Lý Luận Chung Về Nhà Nước Và Pháp Luật

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

Lý luận chung về nhà nước và pháp luật

1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1.1 Trình bày đối tượng và phương pháp nghiên cứu của Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
1.1.1 Đối tượng nghiên cứu của Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
Đối tượng nghiên cứu của Lý luận chung về nhà nước và pháp luật là các vấn đề mà khoa học này đề cập. Nói một cách khái quát thì khoa học
này nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, song nó không nghiên cứu tất cả các vấn đề về nhà nước và pháp luật mà chỉ nghiên cứu một số vấn đề
sau:
– Sự phát sinh, phát triển, tồn tại và thay thế của các kiểu nhà nước và pháp luật để từ đó khái quát hóa và nêu lên quy luật phát sinh và phát triển
của nhà nước và pháp luật.
– Những đặc tính chung, cơ bản và những biểu hiện chủ yếu của nhà nước và pháp luật trong đời sống xã hội như bản chất, chức năng, vai trò,
hình thức…, bao gồm sự biểu hiện ở từng kiểu nhà nước, pháp luật cụ thể trong lịch sử và ở nhà nước, pháp luật Việt Nam hiện nay.
– Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật với nhau và với một số hiện tượng xã hội khác như: kinh tế, chính trị, các tổ chức xã hội, đạo đức…
Tóm lại: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật là hệ thống tri thức về những quy luật phát sinh, phát triển đặc thù, những đặc tính chung và
những biểu hiện chủ yếu của nhà nước và pháp luật nói chung, của nhà nước và pháp luật Việt Nam nói riêng.
1.1.2 Phương pháp nghiên cứu của Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
a. Cơ sở phương pháp luận của Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
Cơ sở phương pháp luận của Lý luận chung về nhà nước và pháp luật là lập trường xuất phát, quan điểm tiếp cận và nghiên cứu của
ngành khoa học này, bao gồm quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng ta. Điều
đó có nghĩa, Lý luận chung nghiên cứu tất cả các vấn đề về nhà nước và pháp luật trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng. Ví dụ, quan hệ giữa nhà nước và pháp luật với kinh tế được xem xét theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật lịch sử về quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng của xã hội.
b. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp nghiên cứu cụ thể của Lý luận chung là những cách thức mà khoa học này sử dụng để làm sáng tỏ những vấn đề thuộc
đối tượng của mình.
Phương pháp phân tích là phương pháp chia các vấn đề phức tạp thành những bộ phận, những yếu tố đơn giản đế nghiên cứu và làm
sáng tỏ vấn đề. Ví dụ: làm sáng tỏ các khái niệm về nhà nước và pháp luật bằng việc phân tích các đặc điểm của chúng.
Phương pháp tổng hợp thường sử dụng khi liên kết các yếu tố đã phân tích, khái quát hoá để nêu lên kết luận.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học là dùng các thao tác tư duy để tách cái chung ra khỏi cái riêng, tạm thời gạt bỏ cái riêng để giữ
lấy cái chung nhằm xây dựng nên những khái niệm chung, ví dụ, đề cập bản chất, kiếu nhà nước…
Phương pháp xã hội học là thông qua phỏng vấn, đàm thoại, đối thoại, điều tra xã hội học…để tìm hiểu dư luận xã hội về một vấn đề
nào đó, ví dụ, tìm hiểu về ý thức pháp luật…
Phương pháp so sánh là tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa nhà nước và pháp luật với các hiện tượng xã hội khác để hiểu
sâu về bản chất và đặc điểm của chúng. Ngoài ra, còn có các phương pháp nghiên cứu khác như giải thích pháp luật, lịch sử, hệ thống…
1.2 Phân tích vai trò của khoa học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật đối với các khoa học pháp lý chuyên ngành
1.2.1 Giới thiệu khái quát về Lý luận chung về nhà nước và pháp luật và các khoa học pháp lý chuyên ngành
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật và các khoa học pháp lý chuyên ngành đều là những khoa học thuộc hệ thống khoa học pháp lý. Trong
đó:
– Lý luận chung về nhà nước và pháp luật là hệ thống tri thức về những quy luật phát sinh, phát triển đặc thù, những đặc tính chung, những biểu
hiện chủ yếu của nhà nước và pháp luật nói chung, của nhà nước và pháp luật Việt Nam nói riêng.
– Khoa học pháp lý chuyên ngành như luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật hình sự…là hệ thống những quan điểm, khái niệm, kết luận
hình thành trên cơ sở nghiên cứu các quy phạm pháp luật của một ngành luật nhất định trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
1.2.2 Phân tích cụ thể vai trò của khoa học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật đối với các khoa học pháp lý chuyên ngành
Lý luận chung về nhà nước và pháp luật có vai trò cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận cho các khoa học pháp lý chuyên
ngành, bởi vì:
– Lý luận chung về nhà nước và pháp luật nghiên cứu về nhà nước và pháp luật một cách chung nhất, khái quát và toàn diện nhất. Nó nghiên cứu
hoạt động của nhà nước và sự điều chỉnh của pháp luật trên tất cả các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống, nó nghiên cứu về nhà nước và
pháp luật đồng thời, song song với nhau. Trên cơ sở nghiên cứu đó, Lý luận chung về nhà nước và pháp luật nêu lên những khái niệm, kết luận,
quan điểm, quy luật cơ bản về nhà nước và pháp luật. Tất cả các khái niệm, kết luận, quan điểm, quy luật đó trở thành cơ sở lý luận và phương
pháp luận cho các khoa học pháp lý chuyên ngành. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về các hiện tượng pháp lý cơ bản như quy phạm pháp luật, quan
hệ pháp luật, vi phạm pháp luật…, Lý luận chung về nhà nước và pháp luật giới thiệu cụ thể về khái niệm, các dấu hiệu, đặc điểm, cấu thành…
của các hiện tượng trên. Các khái niệm, dấu hiệu, đặc điểm… đó trở thành cơ sở lý luận và phương pháp luận chung cho các khoa học pháp lý
chuyên ngành.
– Các khoa học pháp lý chuyên ngành chỉ nghiên cứu hoạt động của nhà nước và sự điều chỉnh của pháp luật trong một lĩnh vục cơ bản của đời
sống nên khi nghiên cứu các vấn đề thuộc đối tượng của mình, các khoa học này đều phải dựa trên cơ sở các khái niệm, kết luận, quan điểm khoa
học do Lý luận chung về nhà nước và pháp luật cung cấp, đồng thời, kết quả nghiên cứu của các khoa học pháp lý chuyên ngành lại minh hoạ,
làm rõ thêm, cụ thể hơn các khái niệm, kết luận, quan điểm khoa học mà Lý luận chung về nhà nước và pháp luật đã nêu
ra. Ví dụ, dựa trên cơ sở các kiến thức về định nghĩa, đặc điểm và cơ cấu của quy phạm pháp luật mà Lý luận chung về nhà nước và pháp luật nêu
lên, các khoa học luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật hình sự… sẽ xây dựng nên định nghĩa, đặc điểm và cơ cấu của quy phạm pháp luật
dân sự, quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, quy phạm pháp luật hình sự… Chính các kiến thức về quy phạm pháp luật dân sự, quy phạm
pháp luật hôn nhân và gia đình, quy phạm pháp luật hình sự… do các khoa học pháp lý chuyên ngành cung cấp sẽ minh họa, làm rõ và sâu sắc
thêm các kiến thức của Lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Vì thế, khoa học này thường được gọi tắt là Lý luận chung vì nó cung cấp cơ sở
lý luận chung
cho tất cả các khoa học pháp lý chuyên ngành.
II. NGUỒN GỐC VÀ KIỂU NHÀ NƯỚC
2.1 Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin về nguồn gốc nhà nước
2.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin về nguồn gốc nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhà nước nảy sinh từ xã hội và là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người. Nhà
nước không ra đời ngay từ khi xã hội loài người mới xuất hiện mà chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển đến giai đoạn nhất định. Đó là giai đoạn có
sự phân chia con người thành giai cấp, thành kẻ giàu, người nghèo, thành người tự do, chủ nô và nô lệ, thành kẻ giàu có đi bóc lột và kẻ nghèo
khó bị bóc lột, tức là thành những lực lượng xã hội có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với nhau; đồng
thời có sự tích tụ của cải và tập trung quyền lực vào tay một số ít người, một lực lượng
xã hội nào đó. Trong lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước, đó là thời kỳ cộng sản nguyên thủy, song tất cả những nguyên
nhân và điều kiện dẫn đến sự ra đời của nhà nước lại nảy sinh trong thời kỳ này.
2.1.2 Quá trình hình thành nhà nước
Quá trình hình thành nhà nước diễn ra như sau: Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, con người sống với nhau thành từng bầy người
nguyên thủy rồi tiến đến các đơn vị như thị tộc, bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ lạc. Thị tộc là một nhóm người cùng huyết tộc về phía nữ và
không có quyền lấy nhau, họ có một bà mẹ tổ chung. Thị tộc được tổ chức theo huyết thống và lúc đầu là thị tộc mẫu quyền, tức là quan hệ huyết
tộc và thừa kế được tính theo mẹ, về sau là thị tộc phụ quyền. Khi dân số tăng lên thì mỗi thị tộc đầu tiên đó lại chia nhỏ ra thành các thị tộc con
và thị tộc mẹ trở thành bào tộc; cũng theo cách thức đó bào tộc phát triển thành bộ lạc và đơn vị tổ chức cao nhất của xã hội là liên minh các bộ
lạc. Như vậy, các đơn vị tổ chức trong xã hội cộng sản nguyên thủy bao gồm thị tộc, bào tộc, bộ lạc và liên
minh các bộ lạc, chúng được hình thành và được duy trì bởi các quan hệ huyết tộc.
– Cơ sở kinh tế của xã hội được đặc trưng bằng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, “Cái gì cùng nhau làm
ra và dùng chung, thì cái đó là tài sản chung”. Mọi thành viên của thị tộc đều tự do, có địa vị xã hội như nhau, không có kẻ giàu người nghèo, kẻ
thống trị và người bị thống trị. Bình đẳng là nguyên tắc xử sự cao nhất trong lao động cũng như trong phân phối sản phẩm. Nền kinh tế của nó là
nền kinh tế tự nhiên, tự cấp và tự túc, săn bắn và hái lượm. “Sự phân công lao động hoàn toàn còn có tính chất tự nhiên, nó chỉ được thực hiện
giữa nam và nữ thôi. Đàn ông thì đánh giặc, đi săn bắn và đánh cá, tìm nguyên liệu dùng làm thức ăn và kiếm những công cụ cần thiết cho việc
đỏ. Đàn bà chăm sóc
việc nhà, chế biến thức ăn và chuẩn bị cái mặc: họ làm bếp, dệt, may vá. Mỗi bên đều làm chủ trong lĩnh vực hoạt động riêng của mình… Mỗi
bên đều là chủ sở hữu những cồng cụ do mình chế tạo và sử dụng… Kinh tế gia đình là nền kinh tế cộng sản chung cho nhiều gia đình”.
Tuy cách tổ chức xã hội còn đơn giản như vậy song đã xuất hiện nhu cầu quản lý, điều hành các hoạt động chung của thị tộc, bộ lạc.
Do vậy, quyền lực và một hệ thống thực hiện quyền lực đã xuất hiện, mặc dù còn rất đơn giản. Cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc là Hội
đồng thị tộc, bao gồm tất cả các thành viên đã trưởng thành của thị tộc, nam cũng như nữ. Hội đồng này bàn bạc dân chủ và quyết định tập thể về
tất cả các vấn đề quan trọng của thị tộc: tổ chức lao động sản xuất, quyết định vấn đề chiến tranh hoặc hoà bình, quyết định việc nộp lễ vật xin xá
tội, việc báo thù cho những người trong thị tộc bị giết hại…Trong Hội đồng mọi người đều có quyền phát biểu và biểu quyết như nhau nên các
quyết định của Hội đồng thế hiện ý chí chung của các thành viên và có tính chất bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với mọi người. Họ
thực hiện chúng một cách tự nguyện, song cũng có những biện pháp cưỡng chế nhất định của cộng đồng đối với những người vi phạm các quyết
định đó.
Hội đồng bầu ra tù trưởng và thủ lĩnh quân sự để thay mặt Hội đồng chỉ đạo các hoạt động chung và chỉ huy lực lượng quân sự của
thị tộc. Những người này có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực của họ không phải dựa vào một bộ máy cưỡng chế nào mà dựa vào tập thể cộng
đồng, trên cơ sở uy tín cá nhân, sự tín nhiệm và sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Tù trưởng và thủ lĩnh quân sự cùng sống, cùng lao
động và hưởng thụ như những người khác, không có đặc quyền, đao lợi, họ chịu sự kiểm tra của Hội đồng thị tộc và có thể bị Hội đồng bãi miễn.
Cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực ở bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ lạc cũng tương tự như ở thị tộc, song đã thế hiện sự tập trung
quyền lực cao hơn vì tham gia vào Hội đồng của các tổ chức này chỉ gồm tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của các thị tộc.
Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất tuy phát triển rất chậm chạp song không ngừng. Nhờ vậy, xã hội đã trải qua ba lần phân
công lao động xã hội lớn. Lần thứ nhất: Chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất; lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp và lần thứ
ba: Thương nhân xuất hiện.
2.1.3 Hệ quả của các lần phân công lao động
Các lần phân công lao động đó đã dẫn đến nhiều hệ quả làm thay đổi xã hội. Đó là: + Nền kinh tế đã chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp và tự
túc, săn bắn và hái lượm sang nền kinh tế sản xuất và trao đổi. Các ngành nghề sản xuất khác nhau lần lượt xuất hiện và phát triển: chăn nuôi,
trồng trọt, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Nen sản xuất hàng hoá đã ra đời và phát triển.
+ Sở hữu tư nhân xuất hiện để thay thế cho sở hữu công cộng của thị tộc và ngày càng được củng cố, lúc đầu là tư hữu về gia súc và sau là tư hữu
về ruộng đất và các tài sản khác.
+ Sự phân hoá xã hội xuất hiện và ngày càng sâu sắc.Đó là những sự phân hóa sau:
Thứ nhất, những người trong cùng thị tộc, bộ lạc được phân hoá thành những nhóm người làm các ngành nghề khác nhau, có nhu cầu và lợi ích
khác nhau.
Quan điểm của Mác -Lênin về nguồn gốc nhà nước
1 – Quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin về nguồn gốc nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhà nước nảy sinh từ xã hội và là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người. Nhà
nước không ra đời ngay từ khi xã hội loài người mới xuất hiện mà chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển đến giai đoạn nhất định. Đó là giai đoạn có
sự phân chia con người thành giai cấp, thành kẻ giàu, người nghèo, thành người tự do, chủ nô và nô lệ, thành kẻ giàu có đi bóc lột và kẻ nghèo
khó bị bóc lột, tức là thành những lực lượng xã hội có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với nhau; đồng
thời có sự tích tụ của cải và tập trung quyền lực vào tay một số ít người, một lực lượng
xã hội nào đó. Trong lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước, đó là thời kỳ cộng sản nguyên thủy, song tất cả những nguyên
nhân và điều kiện dẫn đến sự ra đời của nhà nước lại nảy sinh trong thời kỳ này.
2 - Quá trình hình thành nhà nước
Quá trình hình thành nhà nước diễn ra như sau:
– Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, con người sống với nhau thành từng bầy người nguyên thủy rồi tiến đến các đơn vị như thị tộc,
bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ lạc. Thị tộc là một nhóm người cùng huyết tộc về phía nữ và không có quyền lấy nhau, họ có một bà mẹ tổ
chung. Thị tộc được tổ chức theo huyết thống và lúc đầu là thị tộc mẫu quyền, tức là quan hệ huyết tộc và thừa kế được tính theo mẹ, về sau là thị
tộc phụ quyền. Khi dân số tăng lên thì mỗi thị tộc đầu tiên đó lại chia nhỏ ra thành các thị tộc con và thị tộc mẹ trở thành bào tộc; cũng theo cách
thức đó bào tộc phát triển thành bộ lạc và đơn vị tổ chức cao nhất của xã hội là liên minh các bộ lạc. Như vậy, các đơn vị tổ chức trong xã hội
cộng sản nguyên thủy bao gồm thị tộc, bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ lạc, chúng được hình thành và được duy trì bởi các quan hệ huyết tộc.

