Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 58

GVHD: PGS.TS.

Đoàn Đức Hiếu


SVTH:
1. Phạm Trần Thanh Vân 23124042
2. Nguyễn Thùy Lệ Quyên 23124033
Mã lớp học: 23124FIE

Thành phố Hồ Chí Minh, 23 Tháng 4 năm 2024


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO QUỐC TẾ


MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc
thúc đẩy kinh tế

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................3

Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................4

Phương pháp nghiên cứu..........................................................................4

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO......................................5

1. Vài nét về tiến trình phát triển của nho giáo......................................5


2. Một Số Quan Điểm............................................................................6

2.1. Quan điểm về bản chất con người................................................6

2.2. Quan điểm về xã hội.....................................................................9

2.3. Quan điểm về giáo dục...............................................................22

2.4. Quan điểm về phương pháp quản lý...........................................27

2.5. Đánh giá tư tưởng quản lý của Khổng Tử..................................31

ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT NAM...............................................................................37

3. Sự du nhập của nho giáo vào Việt Nam...........................................37

4. Sự ảnh hưởng của nho giáo đến đời sống tinh thần người Việt.......41

KẾT LUẬN............................................................................................46

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................48


LỜI MỞ ĐẦU
Lời nói đầu Theo C.Mac va F.Anghen: Không thể cải biến kinh tế xã
hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, loài người đã và đang còn
sống lâu dài trong nền kinh tế thị trường,bên cạnh mặt tích cực là chủ
yếu, nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi mặt tiêu cực. Phát huy
mặt tích cực, chủ động hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường thông
qua vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là một tất yếu khách quan.
B. NỘI DUNG
I. Sự cần thiết khách quan của vai trò quản lí kinh tế nhà nước
1.Nhà nước là gì ?
Trong tiến trình lịch sử phát triển, sự ra đời của Nhà nước chậm hơn sự ra đời
của xã hội vì Nhà nước chỉ được tạo ra từ xã hội có một trình độ phát triển nhất
định Nhà nước không phải là cái bẩm sinh vốn có mà nó xuất hiện gắn liền với
sự xuất hiện chế độ tư hữu về Tư liệu sản xuất, sản xuất hàng hoá, giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Nhà nước là kiểu tổ chức xã hội của xã hội có giai cấp. Nó là
một bộ máy, một hệ thống tổ chức chặt chẽ, tác động vào mọi mặt của đời sống
xã hội, do giai cấp thống trị lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của
chúng đối với quần chúng lao động. Do vậy bản chất Nhà nước theo nguyên
nghiã của nó là nền chuyên chính để thực hiện sự thống trị của một giai cấp, là
bộ máy áp bức của giai cấp thống trị đối với xã hội. Nhà nước chỉ là một phạm
trù lịch sử, nó không đồng nghĩa với xã hội, nó chỉ tồn tại trong một giai đoạn
lịch sử nhất định và sẽ tự tiêu vong khi các cơ sở ra đời và tồn tại của nó không
còn nữa. Bất kì một Nhà nước nào cũng có chức năng kinh tế, mà theo Mac thì
chức năng của nhà nước như “vai trò bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội
mới”. ở các thời kì khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà
nước khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện
khác nhau.
2.Vai trò kinh tế của Nhà nước qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử
Nói về vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời kì và chế độ xã hội, C.Mac
và F.Anghen đã có những đúc kết hết sức xác đáng như sau:
* Các Nhà nước trước Chủ nghĩa tư bản, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế
độ thuế khoá, một chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy
cai trị, thực hiện chức năng đối nội (giữ cho sự xung đột giai cấp nằm trong
vòng trật tự) đối ngoại (bảo vệ lãnh thổ) từ đó bảo vệ và mở rộng lợi ích kinh tế
của giai cấp thống trị.
* Đến Nhà nước tư sản, vai trò kinh tế của Nhà nước không chỉ dừng lại ở
thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài, bên trên quá trình
sản xuất như Anghen đã nhận xét "nền văn minh mà tiến lên thì bản thân thúê
má là không đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành
công trái”. Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở
bên trong quá trình sản xuất, Nhà nước là “Nhà tư bản tập thể lý tưởng, Nhà
nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu
thì nó lại càng biến thành tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột nhiều
công nhân”
Cũng theo hai ông, không thể có sự biến đổi kinh tế xã hội từ chủ nghiã tư
bản lên xã hội cộng sản nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, của giai cấp vô
sản, Anghen nhấn mạnh ”Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền Nhà nước và
biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu Nhà nước”. Theo dự đoán của Mac
và Anghen, chuyên chính vô sản trong đó bộ phận quan trọng là Nhà nước và
vai trò kinh tế của Nhà nước ra đời từ sự chín muồi của các tiền đề kinh tế xã
hội, đến lượt sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước lại thúc đẩy các điều kiện
kinh tế xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Và khi những điều kiện
kinh tế xã hội phát triển đến một trình độ nhất định lại dẫn đến sự tự tiêu vong
của Nhà nước theo đúng quy luật phát sinh phát triển và chuyển hoá vốn có của
mọi sự vật hiện tượng Mac và Anghen với tư cách vừa là nhà khoa học vừa là
nhà hoạt động thực tiễn, hai ông chưa thể đề cập nhiều vai trò và chức năng kinh
tế của Nhà nước cho xã hội tương lai khi thực tiễn chưa đến, bằng sự phân tích
logic hai ông chỉ phác hoạ chức năng kinh tế của Nhà nước chủ yếu là ”biến các
tư liệu sản xuất thành sở hữu Nhà nước”, chỉ đến sau này Lênin với tư cách là
người lãnh đạo trực tiếp công cuộc xây dựng xã hội mới thì vai trò và chức năng
của Nhà nước mới được nói tới nhiều hơn. Ông cho rằng nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa được xây dựng trên công hữu xã hội về tư liệu sản xuất với hai hình thức
sở hữu toàn dân và tập thể. Sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất là hình thức sở
hữu chung của toàn thể nhân dân lao động, mọi người cùng chiếm hữu tư liệu
sản xuất. Người chủ cao nhất là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, sản xuất được tiến
hành theo kế hoạch tập trung thống nhất của Nhà nước. Còn hình thức sở hữu
tập thể do tập thể người lao động góp vốn, tư liệu sản xuất để xây dựng nên, sản
xuất được tiến hành theo kế hoạch của tập thể có sự hướng dẫn của Nhà nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế đặc biệt, nó không còn là bộ máy
ăn bám đứng trên quá trình sản xuất nữa mà phải chuyển sang tổ chức, thực
hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Chức năng này gắn liền với quá
trình kế hoạch hoá tập trung thống nhất, quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm, kiểm tra chặt chẽ mức độ lao động và tiêu dùng. Thực tế lịch sử đã cho
thấy cùng với sự tiến hoá của các chế độ xã hội, vai trò kinh tế của Nhà nước
cũng có những biến đổi hết sức lớn lao, thể hiện rõ trong các lý thuyết kinh tế
điển hình qua các thời kì
- Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến: vai trò kinh tế của Nhà nước
chủ yếu chỉ dừng lại ở việc bảo vệ sở hữu về nô lệ và phong kiến về Tư liệu sản
xuất. Nhà nước trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối
của cải được sản xuất ra bởi nô lệ. Còn Nhà nước phong kiến không chỉ can
thiệp vào việc phân phối mà còn tập hợp nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho
sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng đất
mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp cho từng thời kì.
- Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa tư bản
+ Trong thời kì tích luỹ nguyên thuỷ Tư bản (giữa thế kỉ 15) Nhà nước có vai
trò kinh tế quan trọng trong việc tích luỹ tiền (Chủ nghĩa trọng thương), họ đề
cao vai trò tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá sự giàu có của
một quốc gia -“Nội thương là cái ống dẫn, ngoại thương là cái máy bơm, muốn
tăng của cải phải có ngoại thương nhập dần của cải qua nội thương”-do đó các
Nhà nước đã buộc các thương gia nước ngoài không được mang tiền ra khỏi
nước họ, quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm tra,
đánh thuế nhập khẩu cao, khuyến khích phát triển xuất khẩu hàng hoá , thành
phẩm, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô... Sự can thiệp của Nhà nước đã góp
phần tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản.
+ Thế kỉ 18,19 cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất hoàn thành,
công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa đã đứng vững trong công nghiệp, nông
nghiệp...nền sản xuất ở các nước Tư bản phát triển nhanh, giai cấp Tư sản đã
chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, tư tưởng tự do kinh tế được
thể hiện rõ nhất trong thời kì này mà tiêu biều là quan điểm kinh tế của trường
phái cổ điển. Họ ủng hộ mạnh mẽ tư tưởng tự do cạnh tranh, chống lại việc Nhà
nước can thiệp vào kinh tế: ” Trong chính sách và trong kinh tế phải tính đến
những quá trình tự nhiên, không nên dùng những hành động cưỡng bức để
chống lại quá trình đó ”-W.Petty. Tư tưởng tự do kinh tế này được tiếp tục phát
