Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO

TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ CÁC HỌC
THUYẾT CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI: CHỦ NGHĨA TỰ DO

Lớp: LSHTCT-50.2_LT
Giáo viên hướng dẫn: Phạm Thị Hoa
DANH SÁCH SINH VIÊN
STT Họ và tên MSSV
1 Hoàng Khánh Lê QHQT50C11391
2 Tạ Xuân Mai QHQT50C11443
3 Lê Thị Thu Ngân QHQT50C11468
4 Tạ Ngọc Khánh Linh QHQT50C11414
5 Nguyễn Thị Bích Ngân QHQT50C11466
6 Đỗ Thục Linh QHQT50C11402
7 Nguyễn Thu Trang QHQT50C11582
8 Tạ Khánh Linh QHQT50C11403
9 Nguyễn Nhã Quyên QHQT50C11523
10 Bạch Gia Phương QHQT50C11518
11 Phùng Kim Liên QHQT50C11395
12 Nguyễn Huy Hoàng QHQT50C11349
13 Trịnh Hoàng Nhật Lệ QHQT50C11393
14 Đoàn Vân Khánh CT45C0701822
15 Nguyễn Hoàng Nam QHQT50C11463

2
MỤC LỤC

CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI.......................................................................4


1. Khái niệm........................................................................................................4
2. Nguồn gốc.......................................................................................................4
3. Quá trình hình thành tư duy tự do...................................................................5
a. Tư bản chủ nghĩa...........................................................................................5
b. Chủ nghĩa tự do.............................................................................................6
c. Kết luận..........................................................................................................8
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CHỦ NGHĨA TỰ DO..................................................10
1. Chủ nghĩa tự do cổ điển.......................................................................................10
2. Chủ nghĩa tân tự do............................................................................................12
3. Các tác gia tiêu biểu............................................................................................17
a. Chủ nghĩa tự do cổ điển:............................................................................17
b. Chủ nghĩa tân tự do....................................................................................17
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ...............................................................18
1. So sánh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa hiện thực...........................................18
2. Ý nghĩa của chủ nghĩa tự do..........................................................................18
3. Hạn chế của chủ nghĩa tự do......................................................................20

3
CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI
1. Khái niệm
Chủ nghĩa tự do là một triết lý chính trị và đạo đức dựa trên quyền của cá nhân,
tự do, sự đồng ý của người bị chi phối, bình đẳng chính trị, quyền sở hữu tư nhân
và bình đẳng trước pháp luật.
2. Nguồn gốc
Chủ nghĩa tự do có nguồn gốc từ phong trào Khai sáng ở phương Tây, thời kỳ
Chiến tranh Giữa các Nước ở Châu Âu, đặc biệt là trong thế kỷ XVII và XVIII
nhưng thuật ngữ này mang nhiều nghĩa khác nhau trong các giai đoạn khác nhau.
Như tại Mỹ, khái niệm chủ nghĩa tự do (liberalism) có ý nói đến chủ nghĩa tự do xã
hội (Social liberalism), chủ nghĩa tự do hiện đại, trong khi ở các nơi khác nó vẫn
mang ý nghĩa ban đầu của chủ nghĩa tự do cổ điển (classical liberalism).
Chủ nghĩa tự do bắt nguồn từ hai đặc điểm liên quan đến văn hóa phương Tây:
Đầu tiên là mối bận tâm của phương Tây với tính cá nhân, so với các nền
văn minh khác về địa vị, đẳng cấp và truyền thống. Thứ hai là trong suốt phần
lớn lịch sử, các cá nhân đã bị nhấn chìm và phụ thuộc vào thị tộc, bộ lạc, các dân
tộc hoặc chế độ cai trị của họ. trong đó chủ nghĩa tự do xuất phát chủ yếu từ
Châu Âu, đặc biệt là ở nước Anh, Pháp và Hà Lan. Các triết gia như John
Locke, Montesquieu, Jean-Jacques Rousseau và Voltaire đã đóng góp ý kiến và
lý luận về quyền tự do cá nhân, chia quyền lực, và quyền công dân.
Ví dụ: Chống lại chế độ quân chủ - trước đó, nhiều nước châu Âu thường là
các quốc gia quân chủ, nơi quyền lực tập trung vào tay vua hoặc quân phiệt. Chủ
nghĩa tự do được hình thành như là một hình thức phản đối lại sự tập trung
quyền lực này.Thêm vào đó là cải tổ xã hội và phá vỡ định kiến xã hội: Sự phân
chia xã hội dựa trên tư cách xã hội, các tư tưởng về quyền bình đẳng và tự do cá
nhân đã khuyến khích phá vỡ định kiến và đặt nền tảng cho sự phát triển của xã
hội dân chủ.
Chủ nghĩa tự do cũng xuất phát từ thực tiễn đối nghịch, trong đời sống chính
trị và kinh tế châu Âu, một quá trình khi mà sự cạnh tranh được thể chế hóa –
chẳng hạn như sự cạnh tranh giữa các đảng chính trị khác nhau trong các cuộc
bầu cử, giữa truy tố và bào chữa, hoặc giữa các nhà sản xuất khác nhau trong
nền kinh tế thị trường – tạo ra một trật tự xã hội năng động. Niềm tin rằng cạnh
tranh là một phần thiết yếu của một hệ thống chính trị và rằng chính phủ tốt đòi
hỏi một sự phản đối mạnh mẽ vẫn được coi là kỳ lạ ở hầu hết các nước châu Âu
vào đầu thế kỷ XIX.