2
– Cơ sở kinh tế của xã hội được đặc trưng bằng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, “Cái gì cùng nhau làm
ra và dùng chung, thì cái đó là tài sản chung”. Mọi thành viên của thị tộc đều tự do, có địa vị xã hội như nhau, không có kẻ giàu người nghèo, kẻ
thống trị và người bị thống trị. Bình đẳng là nguyên tắc xử sự cao nhất trong lao động cũng như trong phân phối sản phẩm. Nền kinh tế của nó là
nền kinh tế tự nhiên, tự cấp và tự túc, săn bắn và hái lượm. “Sự phân công lao động hoàn toàn còn có tính chất tự nhiên, nó chỉ được thực hiện
giữa nam và nữ thôi. Đàn ông thì đánh giặc, đi săn bắn và đánh cá, tìm nguyên liệu dùng làm thức ăn và kiếm những công cụ cần thiết cho việc
đỏ. Đàn bà chăm sóc việc nhà, chế biến thức ăn và chuẩn bị cái mặc: họ làm bếp, dệt, may vá. Mỗi bên đều làm chủ trong lĩnh vực hoạt động
riêng của mình… Mỗi bên đều là chủ sở hữu những cồng cụ do mình chế tạo và sử dụng… Kinh tế gia đình là nền kinh tế cộng sản chung cho
nhiều gia đình”.
Tuy cách tổ chức xã hội còn đơn giản như vậy song đã xuất hiện nhu cầu quản lý, điều hành các hoạt động chung của thị tộc, bộ lạc.
Do vậy, quyền lực và một hệ thống thực hiện quyền lực đã xuất hiện, mặc dù còn rất đơn giản. Cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc là Hội
đồng thị tộc, bao gồm tất cả các thành viên đã trưởng thành của thị tộc, nam cũng như nữ. Hội đồng này bàn bạc dân chủ và quyết định tập thể về
tất cả các vấn đề quan trọng của thị tộc: tổ chức lao động sản xuất, quyết định vấn đề chiến tranh hoặc hoà bình, quyết định việc nộp lễ vật xin xá
tội, việc báo thù cho những người trong thị tộc bị giết hại… Trong Hội đồng mọi người đều có quyền phát biểu và biểu quyết như nhau nên các
quyết định của Hội đồng thế hiện ý chí chung của các thành viên và có tính chất bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với mọi người. Họ
thực hiện chúng một cách tự nguyện, song cũng có những biện pháp cưỡng chế nhất định của cộng đồng đối với những người vi phạm các quyết
định đó.
Hội đồng bầu ra tù trưởng và thủ lĩnh quân sự để thay mặt Hội đồng chỉ đạo các hoạt động chung và chỉ huy lực lượng quân sự của thị
tộc. Những người này có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực của họ không phải dựa vào một bộ máy cưỡng chế nào mà dựa vào tập thể cộng
đồng, trên cơ sở uy tín cá nhân, sự tín nhiệm và sự ủng hộ của các thành viên trong thị tộc. Tù trưởng và thủ lĩnh quân sự cùng sống, cùng lao
động và hưởng thụ như những người khác, không có đặc quyền, đao lợi, họ chịu sự kiểm tra của Hội đồng thị tộc và có thể bị Hội đồng bãi miễn.
Cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực ở bào tộc, bộ lạc và liên minh các bộ lạc cũng tương tự như ở thị tộc, song đã thế hiện sự tập trung
quyền lực cao hơn vì tham
gia vào Hội đồng của các tổ chức này chỉ gồm tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của các thị tộc.
Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất tuy phát triển rất chậm chạp song không ngừng. Nhờ vậy, xã hội đã trải qua ba lần phân
công lao động xã hội lớn. Lần thứ nhất: Chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất; lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp và lần thứ
ba: Thương nhân xuất hiện.
3 Hệ quả của các lần phân công lao động
– Các lần phân công lao động đó đã dẫn đến nhiều hệ quả làm thay đổi xã hội. Đó là: + Nền kinh tế đã chuyển từ nền kinh tế tự nhiên,
tự cấp và tự túc, săn bắn và hái lượm sang nền kinh tế sản xuất và trao đổi. Các ngành nghề sản xuất khác nhau lần lượt xuất hiện và phát triển:
chăn nuôi, trồng trọt, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Nen sản xuất hàng hoá đã ra đời và phát triển.
+ Sở hữu tư nhân xuất hiện để thay thế cho sở hữu công cộng của thị tộc và ngày càng được củng cố, lúc đầu là tư hữu về gia súc và
sau là tư hữu về ruộng đất và các tài sản khác.
+ Sự phân hoá xã hội xuất hiện và ngày càng sâu sắc. Đó là những sự phân hóa sau:
Thứ nhất,những người trong cùng thị tộc, bộ lạc được phân hoá thành những nhóm người làm các ngành nghề khác nhau, có nhu cầu
và lợi ích khác nhau.
Thứ hai, công cụ sản xuất được cải tiến, từ đồ đá đến đồ đồng sau đó là đồ sắt. Năng suất, hiệu quả lao động, nhu cầu và giá trị sức lao
động ngày càng tăng, tù binh trong chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc được giữ lại để làm nô lệ nên nô lệ đã xuất hiện và ngày càng đông hơn.
Xã hội có sự phân hoá thành người tự do và nô lệ.
Thứ ba, sự xuất hiện của sở hữu tư nhân đã dẫn đến sự phân hoá xã hội thành kẻ giàu và người nghèo. Cùng với sự xuất hiện của
thương nhân, của sự sở hữu tự do và hoàn toàn về mộng đất thì đồng tiền, nạn cầm cố mộng đất, nạn cho vay nặng lãi xuất hiện làm cho sự phân
hoá giàu nghèo, phân hoá thành người tự do và nô lệ càng thêm sâu sắc; của cải trong xã hội có sự tích tụ và tập trung vào tay một số ít người,
dân nghèo và nô lệ tăng lên rất đông.
Gia đình riêng rẽ bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội. Sự liên minh và hợp nhất của những bộ lạc cùng thân tộc đã dẫn đến sự
hợp nhất những lãnh thổ riêng của các bộ lạc thành lãnh thổ chung của bộ tộc. Thủ lĩnh quân sự của bộ tộc trở thành một viên chức cần thiết,
thường trực, đại hội nhân dân được thành lập.
Chiến tranh xảy ra liên miên làm tăng thêm quyền lực của thủ lĩnh quân sự và tập quán lựa chọn những người kế thừa các thủ lĩnh
quân sự trong cùng một gia đình hình thành, làm cho quyền lực của thủ lĩnh quân sự dần dần trở thành một quyền lực thế tập, đó là cơ sở của
vương quyền thế tập và quý tộc thế tập.
Tình trạng những người trong cùng thị tộc, bộ lạc thống nhất với nhau về quyền lợi và chung sống trên cùng một lãnh thổ mà chỉ có
mình họ cư trú không còn nữa. Trên vùng lãnh thổ đó đã có người của các thị tộc, bộ lạc khác nhau cùng chung sống; họ được phân chia thành
người tự do và nô lệ, thành những người giàu có đi bóc lột và những người nghèo khó bị bóc lột, những người có nhu cầu, lợi ích xung đột với
nhau. Những người giàu có, chủ nô đã lợi dụng địa vị kinh tế của mình khống chế bộ máy quản lý của xã hội chủ yếu vì lợi ích của họ và trở
thành lực lượng thống trị, những người nghèo và nô lệ trở thành lực lượng bị trị, mâu thuẫn và đấu tranh giữa hai lực lượng đó xuất hiện và ngày
càng gay gắt hơn.
Trước thực trạng trên, chế độ thị tộc tỏ ra bất lực, không đủ khả năng điều hành và quản lý xã hội. Nhu cầu khách quan của sự quản lý
xã hội có sự phân hoá, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới, có sức mạnh quản lý và cưỡng chế lớn hơn thị tộc, bộ
lạc thì mới đủ khả năng điều hành và quản lý xã hội, làm dịu xung đột giai cấp trong xã hội hoặc giữ cho xung đột đó ở trong vòng một trật tự
nhất định để xã hội có thể tồn tại và phát triển được. Tổ chức đó chính là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện.
Tóm lại
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhà nước ra đời do hai nguyên nhân chính là kinh tế và xã hội. Nguyên nhân kinh tế là
sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của nền kinh tế sản xuất và trao đối, của sở hữu tư
nhân. Nguyên nhân xã hội là sự phân hoá con người trong xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, thành người tự do và nô lệ, thành các giai cấp, tầng
lớp, lực lượng xã hội có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Đồng thời có sự tích tụ của cải và tập
trung quyền lực vào tay một nhóm người, một lực lượng xã hội nhất định.
2.2 Kiểu nhà nước là gì? Phân tích khái niệm kiểu nhà nước?
2.2.1 Kn: Kiểu nhà nước ỉà tổng thể những đặc điểm, đặc thù của một nhóm nhà nước, qua đó phân biệt với nhỏm nhà nước khác. Theo cách
hiểu này, việc phân chia kiểu nhà nước thực chất là sự phân nhóm (phân loại) nhà nước. Những nhà nước thuộc cùng một kiểu là những nhà nước
có cùng những đặc điểm, đặc trưng nhất định, qua đó phân biệt với kiểu (nhóm) nhà nước khác.
2.2.2 Các cách phân loại kiểu nhà nước
Có thể phân kiểu nhà nước theo nhiều cách khác nhau dựa vào các tiêu chí khác nhau. Cụ thể:
Dựa vào sự phân chia các thời kỳ lịch sử của các nhà sử học, có thể phân chia nhà nước thành các kiểu tương ứng với các thời kỳ lịch
sử như: Nhà nước cổ đại, nhà nước trung đại, nhà nước cận đại và nhà nước hiện đại. Riêng đối với các nhà nước hiện đại, nếu dựa vào các chỉ số

3
phát triển của quốc gia do Ngân hàng Thế giới đưa ra thì có thể chia thành nhà nước ở các nước có thu nhập cao, nhà nước ở các nước có thu
nhập trung bình cao, nhà nước ở các nước có thu nhập trung bình thấp và nhà nước ở các nước có thu nhập thấp. Các mức thu nhập này thay đổi
từng năm tùy theo sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Nn ở những nước có thu nhập cao là các nhà nước phát triển, còn lại là các nhà nước đang
phát triển.
Dựa vào các nền văn minh, có thể phân chia thành các kiểu nhà nước: Nhà nước trong nền văn minh nông nghiệp, nhà nước trong nền
văn minh công nghiệp, thậm chí ngày nay còn nói đến nhà nước trong nền văn minh hậu công nghiệp (văn minh tri thức).
Dựa vào cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, có thể phân chia thành các kiểu nhà nước: Nhà nước chuyên chế và nhà
nước dân chủ.
Nhà nước chuyên chế là nhà nước mà quyền lực nhà nước không bị hạn chế, không bị kiểm soát bởi bất cứ thể chế, thiết chế nào, quan
hệ giữa nhà nước với người dân là quan hệ mệnh lệnh, phục tùng một chiều một cách tuyệt đối, nhà nước sử dụng biện pháp bạo lực để thực hiện
quyền lực nhà nước.
Nhà nước dân chủ là nhà nước mà quyền lực tối cao trong xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân tổ chức nên nhà nước và kiểm soát hoạt
động của nhà nước.
Dựa vào yếu tố địa lý, nhiều nhà sử học, luật học, chính trị học đã phân chia nhà nước thành các kiểu: Nhà nước phương Đông, nhà
nước phương Tây. Quan niệm này lúc đầu là của người Hy Lạp và Roma cố đại, về sau được dùng phổ biến trên thế giới. Ngày nay, sự phân biệt
nhà nước phương Đồng và nhà nước phương Tây không chỉ đơn thuần dựa trên yếu tố địa lý mà còn dựa vào nhiều tiêu chí khác (nhân chủng,
ngữ hệ, văn hóa, kinh tế, chính trị…).
Dựa vào quan niệm về hình thái kinh tế – xã hội của Mác, có thể chia nhà nước thành các kiểu tương ứng với các hình thái kinh tế –
xã hội có giai cấp. Mác phân chia lịch sử phát triển của xã hội loài người thành năm giai đoạn tương ứng với năm hình thái kinh tế – xã hội là
cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội đó có một kiểu quan hệ
sản xuất riêng biệt, đặc trưng cho xã hội đó, đồng thời có một cơ sở hạ tầng và một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Trong thượng tầng kiến trúc
của xã hội có giai cấp luôn tồn tại nhà nước. Do vậy, tương ứng với một hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp là một kiểu nhà nước, đó là các kiểu
nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Mỗi kiểu nhà nước trên là một loại hay một nhóm nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển
trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Như vậy, căn cứ đế xác định kiểu nhà nước chính là hình thái kinh tế – xã hội mà nhà nước đã ra đời, tồn tại và phát triển. Đặc điểm
của mỗi kiểu nhà nước là do kiểu quan hệ sản xuất
đặc thù trong xã hội tương ứng quy định.
2.3 Phân tích quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin về thay thế kiểu nhà nước
2.3.1 Kiểu nhà nước là gì?
Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm, đặc thù của một nhóm nhà nước, qua đó phân biệt với nhóm nhà nước khác.
2.3.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về kiểu nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì có thể phân chia kiểu nhà nước dựa vào sự phân chia các hình thái kinh tế – xã hội.
Mác phân chia lịch sử phát triển của xã hội loài người thành 5 giai đoạn tương ứng với 5 hình thái kinh tế – xã hội là cộng sản nguyên thủy,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội đó có một kiểu quan hệ sản xuất riêng biệt, đặc
trưng cho xã hội đó, đồng thời có một cơ sở hạ tầng và một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Trong thượng tầng kiến trúc của xã hội có giai cấp
luôn tồn tại nhà nước. Do vậy, tương ứng với một hình thái kinh tế – xã hội có
giai cấp là một kiểu nhà nước, đó là các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước trên là một loại hay một nhóm nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Như vậy, căn cứ để xác định kiểu nhà nước chính là hình thái kinh tế -xã hội mà nhà nước đã ra đời, tồn tại và phát triển. Đặc điểm của mỗi kiểu
nhà nước là do kiểu quan hệ sản xuất đặc thù trong xã hội tương ứng quy định.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước khác tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu, phù hợp
với quy luật thay thế các hình thái kinh tế – xã hội. Cụ thể, kiểu nhà nước phong kiến ra đời để thay thế cho kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước
tư sản ra đời đế thay thế cho kiểu nhà nước phong kiến và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời để thay thế cho kiểu nhà nước tư sản. Kiểu nhà
nước sau luôn tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước vì nó được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất phù hợp hơn với trình độ của lực lượng sản xuất
đã phát triển cao hơn, cơ sở xã hội của nhà nước rộng rãi hơn; xung đột giai cấp trong xã hội đó thường đỡ gay gắt hơn. Tuy nhiên, đối với mỗi
nước cụ thể, do
điều kiện lịch sử khách quan, có thể bỏ qua một hoặc một số kiểu nhà nước nhất định (ví dụ: nhà nước ở Việt Nam không có kiểu nhà nước chủ
nô và kiểu nhà nước tư bản chủ nghĩa)
Nguyên nhân sâu xa của sự thay thế kiểu nhà nước là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong một phương thức
sản xuất xã hội. Khi mâu thuẫn này được giải quyết thì phương thức sản xuất mới được thiết lập, cùng với nó có một kiểu kiến trúc thượng tầng
mới và tương ứng là một kiểu nhà nước mới.
Lịch sử cho thấy, có nhiều con đường đưa đến sự thay thế các kiểu nhà nước, có thể thông qua cách mạng xã hội dưới hình thức khởi
nghĩa vũ trang, cũng có thể thông qua các cuộc cải cách xã hội một cách toàn diện và triệt đế, trong đó kiểu quan hệ sản xuất cũ dần dần bị thay
thế bởi kiểu quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn. Đó chính là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết
định.
Thực tế, sự phát triển của nhà nước rất đa dạng và phức tạp, do vậy, sự phân chia kiểu nhà nước theo tiêu chí này chỉ có ý nghĩa tương
đối bởi vì: Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế – xã hội là cả một quá trình, từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh
tế – xã hội khác đều phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ đó sẽ có những nhà nước không thuộc vào kiểu nào trong bốn
kiểu nhà nước đã nêu. Đó là những nhà nước hình thành ở thời kỳ mà các giai cấp đang đấu tranh với nhau đã đạt tới một thế cân bằng lực lượng
hoặc các lực lượng xã hội khác nhau có thể tạm thời hoà hoãn với nhau vì một mục đích chung nào đó khiến cho chính quyền nhà nước tạm thời
có sự độc lập nhất
định đối với các giai cấp, các lực lượng xã hội, tựa hồ như một bên trung gian đứng giữa các giai cấp, lực lượng đó. Ví dụ: Chế độ quân chủ
chuyên chế ở thế kỷ XVII và XVIII, chế độ Bô-na-pac của Đế chế thứ nhất và thứ hai ở Pháp, chế độ Bi-xmac ở Đức,…
Như vậy, giữa các kiểu nhà nước không thể có ranh giới tách bạch, dứt khoát về mặt thời gian tại một thời điểm nhất định. Ngay trong
cùng một kiểu, nhà nước ở thời kỳ đầu của mỗi hình thái kinh tế – xã hội có thể có nhiều điểm khác biệt so với nhà nước ở thời kỳ sau đó.
III. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
3.1. Chức năng Nhà nước là gì? Phân tích Chức năng của nhà nước?
3.1.1. Chức năng nhà nước là gì?
Chức năng của nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định
bởi điều kiện kinh tế– xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.
3.1.2. Phân tích chức năng của nhà nước

4
– Định nghĩa trên cho thấy, nói đến chức năng nhà nước là nói đến những hoạt động của nhà nước để thực hiện những công việc mà nhà nước
phải làm, đó là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội.
Những công việc đó gắn liền với nhà nước mà không một thực thể nào trong xã hội có thể làm thay nhà nước, đồng thời, nhà nước có
đủ khả năng để làm. Nói cách khác, chức năng nhà nước là khái niệm dùng để chỉ những hoạt động, phần việc quan trọng của riêng nhà nước mà
chỉ nhà nước mới có đủ khả năng, điều kiện để thực hiện những hoạt động đó. Do vậy, có thể hiếu, chức năng nhà nước là những phương diện,
loại hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Đó là những mặt hoạt động, hướng hoạt động chủ yếu
của nhà nước, phát sinh từ bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ, vai trò và điều kiện tồn tại của nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.
– Chức năng của nhà nước luôn phản ánh bản chất của nhà nước hay do bản chất của nhà nước quyết định. Ví dụ, với bản chất là bộ máy chuyên
chính của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến và bộ máy quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự của xã hội phong kiến nên chức năng
đàn áp và nô dịch nông dân bằng quân sự và về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nước khác khi có điều kiện… là các chức năng phổ biến
của các nhà nước phong kiến. Còn với bản chất là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và là bộ máy chuyên chính vô sản, các chức
năng tổ chức và quản lý kinh tế, tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
– Chức năng của nhà nước luôn phản ánh bản chất của nhà nước hay do bản chất của nhà nước quyết định. Ví dụ, với bản chất là bộ máy chuyên
chính của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến và bộ máy quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự của xã hội phong kiến nên chức năng
đàn áp và nô dịch nông dân bằng quân sự và về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nước khác khi có điều kiện… là các chức năng phổ biến
của các nhà nước phong kiến. Còn với bản chất là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và là bộ máy chuyên chính vô sản, các chức
năng tổ chức và quản lý kinh tế, tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
– Chức năng của nhà nước còn phụ thuộc vào nhiệm vụ cơ bản của nhà nước. Giữa chức năng và nhiệm vụ của nhà nước vừa có sự thống nhất,
vừa có sự khác biệt, vừa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ của nhà nước là những công việc đặt ra đòi hỏi nhà nước phải giải quyết
theo những mục tiêu đã định sẵn. Nhà nước có hai loại nhiệm vụ là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài và nhiệm vụ trước mắt, cấp bách. Nhiệm
vụ chiến lược, lâu dài là những vấn đề nhà nước phải giải quyết trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu
dài được thực hiện thông qua các chức năng nhà nước nên chức năng nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với nhiệm vụ chiến lược của nhà nước và
nhiệm vụ chiến lược của nhà nước có vai trò quyết định đối với việc xác định và thực hiện chức năng nhà nước. Vd, trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Nhà nước Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tất cả
các chức năng của Nhà nước ta đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. Nhiệm vụ trước mắt, cấp bách là
những công việc mà nhà nước phải giải quyết trong ngắn hạn, ngay lập tức để thực hiện một chức năng nào đó của nhà nước, do vậy, nhiệm vụ
trước mắt, cấp bách có phạm vi hẹp hơn so với chức năng nhà nước, được xác định nhằm thực hiện chức năng, do chức năng quyết định. Vd,
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật môi trường của các doanh nghiệp hiện nay được xác định và thực hiện nhằm thực hiện chức
năng quản lý môi trường của nhà nước.
– Giữa chức năng và vai trò của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Chức năng của nhà nước thường nói tới việc nhà nước được
sinh ra để làm gì, còn vai trò của nhà nước thường đề cập công dụng, tác dụng của nhà nước. Trong trường hợp này, chức năng và vai trò của nhà
nước có ý nghĩa gần như tương tự nhau. Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa trên, vai trò của nhà nước còn được sử dụng để nói về tầm quan trọng của nhà
nước (chẳng hạn vai trò của nhà nước đối với xã hội).
3.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng chức năng nhà nước
Chức năng của nhà nước chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
– Điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ phát triển của nó. Thực tế cho thấy, nhà nước phải làm gì, làm như thế nào,
điều đó phụ thuộc rất lớn vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước, do đó, các nhà nước khác nhau có thể có chức năng khác nhau. Ví dụ,
chức năng của nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây khác với chức năng của. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Trong một nhà nước cụ thể, ở các giai đoạn phát triển khác nhau, số lượng chức năng, tầm quan trọng của mỗi chức năng, nội dung, cách thức
thực hiện từng chức năng cũng có thể khác nhau. Ví dụ, trước năm 1986, quản lý, bảo vệ môi trường chưa phải là chức năng của Nhà nước ta
nhưng hiện nay nó trở
thành chức năng có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu. Hoặc, thiết lập và phát triển các mối quan hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác
quốc tế, hội nhập quốc tế là chức năng không thể thiếu của các nhà nước đương đại…
– Chức năng của nhà nước còn phụ thuộc vào bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước và hoàn cảnh quốc tế. Điều này đã được phân tích ở
trên.
3.1.4. Mối quan hệ giữa các chức năng của nhà nước: Một nhà nước thường có nhiều chức năng và các chức năng đó có liên hệ chặt chẽ với
nhau, việc thực hiện chức năng này thường có ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng khác. Chẳng hạn, nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt việc tổ
chức và quản lý kinh tế khi thực hiện tốt hoạt động bảo vệ tổ quốc, tương tự các hoạt động về mặt xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
bảo trợ xã hội… chỉ có thể thực hiện tốt khi thực hiện có hiệu quả hoạt động tổ chức và quản lý kinh tế.
3.1.5. Các phương thức (hình thức và pp) thực hiện chức năng của nhà nước
– Để thực hiện chức năng của mình, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng các hình thức khác nhau, trong đó có các hình thức cơ bản (hình thức mang
tính pháp lý) là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật.
Muốn tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội, thiết lập trật tự xã hội, nhà nước phải tiến hành xây dựng pháp luật để hướng
dẫn cách xử sự cho mọi người, xác định rõ những việc được làm, không được làm, phải làm cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan
hệ xã hội nhất định để làm cho các quan hệ đó phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Ví dụ, muốn thiết lập trật tự an toàn giao thông
đường bộ, nhà nước phải ban hành luật giao thông đường bộ để hướng dẫn cách tham gia giao thồng đường bộ cho tất cả mọi người; để bảo đảm
sự ổn định của gia đình, nhà nước phải ban hành luật hôn nhân và gia đình để hướng dẫn cách xử sự của các thành viên trong gia đình với nhau…
Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật được từng bước hình thành và hoàn thiện.
Pháp luật sau khi được ban hành thường không thể tự đi vào đời sống, có nhiều quy định mà các cá nhân, tổ chức trong xã hội không
tự thực hiện được, do đó, nhà nước phải tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm tổ chức cho các chủ thể trong xã hội thực hiện các quy định của
pháp luật, chẳng hạn, nhà nước tiến hành phổ biến pháp luật cho người dân, giải thích, tuyên truyền, động viên, khuyến khích tính tích cực của
họ, cung cấp nhân lực, vật lực, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật… Có như vậy, những
mong muốn, yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước thế hiện trong pháp luật mới có thể được thực hiện một cách có hiệu quả.
Trong quá trình thực hiện pháp luật, vì những lý do khác nhau, việc vi phạm pháp luật là khó tránh khỏi. Khi đó, nhà nước phải bảo vệ
pháp luật bằng cách thực hiện các hoạt động để xử lý người vi phạm, giáo dục, cải tạo họ cũng như răn đe, phòng ngừa chung nhằm bảo đảm tính
tôn nghiêm của pháp luật, bảo đảm các yêu cầu của nhà nước được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác.
Ngoài ra, còn có các hình thức khác như tổ chức các cuộc hội thảo, các phong trào thi đua, các biện pháp tác nghiệp vật chất, kỹ
thuật…
– Phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước gồm có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế. Thuyết phục là dùng lời nói để
thuyết trình, giảng giải, chứng minh, phân tích… nhằm tạo ra sự phục tùng tự giác của đối tượng thuyết phục (hoặc đối tượng quản lý) đối với