triển ở thuyết trật tự tự nhiên của trường phái trọng nông ở Pháp, đại diện của họ
là Quesnay, ông cho rằng chỉ có xã hội tư bản mới là xã hội bình thường vì nó
phù hợp với trật tự tự nhiên (với 2 quy luật cơ bản la quy luật vật lý và luân lý)
từ đó ông đưa ra tư tưởng tự do tư hữu, tự do cạnh tranh, tự do tham gia thị
trường.
Tuy nhiên đại diện tiêu biểu nhất trong thời kì này là một nhà Kinh tế chính trị
học tư sản cổ điển người Anh-Ađam Smith-ông đã dưa ra lý thuyết “Bàn tay vô
hình”, “Con người kinh tế”, “Nhà nước không can thiệp vào tổ chức nền kinh tế
hàng hoá". Ông cho rằng hoạt động của nền kinh tế là do các quy luật khách
quan tự phát chi phối, sự vận động của thị trường là do quan hệ cung cầu cùng
với những biến động tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định.
Quan hệ giữa người với người là quan hệ về lợi ích kinh tế. Mỗi người hoạt
động chỉ nhằm lợi ích cho bản thân, song do “bàn tay vô hình” chi phối buộc
con người phục tùng lợi ích chung của xã hội, điều này nằm ngoài ý định của
từng nhà kinh doanh. Mặc dù đề cao “bàn tay vô hình” song ông cũng cho rằng
đôi khi Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là khi các nhiệm vụ kinh tế
đặt ra vượt quá khả năng của các doanh nghiệp. Mặt khác các nhà kinh tế cũng
thấy được rằng nền kinh tế phát triển càng cao, xã hội hoá sản xuất ngày càng
mở rộng, thị trường ngày càng phát triển thì càng cần có sự quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế, song tư tưởng của họ vẫn dừng lại ở sức mạnh thị
trường, ở sự tác động tự phát của các quy luật kinh tế thị trường làm cho nền
kinh tế phát triển ổn định và lành mạnh.
- Sang thời kì của đại tư bản công nghiệp: Chủ nghĩa tư bản phát triển
nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn nên người ta chủ yếu chỉ phê
phán những sự tiêu dùng xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ cũng chưa thấy rõ
vai trò cần thiết của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển,
khắc phục các mất cân đối (Ví dụ Davit Ricardo).
+ Vào đầu những năm 1930 của thế kỉ nảy, khủng hoảng kinh tế diễn ra
thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 đã
làm cho “bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho nền
kinh tế thị trường phát triển. Đồng thời ở giai đoạn này trình độ xã hội hoá sản
xuất phát triển khá cao làm cho các nhà kinh tế thấy rằng: cần có một lực lượng
điều tiết nền kinh tế từ một trung tâm-đó là Nhà nước. Từ đó J.M.Keynes-nhà
kinh tế học người Anh đã dưa ra lý thuyết "Nhà nước điêù tiết nền kinh tế thị
trường". Ông cho rằng cùng với sự tăng lên của sản lượng quốc gia thì thu nhập
tăng lên và tiêu dùng cũng tăng lên. Nhưng do xu hướng “tiêu dùng giới hạn”
nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập, điều này làm giảm cầu tiêu dùng
tương đối. Cầu tiêu dùng giảm làm giảm giá hàng hoá và từ dó làm giảm tỷ suất
lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận giảm nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì các doanh
nghiệp không còn có lợi do đó họ không đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nữa.
Và như vậy khủng hoảng, trì trệ kinh tế và thất nghiệp xảy ra là điều không thể
tránh khỏi. Để khắc phục tình trạng đó, Nhà nước cần phải can thiệp vào nền
kinh tế, vào thị trường, phát huy mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong cư dân, các
nghiệp chủ đưa vào sản xuất, tăng vốn đầu tư để giải quyết công ăn việc làm,
tăng thu nhập, tiêu dùng, đặc biệt chú ý đến tăng cầu tiêu dùng và chỉ có tăng
cầu tiêu dùng mới thực sự khuyến khích các nghiệp chủ đầu tư mới vào sản
xuất, đó là một mặt. Mặt khác, Nhà nước phải dùng chính sách tài chính, lãi suất
để tác động vào nền kinh tế. Phải chấp nhận lạm phát vừa phải, tăng lượng tiền
nhất định vào lưu thông để giảm lãi suất, tăng đầu tư tư bản mới, có làm được
những điều đó thì mới làm cho nền kinh tế phát triển cân bằng và ổn định, tránh
được các đợt khủng hoảng, thất nghiệp xảy ra trong nền kinh tế. Tuy nhiên,
những quan điểm của Keynes và những người theo ông không làm cho khủng
hoảng, thất nghiệp và lạm phát giảm, trái lại ngày càng gia tăng theo chu kì kinh
tế.
+ Chính do những hạn chế của Keynes đã làm xuất hiện “Chủ nghĩa tự do
mới”-họ muốn kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của
các trường phái tự do cũ, trọng thương mới, trường phái Keynes với tư tưởng cơ
bản là: “Cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định”,
khẩu hiệu mà họ đưa ra là:”Thị trường nhiều hơn và Nhà nước can thiệp ít hơn”.
Họ xây dựng nhiều mô hình kinh tế thị trường như:
* “Nền kinh tế thị trường xã hội “ của CHLB Đức, nó dược hinh dung như
một sân bóng trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ, Nhà nước đóng vai trò
là trọng tài thiết kế luật “chơi “ để điều khiển trận đấu sao cho nền kinh tế có thể
tránh được những tai hoạ như khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Đặc trưng cơ
bản của nền kinh tế là: Tôn trọng cạnh tranh, Nhà nước can thiệp vào kinh tế
phải tổng hợp với thị trường, Nhà nước coi trọng chỉ tiêu xã hội, sử dụng nó để
đánh giá hoạt động của mỗi doanh nghiệp.
* Ở Mĩ tiêu biểu có “Trường phái trọng tiền hiện đại”, họ cũng ủng hộ tư
tưởng tự do kinh tế chống lại việc Nhà nước can thiệp, họ cho rằng nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa thường xuyên ở trạng thái cân bằng động, đó là hệ thống tự
điều chỉnh, hoạt động dựa vào các quy luật kinh tế vốn có.
*Ở các nước Bắc Âu đã có chủ trương tăng cường vai trò của Nhà nước
nhưng chủ yếu chỉ trong lĩnh vực xã hội, kiểu kinh tế thị trường xã hội.
+ Rõ ràng cả 2 trường phái Keynes và tự do mới đều vấp phải những sai lầm,
hoặc là hạ thấp đến mức bỏ qua cơ chế thị trường hoặc là phủ nhận vai trò kinh
tế của Nhà nước, nên vào thập niên 60,70 có sự xích lại gần nhau của 2 trường
phái để hình thành nền kinh tế hỗn hợp, tức là họ đã phối hợp “Bàn tay vô hình”
và “Bàn tay hữu hình” để điều tiết nền kinh tế. Trong cuốn “Kinh tế học” của
Samuelson ông viết:”Điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị
trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”, theo ông Nhà nước có vai
trò đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả vì các nền kinh tế thực tế đôi khi
chịu thất bại của thị trường gồm cạnh tranh không hoàn hảo (cao hơn nữa là độc
quyền), tác động bên ngoài ( ngoại ứng), hàng hoá công cộng (nếu để tư
nhân làm thì việc cung ứng thường không đủ nên Chính phủ phải nhảy vào làm
việc đó) thuế (một dạng cưỡng bức quan trọng của Nhà nước để phục vụ những
chi tiêu của mình).
Như vậy sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả
không phải chỉ đơn thuần là do ý thích, mà đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các
tư doanh làm ăn trôi chảy, ngăn cản lạm dụng khi các doanh nghiệp trở thành
những kẻ tham lam độc quyền và kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khi
khối nhà máy của họ đe doạ sinh mạng và tài sản của người khác. Ngoài ra nếu
nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả, luôn trên ranh giới đường khả
năng sản xuất, sự cạnh tranh trên thị trường là hoản hảo thì hàng hoá luôn được
đặt vào tay người có nhiều tiền nhất chứ không phải theo nhu cầu lớn nhất, vì
vậy cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trường có hiệu quả có thể gây ra sự bất
bình đẳng lớn, và một khi thị trường dân chủ không thích sự phân phối “phiếu
đôla” trong một thị trường “thả lỏng” thì nó có biện pháp thay đổi kết quả thông
qua những chính sách “phân phối lại”, từ đó Nhà nước có thể sử dụng "thuế luỹ
tiến” đánh thuế người giàu theo tỉ lệ thu nhập cao hơn người nghèo, xây dựng
hệ thống hỗ trợ thu nhập nhằm tạo ra một “mạng lưới an toàn”, bảo vệ những
người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Bên cạnh đó, theo Samuelson từ
khi ra đời cho đến nay Chủ nghĩa tư bản đã gặp phải những thăng trầm chu kì
cuả lạm phát, do vậy sử dụng một cách thận trọng quyền lực về tiền tệ và tài
chính của Chính phủ (bao hàm việc điều tiết tiền tệ và hệ thống ngân hàng để
xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng.
Qua xem xét 3 vai trò trên đây của Chính phủ- người đảm bảo hiệu quả, công
bằng và ổn định-ông đã làm rõ tại sao nước Mĩ những năm 1980 lại được gọi là
“một nền kinh tế hỗn hợp”, cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong
nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương
trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và Chính phủ đều có tính
chất thiết yếu như nhau. Lí thuyết kinh tế của trường phải này có ý nghĩa thực
tiễn với nước ta vì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sự vận động dược điều tiết bởi sự thống nhất
giữa cơ chế thị trường-bàn tay vô hình- và vai trò kinh tế của Nhà nước-bàn tay
hữu hình.
- Thời kì các nước xã hội chủ nghĩa: Sau Đại chiến Thế giới II, bên cạnh hệ
thống các nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành và phát triển từ trước, một hệ
thống mới các nước xã hội chủ nghĩa ra đời và tồn tại song song trên khắp các
châu lục (trước Đại chiến Thế giới II chỉ tồn tại duy nhất một Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là Liên Xô). Do quan điểm chính trị, tư tưởng và nhiều điều kiện
khác, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều áp dụng chế độ kế hoạch hoá tập
trung để quản lý nền kinh tế. Đặc trưng nổi bật nhất của chế độ này là việc Nhà
nước được đặt vào trung tâm của mọi quan hệ kinh tế. Thông qua công cụ kế
hoạch được chi tiết hoá đến cao độ, mọi vấn đề của nền kinh tế từ sản xuất, phân
phối đến tiêu dùng... đều do các cơ quan Nhà nước đảm trách. Điều này là
nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tụt hậu của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa so với hệ thống các nước tư bản phát triển. Những cải tổ nhưng không
triệt để sau đó vì thế đã dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của Liên Xô và một
loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90.
Như vậy về nguyên tắc Nhà nước cần phải can thiệp vào thị trường nhưng
không có mô hình nào chung có thể áp dụng cho toàn thế giới. Căn cứ vào điều
kiện cụ thể của từng nước mà phải tìm ra cho mình một vị trí tiếp cận với nền
kinh tế, một cách thức riêng để can thiệp vào thị trường, định hướng nền kinh tế
đến các mục tiêu mong muốn trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của
thị trường.
3. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước
Trên thực tế, không có nền kinh tế nào thế giới lí tưởng của bàn tay vô hình.
Mỗi nền kinh tế đều có những khuyết tật. Vì lí do đó nên ở bất cứ nơi nào trên
thế giới, không có chính phủ nào dù bảo thủ đến đâu lại không nhúng tay vào
nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển và theo đó quan hệ sản xuất mới được thiết lập cho phù họp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy Nhà nước cần phải nắm vai
trò chủ đạo trongviệc đưa ra giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất. Trong
thời kì quá độ, để phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường cần phải giải
quyết hai mâu thuẫn chính. Thứ nhất đó là mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm
phát triển với yêu cầu phát triển nền kinh tế hiện đại bằng quá trình đẩy nhanh
phát triển nền kinh tế hàng hoá. Thứ hai đó là mâu thuẫn giữa những yếu tố
nhanh nhạy, tự phát của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Với tư cách là
cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dânvà là người chủ đại diện cho
sở hữu toàn dân, Nhà nước phải quản lí nền kinh tế , thực hiện chế độ dân chủ
về mọi khâu, mọi mặt của quá trình tái sản xuất.
II- Sự hình thành cơ chế quản lí mới ở Việt Nam
Trước hết ta cần nắm được khái niệm cơ chế kinh tế: Đó là tồng thể
các yếu tố có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực
dẫn dắt nền kinh tế phát triển.
1. Cơ chế quản lí kinh tế cũ ở Việt Nam
a) Đặc trưng cơ bản
Cơ chế quản lí kinh tế cũ của nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu bao cấp (Giai đoạn trước ĐạI hội VI của Đảng năm
1986) Đặc trưng chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn này đó
là coi kế hoạch là công cụ quản lí số một, có tính chất pháp lệnh bắt
buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các nghành, các cấp, tổ
chức xã hội, các đơn vị kinh tế trong đó công dân, luật pháp về kinh tế
(mới có rất ít) và các công cụ quản lí khác đều được xếp sau công cụ
kế hoạch. Nhà nước bị biến thành “ông chủ của một doanh nghiệp
lớn”, thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, Nhà nước trực tiếp
quyết định tất cả các vấn đề liên quan tới đời sống kinh tế xã hội của
đất nước.
b) Ưu điểm
Cơ chế này đã góp phần đắc lực vào việc huy động những nguồn lực
khổng lồ trong thời gian ngắn để triển khai các chương trình quy mô
của quốc gia, đặc biệt là việc động viên nhân tài vật lực phục vụ các
nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu phù hợp với đặc điểm tình hình đất
nước trong những năm chiến tranh. Có thể nói cơ chế quản lí này đã
hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình.
c) Nhược điểm
- Quản lí kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó
thể hiện ở sự chi tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao
bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trên giao xuống, qua đó làm
suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế thậm chí gây ra tác động như
khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những
người tích cực, tạo môi trường cho lãng phí, gây thất thoát cho tài sản
quốc gia .
- Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động
của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm về
những quyết định của mình.
- Coi thường các quan hệ hàng hoá- tiền tệ và hiệu quả quản lí kinh
tế, quản lí nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao
nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình
thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức: bao cấp quá
giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng
buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn.
- Từ những đặc điểm trên tất yếu dẫn đến một bộ máy quản lý cồng
kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội
ngũ cán bộ quản lý kém năng lực quản lí, không theo nghiệp vụ kinh
doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Những quan niệm “
ấu trĩ” trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai lầm
chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp đã tích cóp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình
thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội.
Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó theo hướng căn bản
của sự đổi mới cơ chế quản lí đã được Đại hội VI của Đảng xác định
và được tiếp tục khẳng định tại Đại hội VII:” Tiếp tục xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ, vận hành có hiệu quả
cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước”
2. Cơ chế thị trường và sự vận dụng ở Việt Nam
a)Một số khái niệm cơ bản
Để có thể đi sâu nghiên cứu cơ chế quản lí kinh tế mới ở Việt Nam
cần nắm vững một số khái niệm sau
- Thị trường là gì? Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát
triển của sản xuất lưu thông hàng hoá, sản xuất hàng hoá ngày càng
phát triển, lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào
và phong phú, thị trường được mở rộng. Như vậy thị trường là lĩnh
vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới, tại đây người
mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Thị trường là trung tâm của
toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề cơ bản của nền
sản xuất hàng hoá là sản xuất cái gì? Số lượng bao nhiêu? Bằng
phương pháp nào? đều phải thông qua thị trường vì vậy thị trường
đóng vai trò hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Cơ chế thị trường là gì? Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức
cách này hay cách khác, để huy động tối đa các nguồn lực xã hội và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch
vụ thoả mãn nhu cầu của xã hội. Việc sản xuất ra hàng hoá gì? Theo
phương thức nào là tốt nhất? Việc phân phối hàng hoá được sản xuất
ra sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu xã hội? Đó là những vấn đề cơ
bản của tổ chức kinh tế xã hội, lực lượng nào quyết định những vấn đề
cơ bản đó?
Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn
có cho nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật
lưu thông tiền tệ... và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động
của nó. Các quy luật đó thể hiện sự tác động của mình thông qua các
mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực trao đổi- thị trường, thông qua sự
vận động của giá cả. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường
mà diễn ra sự thích ứng tự phát khối lượng và cơ cấu của sản xuất với
khối lượng và cơ cấu của nhu cầu của xã hội, tức là các quy luật điều
tiết nền sản xuất xã hội. Một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ
bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị
trường.
Như vậy, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng
hoá, là “ bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị
trường, quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá dưới sự tác động
khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó (đặc biệt là quy luật
giá trị- quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá) cơ
chế đó quyết định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái
gì? như thế nào? cho ai?
- Vai trò của kinh tế thị trường? Kinh tế thị trường giúp nhân loại
giải quyết 3 vấn đề cơ bản trong nền kinh tế một cách có hiệu quả
+Sản xuất cái gì? Không phải do thượng đế, một tổ chức mệnh lệnh
và cũng không phải do người sản xuất quyết định, mà do người tiêu
dùng thông qua việc bỏ đồng tiền để lựa chọn: Họ thích hàng hoá này
chứ không phải hàng hoá kia, họ cần số lượng này chứ không phải số
lượng khác, chấp nhận mức giá này chứ không phải mức giá khác.
Thông qua việc bỏ phiếu bằng đồng tiền để chọn cho mình những thứ
hàng hoá hợp sở thích, thị hiếu, nhu cầu, về chủng loại, số lượng, mẫu
mã. ở đây tính dân chủ tự do thực sự được thể hiện rõ nét.
+Sản xuất như thế nào? Vấn đề này được giải quyết thông qua cạnh
trạnh và chủ yếu là do cạnh tranh quyết định. Muốn đứng vững và
chiến thắng trong cạnh tranh, người sản xuất phải lựa chọn kĩ thuật và
công nghệ tối ưu. Cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong ngành hình
thành nên lợi nhuận siêu ngạch cho người sản xuất. Động lực hấp dẫn
này thúc đẩy họ luôn đổi mới kĩ thuật, phấn đấu đưa năng suất lao
động cá biệt lên cao hơn năng suất lao động xã hội. Hơn nữa, cạnh
tranh còn là cơ chế sàng lọc, bình tuyển những kiểu sản xuất tân tiến,
loại bỏ những cơ chế sản xuất cũ kĩ lạc hậu. Vì thế cạnh tranh là linh
hồn của đời sống kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
+Sản xuất cho ai? Như ta đã biết mục đích của sản xuất hàng hoá là
để bán, để chuyển H thành T, làm cho sản xuất tái diễn. Do vậy để trả
lời câu hỏi “Sản xuất cho ai” chỉ có thể là sản xuất cho người có tiền.
Trong phân phối, động lực vì đồng tiền để làm giàu trở thành một sức
mạnh thật sự thúc đẩy con người trong các hoạt động kinh tế của họ.
Tất nhiên sự phân phối trong kinh tế thị trường không tránh khỏi một
số mặt trái về hậu quả xã hội.