4
3. Quá trình hình thành tư duy tự do
Trong các giai đoạn lịch sử mà loài người đã trải qua, chúng ta có thể sắp xếp
thứ tự như sau : Chủ nghĩa đế quốc đã xuất hiện từ thời cổ đại, từng tồn tại trong
xã hội chiếm hữu nô lệ (như chủ nghĩa đế quốc La Mã) hay sau đó là trong xã hội
phong kiến (như Chủ nghĩa đế quốc Mông – Nguyên). Tuy nhiên chủ nghĩa đế
quốc phát triển mạnh mẽ nhất trong thời đại bùng nổ chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu
từ thế kỷ XV. Tiếp theo đó là nhiều bản thể khác nhau xuất phát từ những hạn chế
của chủ nghĩa tư bản, trong đó có chủ nghĩa tự do.
a. Tư bản chủ nghĩa
Trước khi có xã hội như ngày này thì xa xưa hầu hết các quốc gia đều là chế độ
phong kiến, tức là nhà nước sẽ có vua đứng đầu và điều hành đất nước một cách
toàn diện cả về chính trị lẫn kinh tế. Nền kinh tế giai đoạn này khá đơn giản chủ
yếu là nông nghiệp. Đến giai đoạn khoảng từ thế kỉ XVI đến XVIII, các nước Tây
Âu bắt đầu có sự chuyển biến lớn trong nền kinh tế. Cụ thể khi những dân buôn đi
từ nơi này qua nơi khác họ nhận ra rằng mỗi vùng đất lại có rất nhiều sản phẩm
khác nhau, có nhiều sản phẩm ở đây lại thừa thãi, rẻ mạt nhưng lại rất khan hiếm
và đắt đỏ ở nơi khác. Vì vậy họ quyết định sẽ mua hàng ở nơi này với giá rẻ để
mang đến nơi khác bán với giá cao hơn và kiếm được rất nhiều tiền ,việc buôn bán
không chỉ diễn ra giữa các tỉnh trong một nước mà còn là giữa các nước với nhau
thậm chí là giữa các châu lục. Việc buôn bán giai đoạn này diễn ra rất sôi
nổi,người ta gọi đó là chủ nghĩa trọng thương nghĩa là việc buôn bán sẽ được đưa
lên hàng đầu. Cũng trong thời kì này đã có rất nhiều thương nhân trở nhân giàu có
vượt trội thậm chí là giàu hơn cả quý tộc. Tuy nhiên đến thế kỉ XVIII khi việc
buôn bán không còn thuận lợi nữa, có nhiều mặt hàng không đủ nguồn cung trong
khi nhu cầu thì lại rất lớn. Điều đó đã khiến các thương gia giàu có kia trở nên sáng
tạo hơn, họ nghĩ rằng nếu hàng đang khan hiếm mà nhu cầu vẫn còn cao như vậy
tại sao chính bản thân mình không đứng ra để sản xuất thật nhiều hàng? Chỉ cần
bán cao hơn chi phí sản xuất thì vẫn sẽ có lời. Và từ đó rất nhiều nhà máy mọc lên,
các ông chủ thương nhân giàu có thuê công nhân về làm việc cho mình, rất nhiều
sản phẩm được tạo ra, mặt hàng ngày càng đa dạng và phong phú. Đến đây chủ
nghĩa trọng thương bắt đầu lép vế nhường chỗ cho một thứ rất mới người ta gọi đó
là chủ nghĩa tư bản. Có thể thấy chủ nghĩa tư bản xuất hiện rất tự nhiên theo sự
xuất hiện của loài người.

Năm 1776, nhà kinh tế học người Scotland Adam Smith đã xuất bản công trình
nghiên cứu về kinh tế học của mình có tên “ Bản chất nguồn gốc và của cải của các
quốc gia”, đây là nguồn tài liệu quan trọng được coi là nền tảng của chủ nghĩa tư

5
bản và Adam Smith được coi là cha đẻ của chủ nghĩa tư bản. Vậy chính xác chủ
nghĩa tư bản là gì ?

Nếu chủ nghĩa xã hội đặt lợi ích chung của tất cả mọi người lên hàng đầu, tư liệu
sản xuất là của chung, của cải quốc gia cũng là của chung do tất cả mọi người đều
sở hữu thì bản chất của chủ nghĩa tư bản lại hoàn toàn ngược lại: tài sản là của cá
nhân, tư liệu sản xuất là của cá nhân, ai làm đc bao nhiêu thì hưởng bấy nhiêu,
không làm thì không có ăn. Và đặc điểm nổi bật nhất của chủ nghĩa tư bản là tất cả
mọi người đều hành động theo lợi ích của bản thân mình.
Chủ nghĩa tư bản được rất nhiều người ủng hộ vì: Tạo cơ hội cho phép cạnh
tranh nên có thể tạo nhiều sản phẩm tốt giá rẻ cho người tiêu dùng; làm nhiều ăn
nhiều tạo ra một xã hội bình đẳng; khả năng tự do thích sản xuất gì thì sản xuất,
mua gì mình muốn.
 Hạn chế của tư bản chủ nghĩa
Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa cũng có những phản ứng trái chiều từ
dân chúng : thứ nhất đó là ông chủ giàu nắm quá nhiều quyền lực, thâu tóm đất
nước, bóc lột người lao động, điều này thật sự đã xảy ra đầu cuộc cách mạng
công nghiệp , người lao động được trả lương rẻ mạt , bóc lột sức lao động. Thứ
hai là sự phân chia giàu nghèo quá lớn. giàu càng giàu nghèo thêm nghèo.
Một cuộc biểu tình chống tư bản chủ nghĩa đã xảy ra ở Mỹ vì lí do 1%
người giàu ở phố Walls đã nắm phần lớn tài sản của đất nước trước khi 20% trẻ
em nghèo lại không có tiền đi học.
Theo đó là những hậu quả như : Tàn phá môi trường tài nguyên. Đôi khi
gây ra thảm họa như một số ngành vẫn phải bị điều khiển bởi nhà nước nền kinh
tế hỗn hợp một phần tự do một phần làm chủ
b. Chủ nghĩa tự do
Những hạn chế của chủ nghĩa tư bản đã tạo đà cho Chủ nghĩa tự do hiện tại đã
chiếm ưu thế sau khi Thế chiến thứ I kết thúc. Cuộc chiến tranh này không chỉ bao
gồm các bên tham gia mở rộng trên một khu vực địa lý quy mô lớn trong bất kỳ
một cuộc chiến tranh nào trước đó mà còn là do khoa học và kỹ thuật hiện đại đã
làm cho cuộc chiến tranh này trở thành cuộc chiến tranh về máy móc. Những vũ
khí cũ được nâng cấp và được sản xuất với số lượng lớn, những vũ khí mới gây sát
thương cao thì nhanh chóng được phát triển và triển khai. Khi cuộc tàn sát này kết
thúc, gần 20 triệu người đã chết.
Đối với một người theo chủ nghĩa tự do như Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson,
Thế chiến thứ I là “cuộc chiến tranh để kết thúc tất cả các cuộc chiến tranh”. Cho
rằng một cuộc chiến tranh khủng khiếp khác sẽ xảy ra nếu các quốc gia tiếp tục
thực hiện chính trị quyền lực trở lại, các nhà chủ nghĩa tự do bắt đầu cải tổ hệ