5
chủ thể thuyết phục (hoặc chủ thể quản lý). Cưỡng chế là bắt buộc bằng bạo lực một tổ chức hoặc một cá nhân phải làm hay không được làm một
việc gì đó, hoặc phải gánh chịu sự thiệt hại về nhân thân, về tự do hoặc về tài sản… đã được quy định trong pháp luật. Ngoài hai phương pháp
ừên còn có các phương pháp khác như phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính…
Trong số các chức năng của Nhà nước Việt Nam hiện nay thì ba chức năng quan trọng nhất là chức năng kinh tế, chức năng xã hội và chức năng
bảo vệ Tố quốc.
3.2 Phân tích khái niệm và đặc trưng của nhà nước
3.2.1 – Nhà nước là gì?
Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và
quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.
3.2.2 – Phân tích các đặc trưng của nhà nước
a – Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội
– Nhà nước là một trong các tổ chức của xã hội nhưng có quyền quản lý xã hội. Để quản lý xã hội, nhà nước phải có quyền lực. Quyền lực nhà
nước là khả năng và sức mạnh của nhà nước có thể bắt các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải phục tùng ý chí của nó.
– Quyền lực nhà nước tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong mối quan hệ này, nhà nước là chủ thể
của quyền lực, các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội là đối tượng của quyền lực ấy, họ phải phục tùng ý chí của nhà nước.
– Quyền lực nhà nước cũng tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với các thành viên cũng như các cơ quan của nó, trong đó thành viên phải
phục tùng tổ chức, cấp dưới phải phục tùng cấp trên.
– Quyền lực nhà nước có tác động bao trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ chức, cá nhân, mọi khu vực lãnh thổ và các lĩnh vực cơ bản của đời sống:
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…
– Để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người tách ra khỏi lao động sản xuất để chuyên thực thi quyền lực nhà nước, họ tham gia vào bộ máy
nhà nước để làm hình thành nên một hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, trong đó có các cơ quan bạo lực, cưỡng chế
như quân đội, cảnh sát, tòa án…
Quyền lực và bộ máy chuyên thực thi quyền lực đó thì trong xã hội chỉ một mình nhà nước có nên quyền lực nhà nước là đặc biệt, nhờ
có quyền lực và bộ máy chuyên thực thi quyền lực đó mà nhà nước có thể điều hành và quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội, phục vụ
và bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.
b – Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ
Neu như các tố chức xã hội khác tập hợp và quản lý dân cư theo mục đích, chính kiến, lý tưởng, nghề nghiệp, độ tuổi hoặc giới tính…
thì nhà nước luôn lấy việc quản lý dân cư theo lãnh thổ làm điểm xuất phát. Người dân không phân biệt huyết thống, dân tộc, giới tính… cứ sống
trên một khu vực lãnh thổ nhất định thì chịu sự quản lý của một nhà nuớc nhất định và do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước ở
nơi mà họ cư trú.
Nhà nước thực hiện việc quản lý dân cư trong phạm vi lãnh thổ quốc gia của mình cũng theo địa bàn cư trú của họ hay theo các đơn vị
hành chính – lãnh thổ. Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính – lãnh thổ và quản lý toàn bộ dân cư của minh theo từng đơn vị
đó, vì thế, nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất trong quốc gia.
c – Nhà nước nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là khái niệm chỉ quyền quyết định tối cao của quốc gia trong quan hệ đối nội và quyền độc lập tự quyết của quốc gia trong
quan hệ đối ngoại.
Hiến pháp của các nước tuyên bố chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân, nhưng nhân dân ủy quyền cho nhà nước thực hiện nên nhà
nước là đại diện chính thức cho toàn quốc gia, dân tộc trong các quan hệ đối nội và đối ngoại. Trong quan hệ đối nội, quy định của nhà nước có
giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan; nhà nước có thế cho phép các tố chức xã hội khác được
thành lập và hoạt động hoặc nhà nước công nhận sự tồn tại và hoạt động hợp pháp của các tổ chức xã hội khác. Trong quan hệ đối ngoại, nhà
nước có toàn quyền xác định và thực hiện các đường lối, chính sách đối ngoại của
mình. Các tổ chức khác chỉ được tham gia vào những quan hệ đối ngoại mà nhà nước cho phép.
d – Nhà nước ban hành pháp luật và dùng pháp luật làm công cụ quản lý xã hội
Nhà nước ban hành pháp luật, tức là hệ thống các quy tắc xử sự chung có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tố chức và cá
nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực hiện bằng nhiều biện pháp: tuyên truyền, phố biến, giáo dục, thuyết phục, tố chức thực hiện, động
viên, khen thưởng, áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, do đó, pháp luật được triển khai và thực hiện một cách rộng rãi trong toàn xã hội.
Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước và pháp luật là một trong
những công cụ quản lý có hiệu quả nhất của nhà nước.
đ – Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế
Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước là một bộ máy được
tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản lý xã hội nên nó phải được nuôi dưỡng từ nguồn thuế do dân cư đóng
góp, không có thuế bộ máy nhà nước không thể tồn tại được và thuế luôn là quốc sách của mọi nhà nước. Thuế còn là nguồn của cải quan trọng
phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống. Ngoài thuế, nhà nước còn có quyền phát hành tiền, công trái, vì thế, nhà nước có lực lượng vật
chất to lớn, không chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của nó, những hoạt động cơ bản của xã hội, mà còn có thế hỗ trợ một phần kinh phí hoạt
động cho một số tổ chức khác.
Những đặc trưng trên chỉ một mình nhà nước có và thể hiện đầy đủ khái niệm Nn.
3.3. Phân tích tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước
Phân tích tính giai cấp
3.3.1 – Kn: Nn là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ
chức và quản lý xã hội, pvụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền.
3.3.2 – Phân tích tính giai cấp của nhà nước: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì tính giai cấp là thuộc tính cơ bản và không thể thiếu
của tất cả các nhà nước. Lý do nhà nước có tính giai cấp:
– Nhà nước xuất hiện do nhu cầu bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị của giai cấp thống trị hoặc lực lượng cầm quyền.
– Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp, tức là xã hội có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp.
– Nhà nước là hình thức tổ chức của xã hội có giai cấp, bởi vì: sau khi trong xã hội đã xuất hiện giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp thì
không thể tổ chức theo hình thức thị tộc, bộ lạc được nữa mà phải tổ chức thành nhà nước, với sức mạnh và bộ máy cưỡng chế của nó thì mới đủ
khả năng làm dịu xung đột giai cấp trong xã hội hoặc giữ cho xung đột đó ở trong vòng một “trật tự” nhất định, có như vậy, xã hội mới tồn tại và
phát triển được.
3.3.3 Biểu hiện tính giai cấp của nhà nước
Tính giai cấp của nhà nước thể hiện ở chỗ: nhà nước là bộ máy chuyên chính giai cấp, tức là công cụ để thực hiện, củng cố và bảo vệ
lợi ích, quyền và địa vị thong trị của lực lượng hoặc giai câp câm quyền trong xã hội trên cả ba lĩnh vực: Kinh tế, chính trị và tư tưởng.

6
Sự thống trị xã hội thể hiện chủ yếu ở ba lĩnh vực: Kinh tế, chính trị và tư tưởng, trong đó lĩnh vực tiền đề và giữ vai trò quyết định là
kinh tế. Thông thường, giai cấp hoặc lực lượng nắm quyền sở hữu phần lớn tư liệu sản xuất hoặc tài sản của xã hội sẽ trở thành lực lượng thống
trị về kinh tế hay chủ thể của quyền lực kinh tế, có thể bắt lực lượng khác phải phụ thuộc nó về mặt kinh tế hoặc bóc lột các lực lượng khác. Do
vậy, sự thống trị về kinh tế tạo ra tiền đề, cơ sở cho sự thống trị giai cấp.
Tuy nhiên, quyền lực kinh tế không đủ khả năng duy trì sự thống trị, vì lực lượng hay giai cấp bị thống trị luôn tìm cách chống lại để
thoát ra khỏi sự phụ thuộc. Vì thế, để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, lực lượng thống trị phải dùng bộ máy nhà nước để trấn áp sự phản kháng,
sự chống đối của các giai cấp, lực lượng khác và nhà nước trở thành bộ máy cưỡng chế đặc biệt, thành công cụ để bảo vệ lợi ích kinh tế của lực
lượng cầm qưyền.
Nhà nước bảo vệ lợi ích kinh tế của lực lượng cầm quyền bằng cách dùng bộ máy bạo lực như quân đội, cảnh sát, toà án… để trấn áp
sự phản kháng, chống đối của các lực lượng khác. Đồng thời, nhà nước thể hiện ý chí của mình mà trước tiên là ý chí của lực lượng cầm quyền
thông qua pháp luật, thông qua các quy định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện trong xã hội, bắt cả xã hội phải phục tùng ý chí của nó.
Vì thế, nhà nước chính là công cụ nằm trong tay lực lượng cầm quyền để bảo vệ lợi ích kinh tế và thực hiện sự thống trị về chính trị trong xã hội.
Sự thống trị của lực lượng cầm quyền, sự tồn tại của nhà nước chỉ lâu dài, chắc chắn khi có sự phục tùng tự giác của các lực lượng
khác. Vì thế, nhà nước tổ chức, quản lý và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ sở văn hóa, giáo dục; dùng các phương tiện và cơ
sở đó tác động đến đời sống tinh thần của toàn xã hội, nhằm làm cho hệ tư tưởng của giai cấp thống trị giữ địa vị thống trị trong xã hội và nhằm
tạo ra sự phục tùng tự giác của các giai cấp, lực lượng khác đối với quyền thống trị của lực lượng cầm quyền, sự quản lý của nhà nước. Do vậy,
nhà nước trở thành công cụ xác lập và bảo vệ hệ tư tưởng thống trị trong xh.
Tóm lại, nhà nước là công cụ, là bộ máy đặc biệt nằm trong tay lực lượng cầm quyền để bảo vệ lợi ích kinh tế, để thực hiện sự thống trị về chính
trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng của lực lượng này đối với toàn xã hội.
3.3.4 – Sự thay đổi tính giai cấp của nhà nước qua các kiểu nhà nước
Biếu hiện chung là như vậy, song nếu xem xét những biểu hiện cụ thể thì tính giai cấp của nhà nước có sự thay đổi rất lớn qua các kiểu nhà nước.
Cụ thể:
– Ở các nhà nước chủ nô, phong kiến, do điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ phát triển của xã hội lúc đó nên các nhà nước này chủ yếu bảo vệ
lợi ích của giai
cấp chủ nô, địa chủ, quý tộc phong kiến, tăng lữ, đàn áp nô lệ, nông dân và những người lao động khác nên tính giai cấp của các nhà nước này thể
hiện cực kỳ công khai và rõ rệt.
– Ở nhà nước tư sản, biểu hiện tính giai cấp của nhà nước có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của nhà nước tư sản. Trong thời kỳ của chủ
nghĩa để quốc, khi các nhà nước tư sản chủ yếu bảo vệ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền lũng đoạn nhà nước thì tính giai cấp của nhà
nước này cũng thể hiện rõ rệt. Ở giai đoạn của chủ nghĩa tư bản hiện đại, do sự thay đổi trong điều kiện kinh tế, sự phát triển của xã hội, của khoa
học kỹ thuật và của nền dân chủ, tính giai cấp của nhà nước có xu hướng thể hiện ít sâu sắc, rõ rệt hơn giai đoạn trước. Trong các chính sách của
nhà nước, bên cạnh việc tính đến lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền, của giai cấp tư sản, nhà nước tư sản còn tính đến lợi ích của các giai
cấp, tầng lớp khác, của cả cộng đồng.
– Ở các nhà nước xã hội chủ nghĩa sau này và nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, tính giai cấp của nhà nước thể hiện mờ nhạt, hạn
chế hơn nhiều so với tính xã hội. Nhà nước bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của đảng cộng
sản, nhà nước là công cụ để thực hiện và bảo vệ sự lãnh đạo của đảng cộng sản, là công cụ chủ yếu để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Phân tích tính xã hội của nhà nước
3.3.1. Quan điểm của Mác Lênin về tính xã hội của nhà nước: Cùng với tính giai cấp thì tính xã hội cũng là thuộc tính cơ bản, khách quan và
không thế thiếu của tất cả các nhà nước.
3.3.2 Lý do nhà nước có tính xã hội
– Nhà nước xuất hiện do nhu cầu điều hành và quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.
– Nhà nước là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, là một tổ chức trong xã hội, nó ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng xã hội loài
người ở những giai đoạn lịch sử nhất định và có sứ mệnh điều hành, quản lý xã hội.
– Nhà nước là một hình thức tổ chức của xã hội nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội.
3.3.3 Biểu hiện tính xã hội của nhà nước
Tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ: Nhà nước là bộ máy để tổ chức và quản lý xã hội, nhằm thiết lập, giữ gìn trật tự và sự on định của xã
hội, bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng, vì sự phát triển của xã hội.
– Bất cứ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển được cũng phải có trật tự và sự ổn định tương đối, tức là phải được tổ chức và quản lý chặt chẽ. Xã
hội nào cũng có hàng loạt các vấn đề mang tính chất chung như: Sản xuất, thiên tai, địch họa, trật tự, an toàn xã hội… Để giải quyết các vấn đề
chung đó cần có một tổ chức thay mặt xã hội, nhân danh xã hội để tổ chức, tập hợp, quản lý toàn xã hội, tổ chức đó phải thiết lập quyền lực chung
(quyền lực công) của toàn xã hội. Tổ chức đó chính là nhà nước.
– Trước khi có nhà nước, các công việc chung của xã hội do thị tộc, bộ lạc giải quyết. Khi nhà nước xuất hiện thì trách nhiệm đó thuộc về nhà
nước. Nhà nước phải thay mặt xã hội, đứng ra tổ chức dân cư, giải quyết các vấn đề chung vì sự ổn định, sống còn của cả xã hội chứ không phải
của riêng giai cấp, lực lượng xã hội hay cá nhân nào.
– Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội nên ở mức độ này hay mức độ khác phải có trách nhiệm xác lập, thực hiện và bảo vệ các lợi ích
cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân tộc và công dân của mình; phải tập hợp và huy động mọi tầng lớp trong xã hội vào việc thực hiện các nhiệm vụ
chung để bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; duy trì trật tự xã hội và giải quyết các vấn đề phát sinh trong nước và quốc tế, tạo
điều kiện cho các lĩnh vực hoạt động của xã hội được tiến hành bình thường, có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nhà nước nhân danh
và đại diện cho cả xã hội để quản lý xã hội, giải quyết các công
việc chung của cả cộng đồng xã hội.
– Nhà nước có nhiều hoạt động vì lợi ích của các giai cấp, lực lượng khác nhau trong xã hội, của cả cộng đồng như: Xây dựng và phát triển giáo
dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội (đường sá, cầu cống, trường học, bệnh viện…); tổ chức, điều hành và quản lý các
dịch vụ công…
– Nhà nước là bộ máy cưỡng chế để bảo vệ công lý, công bằng xã hội, bảo vệ trật tự chung trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như: Bảo vệ
trật tự an ninh, an toàn xã hội, bảo đảm trật tự an toàn giao thông và thông tin liên lạc, bảo vệ môi trường sống…
– Nhà nước thay mặt xã hội thực thi chủ quyền quốc gia, phòng, chống ngoại xâm, bảo vệ Tố quốc… Không những thế, nhà nước còn là công cụ
để giữ gìn và phát triển những tài sản văn hoá tinh thần chung của xã hội, những giá trị đạo đức, truyền thống và phong tục, tập quán phù hợp với
ý chí của nhà nước.
– Mặc dù tính xã hội là thuộc tính chung của tất cả các nhà nước, song các nhà nước khác nhau sẽ khác nhau ở mức độ biểu hiện cụ thể của thuộc
tính đó, tuỳ thuộc vào các điều kiện kinh tế – xã hội, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
+ Ở các nhà nước chủ nô và phong kiến, do cơ sở kinh tế – xã hội và trình độ phát triển của xã hội lúc đó nên tính xã hội của các nhà nước đó thể
hiện khá mờ nhạt và hạn chế. Nhà nước chủ nô đã thực hiện một số hoạt động vì lợi ích chung của xã hội như xây dựng và bảo vệ các công trình
thuỷ nông, xây dựng đường sá, cầu cống, thúc đẩy một số ngành nghề sản xuất phát triển.