- Đặc điểm chung của cơ chế thị trường

+Ưu điểm: Trước hết nó kích thích hoạt động của các chủ thể kinh
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, lấy lợi nhuận
siêu ngạch làm động lực hoạt động nên đòi hỏi các doanh nghiệp
thường xuyên phải hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi
phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó mà động viên được các nguồn
lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy việc áp
dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình
độ xã hội hoá sản xuất.

* Hai là cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi
nhanh chóng khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp
thời khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của
nhu cầu. Lí do là vì trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai
đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và sớm nhất sẽ thu được lợi
nhiều nhất.
* Ba là trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa
dạng, do vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt
hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của
mọi thành viên xã hội. Những việc này nếu để Nhà nước tự làm thì sẽ
phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lổ, có khi còn không
thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định.
+Nhược diểm: Bên cạnh những ưu điểm kể trên, kinh tế thị trường
còn có hàng loạt các khuyết tật, trước hết là sự phát triển không ổn
định của nền kinh tế, điều đó xuất phát từ tính tự phát của cơ chế kinh
tế thị trường. Những cân đối lớn trong nền kinh tế được xác lập thông
qua hàng loạt những dao động. Do đó cứ sau một thời kì phồn thịnh lại
đến thời kì trì trệ, suy thoái, khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát...là
những hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Những hiện tượng kể
trên ảnh hưởng tiêu cực tới các mặt đời sống kinh tế xã hội.
* Thứ hai, đó là sự xuất hiện độc quyền trong nền kinh tế. Độc
quyền vi phạm các điều kiện hiệu quả Pareto, điều đó làm tổn hại tới
lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội.
* Thứ ba, các ngoại ứng. Ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất hoặc
tiêu dùng một mặt hàng trực tiếp làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp
hoặc người tiêu dùng không can dự đến việc mua hoặc bán hàng hóa
đó, nhưng không được phản ánh đầy đủ trong giá cả thị trường. Ngoại
ứng dù tích cực hay tiêu cực khi không được phản ánh trong giá cả thị
trường sẽ làm cho mức sản lượng không phải là tối ưu và do đó làm
thiệt hại tới lợi ích xã hội.
* Thứ tư, hàng hoá công cộng. Đây là hàng hoá mà sự tiêu dùng của
một người không ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của ngưởi khác như:
đường cao tốc, quốc phòng, an ninh...hàng hoá công cộng hết sức cần
thiết nhưng các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp không ai chịu
bỏ tiền ra để sản xuất.
* Thứ năm, phân phối thu nhập. Do sự tác động của các quy luật
kinh tế thị trường, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, sự phân
hoá giàu nghèo là hiện tượng không tránh khỏi. Những điều đó có thể
dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí xung đột trong xã hội. Điều này sẽ trở
thành những nhân tố cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
* Thứ sáu, vấn để thông tin. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp cần rất nhiều thông tin khác nhau. Trong khi đó, khả năng của
từng doanh nghiệp trong việc thu nhập và xử lý thông tin rất hạn chế.
Mỗi doanh nghiệp không thể tự giải quyết được nhu cầu về thông tin
của chính mình.
* Thứ bảy, mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đo họ
có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, có thể gây ra ô nhiễm nguồn nước,
không khí...
* Thứ tám, khủng hoảng sản xuất thừa là căn bệnh cố hữu của các
nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây, do mức cung hàng hoá vượt
quá mức cầu có khả năng thanh toán nên dẫn tới tình trạng “dư thừa
hàng hoá” Nguyên nhân của tình trạng trên là do mâu thuẫn cơ bản
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này được thể
hiện trên tính kế hoạch cao độ ở từng doanh nghiệp với tính vô chính
phủ trên toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô
hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn của quần chúng. Mâu thuẫn đối
kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Do những khuyết tật đó mà xã hội thường xuyên phải có sự kiểm
tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của
cơ chế thị trường, đó là lí do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lí của
Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở nước ta sự
quản lí của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự
công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng
trưởng và phát triển với tốc độ cao
b) Sự vận dụng vào Việt Nam
Cùng với tiến trình phát triển chung của thế giới, nền kinh tế Việt
Nam cũng đi lên phát triển một nền kinh tế thị trường nhưng mang bản
săc riêng của Việt Nam-nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó là nền kinh tế vận động
theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng bởi lý tưởng của chủ nghĩa
xã hội. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và tất nhiên định nghĩa này đòi
hỏi phải loại trừ thành kiến"Thị trường là chủ nghĩa tư bản","kế hoạch
là chủ nghĩa xã hội" và các quan điểm cùng loại. Để hiểu rõ về nền
kinh tế thị trường của Việt Nam ta cần làm rõ một số vấn đề sau:
*Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước một thực
trạng là đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ
một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục
năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân,
phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp
- Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng
tính chất tự cấp tự túc:
+ Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp
kém
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa
đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng
để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế.
+ Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, còn mang nặng
đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh
cây lúa vẫn còn tồn tại, ngành nghề chưa phát triển. Từ Đại hội lần
thứ VI của Đảng cho đến nay tuy cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần
kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa thành được một cơ cấu
mới hợp lí
+ Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó Nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần của nước ta đã được hình thành và đang phát triển vì
vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Tuy
nhiên thị trường ở nước ta còn ở trình độ thấp, tính chất của nó còn
hoang sơ, dung lượng còn thiếu và có phần rối loạn, chúng ta mới từng
bước có thị trường hàng hoá nói chung. Về cơ bản nước ta còn chưa
có thị trường sức lao động. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và
thị trường tiền vốn, hoặc mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc
doanh với quan hệ vay, trả, mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà
nước vẫn sử dụng lãi suất, tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà
nước quy định. Chưa có lãi suất, tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế
thị trường. Thực trạng trên đây của nước ta là hậu quả của nhiều
nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan đó là do trình độ phát
triển của phân công lao động xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mang
nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng
đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị
trường có tổ chức và thị trường tư do. Một thời gian khá dài đã tồn tại
quan niệm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ
các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt, nó không được
mua bán tự do vì chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu chúng rơi
vào tay tư nhân nó sẽ trở thành những phương tiện nô dịch lao động
của người khác. Sức lao động tiền vốn cũng được quan niệm không
phải là hàng hoá...Mặt khác do quản lí theo chiều dọc theo chức năng
kinh doanh của từng ngành một cách máy móc cho nên đã dẫn tới hiện
tượng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành.
+ Năng suất lao động và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn
thấp
Do trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ
tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn
mất cân đối, thị trường trong nước còn chưa phát triển...cho nên năng
suất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước
ta tất yếu vẫn còn rất thấp.
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà
trong nhiều thập kỉ qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy
với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực tiễn hoạt động kinh tế đã
chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm cũng như những tác
động tiêu cực của nó đến nền kinh tế nước ta, nó gần như đối lập với
nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.
*Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế
Việt Nam sang kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn nếu thiếu " đòn xeo" là kinh tế hàng hoá. Chính Mac đã
coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện
quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển
của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lenin cũng
chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất đó là
sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự
sống động cuả nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị
và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ
hàng hoá tiền tệ trên thị trường.
- Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự khác
biệt với các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ), những nước này đã có
nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính
tự nhiên tự cấp tự túc như nước ta, vì vậy quá trình hình thành nền
kinh tế thị trường nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế còn
mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Mặt khác, nền kinh tế nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế
chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế này đã được phân
tích ở phần trên, nó gần như đối lập với thị trường cũng như cơ chế thị
trường. Thị trường được coi là trung tâm của quá trình sản xuất và tái
sản xuất xã hội, vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền
kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước.
- Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta đồng thời cũng là quá trình
thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị
trường thế giới. Sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá đã
phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định: kinh tế hàng hoá đã làm
cho thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới.
Chính giao lưu hàng hoá đã làm cho các quan hệ kinh tế được mở rộng
khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh
chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà
bất kì quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện nước ta, bài
học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc
đấu tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động
trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan
trọng, đã chuyển từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả
các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên
cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong
những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên,
hoạt động kinh tế quốc tế nước ta đã có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu
hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên dước 20% hàng năm (1986-
1992), bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu, cải
thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều
chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về nguồn vốn và thị trường
từ các nước SNG và Đông Âu. Hàng hoá của nước ta tìm được những
thị trường mới như Đông Nam á, Tây Âu. Nguồn vốn đầu tư vào Việt
Nam cũng tăng nhanh.
*Các giai đoạn và các biện pháp hình thành cơ chế quản lí mới
Qúa trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản
lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một
quá trình phức tạp, có nhiều khó khăn, không nên quan niệm đơn giản
và nóng vội, cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình
thành và phát triển kinh tế thị trường, quá trình đó trải qua những giai
đoạn sau đây:
- Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử
quan trọng là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ
VI (khoá IV) tháng 9 năm 1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu
từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo
đúng nghĩa nhằm tạo ra những mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc
lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn
này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan
hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Nội dung trên được thực hiện với
những giải pháp chủ yếu sau đây:
+ Một là hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá
nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá
tiền tệ.
+ Hai là đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị
trường.
+ Ba là chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu
có tính đa dạng vớinhiều hình thức sở hữu khác nhau để khắc phục
hiện tượng vô chủ, lãi giả, lỗ thật trong các doanh nghiệp Nhà nước,
để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi
thích ứng với cơ chế thị trường. Trong điều kiện của nước ta, chúng ta
đã điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo những bước sau đây: Phát huy hình
thức kinh tế hộ nông dân, thợ thủ công, xây dựng khu vực kinh tế
công cộng với chức năng là bảo đảm sự ổn định và là cơ sở cho sự
phát triển các thành phần kinh tế, hình thành và phát triển các công ty
cổ phần.
+ Bốn là, đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh
tế theo chiều dọc sang chiều ngang, từng bước đã thực hiện tự do hoá
giá cả. Thực chất là thay thế cơ chế hai giá bằng cơ chế một giá,
nhằm từ bỏ cơ chế cũ, chuyển sang cơ chế thị trường, đây là khâu
quan trọng tạo tiền đề cho việc đổi mới cơ chế trong các lĩnh vực
khác như tài chính, tiền tệ, tiền lương, quản lí thị trường. Việc tự do
hoá giá cả đã làm cho sản xuất thích ứng nhạy cảm với nhu cầu của
thị trường và đem lại sức sống mới cho sản xuất.
- Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản
lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội VI của
Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, quan niệm này được tái khẳng định rõ
hơn ở Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng ta. Nội dung chủ
yếu của giai đoạn này là phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền
tệ tạo tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển. Để thực hiện nội dung
đó, chúng ta đã và đang thực hiện những giải pháp chủ yếu sau:
+ Một là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nhưng phải đảm bảo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần tăng trưởng và phát triển, bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế
quốc dân cũng như về các mặt chính trị- xã hội, bảo đảm sự công
bằng xã hội và sự vững bền của môi trường, bảo đảm sự phát triển,
tăng trưởng đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành
mũi nhọn nhằm tạo ra sự tích luỹ nội bộ từ trong nền kinh tế.
+ Hai là chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các
yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị
trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
+ Ba là, hoàn chỉnh và tăng cường vận dụng các chính sách tài
chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và tạo ra và thực hiện việc đầu
tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối, phân phối lại thu nhập
quốc dân tạo ra sự ổn định về giá cả, về tiền tệ và tỷ giá hối đoái, qua
đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù
hợp với cơ chế thị trường
+ Bốn là đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh theo yêu cầu của kinh tế
thị trường. Chúng ta đã kết hợp giữa việc mở rộng quy mô đào tạo để
nâng cao dân trí với việc coi trọng chất lượng nhằm đào tạo nhân
tài.Việc đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh không chỉ chú ý đáp ứng
nhu cầu của khu vực kinh tế Nhà nước mà còn phải quan tâm tới khu
vực ngoài quốc doanh cũng như khu vực kinh tế nông thôn và miền
núi.
+ Năm là, tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước để phát huy
những ưu thế và khắc phục những của khuyết tật của cơ chế thị
trường.
- Giai đoạn hình thành và phát triển cơ chế thị trường có sự quản lí
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu
của giai đoạn 3 là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế, tạo lập cơ sở kinh tế
cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường, phát huy tác dụng một
cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế
giới. Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp then chốt sau:
+ Một là phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế
quốc dân, đây là giải pháp có tính thời đại.
+ Hai là hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản
xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn, sức lao động và các điều kiện
vật chất khác cho sản xuất.
+ Ba là thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, cần
tiếp tục thực hiện tự do hoá giá cả và thương mại hoá giá cả trong nền
kinh tế, tăng cường năng lực quản lí của Nhà nước đối với cơ chế thị
trường, đây là giải pháp có ý nghĩa gần như quyết định đối với sự hình
thành và phát triển của kinh tế thị trường nước ta.
+ Bốn là lựa chọn chính sách khoa học, công nghệ vì mục tiêu phát
triển. Hướng công nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là cộng nghệ
điện tử, tin học, công nghệ sinh học, gia công nguyên liệu...hướng
công nghệ này sẽ khắc phục được sự khan hiếm các nguồn lực và đưa
nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động trí tuệ trở
thành đặc trưng nổi bật
III- Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ở
Việt Nam
1- Nội dung( đặc trưng) của cơ chế quản lí mới
Ngoài những dặc trưng chung của một nền kinh tế thị trường là
- Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự
bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất
kinh doanh của mình, được tự do liên doanh, liên kết, tự do tổ chức
quá trình sản xuất theo luật định, đây là đặc trưng rất quan trọng của
kinh tế thị trường, nó xuất phát từ những điều kiện khách quan của
việc tồn tại kinh tế hàng hoá đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu
nội tại của kinh tế hàng hoá.
- Trên thị trường hàng hoá rất phong phú, người ta tự do mua bán
hàng hoá. Trong đó, người mua chọn người bán, người bán tìm người
mua, họ gặp nhau ở giá cả thị trường, đặc trưng này phản ánh tính ưu
việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
- Giá cả được hình thành ngay trên thị trường, giá cả thị trường vừa
là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động
của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ.
- Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường, nó tồn tại trên cơ
sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích
kinh tế.
- Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, một mặt nó phát
huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế, mặt khác tạo điều kiện tiếp
thu những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật-công nghệ thế giới. Nó
rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ
thống luật pháp của Nhà nước. Ngoài ra thị trong cơ chế quản lí kinh
tế mới của nước ta còn có những đặc trưng riêng sau:
- Hai mặt kinh tế và thị trường nước ta được chủ động kết hợp với
nhau ngay từ đầu trên cả tầm quản lí kinh tế vĩ mô và vi mô thông qua
pháp luật. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm
mục tiêu xác định hiệu quả của sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô,
Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu quản lí nhằm
thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề dân chủ và
công bằng xã hội ở đây được hiểu theo nghiã những đơn vị và cá nhân
trong xã hội được làm những gì mà pháp luật không cấm, được tự do
sản xuất và kinh doanh, được hưởng những thành quả lao động của
mình và được thừa kế tài sản theo luật định.
- Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái
của đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và
qua việc chấp hành một cách đúng đắn luật pháp, chính sách môi
trường của Nhà nước qua từng thời kì.
- Nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển cao.
Nếu như nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm và thu nhập
quốc dân thấp kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn
thấp, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định
hướng xã hội chủ nghĩa được, đành rằng chỉ có nội dung này thì chưa
đủ bởi vì nhiều nước đã có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại
không phải là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lí nền kinh tế thị trường dựa trên
mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong thời
kì đầu chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nứơc ta thực hiện vai trò
"bà đỡ " tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển
đúng hướng, vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ
quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho
nhân dân.
- Nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế
mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
vĩ mô của Nhà nước, do đó về cơ bản nền kinh tế còn thiếu đồng bộ,
mang nhiều yếu tố tự phát rối loạn, vẫn mang tính chất sản xuất nhỏ,
kỹ thuật thủ công, năng suất lao động thấp, mức sống, mức thu nhập
của dân cư còn thấp. Đội ngũ những nhà sản xuất kinh doanh còn rất
non trẻ, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ bảo thủ
trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Dấu ấn của cơ chế kinh tế bao
cấp còn ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế. Do vậy chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta là lấy tự do hoá thương mại và tự do hoá giá
cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích
thực.
- Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần( kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
Nhà nước và mới đây nhất tại Đại hội IX của Đảng ta đã xác định
thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài)
Để có thể định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế Nhà nước phải phát
huy được vai trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của
nền kinh tế. Ngoài ra Nhà nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp
trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo nhiều công ăn việc làm
cho dân cư và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành
phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau.
- Cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc trong nền kinh tế
định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền
lệ trong lịch sử và hoàn toàn chưa có một mô hình vạch sẵn. Do vậy,
không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị
trường cũng như không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc
của bước chuyển mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường. Việc
chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử và các điều kiện chính trị kinh tế xã hội nước ta, không áp
dụng các liệu pháp sốc vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng
của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Mặt khác chúng ta không phủ
định sạch trơn những kết quả đạt được của mô hình kinh tế cũ.
- Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn
định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải
cách kinh tế. Mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong
lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lí của Nhà nước, nâng
cao chất lượng, hiệu quả của quản lí của nó cho phù hợp với điều kiện
kinh tế. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ
nghĩa là không thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về chủ
nghĩa xã hội, khẳng định chủ nghĩa xã hội có thể sử dụng những công
cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các
quan hệ hàng hoá- tiền tệ, quy luật giá trị cho mục tiêu của mình.
Đảng ta cũng khẳng định nền kinh tế hoạt động theo đường hướng đổi
mới, tiến tới một Nhà nước pháp quyền là một nhân tố quan trọng bảo
đảm thành công của cải cách, khẳng định vai trò Nhà nước trong việc
đảm bảo các chính sách xã hội, xử lí hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế
và cân bằng, ổn định, giữa phát triển kinh tế và thực hiện các chính
sách xã hội và công bằng xã hội. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc
biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của thị trường
nước ta.
2.Vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ chế quản lí mới
- ở nước ta xuất phát từ tính đa dạng của sở hữu và của nền kinh tế
tồn tại nhiều thành phần hơn nữa xu hướng vận động và phát triển của
nó không tự phát đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa mà lại đi theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế không phân biệt đối
xử nhưng không phải vì thế mà vai trò của chúng giống nhau. Để đưa
nền kinh tế vận động theo đúng cơ chế quản lí mới thì kinh tế Nhà
nước phải giữ vai trò chủ đạo, ngoài yêu cầu của việc đảm bảo nền
kinh tế đi đúng hướng đã định mà còn do thành phần kinh tế này gắn
với hình thức sở hữu cao nhất và chín muồi nhất trong các hình thức
sở hữu. Hơn nữa nó còn dựa trên một trình độ lực lượng sản xuất phát
triển cao, trình độ quản lí và trình độ phân phối sản phẩm gần với mục
tiêu chủ nghĩa xã hội của thời kì quá độ. Điều này được thể hiện thông
qua việc các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ những nghành, lĩnh vực
chủ yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân
sách, bảo hiểm, những cơ sở thương mại, dịch vụ... quan trọng.
- Kinh tế Nhà nước đã và đang trở thành đòn bẩy, đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, mở đường, hướng dẫn các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết và quản lĩ vĩ mô nền kinh tế. -Nhà nước đóng
vai trò"bà đỡ" cho sự ra đời của cơ chế thị trường, hướng dẫn các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh có hiệu quả,
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong phân phối sử dụng sản
phẩm.
- Nhà nước phát triển thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động
ngoại thương.
- Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, tránh thăng
trầm và đột biến xấu.
- Nhà nước đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội. Mỗi doanh nghiệp
trong khi theo đuổi lợi ích tối đa của minh có thể làm tổn hại đến lợi
ích của xã hội, vì vậy Nhà nước phải giải quyết những vấn đề đó.
- Nhà nước đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội. Sự tác động
của cơ chế thị trường đưa đến những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội,
chẳng hạn như nghèo đói, thất nghiệp...thông qua chính sách phân
phối thu nhập quốc dân Nhà nước giải quyết những vấn đề đó.
- Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình để tiếp tục
quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế (như tạo ra các
đạo luật chống độc quyền, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, tạo ra các điều kiện, các tiền đề kinh tế pháp lí cho
sự hoạt động của các thị trường cần thiết như thị trường vốn, lao động,
chứng khoán...)
- Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì quyền sở
hữu các nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ chủ sở hữu đích
thực của công dân, của doanh nghiệp tư nhân, tập thể, Nhà nước (giao
quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, cho thuê hoặc đấu thầu
các tài sản sản xuất, cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ
sản xuất kinh doanh)
2.1) Mục tiêu và các chức năng quản lí vĩ mô của Nhà nước
a)Mục tiêu
- Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị
trường quan trọng nhưng hiện chưa có hay còn sơ khai như: thị trường
lao động, chứng khoán, bất động sản, khoa học công nghệ. Phát triển
thị trường hàng hoá và dịch vụ, phát huy vai trò nòng cốt, định hướng
và điều tiết của kinh tế Nhà nước trên thị trường. Mở rộng thêm thị
trường ở nước ngoài. Xoá bỏ độc quyền kinh doanh của các doanh
nghiệp. Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám
sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử dụng
lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và có hiệu quả.
Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học công nghệ và thực hiện tốt
bảo hộ sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin,
chuyển giao công nghệ. Phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là thị
trường vốn dài hạn và trung hạn. Tổ chức và vận chuyển thị trường
chứng khoán an toàn, hiệu quả. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ,
tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Chủ động tổ chức,
phát triển thị trường bất dộng sản.
- Trong 5 năm tới hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những yếu
kém hiện nay, gỡ bỏ những vướng mắc cản trở sự phát triển. Đổi mới
sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết
vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực,
lãng phí, tham nhũng, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý
thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để
phát triển.
- Phát triển mạnh kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng tăng tỉ trọng trong công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm
lượng công nghệ trong sản phẩm. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại, củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới,
tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công
nghệ, chủ động hội nhập có hiệu quả, thực hiện cam kết song phương
và đa phương.
- Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với
nền kinh tế. Cụ thể là đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, kết hợp
thị trường với kế hoạch, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, tăng
cường công tác thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế, công
tác thống kê, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kĩ thuật trong
công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh
nghiệp. Bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà
nước, phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính
quyền địa phương trong việc thu chi ngân sách địa phương. Xây dựng
hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nứơc thành những doanh nghiệp
kinh doanh tiền tệ có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, xoá bỏ
sự can thiệp hành chính của cơ quan Nhà nước với hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại, từng bước thực hiện tự do lãi suất,
hình thành thị trường tiền tệ theo quan hệ cung cầu, nâng cao năng lực
giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Thực hiện tỉ giá linh hoạt theo
cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hoá tỉ giá hối đoái trong
sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
- Đảm bảo tăng trưởng ổn định, gắn liền với việc sử dụng hiệu quả các
nguồn lực kinh tế, tránh không gây ô nhiễm môi trường, ngăn chặn
các cuộc khủng hoảng, suy thoái, duy trì lạm phát ở mức một con số,
chỉ số giá dưới 10%, tạo công ăn việc làm, giảm hiện tượng phân hoá
giàu nghèo. Cải thiện cán cân xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất
khẩu những mặt hàng đã qua chế biến, giảm nhập khẩu những mặt
hàng có thể sản xuất trong nước. Trong Đại hội Đảng lần thứ IX vừa
qua đã đưa ra mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành
nông nghiệp, công nghiêp, dịch vụ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế, từng bước đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo
nàn và chậm phát triển, từng bước xây dựng nền tảng để trở thành một
nước công nghiệp.
- Kế hoạch 5 năm tới 2001-2005 là bước quan trọng thực hiện chiến
lược trên với một số chỉ tiêu cơ bản: GDP 7%/năm, sản lượng lương
thực dự kiến năm 2005 là 37-38 triệu tấn, tốc độ xuất khẩu hàng hoá
đạt trung bình 15%/năm, nhập khẩu 13-14%/năm, tạo việc làm cho
1,4-1,5 triệu người/năm. Cụ thể năm 2001 phấn đấu đạt GDP là 7,5%,
xuất khẩu tăng 15-16%.
b) Các chức năng Vai trò kinh tế của Nhà nước được thực hiện qua
các chức năng chủ yếu sau
- Định hướng và chỉ đạo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân qua các dự báo, các chiến lược kinh tế xã hội, các kế hoạch trung
hạn, ngắn hạn và các chính sách nhằm định hướng cho việc bố trí cơ
cấu kinh tế, phân bổ các nguồn lực...nhằm hướng các hoạt động của
các chủ thể trên thị trường vào thực hiện các mục tiêu của Nhà nước.
- Tạo môi trường kinh tế xã hội và khuôn khổ pháp lí cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật
và các cơ quan thi hành pháp luật đủ mạnh để bảo vệ lợi ích chính
đáng cho các doanh nghiệp và các chủ thể khác, phải phát triển hệ
thống giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực
có chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu dầu về nhân lực của quá
trình tăng trưởng, phát triển hệ thông y tế nhằm bảo vệ sức khoẻ và
nâng cao thể lực cho người lao động...
- Phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường: năng động, duy trì động
lực mạnh mẽ để cải tiến kĩ thuật, phát triển lực lượng sản xuất... bằng
cách duy trì và phát triển các quan hệ thị trường, khuyến khích cạnh
tranh lành mạnh... đồng thời ngăn ngừa mặt tiêu cực, khắc phục các
khuyết tật thị trường (cạnh tranh không lành mạnh, khủng hoảng, thất
nghiệp...)
- Điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội. Thông qua các chính sách tài khoá Nhà nước hoàn toàn có khả
năng điều tiết được lợi ích giữa các thành phần kinh tế, hạn chế bất
bình đẳng xã hội, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng...
- Quản lí kinh tế trực tiếp, chức năng này liên quan tới vai trò đặc biệt
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, với tư cách là một trung tâm kinh tế
của đất nước, Nhà nước phải hoạch định kế hoạch bảo đảm sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân như một tổng thể nhằm phục vụ lợi ích,
nâng cao phúc lợi và sự phát triển toàn diện của các thành viên xã hội,
thể hiện ưu thế quan diểm kinh tế quốc dân trong sự phát triển mọi
đơn vị sản xuất của nền sản xuất xã hội. Quản lí kinh tế trực tiếp là
Nhà nước phải quan tâm giải quyết các mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình chiếm hữu và tái tạo tự nhiên phụ vụ cho nhu
câu xã hội trong một tổng thể thống nhất vì lợi ích xã hội. Nhà nước
còn quản lí các hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau và điều tiết các hoạt động ấy. Điều cần chú ý là Nhà
nước quản lí các đơn vị đó trên quan điểm là định hướng chứ không
phải là Nhà nước can thiệp sâu vào những tác nghiệp cụ thể, kìm hãm
sự sáng tạo, sự chủ động của các đơn vị đó.
- Nhà nước xác dịnh những quy tắc ứng xử kinh tế của mỗi chủ thể
quản lí. Chức năng này được thực hiện thông qua việc thường xuyên
củng cố và hoàn thiện cơ sở pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghiã.
Pháp luật có vai trò to lớn trong việc tổ chức các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, điều chỉnh các quá trình phát triển của nó phù hợp các mục
tỉêu đã đề ra, thiết lập và duy trì trật tự xã hội mới
- Nhà nước còn chỉ đạo các hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhà nước
trực tiếp và thông qua các cơ quan quản lí của mình diều tiết các quan
hệ kinh tế đối ngoại, cũng như phân quyền cho các Bộ và các doanh
nghiệp, hỗ trợ trực tiếp quan hệ với thị trường nước ngoài.