6
thống quốc tế. Các “nhà theo chủ nghĩa duy tâm ” này, theo như cách gọi của các
nhà theo chủ nghĩa hiện thực cúng nhắc, thường rơi vào ba nhóm sau (Herz 1951).
b.1 Nhóm thứ nhất
Ủng hộ việc tạo ra các thể chế quốc tế để giảm nhẹ những cuộc đấu tranh
quyền lực khốc liệt giữa các quốc gia ích kỷ và nghi ngờ lẫn nhau. Hội Quốc Liên
là hiện thân của những suy nghĩ phóng khoáng này. Các nhà sáng lập nó hy vọng
rằng thể chế này sẽ ngăn chặn được các cuộc chiến tranh trong tương lai bằng cách
tạo ra một hệ thống an ninh tập thể có thể huy động toàn bộ cộng đồng quốc tế
chống lại kẻ xâm lược tương lai. Những nhà sáng lập Hội Quốc Liên tuyên bố rằng
hòa bình là không thể bị phá hủy: Bất cứ cuộc tấn công nào vào một thành viên của
Hội sẽ được coi là cuộc tất công vào tất cả các thành viên khác. Vì không có quốc
gia nào mạnh hơn tổng các quốc gia còn lại, những kẻ xâm lược sẽ bị răn đe và
chiến tranh là có thể được ngăn chặn.
b.2 Nhóm thứ hai
Kêu gọi việc sử dụng các thủ tục pháp lý để xét xử các cuộc tranh chấp trước
khi chúng tiến triển thành xung đột vũ trang. Sự xét xử là một luật pháp để giải
quyết xung đột bằng cách đưa tranh chấp ra tòa án để có một quyết định rõ ràng
Ngay khi chiến tranh kết thúc, một số chính phủ đã phác thảo một đạo luật
để thành lập Tòa Án Công lý Quốc tế Thường trực (PCIJ). Được ủng hộ bởi chủ
tịch đầu tiên của tòa án – Ông Bernard C.J, Loder – như là một dấu hiệu mở ra
kỷ nguyên mới của nền văn minh, PCIJ đã tổ chức cuộc họp ra mắt công chúng
vào đầu năm 1922 và đưa ra phán xét đầu tiên trong một trường hợp tranh chấp
năm sau đó. Những người ủng hộ chủ nghĩa tự do của tòa án quả quyết rằng Tòa
án Công lý sẽ thay thế các cuộc tranh chấp bằng bộ máy pháp lý, thứ có thể
mang vấn đề của các cuộc tranh chấp ra ánh sáng và đưa ra phán quyết một cách
công bằng.
b.3 Nhóm thứ ba
Các nhà tự do đi theo lời răn trong Kinh thánh cho rằng các quốc gia nên
chuyển gươm đao thành lưỡi cày và mong muốn sự giải trừ quân bị như là
phương tiện để hạn chế chiến tranh. Các nỗ lực của họ được thể hiện tại hội nghị
hải quân Washington từ năm 1921 đến năm 1922 nhằm giảm bớt sự cạnh tranh
hàng hải giữa Hoa Kỳ, Liên hiệp Anh, Nhật Bản, Pháp và Ý bằng cách giới hạn
số tàu chiến. Mục đích chủ yếu của nhóm này là giảm căng thẳng quốc tế bằng
cách thúc đẩy giải trừ quân bị tổng thể, điều này cũng dẫn đến việc triệu tập Hội
nghị Giải trừ quân bị tại Geneva năm 1932.
Mặc dù phong cách vận hành của chủ nghĩa duy tâm chiếm ưu thế trong luận
điệu chính sách và các tranh luận học thuật trong suốt thời kỳ giữa hai cuộc