7
+ Hoạt động tgia giải quyết các vấn đề chung của xã hội của nhà nước phong kiến cũng chưa nhiều nên tính xã hội của nó thể hiện còn mờ nhạt
và hạn chế. Mọi quyền lực đều thuộc về các vua, chúa phong kiến, do đó nền chính trị tốt hay xấu trong nhiều trường hợp phụ thuộc vào nhân
cách, phấm hạnh của vua, chúa và tầng lớp quan lại trong nước. Việc đưa đất nước đến hưg thịnh hay suy vong, nhdân ấm no hay đói khổ, lầm
than trong nhiều trường hợp phụ thuộc rất nhiều vào vai trò, sự sáng suốt, nhân từ hay sự ngu muội, bạo ngược của vua, chúa trong đất nước.
+ Khi nhà nước tư sản ra đời, do yêu cầu và sự phát triển của xã hội, của nền dân chủ nên tính xã hội của nhà nước tư sản thể hiện rõ rệt và rộng
rãi hơn nhiều so với các nhà nước chủ nô và phong kiến, đặc biệt là ở giai đoạn hiện tại. Nhà nước tư sản đã thực hiện khá nhiều chính sách nhằm
thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội, của nền văn minh nhân loại, nhưng tất nhiên là không phương hại nhiều đến lợi ích của giai cấp tư sản,
của lực lượng cầm quyền.
+ Ở các nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, tính xã hội đã thể hiện khá rộng rãi và rõ rệt, phần lớn các hoạt động của nhà nước là vì
lợi ích chung của xã hội, của cả cộng đồng.
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa sau này sẽ là kiểu nhà nước thể hiện tính xã hội rộng rãi, rõ rệt và sâu sắc nhất. Bởi lẽ, cơ sở kinh tế của kiểu nhà
nước này là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được đặc trưng bằng chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và quan hệ hữu
nghị, bình đẳng và hợp tác giữa những người lao động. Cơ sở xã hội của nhà nước này là những người lao động mà chủ yếu là công nhân, nông
dân và trí thức, những người có lợi ích và địa vị xã hội tương đối thống nhất. Vì thế, nhà nước sẽ dần dần trở thành nhà nước thực sự của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, là công cụ để phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội và là công cụ chủ yếu để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội –
xã hội đủ
khả năng mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người dân.
Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, dân chủ và văn minh mà tính xã hội của nhà nước có xu hướng thể hiện ngày càng rõ
rệt, rộng rãi và sâu sắc hơn; sự giới hạn quyền lực nhà nước được xác định ngày càng chặt chẽ hơn; tính minh bạch, công khai và cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước ngày càng được thực hiện có hiệu quả hơn; quá trình xã hội hoá một số hoạt động của nhà nước diễn ra ngày càng mạnh
mẽ hơn.
3.4. Tính xã hội của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là nhà nước thuộc kiểu xã hội chủ nghĩa nhưng mới ở thời kỳ quá độ. Theo quy định tại
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 thì:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dần mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”
3.4.1 Nhà nước ta đang được xây dựng theo hướng trở thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, là nhà nước có tính xã hội rộng rãi và rõ rệt
a – Nhà nước ta đã và đang được xây dựng theo hướng thực sự trở thành nhà nước của nhdân, do nhdân, vì nhân dân. Tức là nhà nước đáp ứng
được các tiêu chí sau:
– Nhà nước phải là của toàn thể nhân dân mà không phải là của riêng giai cấp, tầng lớp nào. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nên
quyền lực của nhà nước cũng như của mỗi cơ quan nhà nước đều nhận được từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho, nhà nước chỉ là công cụ để
đại diện và thực hiện quyền lực của toàn thể nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
– Nhân dân có thể trực tiếp làm việc trong các cơ quan nhà nước khi được bầu, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng, qua đó, trực tiếp nắm giữ và thực hiện
quyền lực Nn.
– Nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
– Nhà nước là do nhân dân tổ chức thông qua việc trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra các cơ quan nhà nước. Các đại biểu do nhân dân bầu ra chỉ là
những người được sự ủy quyền của nhân dân nên chỉ là “công bộc”, là “đầy tớ” của dân. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và nhân
dân có quyền bãi miễn các đại biểu không còn xứng đáng với sự ủy quyền, sự tín nhiệm của nhân dân.
– Nhà nước do nhân dân ủng hộ, đóng thuế để “nuôi”, giám sát hoạt động của các nhân viên và cơ quan nhà nước.
– Nhân dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ để cho Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn.
– Nhà nước vì nhân dân là nhà nước phục vụ cho lợi ích và đáp ứng tốt nhất những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. “Vì con người, cho
con người và bảo vệ con người” là mục tiêu cao nhất của mọi chính sách, quy định pháp luật và hoạt động của nhà nước. Nhà nước phải liêm
chính, phải kiến tạo sự phát triển và bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
– Cán bộ, công chức, viên chức của Nhà nước vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân hoạt động nên phải luôn tôn trọng nhân
dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; phải thực sự trong sạch, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, không có đặc quyền, đặc lợi.
Một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì cũng là nhà nước xã hội chủ nghĩa và có tính xã hội rộng rãi, rõ rệt
nhất.
b – Nhà nước ta đang được xây dựng theo hướng trở thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Tức là Nhà nước khắng định và bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội, một Nhà nước luôn bị ràng buộc
bởi pháp luật của chính mình, tuyệt đối tôn trọng và thực hiện pháp luật trong cả tổ chức lẫn hoạt động của Nhà nước. Mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã chính thức trở thành mục tiêu hiến định của Nhà nước ta từ năm 2001 trở lại đây, sau khi Hiến pháp năm
1992 được sửa đối, bổ sung.
2 Nhà nước ta vừa là bộ máy để tổ chức và xây dựng xã hộị điều hành và quản lý các lĩnh vực cơ bản của đời sống, vừa là bộ máy cưỡng
chế, trấn áp để bảo vệ chính quyền của nhân dân, thiết lập trật tự xã hội
– Mục đích cao nhất của Nhà nước ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, một xã hội đủ khả năng mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho mọi người dân. Để có xã hội đó, Nhà nước ta phải trực tiếp tổ chức và quản lý các lĩnh vực hoạt động cơ bản của xã hội, trong đó trước
tiên và quan trọng nhất là tổ chức và quản lý kinh tế.
– Tuy nhiên, từ khi ra đời tới nay, Nhà nước ta luôn gặp phải sự phản kháng, sự chống đối của các lực lượng và phần tử thù địch, phản cách
mạng, phản tiến bộ, thiếu ý thức và không hướng thiện. Do vậy, để bảo vệ chính quyền của nhân dân, bảo vệ chế độ, thiết lập và giữ gìn trật tự xã
hội, Nhà nước ta phải là một bộ máy cưỡng chế, một cơ quan trấn áp.
3.4.3 Nn ta là công cụ chủ yếu để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
– Dân chủ hiểu một cách đơn giản là dân làm chủ, quyền làm chủ thuộc về nhân dân hay chính quyền thuộc về nhân dân. Tất cả các tổ chức trong
hệ thống chính trị đều là công cụ để xây dựng nền dân chủ, song Nhà nước là công cụ chủ yếu nhất vì nó có nhiều ưu thế mà các tổ chức khác
không có.
– Thông qua pháp luật, Nhà nước thừa nhận các quyền tự do dân chủ rộng rãi cho công dân, thừa nhận địa vị pháp lý cho các tổ chức xã hội, đoàn
thể quần chúng. Nhà nước quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Nhà nước có sức mạnh
quản lý, cưỡng chế và vật chất lớn nhất trong xã hội.

8
– Trong quá trình quản lý xã hội, Nhà nước cố gắng xây dựng nền dân chủ ở cơ sở nhằm bảo đảm cho phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, giám sát” từng bước trở thành hiện thực ở các địa phương.
3.4.4 Nhà nước ta có tính dân tộc rất sâu sắc và là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam
– Nhà nước ta ra đời trên cơ sở kết quả của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhưng theo hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cách mạng nước
ta trải qua hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giành quyền độc lập cho dân tộc, quyền dân chủ cho nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong cả hai giai đoạn cách mạng đó, Nhà nước đều phải huy động sức
mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam và thực sự đã có sự tham gia tích cực của toàn dân tộc, của cả cộng đồng
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Vì thế, Nhà nước luôn là đại biểu trung thành của khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.
– Các chính sách của Nhà nước luôn hướng tới việc bảo đảm sự bình đẳng về mọi phương diện cho các dân tộc, đa số cũng như thiểu số; khuyến
khích các dân tộc đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển sự bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với
đất nước.
3.5. Thế nào là nhà nước “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”
Có thể hiểu nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nhà nước đáp ứng các tiêu chí sau:
Nhà nước phải là của toàn thể nhân dân
– Nhà nước phải là của toàn thể nhân dân mà không phải là của riêng giai cấp, tầng lớp nào. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nên
quyền lực của nhà nước cũng như của mỗi cơ quan nhà nước đều nhận được từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho, nhà nước chỉ là công cụ để
đại diện và thực hiện quyền lực của toàn thể nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Nhà nước phải do nhân dân trực tiếp nắm giữ và thực hiện
quyền lực nhà nước
– Nhân dân có thể trực tiếp làm việc trong các cơ quan nhà nước khi được bầu, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng, qua đó, trực tiếp nắm giữ và thực hiện
quyền lực nhà nước.
– Nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Nhà nước là do nhân dân bầu ra các cơ quan nhà nước
– Nhà nước là do nhân dân tổ chức thông qua việc trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra các cơ quan nhà nước. Các đại biểu do nhân dân bầu ra chỉ là
những người được sự ủy quyền của nhân dân nên chỉ là “công bộc”, là “đầy tớ” của dân. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và nhân
dân có quyền bãi miễn các đại biểu không còn xứng đáng với sự ủy quyền, sự tín nhiệm của nhân dân.
Nhà nước là do nhân dân ủng hộ, đóng thuế
– Nhà nước do nhân dân ủng hộ, đóng thuế để “nuôi”, giám sát hoạt động của các nhân viên và cơ quan nhà nước.
Nhà nước là do nhân dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ
– Nhân dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ để cho Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn.
– Nhà nước vì nhân dân là nhà nước phục vụ cho lợi ích và đáp ứng tốt nhất những nguyện vọng chính đáng của nhân dân. “Vì con người, cho
con người và bảo vệ con người” là mục tiêu cao nhất của mọi chính sách, quy định pháp luật và hoạt động của nhà nước. Nhà nước phải liêm
chính, phải kiến tạo sự phát triển và bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
– Cán bộ, công chức, viên chức của Nhà nước vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân hoạt động nên phải luôn tôn trọng nhân
dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; phải thực sự trong sạch, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, không có đặc quyền, đặc lợi.
Một nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì cũng là nhà nước xã hội chủ nghĩa và có tính xã hội rộng rãi, rõ rệt
nhất.
3.6. Phân biệt nhà nước với các tổ chức xã hội khác
3.6.1 Định nghĩa
– Định nghĩa nhà nước: Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi
quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền
– Định nghĩa các tổ chức xã hội khác: Các tổ chức xã hội khác là các tổ chức tự nguyện của những người có cùng mục đích, chính kiến, lý tưởng,
nghề nghiệp, độ tuổi hoặc giới tính…được thành lập và hoạt động nhằm đại diện và bảo vệ lựi ích cho các hội viên của chúng.
3.6.2 Phân biệt: Nhà nước khác với các tổ chức xã hội khác ở những đặc trưng cơ bản của nó.
3.7. Phân tích chức năng kinh tế của Nhà nước CHXNCN Việt Nam
3.7.1 Tầm quan trọng of chức năng kinh tế trong Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Đây là một trong ba chức năng quan trọng nhất của Nhà nước ta hiện nay vì việc thực hiệnchức năng này có thể thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế,
nâng cao mức sống của nhân dân, đảmbảo phương tiện vật chất cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
3.7.2 Nội dung chức năng kinh tế của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Chức năng kinh tế của Nhà nước ta bao gồm hai mặt là tổ chức kinh tế và quản lý kinh tế.
– Nhà nước khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai tròchủ đạo” (khoản 1 Điều 51 Hiến pháp năm 2013).
– Nhà nước thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế đang vận động và phát triển trongnền kinh tế nhằm phát huy mọi nguồn lực, tận dụng
được nhiều yếu tố tích cực của các thànhphần kinh tế. Mặc dù các thành phần kinh tế đều bình đẳng, song, thông qua vai trò chủ đạocủa thành
phàn kinh tế nhà nước, Nhà nước có thể giữ vai trò chủ động trong quản lý và điềuhành nền kinh tế quốc dân.
– Nhà nước đã và đang tiến hành cổ phần hóa các công ty, xí nghiệp của Nhà nước, trong đó Nhà nước vẫn giữ tỷ lệ cổ phần đủ để đảm bảo sự
chi phối của Nhà nước trong những lĩnhvực, ngành nghề quan trọng.
– Hiện nay, Nhà nước đang thực hiện nhiều chính sách để hỗ trợ cho thành phần kinh tế tư nhân, giúp cho thành phần này có thể trở thành động
lực của nền kinh tế.
– Để đảm bảo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển ổn định, lành mạnh, cân đối, bền vững theo quy luật của thị trường,
Nhà nước quản lý kinh tế một cách vĩ mô thông qua các hoạt động:
+ Tạo lập môi trường cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh;
+ Định hướng, hướng dẫn cho các hoạt động kinh tế;

9
+ Điều tiết và kiểm soát đối với các hoạt động kinh tế;
+ Có chính sách ưu tiên phát triển đối với những ngành nghề mang lại lợi nhuận thấp nhưng cần cho quốc kế dân sinh;
+ Khuyến khích đối với những cá nhân, tổ chức kinh tế tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động hay sử dụng được những người lao
động yếu thế (người khuyết tật, thể trạng kém);
+ Sử dụng các công cụ tài chính – tiền tệ làm đòn bẩy kích thích kinh tế tăng trưởng nhằm tác động có hiệu quả vào nền kinh tế;
+ Sử dụng hợp lý thuế, phí để điều tiết nền kinh tế; quy định về phân phối sản phẩm xã hội, về giá, lương, tiền hợp lý để đảm bảo công bằng xã
hội…
– Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế thống nhất nhưng cũng đã chú trọng tới những địa phương có điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý đặc biệt để có
cơ chế đặc thù, phù hợp, từ đó xây dựng những vùng đặc quyền kinh tế, các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt như Vân Đồn, Bắc Vân Phong,
Phú Quốc… nhằm phát huy được thế mạnh của các địa phương.
3.8 Phân tích chức năng bảo vệ Tổ quốc của Nhà nước CHXNCN Việt Nam
3.8.1 Tầm quan trọng của chức năng bảo vệ Tổ quốc (đất nước) của Nhà nước CHXNCN Việt Nam
– Bảo vệ đất nước là chức năng của bất kỳ nhà nước nào trên thế giới, Nhà nước VN cũng 0 phải là ngoại lệ. Trong điều kiện tình hình thế giới có
nhiều biến động phức tạp, nguy cơ chiến tranh xâm lược vẫn tồn tại, Nhà nước Việt Nam phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đối
phó với mọi tình huống có thể xảy ra.
– Thực tế cho thấy, chức năng bảo vệ đất nước luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào.
3.8.2 Nội dung chức năng bảo vệ đất nước của Nhà nước CHXNCN Việt Nam
Thực hiện chức năng này, Nhà nước cần:
– Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hùng mạnh, thế trận an ninh nhân dân
– Xây dựng lực lượng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân;
– Quy định nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc đối với công dân;
– Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
– Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế;
– Sử dụng các diễn đàn quốc tế để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nuớc…
IV. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
4.1. Bộ máy nhà nước là gì? Mối liên hệ với chức năng của nhà nước
1 – Phân tích khái niệm bộ máy nhà nước
a –Kn: Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương,
được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước.
b – Phân tích các đặc điểm của bộ máy nhà nước
– Bộ máy nhà nước là hệ thống cơ quan nhà nước, bao gồm nhiều cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương:
+ Trong bộ máy nhà nước bao gồm khá nhiều cơ quan nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước là một yếu tố, một đơn vị cấu thành bộ máy nhà nước.
Chẳng hạn, bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay gồm nhiều cơ quan từ trung ương tới địa phương như Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân,
ủy ban nhân dân…
+ Giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một thể thống nhất, trong đó
mỗi cơ quan nhà nước được xem như là một mắt xích của hệ thống đó.
– Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật và trên cơ sở những nguyên tắc nhất định.
+ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở
cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
+ Bộ máy nhà nước thường bao gồm nhiều cơ quan có vị trí, vai trò và phạm vi hoạt động…khác nhau, do vậy, khó có thể phát huy được sức
mạnh và hiệu quả hoạt động của bộ máy nếu không được tổ chức một cách chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ. Vì thế, để thiết lập trật tự trong bộ máy
nhà nước nhằm tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, thống nhất trong hoạt, động giữa các cơ quan nhà nước, tăng cường sức mạnh của cả bộ máy nhà
nước, đòi hỏi quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy này phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật và những nguyên tắc chung nhất
định. Ví dụ, bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc như: chủ quyền nhân dân, tập trung dân
chủ, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật…
– Bộ máy nhà nước được thiết lập để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông
qua bộ máy nhà nước, khi nhà nước cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, nhà nước thành lập ra các cơ quan tương ứng để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ ấy. Chẳng hạn, khi môi trường của đất nước bị ô nhiễm thì nhà nước phải thành lập cơ quan quản lý và bảo vệ môi trường
để xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn môi trường nhằm hướng dẫn mọi người bảo vệ môi trường; kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật
bảo vệ môi trường của các chủ thể và phát hiện, xử lý các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường…
2 Mối liên hệ giữa bộ máy nhà nước với chức năng của nhà nước
Bộ máy nhà nước được thành lập và hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước, do vậy, quy mô, cơ cấu của bộ máy nhà
nước cũng như cách thức tổ chức và hoạt động của từng cơ quan nhà nước… chịu sự chi phối có tính chất quyết định của chức năng nhà nước.
Chẳng hạn, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là trấn áp thì trong bộ máy nhà nước các cơ quan cưỡng chế, trấn áp cũng là chủ yếu và được
coi trọng nhất; ngược lại, nếu chức năng chủ yếu của nhà nước là tổ chức và quản lý kinh tế, xã hội thì trong bộ máy nhà nước cũng chủ yếu bao
gồm các cơ quan quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng của nhà nước càng nhiều, càng đa dạng, phong phú thì bộ máy nhà nước
càng đồ sộ, phức tạp, số lượng các cơ quan và nhân viên trong bộ máy nhà nước càng đông hơn và cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước càng phải khoa học và hợp lý hơn. Ví dụ, chức năng của Nhà nước Việt Nam hiện nay nhiều hơn, đa dạng và phong
phú hơn so với chức năng của các nhà nước phong kiến Việt Nam, do vậy, bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay đồ sộ và phức tạp hơn nhiều so
với các nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây.
Do được thành lập để thực hiện các chức năng của nhà nước nên hiệu quả thực hiện các chức năng của nhà nước lại phụ thuộc vào sự
hợp lý trong tổ chức và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu bộ máy nhà nước được tổ chức hợp lý, phù hợp với chức năng, hoạt động
có hiệu quả thì hiệu quả thực hiện các chức năng của nhà nước sẽ cao và ngược lại, nếu tổ chức của bộ máy nhà nước không hợp lý, hoạt động
của bộ máy nhà nước kém hiệu quả thì hiệu quả thực hiện chức năng của nhà nước sẽ thấp.
4.2 Phân tích khái niệm và đặc điểm của Cơ quan nhà nước
1. Kn: Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước, bao gồm số lượng người nhất định, được tổ chức và hoạt động theo quy định của
pháp luật, nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước.
2. Đặc điểm của Cơ quan nhà nước?
a – Cơ quan nhà nước ỉà bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước và đó chỉ là những bộ phận then chốt, thiết yếu của nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước
gồm một số lượng người nhất định, có thể gồm một người (Nguyên thủ quốc gia ở nhiều nước) hoặc một nhóm người (Quốc hội, Chính phủ…)