2.2) Các công cụ Nhà nước sử dụng


Nhà nước có chức năng quản lí vĩ mô nền kinh tế và để thực hiện
được điều đó Nhà nước cần sử dụng một loạt những công cụ quản lí vĩ
mô trong đó tiêu biểu là công cụ kế hoạch hoá, công cụ tài chính,
chính sách tiền tệ-tín dụng, pháp luật quản lí về kinh tế và kinh tế quốc
doanh-đặc khu kinh tế.

*Nhà nước với công cụ kế hoạch hoá

Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ:" Nhà nước quản lí nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo dịnh hướng xã hội chủ nghĩa, vận
động theo cơ chế thị trường bằng pháp luật, bằng kế hoạch và các
công cụ, chính sách kinh tế trong đó kế hoạch hoá vẫn là khâu trung
tâm, là công cụ chủ yếu, Dĩ nhiên kế hoạch hoá trong diều kiện của
nền kinh tế hàng hoá phải khác với kế hoạch hoá trong nền kinh tế
hiện vật"
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì việc quản lí kinh
tế của Nhà nước rõ ràng không thể dựa vào kế hoạch hoá trực tiếp như
trong nền kinh tế hiện vật mà phải chuyển sang kế hoạch hoá gián tiếp
là chủ yếu, mang tính tổng hợp và định hướng, nghĩa là phải đảm bảo
quyền chủ thể kế hoạch cho các chủ thể sản xuất kinh doanh, phải xoá
bỏ mọi hình thức áp đặt trong việc giao nhiệm vụ kế hoạch sản xuất,
phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mở rộng liên doanh, liên
kết, kí kết các hợp đồng và dơn đặt hàng giữa các chủ thể sản xuất
kinh doanh trong xây dựng và thức hiện kế hoạch.
- Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hoá, mối
quan hệ giữa kế hoạch và thị trường là mối quan hệ giữa chủ quan và
cái khách quan, vì vậy để có thể điều khiển được thị trường, công tác
kế hoạch hoá cần chú ý các vấn đề: Phải nhận thức, tiếp cận và tạo
môi trường cho thị trường vận động phù hợp quy luật chứ không thể
áp đặt quyền lực hành chính lên thị trường, phải xuất phát từ yêu cầu
của thị trường, nghiên cứu thị trường để lựa chọn những mục tiêu và
giải pháp kế hoạch hợp lí.
- Trong điều kiện nước ta, khi nền kinh tế hàng hoá và thị trường
đang hình thành, còn chưa phát triển, thì kế hoạch hoá có nhiệm vụ
góp phần hình thành, phát triển kinh tế hàng hoá và thị trường thống
nhất trong cả nước. Kế hoạch hoá định hướng trước hết là xác định
phướng hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kì
tương đối dài thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội, mỗi định
hướng được cụ thể hoá thành những chương trình mục tiêu cụ thể, có
sự bảo đảm cho Nhà nứơc, cho các tổ chức kinh tế tham gia vào các
chương trình, không phân biệt các tổ chức đó thuộc thành phần kinh tế
nào. Kế hoạch hoá cũng nhằm xác định mục tiêu, các cân đối lớn, tính
toán sức mua trên thị trường, các biện pháp bảo đảm cân đối cung-cầu
để định hướng cho sự vận động của thị trường, bảo đảm cho nền kinh
tế ổn định, tăng trưởng và phát trỉển. Kế hoạch hoá phải nắm vững và
sử dụng linh hoạt các công cụ kinh tế: thuế, tài chính, tính dụng...để
điều chỉnh thị trường theo những mục tiêu đã định.
- Phương hướng đổi mới công tác kế hoạch hóa theo cơ chế thị
trường ở nước ta: Sử dụng công tác kế hoạch hoá định hướng và gián
tiếp là chủ yếu, thực hiện chế độ kế hoạch hoá 2 cấp là Nhà nước và
đơn vị kinh tế cơ sở, gắn kế hoạch hóa kinh tế và kế hoạch hoá xã hội,
vận dụng các quy luật kinh tế, quan hệ thị trường và cơ chế thị trường
nhằm nâng cao tính hiệu quả của kế hoạch.
*Nhà nước với công cụ tài chính
Tài chính là một phạm trù kinh tế gắn liền với các hoạt động kinh tế
dưới hình thức vận động của giá trị. Trong cơ chế thị trường, tài chính
không bị ràng buộc bởi các hàng rào kế hoạch hoá pháp lệnh, sự vận
động của các quỹ tiền tệ trở nên đa dạng, nó trở thành nguồn lực tài
chính với đầy đủ ý nghĩa của nó. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng
các chủ thể kinh tế xã hội hay các tế bào của thị trường tài chính
không chỉ là các thực thể tài chính của khu vực Nhà nước, nó còn mở
rộng và phát triển ở cả khu vực tư nhân.
- Đối với nước ta hiện nay sự quản lý của Nhà nước bằng công cụ
tài chính nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là phải dùng công cụ tài chính dưới nhiều mức độ thích
hợp để quản lí nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, không thể
áp dụng máy móc hệ thống tài chính của các nước tư bản vào nước ta,
đồng thời phải xoá bỏ các khuyết tật cố hữu của hệ thống tài chính
trong cơ chế quản lí mệnh lệnh, tập trung quan liêu bao cấp cũ. Vấn đề
đặt ra là phải đổi mới công cụ tài chính bằng cách: đặt tài chính trong
sự vận động và phát triền của kinh tế hàng hoá, phần thu chủ yếu của
ngân sách phải là thu thúê, trong đó phần chia cho bộ máy quản lí Nhà
nước rất nhỏ, còn phần chi cho phúc lợi xã hội, các sự nghiệp y tế,
giáo dục... chiếm tỉ trọng lớn và ngày càng lớn. Ngoài ra Nhà nước
cũng tập trung phần quan trọng của ngân sách cho các dịch vụ thiết
yếu cho nhân dân, các dịch vụ kinh tế, cũng như cho các nhiệm vụ
kinh tế lớn khác. Phải khẳng định thuế là một công cụ tài chính quan
trọng không chỉ tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn có
tác dụng điều chỉnh nền kinh tế ở tầm vĩ mô, thu thuế là quyền của
Nhà nước và nộp thuế là nghĩa vụ của công dân, gắn tài chính với
hạch toán kinh doanh.
*Nhà nước với chính sách tiền tệ- tín dụng.
Chính sách tiền tệ tín dụng có vai trò to lớn, đó là các hoạt động
bơm và hút tiền bằng cách tăng, giảm dự trữ của các Ngân hàng
thương mại nhằm giải quyết quan hệ cung cầu về tiền tệ tín dụng của
nền kinh tế, sử dụng lãi suất chiết khấu để điều tiết quan hệ tín dụng
trong cho vay bổ sung đối với các ngân hàng thương mại, làm thay đổi
tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại và các thể chế tài
chính khác. Chính sách này nói chung nhằm giảm tốc độ lạm phát, ổn
định sức mua đồng tiền, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân thực tế,
cân bằng ngân sách, tăng việc làm và tăng thu nhập, cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế. Tuy nhiên chính sách này áp dụng ở nước ta còn
nhiều sai sót như trong chủ trương cơ chế, điều hành, quản lí vĩ mô
của Nhà nứơc, của ngân hàng trung ương đối với hoạt động kinh
doanh- tín dụng- ngân hàng, chính sách lãi suất còn nhiều bất hợp lí,
chưa được xử lí một cách nhạy bén, tỷ trọng cho vay vốn đối với kinh
tế quốc doanh và công ty hợp doanh quá lớn và có xu hướng tăng lên,
tình trạng công nợ dây dưa và chiếm dụng vốn lẫn nhau quá lớn. Do
vậy, phương hướng giải quyết là chính sách tiền tệ- tín dụng phải tác
động trong sự thống nhất với chính sách tài chính-tiền tệtín dụng quốc
gia, phát huy mạnh mẽ vai trò đòn bẩy và công cụ điều tiết vĩ mô, thúc
đẩy nâng cao tính tự chủ tài chính của doanh nghiệp, phát triển mạnh
mẽ thị trường tiền tệ- tín dụng ở nông thôn nhằm thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp, cùng các cơ quan hữu quan nhanh chóng giải quyết các
công nợ dây dưa, mở rộng các hoạt động tín dụng với nhiều hình thức
phong phú.
*Nhà nước với công cụ pháp luật quản lí về kinh tế.
Các chiến lược phát triển kinh tế kế hoạch hoá định hướng và các
chính sách kinh tế chỉ có thể đi vào cuộc sống khi nó được thể chế hóa
pháp luật. Trong nền kinh tế có sự quản lí của Nhà nước, pháp luật thể
hiện vai trò trên hai phương diện: Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành
vi của doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ
làm tổn hại tới lợi ích của toàn xá hội, tạo ra môi trường tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường
nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh nhu cầu phải
hạn chế các yếu tố bóc lột, phân hoá xã hội, đảm bảo sự phát triển cân
đối hài hoà, phân phối theo nguyên tắc lao động, kết hợp với các chính
sách xã hội khác. Đặc điểm mới ấy của nền kinh tế thị trường nước ta
đòi hỏi chất lượng điều chỉnh bằng pháp luật cao hơn so với việc điều
chỉnh bằng pháp luật trong các chế độ kinh tế khác. Tuy nhiên trên
thực tế hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành nước ta còn thiếu tính hệ
thống, thiếu đồng bộ, tính phối hợp nhiều văn bản cùng điều chỉnh
một loại quan hệ kinh tế còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, nguyên tắc
hàng đầu là mọi người, mọi doanh nghiệp phải được bình đẳng trong
sản xuất và kinh doanh vẫn chưa được thể hiện một cách đầy đủ,
xuyên suốt, việc tuân thủ, chấp hành và áp dụng luật pháp kinh tế còn
chưa tương xứng. Do vậy chúng ta cần nhanh chóng hoàn thiện pháp
luật về hợp đồng kinh tế, hoàn thành việc ban hành các quy chế pháp
lý của các chủ thể quan hệ kinh tế, đổi mới và hoàn thiện chế định
pháp lý về quyền sở hữu của Nhà nước đối với tài sản giao cho các
doanh nghiệp Nhà nước, cải cách hệ thống tổ chức bảo đảm thi hành
pháp luật quản lí kinh tế, đẩy mạnh đấu tranh chống các tệ nạn và
khuyết tật xã hội, chống tệ quan liêu, tham nhũng, các tội ác kinh tế...
*Nhà nước với kinh tế quốc doanh và đặc khu kinh tế.
- Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay,
kinh tế quốc doanh từng bước đóng vai trò chủ đạo, nó là nhân tố cơ
bản mang đầy đủ bản chất của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
của sự phát triển cân đối, có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, là
thực lực kinh tế quan trọng. là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước
để điều chỉnh nền kinh tế nhiều thành phần. Do vậy, các đơn vị kinh tế
quốc doanh phải là trung tâm tiêu biểu của tiến bộ khoa học kĩ thuật và
công nghệ, là tấm gương về quản lí, không chỉ phục vụ cho các đơn vị
mình mà phải góp phần phổ biến kiến thức, đào tạo cán bộ cho tất cả
các thành phần khác, phải nắm giữ những ngành, vị trí then chốt nhất
Tuy nhiên thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều cơ sở
còn khó khăn như chưa thấy được vị trí của mình trong nền kinh tế,
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm kém, công nghệ lạc hậu...Vì vậy cần chấn
chỉnh, đổi mới và nâng cao hiệu quả các khu vực doanh nghiệp Nhà
nước, làm tốt vai trò chủ đạo, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần khác
cùng phát triển, chú trọng phát triển quốc doanh cả trong lĩnh vực kết
cấu hạ tầng, sản xuất và lưu thông phân phối, phân loại doanh nghiệp
Nhà nước để có chính sách và cơ chế quản lí phù hợp.
- Đặc khu kinh tế (khu chế xuất): Nhà nước ta đã ban hành quy chế
khu chế xuất tại Việt Nam do chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ký gồm 10
chương, 67 điều đã tạo điều kiện cho các thành phố lớn bước đầu thực
hiện thành lập các khu chế xuất này với mục tiêu chủ yếu là thu hút
vốn, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm, tác phong quản lí theo
hướng thị trường, tạo nguồn thu nhập ngoại tệ, thêm việc làm, đào tạo
cán bộ và công nhân lành nghề tại chỗ, khai thác tiềm năng thiên
nhiên, mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút đầu tư...tuy nhiên cũng cần
chú ý xây dựng quy chế khu chế xuất hoàn thiện, chuẩn xác, phát hiện
kịp thời những âm mưu của các thế lực thù địch chính trị núp dưới
chiêu bài kinh tế để phá hoại...
2.3)Thực trạng quản lí Nhà nước ta hiện nay
Cùng với việc xây dựng và từng bước thực hiện cơ chế quản lí mới,
nền kinh tế nước ta đã có những sự thay dổi cơ bản sau:
- Nền kinh tế từ chỗ chỉ với 2 hình thức sở hữu toàn dân và tập thể
đã dần dần chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, và các thành
phần này có quyền bình đẳng trước pháp luật.
- Nền kinh tế từ chỗ mang nặng tính tự nhiên hiện vật, tự cung tự
cấp đã từng bước chuyển sang kinh tế hàng hoá.