7
chiến tranh nhưng có rất ít chương trình cải cách tự do được thực hiện nghiêm
túc, và thậm chí càng ít chương trình thành công. Hội Quốc Liên thất bại trong
việc ngăn chặn Nhật xâm lược Mãn Châu (1931) hoặc Ý xâm lược Ethiopia
(1935). Các cuộc tranh chấp quan trọng hiếm khi được nộp lên Tòa Án Công lý
Quốc tế; và Hội nghị Giải trừ quân bị Geneva năm 1932 kết thúc thảm bại. Khi
mối đe dọa chiến tranh bắt đầu nổ ra một lần nữa ở Châu Âu và Châu Á vào
cuối những năm 1930 thì sự ủng hộ đối với chủ nghĩa duy tâm tự do cũng dần bị
lu mờ đi.
Làn sóng tiếp theo của chủ nghĩa tự do xuất hiện nhiều thập kỷ sau đó để
đáp lại sự không ủng hộ của chủ nghĩa hiện thực đối với quan hệ xuyên quốc gia
(xem Keohane và Nye 1971). Mặc dù các nhà hiện thực tiếp tục tập trung vào
các quốc gia nhưng các sự kiện xoay quanh cuộc Khủng hoảng dầu mỏ 1973 cho
thấy rằng các chủ thể phi quốc gia cũng ảnh hưởng đến chiều hướng của các sự
kiện quốc tế, và thỉnh thoảng cạnh tranh với các quốc gia. Sự nhìn nhận này dẫn
đến việc phát hiện ra rằng sự phụ thuộc lẫn nhau một cách phức tạp (Keohane và
Nye 1977) thường đưa ra nhiều miêu tả tốt hơn về chính trị thế giới hơn là chủ
nghĩa hiện thực, đặc biệt đối với vấn đề môi trường và kinh tế quốc tế. Mối liên
hệ giữa các nước thay vì giới hạn chỉ có các quan chức cấp cao của chính phủ
mới được tham gia nhiều kênh giao tiếp khác nhau để kết nối xã hội. Thay vì an
ninh luôn bị hạn chế trong chính sách đối ngoại thì các vấn đề trên chương trình
nghị sự quốc gia không phải lúc nào cũng có một ưu tiên cụ thể. Thay vì lực
lượng quân sự được sử dụng như một phương tiện duy nhất của quản lý nhà
nước thì các phương tiện khác thường có hiệu quả hơn khi xảy ra nhiều cuộc
đàm phán giữa các quốc gia có mối liên hệ kinh tế với nhau.
c. Kết luận
Nói tóm lại, mối quan tâm của chủ nghĩa hiện thực đối với mối quan hệ giữa
các chính phủ khác nhau đã bị bỏ sót do mạng lưới phức tạp của sự trao đổi giữa
cộng đồng và tư nhân vốn đan chéo nhau qua biên giới quốc gia. Các quốc gia
trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, vì bên kia theo cách mà chủ nghĩa hiện
thực không đề cập tới.
Trong khi sự phụ thuộc lẫn nhau không mới nhưng sự phát triển của nó
trong suốt một phần tư cuối thế kỷ XX đã dẫn đến việc nhiều nhà theo chủ nghĩa
tự do thách thức quan niệm của chủ nghĩa hiện thực về tình trạng vô chính phủ.
Mặc dù chấp nhận rằng hệ thống quốc tế là vô chính phủ nhưng họ cũng cho
rằng nó nên được định nghĩa chính xác là tình trạng vô chính phủ “có trật tự”
bởi vì hầu hết các quốc gia đều theo một tiêu chuẩn quy phạm được thừa nhận
chung, thậm chí khi không có sự cưỡng chế. Khi một bộ quy chuẩn ủng hộ các
mong muốn chung, giúp định hướng một mô hình hợp tác có chỉnh sửa về một
vấn đề cụ thể thì chúng ta gọi đó là thiết chế quốc tế (xem Hasenclever, Mayer,
8
và Rittberger 1996). Nhiều loại thiết chế đã được đưa ra để quản lý các hành vi
trong thương mại và vấn đề tiền tệ, cũng như quản lý cách tiếp cận các nguồn tài
nguyên chung như đánh cá và nguồn nước sông. Tới đầu thế kỷ XXI, khi các
vấn đề môi trường và kinh tế cấp thiết luôn xuất hiện đầy trên các chương trình
nghị sự quốc gia, một bộ phận lớn các nhà theo chủ nghĩa tự do đã tập trung
nghiên cứu về việc các thiết chế phát triển như thế nào và điều gì khiến các quốc
gia tuân theo các thiết chế đó.
Được nhen nhóm bởi niềm tin rằng sự phụ thuộc lẫn nhau có thể dẫn đến
mức độ hợp tác cao hơn, làn sóng mới của chủ nghĩa tự do, được biết đến dưới
tên chủ nghĩa tự do mới (hay chủ nghĩa thể chế tự do mới) đã đưa ra một thách
thức nghiêm trọng cho chủ nghĩa hiện thực và hiện thực mới trong suốt thập kỷ
cuối của thế kỷ XX. Những người theo chủ nghĩa tự do mới cho rằng các quốc
gia cố gắng để tối đa hóa lợi phần tuyệt đối bằng cách hợp tác nhằm gia tăng lợi
ích chung, và rằng các thể chế quốc tế đưa ra một cơ chế để phối hợp hành động
đa phương và giảm thiểu xung đột của bất kỳ ai không giữ đúng cam kết. Một
mặt, các thể chế tăng cường sự hợp tác bằng cách cung cấp thông tin về nhu cầu
của những nước khác; mặt khác, chúng ngăn chặn các động cơ bội ước bằng
cách giám sát việc tuân thủ các thỏa thuận.

