôn
trọng và tuân thủ những quy luật của thị trường.
- Mô hình kinh tế thị trường theo đình hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta là một dạng cụ thể của mô hình kinh tế hỗn hợp, trong đó mục
tiêu duy nhất là hạnh phúc của nhân dân thì Nhà nước ấy phải có
nhiều công cụ mạnh, đủ sức chi phối mọi biểu hiện trái nghịch. Kinh
tế quốc doanh giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt sự phát triển
các thành phần kinh tế khác, là chỗ dựa, là thực lực để Nhà nước giải
quyết các vấn đề do nền kinh tế đặt ra mà khu vực kinh tế tư nhân
không giải quyết được. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện các công
cụ theo hướng đảm bảo tính nhạy bén, phù hợp với sự biến động của
thị trường , nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước cũng như
tạo mọi điều kiện cho khu vực kinh tế quốc doanh thực hiện trọng
trách của mình là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước.
-Cơ chế thị trường của nước ta là cơ chế thị trường của một Nhà
nước xã hội chủ nghĩa nên dù Nhà nước có vai trò quản lí nhưng vẫn
phải đảm bảo Đảng lãnh đạo và nhân dân làm chủ, bộ máy quản lý
Nhà nước về kinh tế phải được sắp xếp lại và kiện toàn theo hướng
giảm bớt khâu trung gian, tinh giảm biên chế, đảm bảo chất lượng.
Đồng thời phải đổi mới chế độ làm việc, xây dựng quy chế công chức,
đổi mới phong cách, phương pháp làm việc, ý thức trách nhiệm. Kiên
quyết đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, thoái hoá biến chất.
Tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ viên chức Nhà nước làm
công tác quản lý kinh tế và đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp. Để
thực hiện được nhiệm vụ đó thì phải đổi mới chương trình phương
pháp đào tạo, gắn lý luận với thực tiễn, có quá trình rèn luyện, thử
thách đối với đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Đi đôi với nó cần phải có
chính sách bố trí, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng thoả đáng để khuyến
khích tính tự chủ, sáng tạo và ý thức tự giác của cán bộ quản lý kinh
tế.
- Với vai trò khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, cũng
có khi Nhà nước mắc phải những sai lầm, do đó Nhà nước luôn phải
biết học hỏi kinh nghiệm, tự kiểm điểm bản thân, thường xuyên kiểm
tra, giám sát hoạt động của bộ máy cũng như nội bộ các nhân viên -
Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế trong bước
chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Quản lý Nhà nước về kinh tế phải
tập trung chủ yếu vào quản lý vĩ mô, tạo môi trường kinh tế và khuôn
khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh, phát huy mặt tích cực của kinh
tế thị trường, bảo đảm sự tăng trưởng của nền kinh tế gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội. Ngoài ra chính quyền các cấp phải tăng cường
quản lý đối với các loại hình kinh doanh, chủ thể kinh doanh mà
không phân biệt các thành phần kinh tế.