- Nền kinh tế thị trường nước ta vẫn chỉ là đang trong quá trình hình
thành vừa thiếu vừa rối loạn, những nhân tố làm mất ổn định còn tiềm
ẩn trong khi các nhân tố tạo trật tự mới như hệ thống ngân hàng, tài
chính, bộ máy quản lí Nhà nước còn yếu kém và tiêu cực. Trên một số
mặt, Nhà nước vẫn làm thay chức năng thị trường như quy định giá, tỷ
giá, lãi suất, tuyển lao động theo biên chế, quy định mức thu nhập mà
thực chất là cản trở việc hình thành thị trường
IV.Các giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò kinh tế của

Nhà nước

Mac và Anghen đã khẳng định:"Vai trò bà đỡ" của Nhà nước chỉ có
thể thực hiện khi hệ thống chuyên chính vô sản, trong đó bộ phận quan
trọng là Nhà nước, phải tự đổi mới để có đủ năng lực và phẩm chất,
khi Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, do vậy cần phải xây
dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Trong qua trình chuyển đổi cơ chế kinh tế theo hướng đưa nền
kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô của Nhà
nước, đòi hỏi Nhà nước phải có sự nhất quán trong việc thừa nhận và
sử dụng các phạm trù của kinh tế thị trường như cạnh tranh, thất
nghiệp, khủng hoảng, phá sản, lạm phát, hàng hoá sức lao động...Từ
đó sớm khắc phục những định kiến không đúng trước đây trong cơ chế
kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, một cơ chế xa lạ với cơ chế
kinh tế trong nền kinh tế thị trường, phát triển đất nước theo hướng"
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".

- Nhà nước cần hoàn thiện các công cụ quản lí kinh tế của mình, xây
dựng những chương trình kế hoạch trung và dài hạn phù hợp với điều
kiện đất nước và bối cảnh quốc tế, mang tính định hướng với hình
thức dự báo dài hạn hoặc có sự ưu tiên cho các mục tiêu cụ thể. Phải
đồng bộ hoá hệ thống pháp luật hiện nay của nước ta, đảm bảo thực thi
pháp luật một cách nghiêm chỉnh, trong đó đặc biệt luật kinh tế của
nước ta còn rất non kém. Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới
kinh tế, hoàn thiện cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân
làm chủ

- Làm trong sạch bộ máy Nhà nước, chống quan liêu, tham
nhũng...xây dựng đội ngũ công chức có đủ phẩm chất và năng lực.
Chỉnh đốn hoạt động của các tổ chức thương nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, đổi mới hệ thống thương nghiệp Nhà nước, vừa khuyến
khích mọi thành phần tham gia lưu thông hàng hoá, vừa tăng cường,
từng bước phát huy vai trò nòng cốt của thương nghiệp quốc doanh và
tập thể. Đổi mới cơ chế quản lí, trước hết cần xác định các quyền đại
diện sở hữu hợp pháp và địa vị pháp lí của DNNN, làm rõ quan hệ
giữa doanh nghiệp với Nhà nước, giữa doanh nghiệp với các đối tác
kinh doanh, Nhà nước thực hiện trao quyền tự chủ rộng rãi cho các
DNNN, thực hiện tổ chức lại DNNN theo 2 tiêu thức cơ bản là tính
chiến lược và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

- Tạo môi trường hợp tác cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất và
kinh doanh, Nhà nước phải can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần
thiết, thực hiện độc quyền Nhà nước trong một số ngành, lĩnh vực nhất
định gắn với lợi ích của đất nước, hạn chế độc quyền kinh doanh,
không để lợi dụng địa vị độc quyền để đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn
thị trường.
- Thị trường nước ta phát triển chưa đồng bộ vì vậy cần tạo ra các
tiền đề cần thiết về kinh tế xã hội cho thị trường ra đời và hoạt động
theo các quy luật của nó, để có điều đó thì vấn đề sở hữu cần được giải
quyết, mỗi nguồn lực sử dụng đều có quyền sở hữu đích thực. Hình
thức sở hữu nào cho phép sử dụng có hiệu quả nhất các yếu tố sản
xuất sẽ là thích hợp nhất.

- Quản lí tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một cách hợp lí.
Tiến hành hoạt động phân phối đảm bảo công băng và hiệu quả, điều
hoà lợi ích cả ở đầu ra và đầu vào.

- Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thực hành tiết kiệm để tạo thêm
nguồn vốn, học hỏi kĩ thuật công nghệ, phát huy lợi thế so sánh, coi
trọng công tác đào tạo cán bộ qua đó tạo điều kiện tăng trưởng cao và
bền vững, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, môi
trường, dân số, phân phối thu nhập
C . Kết luận

-Việc xây dựng mô hình quản lý ở Việt Nam cho phù với nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN là một vấn đề vô cùng quan
trọng trong chiến lược đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Đối với nước ta
việc quản lý kinh tế trong giai đoạn này là mới mẻ, phức tạp và đầy
thử thách. Chính vì vậy, sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân
nên nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc để sau này tham gia
quản lý kinh tế có hiệu quả, phục vụ cho công cuộc đổi mới của Đảng
và Nhà nước. Đối với các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách cũng
như những nhà quản lý kinh doanh thì vấn đề này cũng đòi hỏi phải
được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để đề ra các biện pháp quản lý kinh
tế nhằm phát triển một nền kinh tế đồng bộ, lành mạnh, tạo điều kiện
cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả.

- Chúng ta đang ở vào lúc giao thời giữa cơ chế kinh tế quản lí tập
trung với cơ chế thị trường có sự quản lí, một giải pháp sai lầm vào
thời điểm này có thể làm cho nền kinh tế bị kẹt giữa 2 cơ chế, chính vì
vậy việc xác định những điều kiện và giải pháp để tiếp tục chuyển đổi
cơ chế kinh tế phải xuất phát từ quan điểm đúng đắn về cơ chế thị
trường và vai trò quản lí của Nhà nứơc. Song cũng cần chú ý là sự can
thiệp của Nhà nước chỉ thành công khi bản thân Nhà nước phải tôn
trọng và tuân thủ những quy luật của thị trường.
- Mô hình kinh tế thị trường theo đình hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta là một dạng cụ thể của mô hình kinh tế hỗn hợp, trong đó mục
tiêu duy nhất là hạnh phúc của nhân dân thì Nhà nước ấy phải có
nhiều công cụ mạnh, đủ sức chi phối mọi biểu hiện trái nghịch. Kinh
tế quốc doanh giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt sự phát triển
các thành phần kinh tế khác, là chỗ dựa, là thực lực để Nhà nước giải
quyết các vấn đề do nền kinh tế đặt ra mà khu vực kinh tế tư nhân
không giải quyết được. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện các công
cụ theo hướng đảm bảo tính nhạy bén, phù hợp với sự biến động của
thị trường , nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước cũng như
tạo mọi điều kiện cho khu vực kinh tế quốc doanh thực hiện trọng
trách của mình là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước.

-Cơ chế thị trường của nước ta là cơ chế thị trường của một Nhà
nước xã hội chủ nghĩa nên dù Nhà nước có vai trò quản lí nhưng vẫn
phải đảm bảo Đảng lãnh đạo và nhân dân làm chủ, bộ máy quản lý
Nhà nước về kinh tế phải được sắp xếp lại và kiện toàn theo hướng
giảm bớt khâu trung gian, tinh giảm biên chế, đảm bảo chất lượng.
Đồng thời phải đổi mới chế độ làm việc, xây dựng quy chế công chức,
đổi mới phong cách, phương pháp làm việc, ý thức trách nhiệm. Kiên
quyết đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, thoái hoá biến chất.
Tuyển chọn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ viên chức Nhà nước làm
công tác quản lý kinh tế và đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp. Để
thực hiện được nhiệm vụ đó thì phải đổi mới chương trình phương
pháp đào tạo, gắn lý luận với thực tiễn, có quá trình rèn luyện, thử
thách đối với đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Đi đôi với nó cần phải có
chính sách bố trí, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng thoả đáng để khuyến
khích tính tự chủ, sáng tạo và ý thức tự giác của cán bộ quản lý kinh
tế.

- Với vai trò khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, cũng
có khi Nhà nước mắc phải những sai lầm, do đó Nhà nước luôn phải
biết học hỏi kinh nghiệm, tự kiểm điểm bản thân, thường xuyên kiểm
tra, giám sát hoạt động của bộ máy cũng như nội bộ các nhân viên -
Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế trong bước
chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Quản lý Nhà nước về kinh tế phải
tập trung chủ yếu vào quản lý vĩ mô, tạo môi trường kinh tế và khuôn
khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh, phát huy mặt tích cực của kinh
tế thị trường, bảo đảm sự tăng trưởng của nền kinh tế gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội. Ngoài ra chính quyền các cấp phải tăng cường
quản lý đối với các loại hình kinh doanh, chủ thể kinh doanh mà
không phân biệt các thành phần kinh tế.

You might also like