10
b – Cơ quan nhà nước do nhà nước và nhân dân thành lập. Tùy thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước… mà nhà nước có thể thành lập mới, sáp nhập, chia tách hay xóa bỏ một cơ quan nào đó trong bộ máy nhà nước. Nhà nước có thể tổ
chức các cuộc bầu cử để nhân dân bầu cử ra các cơ quan nhà nước mới, tức là tổ chức cho nhân dân tham gia thành lập các cơ quan nhà nước. Ví
dụ, bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở nước ta.
c – Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước do pháp luật quỵ định. Pháp luật quy định cụ thể về vị trí, tính chất, vai trò, con đường hình
thành, cơ cấu tổ chức, nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động… của mỗi cơ quan trong BMNN.
d – Mỗi cơ quan Nn có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng do pháp luật quy định. Vd, chức năng của Nghị viện (Quốc hội) là lập pháp,
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước;… chức năng của Toà án là xét xử các vụ án.
đ – Mỗi cơ quan nhà nước được trao cho những quyền năng nhất định để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Toàn bộ nhiệm vụ và
quyền hạn mà một cơ quan nhà nước được thực hiện và phải thực hiện tạo nên thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước nhân danh
và sử dụng quyền lực nhà nước, sử dụng những quyền năng nhất định để thực hiện thẩm quyền của mình.
Quyền năng mà cơ quan nhà nước được sử dụng để thực hiện thẩm quyền của mình gồm có:
– Có quyền ban hành những quyết định nhất định dưới dạng quy tắc xử sự chung (ví dụ, luật của Quốc hội) hoặc quyết định cá biệt (ví dụ, bản án
của Tòa án) là những quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan;
– Có quyền yêu cầu các tổ chức và cá nhân có liên quan phải thực hiện nghiêm chỉnh những quyết định do nó hoặc các chủ thể khác có thẩm
quyền ban hành;
– Có quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện và sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quyết định đó;
– Có quyền sử dụng các biện pháp cần thiết, trong đó có cả các biện pháp cưỡng chế nhà nước để bảo đảm thực hiện các quyết định đó.
4.3 Phân biệt Cơ quan nhà nước với cơ quan của tổ chức khác
1 Cơ quan nhà nước và cơ quan của tổ chức xã hội khác là gì?
– Định nghĩa cơ quan nhà nước: Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước, bao gồm số lượng người nhất định, được tổ chức và
hoạt động theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. (ví dụ: Quốc hội là một cơ quan nhà nước)
– Định nghĩa cơ quan của các tổ chức khác: Cơ quan của tổ chức xã hội khác là bộ phận cơ bản cấu thành nên tổ chức đó, bao gồm số lượng
người nhất định, được tổ chức và hoạt động theo quy định của tổ chức, nhân danh tổ chức để thực hiện các hoạt động của tổ chức (ví dụ: Đại hội
đại biểu toàn quốc của Đoàn là một cơ quan của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh)
4.4. Phân loại cơ quan Nn, cho vd minh họa đối với từng tiêu chí phân loại đó
1 – Cơ quan nhà nước là gì?: Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước, bao gồm số lượng người nhất định, được tổ chức và hoạt
động theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước.
2 – Phân loại Cơ quan nhà nước: Có thể phân loại cơ quan Nn theo các cách sau:
a – Căn cứ vào thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ: Căn cứ vào thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ, có thể chia thành các cơ quan nhà nước ở trung
ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương:
– Cơ quan nhà nước ở trung ương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động trên toàn lãnh thổ, ví dụ: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao…
– Cơ quan nhà nước ở địa phương là cơ quan có thẩm quyền hoạt động trong phạm vi một địa phương. Ví dụ: Hội đồng nhân dân hoặc Ủy ban
nhân dân các địa phương…
b – Căn cứ vào chức năng của các cơ quan nhà nước: Căn cứ vào chức năng của các cơ quan nhà nước, có thể chia thành cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
– Cơ quan lập pháp là cơ quan ban hành luật. Ví dụ: Quốc hội hay Nghị viện.
– Cơ quan hành pháp là cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật. Ví dụ: Chính phủ, Nội các.
– Cơ quan tư pháp là cơ quan bảo vệ pháp luật. Ví dụ: Tòa án.
c – Căn cứ vào thời gian hoạt động: Căn cứ vào thời gian hoạt động, các cơ quan nhà nuớc được chia thành cơ quan thường xuyên và cơ quan lâm
thời.
– Cơ quan thường xuyên là cơ quan được thành lập để thực hiện những công việc thường xuyên của nhà nước, tồn tại thường xuyên trong bộ máy
nhà nước.
– Cơ quan lâm thời là cơ quan được thành lập để thực hiện những cồng việc có tính chất nhất thời của nhà nước, sau khi thực hiện xong công việc
đó nó sẽ tự giải tán, ví dụ, Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, các cơ quan bầu cử ở nước ta…
d – Căn cứ vào con đường hình thành, tính chất, chức năng, các cơ quan nhà nước: các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan quyền lực nhà
nước, nguyên thủ quốc gia, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát.
– Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan do nhân dân bầu ra, đại diện cho nhân dân để thực thi quyền lực nhà nước.
– Nguyên thủ quốc gia là cơ quan đứng đầu nhà nước, đại diện chính thức cho nhà nước trong các quan hệ đối nội và đối ngoại.
– Cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan được hình thành từ cơ quan quyền lực nhà nước, thực hiện chức năng quản lý, điều hành công việc hàng
ngày của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
– Cơ quan xét xử có chức năng xét xử các vụ án.
– Cơ quan kiểm sát có cnăng thực hành quyền côg tố, kiểm soát hoạt động tư pháp.
4.5. Phân tích nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước trong BMNN
1 – Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là gì?
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở
cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
2 – Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước là gì?
Là nguyên tắc cơ bản, quan trọng bậc nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản và hiện được áp dụng vào tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước của rất nhiều nhà nước đương đại.
Nguyên tắc này bao gồm những nội dung cơ bản sau:
– Quyền lực nhà nước được phân chia thành nhiều loại quyền khác nhau như quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và được trao cho
các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện một cách độc lập, mỗi cơ quan chỉ thực hiện một quyền để đảm bảo không một cơ quan nào nắm trọn
vẹn quyền lực nhà nước, cũng như không một cơ quan nào có thể “lấn sân” sang hoạt động của cơ quan khác.
Thực chất của sự phân chia quyền lực là sự phân định một cách rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước,
đồng thời đảm bảo sự chuyên môn hóa trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp luật.
– Giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có sự kiềm chế, đối trọng với nhau theo phương châm không cơ quan nào nằm ngoài sự
kiểm soát, giám sát từ phía cơ quan khác nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thực
hiện quyền lực nhà nước, qua đó bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội cũng như có thể tránh được
những mối nguy hại khác. Sự kiểm soát, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng thể hiện sự
phối hợp với nhau nhằm tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà nước.

11
Ở các nước tư bản, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể, việc áp dụng nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước không hoàn toàn giống nhau. Thực tế cho thấy, có thể có ba mô hình áp dụng nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước tư sản, đó là mô hình phân quyền cứng rắn, mô hình phân quyền mềm dẻo, mô hình phân quyền hỗn hợp (trung gian). Sự khác
nhau giữa ba mô hình này thể hiện ở cơ cấu các thiết chế quyền lực tối cao, địa vị của từng thiết chế cũng như mối quan hệ giữa chúng. Trong
thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước, sự phân chia quyền lực nhà nước không chỉ giới
hạn ở việc phân quyền theo chiều ngang (lập pháp, hành pháp, tư pháp) mà còn diễn ra theo chiều dọc, giữa nhà nước liên bang với nhà nước
thành viên, giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
4.6. Phân tích nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân trong BMNN
1 – Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là gì?
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở
cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
2 – Phân tích nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân
Đây là nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đương đại. Trước đây, chủ quyền quốc gia thuộc về
nhà vua. Nhà vua có quyền quyết định tối cao mọi vấn đề của đất nước, người dân bị coi như “bề tôi” của nhà vua, họ phải phục tùng nhà vua
một cách tuyệt đối.
Hiện nay, chủ quyền trong xã hội thuộc về nhân dân. Nhân dân là người chủ tối cao của đất nước, là người thành lập ra nhà nước, trao
quyền cho nhà nước và kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước. Nhân dân có quyền quyết định tối cao các vấn đề quan trọng của đất nước,
nhà nước phải phục tùng các quyết định của nhân dân. Hiến pháp và pháp luật của hầu hết các quốc gia đương đại quy định:
– Chủ quyền thuộc về nhân dân;
– Các hình thức để nhân dân tham gia vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Bầu cử và ứng cử vào cơ quan đại diện của nhà nước, trực
tiếp thực hiện các hoạt động của nhà nước khi được bầu, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước;
– Vị trí, vai trò của cơ quan dân cử trong bộ máy nhà nước;
– Những vấn đề quan trọng của đất nước nhà nước không được tự ý quyết định, nhà nước phải trưng cầu ý kiến nhân dân;
– Trách nhiệm của nhà nước trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân; quy định vai trò của xã hội
dân sự…
Ở các nhà nước khác nhau, nguyên tắc chủ quyền nhân dân được nhận thức và thực hiện vớinhững mức độ, phạm vi khác nhau. Tại
Việt Nam, chủ quyền nhân dân đã trở thành một nguyên tắc hiến định với nội dung:
“1 – Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
2 – Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dần mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. (Điều 2 Hiến pháp năm 2013)
4.7. Phân tích nguyên tắc bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật (nguyên tắc pháp chế)
1 – Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (BMNN) là gì?
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở cho toàn
bộ quá trình tổ chức và hoạt động của BMNN.
2 – Phân tích nguyên tắc nguyên tắc pháp chế
Đây là nguyên tắc đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không thể tiến hành một cách tuỳ tiện, độc đoán theo ý chí cá nhân của
người cầm quyền mà phải dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Hầu hết các nhà nước đương đại đều có Hiến pháp, luật quy định khá đầy đủ về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, trình tự thành lập,
chức năng, thẩm quyền… của các cơ quan, nhân viên nhà nước, về mặt tổ chức, nguyên tắc này đòi hỏi việc thành lập mới, giải thể, chia tách, sáp
nhập một cơ quan nhà nước, cơ cấu của nó, vấn đề tuyển dụng, bổ nhiệm các thành viên trong cơ quan đó… đều phải được tiến hành theo đúng
quy định của Hiến pháp và pháp luật, về mặt hoạt động, nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan và nhân viên nhà nước phải thực hiện đúng đắn, đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo đúng trình tự, thủ tục đã được Hiến pháp và pháp luật quy định; mọi sự vi phạm pháp luật của
nhân viên và cơ quan
nhà nước đều phải bị xử lý theo pháp luật… Nguyên tắc này được áp dụng rộng rãi trong nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này ở các nhà nước tư sản không hoàn toàn nhất quán mà có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Đối với Nhà nước Việt Nam, đây cũng định và được ghi nhận trong Hiến pháp ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn. Chẳng hạn, Hiến
pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ” (Điều 12), hoặc Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật… ”
(khoản 1 Điều 8).
4.8. Phân tích các đặc điểm của Bộ máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
1 – Bộ máy nhà nước là gì?
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
2 – Phân tích đặc điểm của Bộ máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN
Bộ máy Nhà nước ta hiện nay có các đặc điểm sau:
a – Bộ máy Nhà nước Việt Nam mang tính nhân dân sâu sắc
– Bộ máy này do nhân dân tổ chức ra nên nó được tổ chức và hoạt động trên cơ sở sự ủy nhiệm của nhân dân.
– Các cơ quan, nhân viên nhà nước nhận được quyền lực từ nhân dân, thừa ủy quyền của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của
họ, các hoạt động của bộ máy nhà nước đều nhằm phục vụ nhân dân, bảo đảm, bảo vệ lợi ích cho nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân…
b – Bộ máy Nhà nước Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ xuất phát từ bản chất của Nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay bao gồm: Bảo đảm chủ quyền nhân dân (bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân); Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật; Tập trung dân chủ…
c – Trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, các cơ quan quản lí kinh tế -xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện để thực hiện sự quản lí mọi
mặt của đời sống xã hội, các cơ quan cưỡng chế, trấn áp được xây dựng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để có thể đủ khả
năng bảo vệ chủ quyền quốc gia, trật tự, an ninh, an toàn xã hội.
Nhìn tổng thế, bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay đang chuyển dần sang tính chất phục vụ nhân dân, chủ yếu cung cấp dịch vụ công như điện,
nước, đường giao thông, y tế, giáo dục…cho xã hội.
d – Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay .
Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo nhân dân làm cách mạng giành chính quyền từ tay giai cấp thống trị cũ, thành lập nên nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam. Từ đó đến nay, trong suốt công cuộc kháng chiến và kiến quốc, Đảng cộng sản Việt Nam luôn thực hiện sự lãnh đạo toàn diện

12
đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đảm bảo sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản là điều kiện tiên quyết để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
V. HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
1. Hình thức chính thể là gì? Phân tích khái niệm hình thức chính thể?
1 – Phân tích khái niệm hình thức chính thể
a Kn: Hình thức chính thể nhà nước là cách thức và trình tự thành lập cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa cơ
quan đó với cơ quan cấp cao khác và với nhân dân.
Định nghĩa trên cho thấy, xem xét về hình thức chính thể của một nhà nước là xem xét trình tự và thủ tục thành lập cơ quan tối cao của quyền lực
nhà nước, xem xét mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước với nhau, với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước và với
nhân dân. Cụ thể, tìm hiểu về hình thức chính thể của một nhà nước là tìm hiểu xem trong nhà nước đó:
– Quyền lực cao nhất của nhà nước được trao cho ai? Nhà vua hay một cơ quan hay một số cơ quan của nhà nước?
– Phương thức trao quyền lực cho các cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước là gì? Cha truyền con nối hay chỉ định hay suy tôn hay bầu cử…?
– Quan hệ giữa các cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước với nhau, với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước và với nhân dân diễn ra như thế
nào? Nhân dân ở nước đó có được tham gia vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước hay
không?
b .Các dạng chính thể: Trình tự và thủ tục thành lập cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực tối cao
của nhà nước với nhau, với các cơ quan cấp cao khác của nhà nước và với nhân dân thể hiện khác nhau ở các nhà nước khác nhau tùy theo từng
dạng chính thể. Vì vậy, hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là quân chủ và cộng hòa.
Chính thể quân chủ: là chính thể mà toàn bộ hoặc một phần quyền lực tối cao của nhà nuớc được trao cho một cá nhân (vua, quốc vương…) theo
phương thức chủ yếu là cha truyền con nối (thế tập).
– Đặc trưng:
+ Người đứng đầu nhà nước và về mặt pháp lý là người có quyền cao nhất của nhà nước là vua hoặc những người có danh hiệu tương tự.
+ Đa số các vua lên ngôi bằng con đường cha truyền con nối nên đó là phương thức chủ yếu.
Tuy nhiên, các nhà vua sáng lập ra một triều đại mới thường lên ngôi bằng các con đường khác như chỉ định, suy tôn, bầu cử, tự xưng, được
phong vương hoặc tiếm quyền, song ở các triều vua sau, phương thức truyền kế ngôi vua lại được duy trì và củng cố.
– Các dạng: Chính thể quân chủ có hai hình thức cơ bản là quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) và quân chủ hạn chế (tương đối), riêng chính thể quân
chủ hạn chế lại có ba biến dạng là quân chủ đại diện đẳng cấp, quân chủ nhị hợp (nhị nguyên) và quân chủ đại nghị (nghị viện).
Chính thể cộng hoà: Chính thể cộng hòa là chính thể mà quyền lực tối cao của nhà nước được trao cho một hoặc một số cơ quan theo phương
thức chủ yếu là bầu cử.
– Đặc trưng: Trong chính thể này, quyền lực cao nhất của nhà nước được trao cho một hoặc một số cơ quan chủ yếu bằng con đường bầu cử.
Hiến pháp của các nước có chính thể này đều quy định rõ trình tự, thủ tục để thành lập các cơ quan đó.
– Các dạng: Tuỳ theo đối tượng được hưởng quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước mà chính thể cộng hoà có các
dạng cơ bản là cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ.
+ Cộng hoà quý tộc: Là chính thể mà quyền bầu cử và được bầu vào cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước chỉ thuộc về tầng lớp quý tộc. Chính
thể này chủ yếu tồn tại ở một số nhà nước chủ nô như Spart, La Mã…
+ Cộng hoà dân chủ: Là chính thể mà về mặt pháp lý, quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước thuộc về mọi công
dân khi có đủ những điều kiện luật định.
Chính thể này có nhiều dạng tuỳ theo từng kiểu nhà nước như cộng hòa chủ nô, cộng hòa phong kiến, cộng hòa tư sản và cộng hòa xã hội chủ
nghĩa.
2. Phân tích sự biến đổi của chính thể cộng hòa qua các kiểu nhà nước?
1. Ở nhà nước chủ nô: Chính thể cộng hoà có cả hai dạng là cộng hoà quý tộc và cộng hoà dân chủ:
a – Cộng hoà quý tộc: là chính thể mà quyền bầu cử và được bầu vào cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước chỉ thuộc về tầng lớp quý tộc.
Chính thể này chủ yếu tồn tại ở Nhà nước La Mã từ Thế kỷ thứ IV đến Thế kỷ I trước công nguyên và ở Nhà nước Sparte từ thế kỷ VII đến thế
kỷ IV trước công nguyên.
b – Cộng hoà dân chủ: Cộng hoà dân chủ là chính thể mà về mặt pháp lý, quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan tối cao của quyền lực Nn thuộc
về mọi công dân khi có đủ những điều kiện luật định. Chính thể này đã tồn tại ở Nhà nước Athens.
2 – Ở nhà nước phong kiến: Chính thể cộng hoà dân chủ hình thành ở một số thành phố lớn của châu Âu giành được quyền tự trị bằng các con
đường như: Dùng tiền để mua quyền tự trị; đấu tranh, khởi nghĩa của thị dân giành chiến thắng buộc nhà vua phải thừa nhận quyền tự trị; liên kết
với nhà vua để chống lại lãnh chúa và được nhà vua thừa nhận quyền tự trị. Sau khi giành được quyền tự trị, quyền quản lý các công việc chung
của thành phố thuộc về Hội đồng thành phố do cư dân thành phố bầu, Hội đồng sẽ giao quyền quản lý từng lĩnh vực cụ thể cho các ủy viên của
Hội đồng.
3 – Ở nhà nước tư sản: Chính thể cộng hòa chỉ còn dạng cộng hòa dân chủ với bốn biến dạng cơ bản là cộng hòa Tổng thống, cộng hòa đại nghị
hay nghị viện, cộng hòa hỗn hợp hay lưỡng tính và cộng hòa Hồi giáo.
a – Cộng hòa tổng thống: Cộng hòa tổng thống là hình thức tổ chức bộ máy nhà nước thể hiện sự áp dụng nguyên tắc phân quyền một
cách cứng rắn, rõ rệt nhất. Hình thức này được hình thành ở Mỹ theo Hiến pháp năm 1787, sau đó, nó được áp dụng ở một số nước
Trung và Nam Mỹ, Philippines và 1 số nước khác.
Ở các Nn có chính thể cộng hòa tổng thống, quyền lập pháp thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc về tổng thống và quyền tư pháp thuộc về
hệ thống tòa án, điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp. Chính thể này có các đặc trưg sau:
– Tổng thống vừa đứng đầu quốc gia, vừa đứng đầu chính phủ, trong bộ máy nhà nước không có chức vụ thủ tướng. Tổng thống có quyền lực rất
lớn, vừa là trung tâm của bộ máy nhà nước, vừa là trung tâm quyết sách của chính phủ.
– Tổng thống nắm toàn quyền hành pháp. Tổng thống thành lập nội các từ các chính khách không phải là nghị sĩ để bảo đảm sự độc lập giữa Nghị
viện và Chính phủ. Tổng thống tự mình lựa chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm các bộ trưởng, Nghị viện sẽ phê chuẩn sự lựa chọn, bổ nhiệm và miễn
nhiệm đó.
– Tổng thống và Nghị viện đều do cử tri bầu ra, có thể độc lập với nhau, Tổng thống không chịu trách nhiệm trước nghị viện.
– Về mặt pháp lý, tổng thống không có quyền nêu sáng kiến xây dựng luật và không có quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn, Nghị viện cũng
khồng có quyền lật đổ Chính phủ.
– Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật mà Nghị viện đã thông qua, ngược lại, Nghị viện có quyền khởi tố và luận tội tổng thống và các
thành viên của Chính phủ theo thủ tục “đàn hạc” khi những người này vi phạm công quyền.
b – Cộng hoà đại nghị: Cộng hoà đại nghị có các đặc trưng sau:
– Trong bộ máy nhà nước vừa có chức vụ Tổng thống, vừa có chức vụ Thủ tướng, Tổng thống đứng đầu quốc gia, Thủ tướng đứng đầu Chính
phủ.