9
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CHỦ NGHĨA TỰ
DO
1. Chủ nghĩa tự do cổ điển
1.1. Hoàn cảnh ra đời
Cuối thời Trung cổ chứng kiến sự tan rã của chế độ phong kiến và sự nổi
dậy của chủ nghĩa chuyên chế
Trong khi đó quyền lực của giáo hoàng bị suy yếu và cuộc cải cách tôn giáo
diễn ra ở các nước châu Âu. Những người cai trị phải thực thi việc tuân theo Công
giáo La Mã hoặc đạo Tin lành=>Quá trình này gây ra xung đột trong và giữa các
bang. Một ví dụ là Chiến tranh Ba mươi năm từ 1618 đến 1648, khiến châu Âu
thiệt hại to lớn
Trong thế kỷ tiếp theo, khi quá trình công nghiệp hóa tăng tốc, một tầng lớp
xã hội mới, cụ thể là tầng lớp trung lưu, xuất hiện. Họ khao khát được tham gia
chính trị nhiều hơn và tự do kinh tế hơn=>châm ngòi cho các cuộc cách mạng
trong thế kỷ XVII, XVIII, trong đó nổi bật nhất là Cách mạng vẻ vang ở Anh năm
1688, Cách mạng Mỹ 1775-83 và Cách mạng Pháp 1789
 Trong hoàn cảnh này, chủ nghĩa tự do dần dần nổi lên như một học thuyết
chính trị.
1.2. Nội dung chủ nghĩa tự do cổ điển
a. Quan niệm về cá nhân
Chủ nghĩa tự do cổ điển bao trùm một xã hội trong đó diễn biến của các sự
kiện được quyết định bởi quyết định của các cá nhân chứ không phải bởi hành
động của một cơ cấu chính phủ tự trị, do quý tộc kiểm soát.
Xã hội vận hành theo trật tự tự phát-lý thuyết cho rằng trật tự xã hội ổn định
tiến triển và được duy trì không phải do con người thiết kế hay quyền lực của
chính phủ mà do các sự kiện và quá trình ngẫu nhiên dường như nằm ngoài tầm
kiểm soát hoặc hiểu biết của con người
 Một trật tự xã hội không cần chính phủ hoặc kế hoạch để hoạt động hiệu quả
hoặc thậm chí hợp lý. Chúng xuất hiện thông qua sự tương tác tự do của các cá
nhân, mỗi người theo đuổi mục tiêu riêng của mình nhưng tôn trọng các quyền
và tự do của người khác
b. Quan niệm về nhà nước
Quan điểm về chức năng của chính phủ:

10
- Chủ nghĩa tự do cổ điển điển cho rằng sự tồn tại của chính phủ chỉ với một
mục đích duy nhất là bảo vệ quyền của con người, mở rộng cơ hội và tự do
của họ bằng cách giảm thiểu sự ép buộc và duy trì sự hòa bình
- Tuy nhiên, cũng trong học thuyết chủ nghĩa tự do cổ điển, chính phủ được
coi là “ chính phủ hạn chế”- bị giới hạn về quyền lực, phạm vi và tính hợp
pháp
- Về phương diện quyền lực, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển nhận
thức được quyền lực có thể đe dọa tới sự tự do->sự cần thiết phải kiềm chế
và kiểm soát sức mạnh của chính phủ
- Về phương diện phạm vi, những người theo học thuyết chủ nghĩa tự do cổ
điển nhấn mạnh rằng chính phủ hợp pháp không dựa trên sự chinh phục và
sức mạnh, mà hoạt động dựa trên sự đồng lòng của các cá nhân với mục
đích: thúc đẩy các quyền, tự do và các cơ hội cho họ
- Về tính hợp pháp: nhấn mạnh rằng thẩm quyền của chính phủ đến từ những
cá nhân chấp nhận sự kiểm soát của chính phủ để đổi lấy quyền công dân.
 Do đó, thẩm quyền của chính phủ không vượt quá những thẩm quyền mà cá
nhân đó đưa ra
Quan điểm về hiến pháp:
- Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển nhấn mạnh rằng việc thiết lập
những hạn chế về hiến pháp mang lại cho chúng ta cơ hội tốt nhất để bảo vệ
các quyền và tự do cá nhân.
- VD: Thông qua các quy định như phân chia quyền lực và kiểm tra và cân
bằng – ví dụ: chính phủ đa viện, hệ thống liên bang và cơ quan xét xử tư
pháp – chúng ta có thể cố gắng ngăn chặn các nhóm lợi ích được hưởng
quyền nắm giữ toàn bộ quá trình ra quyết định.
- Một hiến pháp tự do cổ điển sẽ không chỉ đảm bảo quyền lực của chính phủ
bị hạn chế và phân chia. Nó sẽ đảm bảo rằng luật pháp được áp dụng bình
đẳng cho tất cả mọi người, để không có nhóm lợi ích cụ thể nào - kể cả các
chính trị gia và chính phủ bản thân các quan chức – có thể được đối xử đặc
biệt.
Quan điểm về nền dân chủ:
- Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển tin rằng công chúng nói chung,
mà không phải một số tầng lớp quyền lực, nên đưa ra quyết định về những
chức năng của nền dân chủ và cũng như cách đạt được nó. Và họ cho rằng
chính phủ đại diện có lẽ cách tốt nhất để đưa ra và thực hiện những quyết
định đó.
- Tuy nhiên, họ biết rằng tiến trình dân chủ còn lâu mới hoàn hảo. Đó không
phải là một quá trình dung hòa các lợi ích khác nhau, mà là một quá trình mà
trong đó ta có thể lựa chọn giữa những lợi ích xung đột nhau- một lựa chọn
mà chỉ một bên có thể thắng
11
 Vì lý do trên, những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển cho rằng việc ra
quyết định dân chủ phải bị ràng buộc bởi những quy tắc nhất định, và nên tập
trung một cách chính xác vào những vấn đề không thể giải quyết bằng bất kỳ
cách nào khác
c. Quan niệm về kinh tế:
Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển ủng hộ một mức độ tự do kinh tế
cho phép các cá nhân tự do phát minh và sản xuất các sản phẩm và quy trình mới,
tạo ra và duy trì của cải cũng như tự do buôn bán với người khác.
Vai trò của chính phủ trong kinh tế là tạo điều kiện thuận lợi cho một nền
kinh tế trong đó bất kỳ ai cũng được phép có cơ hội lớn nhất có thể để đạt được các
mục tiêu cuộc sống của mình.
Những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển tin rằng một nền kinh tế lành
mạnh là nền kinh tế cho phép trao đổi hàng hóa và dịch vụ tự do ở mức độ tối đa
giữa các cá nhân. Họ lập luận rằng trong những trao đổi như vậy, cuối cùng cả hai
bên đều có lợi hơn - rõ ràng là một kết quả có đạo đức hơn là xấu xa.
Các cá nhân phải được phép quyết định cách sử dụng lợi nhuận thu được
bằng nỗ lực của chính họ mà không chịu sự can thiệp của chính phủ hoặc chính trị.
2. Chủ nghĩa tân tự do
Đến thập kỷ 1970, CNTD bước vào thời kỳ phát triển mới với sự ra đời của
trường phái CNTD mới. Trường phái này ra đời trên cơ sở tiếp thu các luận điểm
chính của các trường phái trước đó là chủ nghĩa Quốc tế tự do và Chủ nghĩa lý
tưởng, được điều chỉnh thông qua cuộc tranh luận với CNHT cổ điển và mới, và
được phát triển thêm nhờ những bổ sung từ các lý thuyết khoa học xã hội khác.
Một trong những người đề xướng CNTD mới nổi tiếng nhất là Robert O. Keohan.
2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Quan niệm về mối quan hệ giữa môi trường vô chính phủ và xung đột trong
QHQT
- Tính đa nguyên về chủ thể QHQT
- Bản chất của con người
- Chủ nghĩa duy vật kết hợp với duy tâm chủ quan
- Quan điểm về sự vận động của thực tiễn lịch sử
- Quan niệm về tự do.