13
– Quyền hành pháp do hai bộ phận nắm giữ là Tổng thống và Chính phủ (mà chủ yếu là nội các).
– Tổng thống do Nghị viện bầu ra, được Hiến pháp quy định khá nhiều quyền song đó chủ yếu là những quyền có tính chất đại diện cho nhà
nước, còn trên thực tế Tổng thống không có thực quyền, không trực tiếp tham gia giải quyết các công việc của nhà nước. Vai trò của Nguyên thủ
quốc gia trong việc điều hành nhà nước chỉ mang tính chất hình thức, nghi lễ và tượng trưng.
– Tổng thống bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ không phải theo ý mình mà từ đại diện của đảng hoặc liên minh của các đảng có đa số ghế
trong Nghị viện. Tổng thống thực hiện các quyền của mình theo ý chí của Chính phủ, kể cả quyền giải tán Nghị viện trước thời hạn. Mọi hoạt
động của Tổng thống chỉ là sự phê chuấn các hoạt động “đã rồi” của Chính phủ.
– Tổng thống có thể không phải tường trình trước Quốc hội về những việc mình làm và trả lời chất vấn của Quốc hội; có thể không phải chịu
trách nhiệm về những hoạt động của mình trừ khi phạm phải một số tội hình nghiêm trọng như: Phản bội tổ quốc, xâm phạm Hiến pháp…
– Nội các là trụ cột và trung tâm quyết sách của toàn bộ các cơ quan hành chính Nnnên chính thể này còn được gọi là chế độ nội các. Các nhân
viên nội các thường là những nhân vật trọng yếu của đảng cầm quyền và các bộ trưởng quan trọng.
– Nghị viện có quyền lực tối cao. Chính phủ do nghị viện lập ra và chịu sự giám sát của nghị viện. Nghị viện có quyền bất tín nhiệm chính phủ,
khi đó hoặc là nghị viện bị giải tán để bầu cử nghị viện mới, hoặc là chính phủ phải từ chức tập thể để thành lập chính phủ mới. Các bộ trưởng
phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, kể cả trách nhiệm liên đới và trách nhiệm cá nhân.
c – Cộng hòa hỗn hợp (hay lưỡng tính): là hình thức chính thể vừa có những đặc trưng của chính thể cộng hoà tổng thống, vừa có những
đặc trưng của cộng hoà đại nghị. Chính thể cộng hòa hỗn hợp hiện đang tồn tại ở Pháp, Bồ Đào Nha, Nga…
Chính thể cộng hòa hỗn hợp có các đặc trưng cơ bản sau:
– Tổng thống là nhân vật trung tâm của hệ thống các cơ quan cao nhất của nhà nước. Tổng
thống do cử tri hoặc đại cử tri bầu ra nên có quyền lực rất lớn, kể cả quyền giải tán Nghị viện
trước thời hạn.
– Tổng thống có tác động khá mạnh mẽ và nhiều khi có ý nghĩa quyết định đối với việc ban
hành luật.
Một số nuớc cho phép tổng thống ban hành các văn bản quy phạm có giá trị như luật trong
những lĩnh vực không thuộc thẩm quyền ban hành luật của nghị viện, hoặc nghị viện có thể
ủy quyền cho tổng thống ban hành luật trong những trường hợp nhất định.
– Chính phủ do tổng thống bổ nhiệm, về mặt pháp lý, Tổng thống không đứng đầu chính phủ mà người đứng đầu là Thủ tướng, song Tổng thống
lại có quyền điều hành các hoạt động của Chính phủ.
– Mặc dù pháp luật quy định chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, song khả năng của Nghị viện trong việc kiểm tra các hoạt động của
Chính phủ rất hạn chế.
d – Cộng hòa Hồi giáo: Chính thể này tồn tại ở một số quốc gia có đạo Hồi là quốc đạo như Iran, Irắc. Các qgia này cũng xác lập nguyên tắc tất
cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, quyền lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, xác lập chế độ
dân chủ đa nguyên, thông qua hiến pháp bằng hình thức trưng cầu ý dân. Tuy nhiên, hiến pháp của các nước này đều quy định hiến pháp được
xây dựng trên cơ sở kinh Coran và không được trái với tinh thần của kinh Coran. Chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về thánh Ahla.
4 – Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chỉ có chính thể cộng hoà dân chủ, tuy nhiên ở những nước khác nhau, chính thể cộng hòa dân chủ xã hội chủ nghĩa có những biểu hiện khác
nhau.
Ớ các nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đồng thời là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân
do cử tri cả nước trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra thông qua tuyển cử phổ thông đầu phiếu và có thể bị nhân dân bãi miễn. Cơ quan này có quyền
lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của nhà nước, thành lập các cơ quan cấp cao khác của nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan đó… Các nước thuộc nhóm nước này có các dạng chính thể như Công xã Pari, Cộng hòa Xô viết, Cộng hòa dân chủ nhân dân và
Cộng hòa Cuba.
3. Hình thức cấu trúc là gì? Phân biệt nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang
1 – Phân tích khái niệm hình thức cấu trúc của nhà nước
a . Kn: Hình thức cấu trúc nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa
các cấp chính quyền với nhau
b – Phân tích khái niệm hình thức cấu trúc của nhà nước: Định nghĩa trên cho thấy, xem xét hình thức cấu trúc của nhà nước là xem xét cách
thức tổ chức quyền lực nhà nước theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ, cụ thể là xem xét cách thức cấu tạo nhà nước thành các cấp chính quyền
từ trung ương xuống địa phương, xác định địa vị pháp lý của chính quyền mỗi cấp cũng như quan hệ giữa các cấp chính quyền với nhau.
Theo đó, hình thức cấu trúc nhà nước có thể được chia thành hai dạng cơ bản là nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang, ngoài ra có
thể có một dạng cấu trúc nhà nước không cơ bản là nhà nước liên minh.
– Nhà nước đơn nhất là một nhà nước duy nhất trong phạm vi lãnh thổ của đất nước, nắm giữ và thực hiện chủ quyền quốc gia.
Nhà nước đơn nhất có các đặc trưng sau:
+ Chủ quyền quốc gia do chính quyền trung ương nắm giữ;
+ Địa phương là những đơn vị hành chính – lãnh thổ không có chủ quyền;
+ Cả nước có một hệ thống chính quyền và một hệ thống pháp luật;
+ Chính quyền gồm hai cấp cơ bản là trung ương và địa phương, quan hệ giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương là quan hệ
giữa cấp trên và cấp dưới…
– Nhà nước liên bang là một nhà nước do nhiều nhà nước hợp thành, trong đó có một Nn chung cho toàn liên bang và mỗi bang thành viên có
một nhà nước riêng.
Nhà nước liên bang có các đặc trưng:
+ Chỉ có nhà nước liên bang mới có chủ quyền hoàn toàn, mới được đại diện cho toàn quốc gia, dân tộc để thực hiện chủ quyền quốc gia và mới
là chủ thể độc lập của luật quốc tế. Các nhà nước thành viên phải phụ thuộc vào nhà nước liên bang;
+ Trong nhà nước liên bang có nhiều hệ thống cơ quan nhà nước, trong đó một hệ thống là chung cho toàn liên bang, có thẩm quyền tối cao trên
toàn lãnh thổ, mỗi bang thành viên lại có một hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi bang đó;
+ Liên bang cũng có nhiều hệ thống pháp luật, nhiều bản hiến pháp, trong đó một hệ thống là chung cho toàn liên bang, có hiệu lực pháp lý cao
nhất và trên phạm vi toàn lãnh thổ liên bang, mỗi bang thành viên lại có một hệ thống pháp luật, một bản hiến pháp riêng và chỉ có hiệu lực pháp
lý trong phạm vi bang đó;
+ Sự phân chia quyền lực giữa nhà nước liên bang với các nhà nước thành viên được thể hiện rõ trong cả ba lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
– Nhà nước liên minh là một nhóm các nhà nước có chủ quyền hoàn toàn liên kết với nhau để thực hiện những mục đích chung nhất định nhưng
mỗi nhà nước vẫn giữ chủ quyền riêng (Ví dụ: Liên minh châu Âu). Nhà nước liên minh có các đặc trưng sau:

14
+ Nhà nước liên minh do nhiều nhà nước hợp thành, có thể có 1 bộ máy nhà nước và 1 hệ thống pháp luật chung cho toàn liên minh, còn mỗi nhà
nước thành viên lại có bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật riêng.
+ Tính độc lập của các nhà nước thành viên cao hơn so với trong nhả nước liên bang vì mỗi nhà nước thành viên vẫn là chủ thể độc lập của luật
quốc tế.
Pb Nn đơn nhất và liên bang (Vở) Tuy nhiên, sự phân biệt trên chỉ có ý nghĩa tương đối vì thực tế, trong nhà nước đơn nhất có thể có yếu tố
liên bang, ngược lại, trong nhà nước liên bang có thể có yếu tố đơn nhất. Chẳng hạn, ở một số nhà nước liên bang, một số khu vực lãnh thổ đặt
dưới sự cai quản trực tiếp của chính quyền liên bang, ở đó chỉ có một hệ thống chính quyền, công dân chỉ chịu sự điều chỉnh của một hệ thống
pháp luật (ví dụ, Washington. D.c của Mỹ). Ngược lại, ở một số nhà nước đơn nhất, có những địa phương, quyền lực nhà nước được tổ chức
tương tự như một bang trong nhà nước liên bang, riêng vấn đề chủ quyền quốc gia, an ninh lãnh thổ thuộc thẩm quyền của chính quyền trung
ương (Hồng Kông, Macao của Trung Quốc)
4. Hình thức của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
a) Kn: Hình thức của Nhà nước Việt Nam là cách thức và phương pháp tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Hình thức của
Nhà nước Việt Nam là khái niệm được hình thành từ ba yếu tố: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
B) Hình thức chính thể của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cộng hòa dân chủ vì ở Việt Nam quyền lực cao nhất của nhà
nước thuộc về Quốc hội – cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, được thành lập bằng con đường bầu cử. Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội.
C) Hình thức cấu trúc của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đơn nhất vì trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam chỉ có
một nhà nước duy nhất, nắm giữ và thực hiện chủ quyền quốc gia. Ở nước ta:
– Chủ quyền quốc gia do chính quyền trung ương nắm giữ, địa phương là những đơn vị hành chính – lãnh thổ không có chủ quyền;
– Cả nước có một hệ thống chính quyền và một hệ thống pháp luật;
– Chính quyền gồm hai cấp cơ bản là trung ương và địa phương, quan hệ giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương là quan hệ
giữa cấp trên và cấp dưới…
D) Chế độ chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chế độ dân chủ vì nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức,
hoạt động của các cơ quan nhà nước, bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của Nhà nước. Ở nước ta, cơ quan cao nhất của
quyền lực nhà nước là Quốc hội được hình thành bằng con đường bầu cử, do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra. Các quyết định quan trọng của Nhà
nước được xây dựng thông qua các cuộc thảo luận, bàn bạc của Quốc hội và quyết định theo đa số. Nhân dân được hưởng nhiều quyền tự do
chính trị: quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện của Nhà nước, quyền giám sát hoạt động của các cơ quan và nhân viên nhà nước…
E) Về mặt pháp lý, chế độ dân chủ của nước Việt Nam là rộng rãi vì mọi công dân đều có thể tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại
diện của Nhà nước khi có đủ những điều kiện luật định, có thể trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình thực hiện các hoạt động của Nhà
nước, thảo luận, bàn bạc để xây dựng nên các quyết định quan trọng của Nhà nước, giám sát hoạt động của các nhân viên và cơ quan nhà nước./.
VI. NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
6.1. Vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị
1 – Hệ thống chính trị là gì?
Kn của nhà nước: Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền
lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền. Hệ thống chính trị là tổng
thể các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội trực tiếp nắm giữ hoặc tham gia thực thi quyền lực chính trị, có mối liên hệ mật thiết với nhau dưới sự
lãnh đạo của một đảng hoặc một liên minh các đảng phái chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị của lực lượng cầm quyền.
2 – Phân tích vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị
– Vị trí: Nhà nước ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, nơi hội tụ của đời sống chính trị xã hội. Nhà nước có quan hệ mật thiết với tất cả các
tổ chức khác trong hệ thống chính trị, thu hút các tổ chức đó về phía mình.
2. Vai trò của nhà nước đối với các đảng phái chính trị
1 – Đảng phái chính trị là gì?
Nhà nước là gì?: nêu kn nhà nước
Định nghĩa các đảng phái chính trị
Đảng phái chính trị được hiểu là các tổ chức chính trị tự nguyện của những người có cùng mục đích, chính kiến, lý tưởng, được thành lập và hoạt
động theo tôn chỉ, mục đích, trình tự, thủ tục do điều lệ của tổ chức đó quy định.
2 – Vai trò của nhà nước đối với các đảng phái chính trị thể hiện ở các nội dung sau: – Thông qua Hiến pháp và luật, nhà nước tạo ra cơ sở
và khuôn khổ pháp lý cho sự thành lập hoặc tồn tại và hoạt động hợp pháp của các đảng phái chính trị trong xã hội; tạo điều kiện cho các đảng
phái chính trị tham gia vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, vào quản lý xã hội, vào việc hoạch định các chính
sách của nhà nước; nhà nước thừa nhận quyền lãnh đạo của đảng cầm quyền, thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng cầm quyền thành pháp
luật và tổ chức thực hiện; thừa nhận vai trò phản biện xã hội của
các đảng đối lập…
Ví dụ, Hiến pháp Nam Phi năm 1996 quy định:
“1 – Mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn về chính trị, trong đó bao gồm:
a – Lập ra một đảng chính trị;
b – Tham gia vào các hoạt động hoặc tuyển dụng các thành viên cho một đảng chính trị;
c – Vận động cho một đảng chính trị hoặc cho một lý tuởng chính trị” (khoản 1 Điều 19).
Ở Việt Nam, Nhà nuớc còn hỗ trợ phần lớn kinh phí hoạt động cho các thành viên khác của hệ thống chính trị
– Nhà nước quản lý các tổ chức đảng và các đảng viên theo pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đảng chính trị và xử lý những
đảng chính trị vi phạm pháp luật.
Chẳng hạn, Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 quy định rằng ở Hàn Quốc các đảng chính trị được thành lập tự do và thực hiện chế độ đa đảng
(khoản 1 Điều 8); các đảng chính trị được nhà nước Hàn Quốc bảo hộ và giúp đỡ (khoản 3 Điều 8); nếu đảng chính trị có mục đích và hoạt động
trái pháp luật thì Chính phủ sẽ đề xuất ý kiến giải thể với Tòa án hiến pháp và đảng đó bị giải thế theo quyết định của Tòa án Hiến pháp (khoản 4
Điều 8).
6.2. Chế độ chính trị là gì? Phân biệt chế độ dân chủ với phản dân chủ
1 – Phân tích khái niệm chế độ chính trị của nhà nước
a –Kn: Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp mà nhà nước sử dụng để tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước.
b – Phân tích khái niệm chế độ chính trị của nhà nước: Định nghĩa trên cho thấy, xem xét về chế độ chính trị của một nhà nước là tìm hiểu
xem nhà nước đó sử dụng những phương pháp nào để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Các phương pháp đó chủ yếu gồm phương pháp

15
lựa chọn người nắm giữ quyền lực cao nhất của nhà nước, phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước và phương pháp
xây dựng nên các quyết định quan trọng của nhà nước.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… của đất nước mà chế độ chính trị có những biểu hiện khác nhau, tuy nhiên có thể
chia thành hai dạng cơ bản là chế độ chính trị dân chủ và chế độ chính trị phản dân chủ.
Dân chủ: Dân chủ là chế độ chính trị mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nuớc, bàn bạc, thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nuớc.
Trong chế độ chính trị dân chủ, nhà nuớc sử dụng các phuơng pháp dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nuớc; nhà
nuớc thừa nhận, bảo đảm, bảo vệ các quyền tự do chính trị của nhân dân; hoạt động của nhà nước được thực hiện một cách công khai; phương
pháp giáo dục thuyết phục được coi trọng…
Tuy nhiên, chế độ chính trị dân chủ cũng có nhiều
hình thức khác nhau như dân chủ thực chất và dân chủ hình thức; dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế; dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp…
Dân chủ rộng rãi: Dân chủ rộng rãi là chế độ mà mọi công dân đều có thể tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện của nhà nước khi
có đủ những điều kiện luật định, có thể trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình thực hiện các hoạt động của nhà nước, thảo luận, bàn bạc
để xây dựng nên các quyết định quan trọng của nhà nước, giám sát hoạt động của các nhân viên và cơ quan nhà nước…
Dân chủ hạn chế: Dân chủ hạn chế là chế độ mà chỉ có một bộ phận dân chúng hoặc những tầng lóp đặc biệt trong xã hội mới có quyền bầu cử và
ứng cử vào cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, có quyền bàn bạc, thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của nhà nước.
6.3. Vai trò của nhà nước đối với các đảng phái chính trị
48

1 – Đảng phái chính trị là gì?


Nhà nước là gì? Kn nhà nước
Định nghĩa các đảng phái chính trị: Đảng phái chính trị được hiểu là các tổ chức chính trị tự nguyện của những người có cùng mục đích, chính
kiến, lý tưởng, được thành lập và hoạt động theo tôn chỉ, mục đích, trình tự, thủ tục do điều lệ của tổ chức đó quy định.
2 – Vai trò của nhà nước đối với các đảng phái chính trị thể hiện ở các nội dung sau: Thông qua Hiến pháp và luật, nhà nước tạo ra cơ sở và
khuôn khổ pháp lý cho sự thành lập hoặc tồn tại và hoạt động hợp pháp của các đảng phái chính trị trong xã hội; tạo điều kiện cho các đảng phái
chính trị tham gia vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, vào quản lý xã hội, vào việc hoạch định các chính sách của
nhà nước; nhà nước thừa nhận quyền lãnh đạo của đảng cầm quyền, thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng cầm quyền thành pháp luật và tổ
chức thực hiện; thừa nhận vai trò phản biện xã hội của các đảng
đối lập…
Ví dụ, Hiến pháp Nam Phi năm 1996 quy định:
“1 – Mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn về chính trị, trong đó bao gồm:
a – Lập ra một đảng chính trị;
b – Tham gia vào các hoạt động hoặc tuyển dụng các thành viên cho một đảng chính trị;
c – Vận động cho một đảng chính trị hoặc cho một lý tuởng chính trị” (khoản 1 Điều 19).
Ở Việt Nam, Nhà nuớc còn hỗ trợ phần lớn kinh phí hoạt động cho các thành viên khác của hệ thống chính trị.
– Nhà nước quản lý các tổ chức đảng và các đảng viên theo pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đảng chính trị và xử lý những
đảng chính trị vi phạm pháp luật.
Chẳng hạn, Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 quy định rằng ở Hàn Quốc các đảng chính trị được thành lập tự do và thực hiện chế độ đa đảng
(khoản 1 Điều 8); các đảng chính trị được nhà nước Hàn Quốc bảo hộ và giúp đỡ (khoản 3 Điều 8); nếu đảng chính trị có mục đích và hoạt động
trái pháp luật thì Chính phủ sẽ đề xuất ý kiến giải thể với Tòa án hiến pháp và đảng đó bị giải thế theo quyết định của Tòa án Hiến pháp (khoản 4
Điều 8).
6.4 Vai trò của Nhà nước đối với các tổ chức chính trị – xã hội khác
1 – Các tổ chức chính trị – xã hội khác là gì?
Nhà nước là gì? Kn của nhà nước
Định nghĩa các tổ chức chính trị – xã hội khác: Các tổ chức chính trị – xã hội khác là các tổ chức tự nguyện của những người có cùng nghề
nghiệp, độ tuối, giới tính…được thành lập và hoạt động nhằm đại diện và bảo vệ cho lợi ích của các hội viên trong tổ chức.Ví dụ: Tổ chức mặt
trận, công đoàn, đoàn thanh niên…
2 – Vai trò của nhà nước đối với các tể chức chính trị – xã hội khác thế hiện ở các nội dung sau:
– Thông qua Hiến pháp và luật, nhà nước tạo ra cơ sở và khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời hoặc tồn tại và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã
hội. Với những tổ chức ra đời sau nhà nước thì phải được nhà nước cho phép thành lập mới có thể thành lập, tồn tại và hoạt động một cách hợp
pháp. Với các tổ chức ra đời trước nhà nước thì sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức đó chỉ hợp pháp khi được nhà nước công nhận. Nhà nước
tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị – xã hội khác tham gia vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước; tham gia thảo
luận, phản biện xã hội đối với các chính sách, các kế hoạch, các dự án luật… của nhà nước.
– Nhà nước quản lý các tổ chức chính trị – xã hội khác và hội viên của các tổ chức đó theo pháp luật; bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức đó
và hội viên của chúng; xử lý các tổ chức đó và hội viên của chúng khi họ vi phạm pháp luật…
VII. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
7.1. Phân tích các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
1. Kn: Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở một
hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng và các nguyên tắc chủ quyền nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền
con người, tự do cá nhân cũng như công bằng, bình đắng trong xã hội.
2 – Phân tích các đặc điểm của nhà nước pháp quyền
a – Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, minh bạch, phù
hợp và khả thi
Không có pháp luật thì không có nhà nước pháp quyền, song khác với pháp luật của nhà nước chủ nô, phong kiến, pháp luật của nhà nước pháp
quyền phải đáp ứng các tiêu chí: Dân chủ, tiến bộ, minh bạch, phù hợp và khả thi. Cụ thể:
– Pháp luật phải thể hiện ý chí của nhân dân, thừa nhận rộng rãi các quyền cơ bản của con người, quyền dân chủ của công dân, thế hiện sự tác
động qua lại, trách nhiệm tương hỗ giữa nhà nước và các cá nhân, tổ chức trong xã hội, giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội đối với nhau.
– Các quy định của pháp luật phải rõ ràng, cụ thể, đc công bố côg khai và rộng rãi.
– Pháp luật phải phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước như trình độ phát triển của nền kinh tế – xã hội, đạo đức, phong tục, tập quán,
truyền thống lịch sử, văn hoá, đặc điểm tâm lý dân tộc, phù hợp với tiến trình phát triển của văn minh nhân loại.

16
– Pháp luật phải có tính khả thi và chủ yếu đc thể hiện trong các đạo luật được xây dựng với kĩ thuật lập pháp cao, trong đó Hiến pháp có hiệu lực
pháp lý cao nhất.
b – Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội pháp quyền.
c – Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ quyền của nhân dân
– Trong nhà nước pháp quyền, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc , về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước.
Nhân dân có thể tham gia vào tổ chức và hoạt động của nhà nước, giám sát hoạt động của các nhân viên và cơ quan nhà nước.
Nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia và các vấn đề quan
trọng khác của nhà nước; nhà nước phải phục vụ cho lợi ích hợp pháp của nhân dân.
– Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm dân chủ.
Theo nghĩa chung nhất, dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, xuất phát từ nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước
xuất phát từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho nhà nước thực hiện nên quyền lực nhà nước bị giới hạn trong phạm vi được ủy quyền, bởi pháp
luật. Nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân trong các lĩnh vực của đời sống.
d – Nhà nước pháp quyền là nhà nước thừa nhận, tôn trọng, hảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân
Trong nhà nước pháp quyền, quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là mối quan hệ hài ho à, cả hai bên đều có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm với
nhau. Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục vụ xã hội, do vậy, nhà nước không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ và trách nhiệm với cá nhân.
Trong mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và cá nhân thì tự do của công dân, của cá nhân chính là giới hạn quyền lực của nhà nước, quyền
của công dân tỉ lệ nghịch với quyền hạn của nhà nước và phạm vi tự do của công dân rộng hơn phạm vi tự do của nhà nước; trong khi công dân
có quyền làm bất cứ việc gì mà luật không cấm thì các cơ quan và nhân viên nhà nước chỉ được làm những gì mà luật cho phép.
Đối với quyền con người, quyền công dân thì một mặt, nhà nước thừa nhận quyền con người, quyền công dân khá rộng rãi trong các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Mặt khác, nhà nước bảo đảm cho công dân, cho mọi người có đủ điều kiện cần thiết về vật chất, tinh
thần để thực hiện các quyền của mình trong thực tế, đồng thời, nhà nước bảo yệ các quyền con người, quyền công dân khỏi sự xâm hại của các
chủ thể khác, kể cả các cơ quan nhà nước.
Công dân có quyền chống lại sự can thiệp tuỳ tiện, trái pháp luật của người cầm quyền, có nghĩa vụ tôn trọng, thực hiện pháp luật,
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý với nhà nước và với các chủ thể khác.
đ – Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động theo cơ chế bảo đảm sự phần chia và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước
Một trong những đặc điểm làm cho nhà nước pháp quyền hoàn toàn khác với nhà nước chuyên quyền, độc tài, chuyên chế là quyền
lực nhà nước không tập trung trong tay một hoặc một số cá nhân mà được phân công cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau cùng thực hiện.
Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền riêng do pháp luật quy định. Cụ thể: Trong nhà nước này, hoạt động của nhà nước
về căn bản được Hiến pháp phân định thành ba chức năng là lập pháp, hành pháp, tư pháp, mỗi chức năng đó chủ yếu được trao cho một cơ quan
nhà nước thực hiện, thường là Nghị viện (Quốc hội), Chính phủ và Tòa án.
Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền riêng do pháp luật quy định. Hiến pháp trao cho mỗi cơ quan một phạm vi thẩm
quyền cụ thế và quy định quan hệ tương hỗ cũng như cơ chế kiềm chế, kiểm soát, thậm chí cả sự đối trọng giữa các cơ quan nhà nước. Mỗi cơ
quan nhà nước có thể độc lập, chuyên môn hoá trong hoạt động của mình, đồng thời phối hợp hoạt động với các cơ quan khác để tạo nên sự thống
nhất trong hoạt động của nhà nước.
Bên cạnh đó, mỗi cơ quan nhà nước có the kiềm chế, ngăn cản cơ quan khác, ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên quyền độc
đoán, sự thiếu trách nhiệm của cơ quan đó, bảo vệ quyền con người, nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước.
e – Nhà nước pháp quyền là nhà nước gắn bỏ mật thiết với xã hội dân sự
Theo quan niệm hiện đại, xã hội dân sự được hiểu là một lĩnh vực độc lập tương đối của đời sống xã hội đối với nhà nước, trong đó tồn tại và vận
hành các nhóm xã hội, các tổ chức mang tính chất văn hoá, tôn giáo, tinh thần, thế hiện các lợi ích khác nhau của con người. Nói cách khác, xã
hội dân sự được hợp thành bởi các tổ chức phi nhà nước nhưng không mang tính chất chính trị, sự tồn tại của xã hội dân sự thể hiện một lĩnh vực
của xã hội không nhất thiết phải có sự áp đặt của quyền lực nhà nước.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đáp ứng đầy đủ các điều kiện chính trị trực tiếp của xã hội dân sự. Thông qua pháp luật, nhà nước quy định
quyền và nghĩa vụ pháp lý cho nhà nước, công dân và các tổ chức phi nhà nước nhằm bảo đảm sự tồn tại và vận hành của xã hội dân sự, nhờ vậy,
dân chủ, bình đẳng, công bằng trở thành hiện thực, trở thành các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, được quán triệt sâu sắc trong cả quá trình xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật lẫn bảo vệ pháp luật.
Quyền tự do lập hội của công dân được nhà nước thừa nhận và bảo vệ nên số lượng các hiệp hội phi chính trị, các tổ chức tự quản cũng như vai
trò của các tổ chức đó ngày càng tăng lên, sự tham gia của các tổ chức đó vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là vào các hoạt động đại diện và bảo
vệ lợi ích cho hội viên ngày càng tích cực hơn.
Xu hướng xã hội hoá các công việc của nhà nước phát triển mạnh nên công việc của nhà nước dần được chuyển sang cho xã hội, tăng thêm tính
tự quản của xã hội, tạo điều kiện cho xã hội dân sự hình thành, phát triển, đưa nền dân chủ phát triển lên trình độ cao.
6.2. Chế độ chính trị là gì? Phân biệt chế độ dân chủ với phản dân chủ
1 – Phân tích khái niệm chế độ chính trị của nhà nước
A. Kn: Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp mà nhà nước sử dụng để tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước.
b – Phân tích khái niệm chế độ chính trị của nhà nước: Định nghĩa trên cho thấy, xem xét về chế độ chính trị của một nhà nước là tìm hiểu
xem nhà nước đó sử dụng những phương pháp nào để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Các phương pháp đó chủ yếu gồm phương pháp
lựa chọn người nắm giữ quyền lực cao nhất của nhà nước, phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước và phương pháp
xây dựng nên các quyết định quan trọng của nhà nước.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… của đất nước mà chế độ chính trị có những biểu hiện khác nhau, tuy nhiên có thể
chia thành hai dạng cơ bản là chế độ chính trị dân chủ và chế độ chính trị phản dân chủ.
Dân chủ: Dân chủ là chế độ chính trị mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nuớc, bàn bạc, thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nuớc.
Trong chế độ chính trị dân chủ, nhà nuớc sử dụng các phuơng pháp dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nuớc; nhà nuớc thừa
nhận, bảo đảm, bảo vệ các quyền tự do chính trị của nhân dân; hoạt động của nhà nước được thực hiện một cách công khai; phương pháp giáo
dục thuyết phục được coi trọng… Tuy nhiên, chế độ chính trị dân chủ cũng có nhiều hình thức khác nhau như dân chủ thực chất và dân chủ hình
thức; dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế; dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp…
Dân chủ rộng rãi: Dân chủ rộng rãi là chế độ mà mọi công dân đều có thể tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện của nhà nước khi
có đủ những điều kiện luật định, có thể trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình thực hiện các hoạt động của nhà nước, thảo luận, bàn bạc
để xây dựng nên các quyết định quan trọng của nhà nước, giám sát hoạt động của các nhân viên và cơ quan nhà nước…
Dân chủ hạn chế: Dân chủ hạn chế là chế độ mà chỉ có một bộ phận dân chúng hoặc những tầng lóp đặc biệt trong xã hội mới có quyền bầu cử và
ứng cử vào cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, có quyền bàn bạc, thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng của nhà nước.

17
Phản dân chủ: Phản dân chủ là chế độ mà nhân dân không có quyền tham gia vào việc tổ chức bộ máy nhà nước (đặc biệt là cơ quan tối cao của
quyền lực nhà nước) hoặc vào việc bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước.
Trong chế độ chính trị phản dân chủ, nhà nước sử dụng các cách thức, thủ đoạn chuyên quyền, độc đoán trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước; các quyền tự do chính trị của nhân dân không được nhà nước thừa nhận hoặc bị hạn chế, bị chà đạp; phương pháp cưỡng
chế được chú trọng… Chế độ phản dân chủ có những biến dạng cực đoan như chế độ độc tài, chế độ phát xít, chế độ phân biệt chủng tộc, chế độ
diệt chủng.
6.3. Vai trò của nhà nước đối với các đảng phái chính trị
1 – Đảng phái chính trị là gì?
Nhà nước là gì? Kn nhà nước 6.1
Định nghĩa các đảng phái chính trị: là các tổ chức chính trị tự nguyện của những người có cùng mục đích, chính kiến, lý tưởng, được thành lập
và hoạt động theo tôn chỉ, mục đích, trình tự, thủ tục do điều lệ của tổ chức đó quy định.
2 – Vai trò của nhà nước đối với các đảng phái chính trị thể hiện ở các nội dung sau: Thông qua Hiến pháp và luật, nhà nước tạo ra cơ sở và
khuôn khổ pháp lý cho sự thành lập hoặc tồn tại và hoạt động hợp pháp của các đảng phái chính trị trong xã hội; tạo điều kiện cho các đảng phái
chính trị tham gia vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, vào quản lý xã hội, vào việc hoạch định các chính sách của
nhà nước; nhà nước thừa nhận quyền lãnh đạo của đảng cầm quyền, thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng cầm quyền thành pháp luật và tổ
chức thực hiện; thừa nhận vai trò phản biện xã hội của các đảng
đối lập…
Ví dụ, Hiến pháp Nam Phi năm 1996 quy định:
“1 – Mọi công dân đều có quyền tự do lựa chọn về chính trị, trong đó bao gồm:
a – Lập ra một đảng chính trị;
b – Tham gia vào các hoạt động hoặc tuyển dụng các thành viên cho một đảng chính trị;
c – Vận động cho một đảng chính trị hoặc cho một lý tuởng chính trị” (khoản 1 Điều 19).
Ở Việt Nam, Nhà nuớc còn hỗ trợ phần lớn kinh phí hoạt động cho các thành viên khác của hệ thống chính trị.
– Nhà nước quản lý các tổ chức đảng và các đảng viên theo pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đảng chính trị và xử lý những
đảng chính trị vi phạm pháp luật.
Chẳng hạn, Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 quy định rằng ở Hàn Quốc các đảng chính trị được thành lập tự do và thực hiện chế độ đa
đảng (khoản 1 Điều 8); các đảng chính trị được nhà nước Hàn Quốc bảo hộ và giúp đỡ (khoản 3 Điều 8); nếu đảng chính trị có mục đích và hoạt
động trái pháp luật thì Chính phủ sẽ đề xuất ý kiến giải thể với Tòa án hiến pháp và đảng đó bị giải thế theo quyết định của Tòa án Hiến pháp
(khoản 4 Điều 8).
6.4. Vai trò của Nhà nước đối với các tổ chức chính trị – xã hội khác
1 – Các tổ chức chính trị – xã hội khác là gì?
Nhà nước là gì?kn nhà nước 6.1
Định nghĩa các tổ chức chính trị – xã hội khác:là các tổ chức tự nguyện của những người có cùng nghề nghiệp, độ tuối, giới tính…được thành
lập và hoạt động nhằm đại diện và bảo vệ cho lợi ích của các hội viên trong tổ chức.
Ví dụ: Tổ chức mặt trận, công đoàn, đoàn thanh niên…
2 – Vai trò của nhà nước đối với các tể chức chính trị – xã hội khác thế hiện ở các nội dung sau:
– Thông qua Hiến pháp và luật, nhà nước tạo ra cơ sở và khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời hoặc tồn tại và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã
hội. Với những tổ chức ra đời sau nhà nước thì phải được nhà nước cho phép thành lập mới có thể thành lập, tồn tại và hoạt động một cách hợp
pháp. Với các tổ chức ra đời trước nhà nước thì sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức đó chỉ hợp pháp khi được nhà nước công nhận. Nhà nước
tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị – xã hội khác tham gia vào tổ chức, hoạt động và giám sát hoạt động của bộ
máy nhà nước; tham gia thảo luận, phản biện xã hội đối với các chính sách, các kế hoạch, các dự án luật… của nhà nước.
– Nhà nước quản lý các tổ chức chính trị – xã hội khác và hội viên của các tổ chức đó theo pháp luật; bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức đó
và hội viên của chúng; xử lý các tổ chức đó và hội viên của chúng khi họ vi phạm pháp luật…
VII. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1. Phân tích các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
1 – Nhà nước pháp quyền là gì?
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở một hệ
thống pháp luật dân chủ, công bằng và các nguyên tắc chủ quyền nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền
con người, tự do cá nhân cũng như công bằng, bình đắng trong xã hội.
2 – Phân tích các đặc điểm của nhà nước pháp quyền
a – Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ, minh bạch, phù
hợp và khả thi
Không có pháp luật thì không có nhà nước pháp quyền, song khác với pháp luật của nhà nước chủ nô, phong kiến, pháp luật của nhà nước pháp
quyền phải đáp ứng các tiêu chí: Dân chủ, tiến bộ, minh bạch, phù hợp và khả thi. Cụ thể:
– Pháp luật phải thể hiện ý chí của nhân dân, thừa nhận rộng rãi các quyền cơ bản của con người, quyền dân chủ của công dân, thế hiện sự tác
động qua lại, trách nhiệm tương hỗ giữa nhà nước và các cá nhân, tổ chức trong xã hội, giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội đối với nhau.
– Các quy định của pluật phải rõ ràng, cụ thể, được công bố công khai và rộng rãi.
– Pháp luật phải phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước như trình độ phát triển của nền kinh tế – xã hội, đạo đức, phong tục, tập quán,
truyền thống lịch sử, văn hoá, đặc điểm tâm lý dân tộc, phù hợp với tiến trình phát triển của văn minh nhân loại.
– Pháp luật phải có tính khả thi và chủ yếu đc thể hiện trong các đạo luật được XD với kĩ thuật lập pháp cao, trong đó Hiến pháp có hiệu lực pháp
lý cao nhất.
b – Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội
– Nói đến pháp quyền là nói đến quyền lực hay sức mạnh của pháp luật. Sự thống trị của Hiến pháp và pháp luật là cơ sở để hình thành nên nhà
nước pháp quyền, vì thế, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật là nhu cầu tự thân của nhà nước pháp quyền. Mối quan hệ
giữa nhà nước và pháp luật trong nhà nước pháp quyền diễn ra theo hướng
tương tác và hỗ trợ lẫn nhau.
– Mặc dù pháp luật do nhà nước ban hành song khi đã có hiệu lực pháp lý thì pháp luật lại có giá trị ràng buộc đối với nhà nước, trở thành cơ sở
pháp lý cho toàn bộ quá trình tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và cũng là cơ sở để giới hạn, kiểm soát quyền lực nhà nước.
– Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đều dựa trên cơ sở pháp luật, được tiến hành trong khuôn khố của pháp luật và nhằm thực hiện
pháp luật.
– Tất cả các cơ quan và nhân viên nhà nước đều phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật trong hành vi của mình, chỉ được làm những gì mà luật cho
phép, phải thực thi pháp luật theo đúng những nguyên tắc và trình tự đã được quy định.