12
2.2. Các luận điểm cơ bản
2.2.a. Vai trò của các chủ thể phi quốc gia trong chính trị thế giới (các tổ chức phi
chính phủ- NGO; các tập đoàn đa quốc gia…)
 Xuất phát điểm là một lý thuyết chính trị quốc tế cấp độ hệ thống, chủ
nghĩa tân tự do thừa nhận tầm quan trọng của quốc gia và môi trường
quốc tế phi tập trung tạo nên bởi các quốc gia. Nhưng mô hình này
đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của các chủ thể phi quốc gia và
thừa nhận một loạt các dạng chủ thể như vậy (từ các công ty đa quốc
gia, tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ,...)
 Các thể chế quốc tế này đang ngày càng khẳng định được tầm quan
trọng trong thời gian gần đây. Gần như mọi lĩnh vực hợp tác quốc tế
đều đã được thể chế hóa trong một loại thể chế, nếu như không phải
là một tổ chức quốc tế. Về số lượng, các tổ chức quốc tế đã tăng từ
300 lên 600- tức tăng gấp đôi từ năm 1977 đến nay. Về chất lượng, số
lượng thành viên trong các tổ chức được mở rộng.

Ví dụ: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hay Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) đã mang tính toàn cầu với hầu hết các quốc gia trên
thế giới là thành viên.

2.2.a.1. Tác động của các chủ thể phi chính phủ đến Quan hệ quốc tế

Sự tham gia vào QHQT của các chủ thể này khiến cho QHQT trở thành sự
đan xen lợi ích giữa nhiều chủ thể khác nhau chứ không còn bị chi phối chỉ bởi
mỗi lợi ích và toan tính của quốc gia. Sự tồn tại của các chủ thể phi quốc gia khiến
quốc gia không còn một mình tự tung tự tác trong QHQT như trước kia nữa
Các chủ thể phi quốc gia có lợi ích và quan niệm không giống với lợi ích của
quốc gia, chúng chủ yếu theo đổi hòa bình và hợp tác nên QHQT không còn chỉ
mỗi xung đột như quan niệm của CNHT.
Bản thân quốc gia cũng buộc phải thay đổi bởi sự tồn tại của các chủ thể phi
quốc gia. Các chủ thể này không chỉ kết hợp, bổ sung mà trong nhiều trường hợp
còn thay thể quốc gia. Điều này làm giảm vai trò và tính tự trị của quốc gia trong
QHQT cũng như làm xói mòn chủ quyền quốc gia.

 Việc mở rộng phạm vi hoạt động của những thể chế quốc tế đặt ra câu
hỏi về giá trị của lý thuyết tân hiện thực khi thuyết này cho rằng các thể chế này
không phải là đặc điểm nổi trội và bền vững của CTQT. Các nhà chủ nghĩa hiện
thực cho rằng chính sự cân bằng sức mạnh đã định hình khuôn khổ các thể chế
quốc tế và các cường quốc mạnh nhất chính là kẻ áp đặt quy tắc, luật lệ lên phần
còn lại của thế giới. Đặc biệt, thuyết ổn định bá quyền- xác định nguồn gốc của các

13
thể chế quốc tế trong một giai đoạn nhất định là từ các cường quốc bá quyền. Bên
cạnh đó, quốc gia sẽ không hợp tác trong bất cứ lĩnh vực nào nằm ngoài lợi ích
quốc gia của họ nên sự hợp tác là rất mờ nhạt. Việc hợp tác chỉ có khả năng khi
chúng cho những quốc gia nhỏ hơn thấy được việc không hợp tác là tốn kém và bất
lợi hơn rất nhiều. Các nhà tân hiện thực nghi ngờ chứng cứ cho thấy chủ thể phi
quốc gia có vai trò quan trọng.

2.2.a.2. Lý do các quốc gia muốn tạo ra và tham gia vào các thể chế quốc tế

Một quốc gia (được giả định là duy lý) sẽ chỉ có nhu cầu và tham gia vào các
thể chế quốc tế nếu việc tham gia đó xét cho cùng là đem lại lợi ích so với tình
huống ngược lại, những lợi ích này có thể là giảm chi phí hợp tác, tăng lượng
thông tin và giảm tính bất định. Các thể chế quốc tế giúp các quốc gia đàm phán
những hiệp định đôi bên cùng có lợi mà các quốc gia vốn không thể tự đạt được
(Stone chỉ ra rằng IMF có thể đảm bảo sự tuân thủ (từ các nước thành viên) nhiều
hơn và từ đó là kết quả tốt hơn khi các cường quốc không can thiệp vào các biện
pháp của IMF dành cho các quốc gia gặp khó khăn về kinh tế; David trong nghiên
cứu của bà về WTO kết luận rằng tổ chức này có thể giúp các quốc gia vượt qua
những phản đối trong nước và đạt được những hiệp định thương mại có giá trị cho
các bên; Meunier cho thấy EU có thể tạo ra sự khác biệt cho các quốc gia châu Âu
với khả năng giành phần thắng trong các cuộc thương mại với các quốc gia khác)

=> Tổng quan: các chủ thể phi quốc gia trong QHQT đang ngày càng
trở nên quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích mà các thể chế quốc tế
này đem lại cho các quốc gia thành viên, nó cũng đang chịu rất nhiều áp lực đòi
hỏi cải tổ. Các tổ chức như UN, IMF hay NATO,.. gần đây đã bị chỉ trích rất
nặng nề vì thất bại trong việc hoạt động một cách đầy đủ, thích đáng. Sự thất bại
trong việc đạt được kết quả tối ưu được Keohane xác định đến từ ba nguyên
nhân chính: sự chi phối của quyền lực, tiến trình quan hệ quốc tế và cấu trúc nội
tại của các thể chế quốc tế.