18
– Tất cả các tổ chức phi nhà nước và mọi cá nhân, dù có thể làm tất cả những gì mà luật không cấm, song đều có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện
pháp luật trong hành vi của mình, nếu vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm pháp lý.
– Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, quan hệ đối ngoại của nhà nước pháp quyền phải được điều chỉnh trên cơ sở các quy định của pháp luật
quốc tế. Vì vậy, tuân thủ nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế cũng là yêu cầu, đòi hỏi đối với nhà nước pháp quyền.
c – Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ quyền của nhân dân
– Trong nhà nước pháp quyền, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc , về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước.
Nhân dân có thể tham gia vào tổ chức và hoạt động của nhà nước, giám sát hoạt động của các nhân viên và cơ quan nhà nước
Nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia và các
vấn đề quan trọng khác của nhà nước; nhà nước phải phục vụ cho lợi ích hợp pháp của nhân dân.
– Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm dân chủ.
Theo nghĩa chung nhất, dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, xuất phát từ nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước
xuất phát từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho nhà nước thực hiện nên quyền lực nhà nước bị giới hạn trong phạm vi được ủy quyền, bởi pháp
luật. Nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân trong các lĩnh vực của đời sống.
d – Nhà nước pháp quyền là nhà nước thừa nhận, tôn trọng, hảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân
Trong nhà nước pháp quyền, quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là mối quan hệ hài ho à, cả hai bên đều có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm với
nhau. Nhà nước pháp quyền là nhà nước phục vụ xã hội, do vậy, nhà nước không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ và trách nhiệm với cá nhân.
Trong mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và cá nhân thì tự do của công dân, của cá nhân chính là giới hạn quyền lực của nhà nước, quyền
của công dân tỉ lệ nghịch với quyền hạn của nhà nước và phạm vi tự do của công dân rộng hơn phạm vi tự do của nhà nước; trong khi công dân
có quyền làm bất cứ việc gì mà luật không cấm thì các cơ quan và nhân viên nhà nước chỉ được làm những gì mà luật cho phép.
Đối với quyền con người, quyền công dân thì một mặt, nhà nước thừa nhận quyền con người, quyền công dân khá rộng rãi trong các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Mặt khác, nhà nước bảo đảm cho công dân, cho mọi người có đủ điều kiện cần thiết về vật chất, tinh
thần để thực hiện các quyền của mình trong thực tế, đồng thời, nhà nước bảo yệ các quyền con người, quyền công dân khỏi sự xâm hại của các
chủ thể khác, kể cả các cơ quan nhà nước.
Công dân có quyền chống lại sự can thiệp tuỳ tiện, trái pháp luật của người cầm quyền, có nghĩa vụ tôn trọng, thực hiện pháp luật, thực hiện đầy
đủ các nghĩa vụ pháp lý với nhà nước và với các chủ thể khác.
đ – Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động theo cơ chế bảo đảm sự phần chia và kiểm soát quyền lực giữa các cơ
quan nhà nước
Một trong những đặc điểm làm cho nhà nước pháp quyền hoàn toàn khác với nhà nước chuyên quyền, độc tài, chuyên chế là quyền lực nhà nước
không tập trung trong tay một hoặc một số cá nhân mà được phân công cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau cùng thực hiện.
Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền riêng do pháp luật quy định. Cụ thể: Trong nhà nước này, hoạt động của nhà nước
về căn bản được Hiến pháp phân định thành ba chức năng là lập pháp, hành pháp, tư pháp, mỗi chức năng đó chủ yếu được trao cho một cơ quan
nhà nước thực hiện, thường là Nghị viện (Quốc hội), Chính phủ và Tòa án.
Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền riêng do pháp luật quy định. Hiến pháp trao cho mỗi cơ quan một phạm vi thẩm
quyền cụ thế và quy định quan hệ tương hỗ cũng như cơ chế kiềm chế, kiểm soát, thậm chí cả sự đối trọng giữa các cơ quan nhà nước. Mỗi cơ
quan nhà nước có thể độc lập, chuyên môn hoá trong hoạt động của mình, đồng thời phối hợp hoạt động với các cơ quan khác để tạo nên sự thống
nhất trong hoạt động của nhà nước.
Bên cạnh đó, mỗi cơ quan nhà nước có the kiềm chế, ngăn cản cơ quan khác, ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, chuyên quyền độc
đoán, sự thiếu trách nhiệm của cơ quan đó, bảo vệ quyền con người, nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước.
e – Nhà nước pháp quyền là nhà nước gắn bỏ mật thiết với xã hội dân sự
Theo quan niệm hiện đại, xã hội dân sự được hiểu là một lĩnh vực độc lập tương đối của đời sống xã hội đối với nhà nước, trong đó tồn tại và vận
hành các nhóm xã hội, các tổ chức mang tính chất văn hoá, tôn giáo, tinh thần, thế hiện các lợi ích khác nhau của con người. Nói cách khác, xã
hội dân sự được hợp thành bởi các tổ chức phi nhà nước nhưng không mang tính chất chính trị, sự tồn tại của xã hội dân sự thể hiện một lĩnh vực
của xã hội không nhất thiết phải có sự áp đặt của quyền lực nhà nước.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đáp ứng đầy đủ các điều kiện chính trị trực tiếp của xã hội dân sự. Thông qua pháp luật, nhà nước
quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho nhà nước, công dân và các tổ chức phi nhà nước nhằm bảo đảm sự tồn tại và vận hành của xã hội dân sự,
nhờ vậy, dân chủ, bình đẳng, công bằng trở thành hiện thực, trở thành các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, được quán triệt sâu sắc trong cả quá
trình xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật lẫn bảo vệ pháp luật.
Quyền tự do lập hội của công dân được nhà nước thừa nhận và bảo vệ nên số lượng các hiệp hội phi chính trị, các tổ chức tự quản
cũng như vai trò của các tổ chức đó ngày càng tăng lên, sự tham gia của các tổ chức đó vào các hoạt động xã hội, đặc biệt là vào các hoạt động
đại diện và bảo vệ lợi ích cho hội viên ngày càng tích cực hơn.
Xu hướng xã hội hoá các công việc của nhà nước phát triển mạnh nên công việc của nhà nước dần được chuyển sang cho xã hội, tăng
thêm tính tự quản của xã hội, tạo điều kiện cho xã hội dân sự hình thành, phát triển, đưa nền dân chủ phát triển lên trình độ cao.
7.2 Phân tích các giá trị của nhà nước pháp quyền
1 – Nhà nước pháp quyền là gì? 7.1
2 – Phân tích các giá trị của nhà nước pháp quyền
Sự xuất hiện của nhà nước pháp quyền đã mang lại cho xã hội nhiều giá trị lớn mà cơ bản là các giá trị sau:
Thứ nhất, trong nhà nước pháp quyền, pháp luật đã trở thành công lý của thời đại.
– Pháp luật không còn là công cụ của riêng nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí chủ quan của nhà nước mà là sự kết tinh những giá
trị xã hội cao quý nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho nhân dân
– Pháp luật thừa nhận và hướng tới việc bảo đảm, bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân, hướng tới việc bảo vệ công bằng xã hội, do
vậy, pháp luật thực sự trở thành chuẩn mực chung được mọi người thừa nhận.
– Pháp luật được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân, nhóm xã hội với lợi ích chung của toàn xã hội.
– Hoạt động áp dụng pháp luật cũng được tiến hành trên cơ sở và theo nguyên tắc bảo vệ công lý, bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, tự do cá
nhân, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Thứ hai, trong điều kiện nhà nước pháp quyền, lối song theo pháp luật trở thành lối sống thịnh hành trong xã hội.
Trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, khi mà tín điều tôn giáo, đạo đức, phong tục, tập quán, hương ước, lệ làng… được coi
trọng hơn so với pháp luật thì lối sống theo pháp luật chưa được thiết lập.
Trong nhà nước pháp quyền, lối sống theo pháp luật trở thành lối sống phổ biến, thịnh hành, đó là lối sống mà trong nhận thức cũng
như trong hành vi của các chủ thế luôn thể hiện ý thức khép mình trong khuôn khổ của pháp luật, xử sự theo pháp luật và tích cực đấu tranh để
pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong xh.
Mỗi người đều ý thức được quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với nhà nước, xã hội và các chủ thể khác; ý thức được vị trí
tối thượng của pháp luật, qua đó lựa chọn và thực hiện hành vi theo đúng quy định pháp luật. Mỗi người đều tích cực đấu tranh bảo vệ các quyền

19
và lợi ích hợp pháp của mình, bảo vệ pháp luật; thói quen xử sự theo pháp luật sẽ lấn át thói quen xử sự tuỳ tiện, thói quen xử sự theo đạo đức,
phong tục, tập quán…
Thứ ba, sự tồn tại của nhà nước pháp quyền cho thấy, nhân dân đã được thừa nhận là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà
nước. Đây là một giá trị to lớn của nhà nước pháp quyền. Quyền lực của nhà nước là nhận được từ
nhân dân, vì thế, nhân dân không chỉ lập nên nhà nước mà còn có thể thay đổi nhà nước khi nhà nước không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân. Khi nhà nước không đáp ứng được yêu cầu của nhân dân thì nhân dân hoàn toàn có quyền thay thế nó bằng nhà nước khác để có thể
phục vụ nhân dân tốt hon, vĩ thế, trong nhà nước pháp quyền, nhân dân mới là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, có quyền quyết định tối
cao các vấn đề cơ bản của đất nước; nhà nước không còn là người quyết định số phận của nhân dân mà ngược lại, nhà nước phải phục tùng nhân
dân.
Thứ tư, trong nhà nước pháp quyền, các quyền con người được thừa nhận, bảo đảm, giá trị của con người được trân trọng. Trước khi
có nhà nước pháp quyền, quyền con người, quyền công dân chưa từng được thừa nhận trong pháp luật. Với sự ra đời và phát triển của nhà nước
pháp quyền, quyền con người chính thức được thừa nhận công khai, minh bạch trong pháp luật. Quyền con người ngày càng được thừa nhận rộng
rãi ở nhiều nước, vị trí quyền con người ngày càng được chú trọng
nâng cao, giá trị của con người ngày càng được trân trọng hơn bởi nhà nước và xã hội, việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người trở thành mối
quan tâm đặc biệt, thành trách nhiệm của cả nhà nước và xã hội.
3. Phân tích sự biến đổi của chính thể quân chủ qua các kiểu nhà nước
1 – Trong nhà nước chủ nô:
Chính thể quân chủ chỉ có dạng quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) và chủ yếu tồn tại ở phương Đông. Quân chủ chuyên chế (tuyệt đối)
là chính thể mà về mặt pháp lý, nhà vua có quyền lực tối cao và vô hạn trong cả ba lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp và tư pháp, không bị chia sẻ
cho ai và cũng không chịu một sự hạn chế nào.
Ở phương Tây, chính thể quân chủ hĩnh thành tương đối muộn, nó thường thế hiện đan xen với chính thể cộng hòa.
2 – Trong nhà nước phong kiến:
Chính thể quân chủ chiếm ưu thế tuyệt đối và có cả hai dạng: Quân chủ chuyên chế và quân chủ hạn chế.
Ở phương Đông, hầu hết các nhà nước đều có chính thể quân chủ tuyệt đối. Ở phương Tây, chính thể quân chủ có các dạng khác nhau như quân
chủ phân quyền cát cứ, quân chủ đại diện đẳng cấp và quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Quyền lực của nhà vua khác nhau trong các
dạng chính thể này.
Trong chính thể quân chủ phân quyền cát cứ thì về mặt pháp lý, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhà vua, các lãnh chúa đứng đầu các lãnh
địa đều phải tuyệt đối thần phục vua, phải nộp thuế, triều cống cho vua. Song thực tế, sự thần phục đó dần dần chỉ còn là hình thức, vì khi vua
phong đất là phong luôn cả quyền lực kinh tế lẫn quyền lực chính trị cho họ. Quyền lực của vua trong các lãnh địa ngày càng suy yếu dần, quyền
lực của lãnh chúa, quý tộc ngày càng được củng cố, tăng cường, họ trở nên có toàn quyền trong lãnh địa của mình, tìm cách thoát khỏi vòng kiềm
tỏa của vua, không phục tùng vua và thậm chí còn khống chế cả nhà vua ở trung ương. Nhà nước phong kiến trở thành tương tự như liên minh
của các quốc gia nửa độc lập.
Trong chính thể quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền thì quyền lực tập trung trong tay nhà vua ở trung ương, về mặt pháp lý,
nhà vua có quyền lực tối cao và vô hạn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, không bị chia sẻ cho ai và không phải chịu một sự
hạn chế nào. Tuy nhiên, thực tế không hoàn toàn như vậy, nhiều khi vua bị khống chế bởi
những thế lực nhất định như thái hoàng, thái hậu, tể tướng…
Ở phương Đông, chính thể này gần như là duy nhất. Ở phương Tây, chính thể này hình thành ở giai đoạn cuối của chế độ phong kiến.
Một số nhà nước phong kiến phương Đông (Ví dụ Việt Nam) thì hầu như không có giai đoạn phân quyền cát cứ mà chỉ có chính thể quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền
Chính thể quân chủ đại diện đẳng cấp hình thành ở châu Âu thời kỳ phong kiến, vào thế kỷ XIII, XIV. Trong chính thể này, đứng đầu
nhà nước là vua, lên ngôi theo nguyên tắc thế tập, bên cạnh vua là cơ quan gồm đại diện của các đẳng cấp khác nhau trong xã hội để chia sẻ
quyền lực với vua và hạn chế quyền lực của vua. Cơ quan này là nơi để vua trao đổi ý kiến về công việc của quốc gia, nó có quyền khuyến nghị,
tư vấn cho nhà vua các công việc của quốc gia, nhất là lĩnh vực về thuế và lập pháp, nó chính là tiền thân của nghị viện sau này. Ở Anh, cơ quan
này gồm đại diện của ba đẳng cấp là quý tộc, dân cư các thành phố và dân cư các tỉnh; ở Pháp, cơ quan này gồm đại diện của ba đẳng cấp: Quý
tộc, tăng lữ và bình dân.
3 – Trong các nhà nước tư sản: Chính thể quân chủ vẫn còn cả hai hình thức quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế, song chính thể quân chủ
là chủ yếu với hai dạng cụ thể là quân chủ nhị hợp và quân chủ đại nghị.
a – Chính thể quân chủ tuyệt đối: Chính thể quân chủ tuyệt đối chỉ còn tồn tại trong phạm vi hẹp, đó là ở một số Vương quốc Hồi giáo như:
Ảrập Xêut, Brunây, Ôman và đó là quân chủ lập hiến nên biểu hiện không hoàn toàn giống với chính thể quân chủ chuyên chế trong nhà nước
phong kiến. Ở đây, mặc dù có Hiến pháp song quyền lực tập trung vào tay Quốc vương Hồi giáo. Quốc vương kiêm cả chức Thủ tướng, Bộ
trưởng Quốc phòng, Tống tư lệnh các lực lượng vũ trang và Bộ trưởng Tài chính; nắm cả quyền lập pháp và hành pháp; thực hiện quyền lực tối
cao với sự giúp việc và tư vấn của năm Hội đồng theo quy định của Hiến pháp.
b – Chính thể quân chủ nhị hợp, Chính thể quân chủ nhị hợp có các đặc trưng cơ bản:
– Quyền lực Nn về cơ bản được chia cho nghị viện và do vua nắm giữ, trog đó nghị viện nắm quyền lập pháp, vua nắm quyền hàh pháp, vì thế,
quyền lực của vua bị hạn chế trong lĩnh vực lập pháp nhưng được mở rộng trog lĩnh vực hành pháp.
– Vua vừa đứng đầu quốc gia, vừa đứng đầu chính phủ, có toàn quyền bổ nhiệm các bộ trưởng.
– Vua có quyền phủ quyết các dự luật do nghị viện thông qua, ngược lại, nghị viện có quyền luận tội nhà vua và các bộ trưởng.
– Bộ trưởng được gọi là bộ trưởng của nhà vua, vừa phải chịu trách nhiệm trước nghị viện, vừa phải chịu trách nhiệm trước vua. Nếu bị nghị viện
bất tín nhiệm, bộ trưởng phải từ chức, nếu bị vua bất tín nhiệm, bộ trưởng cũng phải từ chức.
Chính thể này tồn tại ở Anh trong thế kỷ XVII, XVIII; ở Đức theo Hiến pháp năm 1871; ở Nhật theo Hiến pháp năm 1889.
c – Chính thể quân chủ đại nghị hay nghị viện, Chính thể quân chủ đại nghị hay nghị viện có các đặc trưng sau:
– Q` lực của vua bị hạn chế trog cả lập pháp lẫn hành pháp,vì quyền lập pháp thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc về chính phủ mà đứng
đầu là thủ tướng.
– Q` lực của vua chỉ là hình thức, nghi lễ và tượng trưng. Vua là nguyên thủ quốc gia –người đại diện chính thức cho quốc gia, dân tộc trong các
quan hệ đối nội và đối ngoại, nhưng không trực tiếp giải quyết các công việc nhà nước, không có thực quyền. Hoạt động cửa vua là sự chính thức
hoá về mặt nhà nước các hoạt động “đã rồi” của nghị viện và chính phủ, tức là vua chỉ “ngự trị nhưg 0 cai trị”.
– Vua là biểu tượng cho truyền thống và sự vững bền của dân tộc, sự thống nhất của quốc gia.
– Nhà vua được hưởng những đặc quyền nhất định.
– Chphủ được hình thành bằng con đường nghị viện dựa trên kết quả bầu cử nghị viện (hạ nghị viện). Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị
viện và thủ tướng. Chính thể này đang tồn tại ở Anh, Nhật, Thụy Điển… Ở Nn xã hội chủ nghĩa, chính thể quân chủ không còn tồn tại mà chỉ còn
chính thể cộng hòa dân chủ.

20

You might also like