14
2.2.b. Vai trò của quốc gia
Vai trò của nhà nước trong chủ nghĩa tự do là một khái niệm phức tạp và
đang phát triển, được định hình bởi nhiều yếu tố lịch sử, triết học và bối cảnh khác
nhau. Chủ nghĩa tự do, với tư cách là một triết lý chính trị và kinh tế, nhấn mạnh
đến quyền tự do cá nhân, nhà nước pháp quyền và bảo vệ tài sản cá nhân. Theo
thời gian, các khuynh hướng tư tưởng tự do khác nhau đã xuất hiện, dẫn đến
những khác biệt trong cách nhìn nhận và thực hiện vai trò của nhà nước. Các khía
cạnh chính về vai trò của nhà nước của chủ nghĩa tự do trong việc bảo vệ quyền
cá nhân, đảm bảo nhà nước pháp quyền, thúc đẩy chính phủ hạn chế, duy trì
quyền sở hữu, giải quyết bất bình đẳng xã hội và thúc đẩy quản trị dân chủ.
2.2.b.1. Bảo vệ Quyền Tự Do Cá Nhân
Chủ nghĩa tự do đặt trọng tâm vào quyền tự do cá nhân và ý thức về việc nhà
nước cần tồn tại để bảo vệ và đảm bảo những quyền này.
Nhà nước được xem như một phương tiện để ngăn chặn sự xâm phạm vào
quyền tự do và quyền lợi cá nhân, thường thông qua hệ thống pháp luật và cơ
quan thi hành pháp luật.
2.2.b.2. Giới Hạn Quyền Lực Chính Trị của nhà nước
Chủ nghĩa tự do thường phản đối sự can thiệp quá mức của nhà nước vào
cuộc sống kinh tế và chính trị.
Họ ủng hộ việc giới hạn quyền lực chính trị của nhà nước để tránh lạm dụng
quyền lực và đảm bảo sự tự chủ của cá nhân và doanh nghiệp.
2.2.b.3. Thị trường Tự Do
Chủ nghĩa tự do thường ủng hộ hệ thống kinh tế thị trường tự do, cho rằng
sự tư nhân và cạnh tranh làm tăng cường hiệu suất và sáng tạo.
Nhà nước được xem là có vai trò hỗ trợ và duy trì môi trường kinh doanh
lành mạnh thay vì can thiệp quá mức vào hoạt động kinh tế.
2.2.b.4. Tự Do Cá Nhân và Trách Nhiệm Cộng Đồng
Chủ nghĩa tự do thường kết hợp quan niệm về tự do cá nhân với trách nhiệm
cộng đồng, với quan điểm rằng mỗi cá nhân đều có trách nhiệm đối với xã hội
và cần hợp tác để bảo vệ tự do chung.
=> Tổng quan: Quan niệm về nhà nước của chủ nghĩa Tân tự do tập trung
vào việc giữ cho nhà nước can thiệp ít nhất có thể trong cuộc sống cá nhân và
kinh tế, với mục tiêu bảo vệ và tăng cường quyền tự do cá nhân.

15
2.2.c. Quan niệm về hệ thống quốc tế

Thuyết tân tự do thể chế nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau và khả năng hợp tác
bên cạnh xung đột giữa các quốc gia đồng thời cũng khẳng định khả năng tiến
bộ của con người và cho rằng các quốc gia thay vì cạnh tranh có thể hợp tác
với nhau để cùng đạt được lợi ích chung, đặc biệt là thông qua các thể chế quốc
tế:

 Lợi ích của quốc gia là đa dạng và hoàn toàn có khả năng hòa hợp
lợi ích giữa các quốc gia với nhau. Điều này được quy định bởi bản
chất con người có chứa đựng những mặt tích cực, có nhiều điểm
chung giữa người với người, có lý trí để nhận biết ích lợi của hợp tác.
“Cạnh tranh trên thị trường sẽ tạo ra những hàng hóa tốt nhất và cũng
như vậy, cạnh tranh về ý tưởng sẽ tạo ra ý thức chính trị đúng
đắn”.Sự tự do cá nhân là một yếu tố góp thêm vào điều này. Chính sự
tự do cá nhân sẽ làm bộc lộ nhiều lợi ích và ý tưởng khác nhau của
con người và nhận thức lý trí sẽ giúp con người nhận thức được đâu
là lợi ích chung bên cạnh lợi ích riêng và những ý tưởng tốt nhất từ
đó tạo ra những mẫu số chung trong tương tác. Chính khả năng hòa
hợp lợi ích này đã góp phần quy định xu hướng hợp tác trong QHQT
 Sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng được đánh giá là một
phương cách quan trọng để tăng tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia từ đó thúc đẩy hợp tác, đảm bảo an ninh và duy trì hòa
bình trong QHQT. Kinh tế thị trường tác động tới QHQT bằng nhiều
tác động khác nhau. Thứ nhất, kinh tế thị trường giúp đem lại lợi ích
kinh tế và thịnh vượng mà tất cả đều cần. Điều này thúc đẩy lợi ích
chung trong QHQT. Thứ hai, phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi
phải thúc đẩy hợp tác bởi đây là phương thức quan hệ chủ yếu trong
kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường luôn có xu hướng mở rộng thị
trường ra bên ngoài và điều này buộc các quốc gia đều phải tìm cách
mở rộng hợp tác trong QHQT. Thứ ba, kinh tế thị trường dẫn đến yêu
cầu phải duy trì môi trường an ninh để phát triển. Điều này tạo ra áp
lực từ trong nước đối với chính sách đối ngoại theo hướng hòa bình.
Cạnh tranh là cần thiết và không tránh khỏi trong kinh tế thị trường
nhưng được điều chỉnh bằng pháp luật và được kiềm giữ ở mức độ
nhất định không cho leo thang thành xung đột cao hơn.
 kinh tế thị trường phát triển còn thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau
(Interdependence). Kinh tế thị trường phát triển sẽ đem lại sự phụ
thuộc lẫn nhau và tác động mạnh mẽ đến QHQT. Sự phụ thuộc lẫn
nhau đó không chỉ diễn ra giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp

16
mà còn giữa các giới và tầng lớp xã hội khác nhau đơn giản bởi vì tất
cả đều là những bộ phận trong nền kinh tế thị trường. Không những
thế, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế còn ảnh hưởng sang các lĩnh
vực khác.

=> Tổng quan: Những quan điểm này tạo ra một cách hiểu khác biệt so
với chủ nghĩa hiện thực, với sự nhấn mạnh vào hợp tác, tương tác đa chiều, và
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong hệ thống quốc tế.
3. Các tác gia tiêu biểu
a. Chủ nghĩa tự do cổ điển:
Các nhà chủ nghĩa tự do cổ điển tiêu biểu có thể kể đến:
- Locke (1632-1704): ông là người có đóng góp lớn trong việc phát triển lý
thuyết về khế ước xã hội, vai trò của nó tới chức năng và nguồn gốc của nhà
nước. Tư tưởng về chủ nghĩa tự do và khế ước xã hội của ông ảnh hưởng
trực tiếp với Voltaire, Montesquieu và sau này tới cả những Cha đẻ của hợp
chủng quốc Hoa Kỳ như Alexander, Hamilton, James Madison và Thomas
Jefferson.

- Adam Smith (1723-1790) đã đặt nền tảng cho lý thuyết kinh tế thị trường tự
do cổ điển. Trong các tác phẩm của mình, ông đã phát triển khái niệm của
phân công lao động và lợi ích cá nhân hợp lý và cạnh tranh là tiềm năng cho
sự phát triển thịnh vượng của kinh tế.
Ngoài hai tác gia tiêu biểu trên, chủ nghĩa tự do cổ điển còn có một số các
gương mặt có sự đóng góp to lớn như: A.Tocqueville, John S.Mill,...
b. Chủ nghĩa tân tự do
 Robert O.Keohane:
Ông là một học giả người Mỹ gắn liền với những đóng góp về sự phát
triển của lý thuyết tân tự do chủ nghĩa thể chế trong quan hệ quốc tế, cũng như
quan hệ xuyên quốc gia và chính trị thế giới trong quan hệ quốc tế vào những
năm 1970.
Ngoài ra, tân tự do chủ nghĩa thể chế còn có một số các học giả có sự
đóng góp to lớn, tiêu biểu như: T.H.Green và John M.Keynes…

17
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
1. So sánh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa hiện thực

Chủ nghĩa hiện thực Chủ nghĩa tự do


Chủ thể Quốc gia dân tộc Quốc gia dân tộc, công ty đa
chính quốc gia, tổ chức quốc tế
Mục tiêu Theo đuổi lợi ích quốc Hợp tác và phối hợp hướng đến
chính của gia, tối đa hóa quyền mục tiêu chung; Hòa bình thế
quốc gia lực(chủ nghĩa hiện giới
dân tộc thực tấn công), tồn tại
và an ninh (chủ nghĩa
hiện thực phòng thủ)
Trật tự Hệ thống cân bằng Hệ thống an ninh tập thể được
thế giới quyền lực dựa trên xây dựng dựa trên thương mại tự
hướng tới nguyên tắc tự cứu và do, tự do dân chủ và các thiết chế
xây dựng liên minh để
duy trì trật tự thế giới
Mô hình Sự tương tác chiến Hai cấp độ (trong nước và quốc
tương tác lược dựa trên tư duy tế), đàm phán, thương mại và các
căn bản lý trí về tính nhân quả dạng khác của quá trình thể chế
và sức mạnh kinh tế, hóa chức năng
quân sự
Biến thể Chủ nghĩa tân hiện Chủ nghĩa tự do thể chế mới: tồn tại
chính thực: sự phân bố tình trạng vô chính phủ trên hệ
quyền lực quyết định thống quốc tế, tuy nhiên các thiết
kết quả chế được tạo ra phục vụ lợi ích của
quốc gia giúp hạn chế tình trạng vô
chính phủ này

2. Ý nghĩa của chủ nghĩa tự do


Niềm tin về sự thay đổi: Chủ nghĩa Tự do có vai trò rất lớn trong nghiên cứu
QHQT như phát triển lý luận về chủ thể QHQT, xây dựng cơ sở lý luận cho hợp
tác và hội nhập trong QHQT, bổ sung thêm nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến sự

18
vận động của QHQT, đóng góp cho phương pháp luận và nhận thức luận nghiên
cứu QHQT, đem lại niềm tin về khả năng thay đổi QHQT thế giới theo hướng
tích cực hơn. Để hiểu rõ hơn vì sao Chủ nghĩa Tự do có thể dẫn đến niềm tin về
sự thay đổi, ta sẽ phải biết về những lợi ích của nó:

- Chủ nghĩa Tự do coi QHQT là sự hỗn hợp của nhiều lĩnh vực và vấn đề
tương tác với nhau. Từ đó, nó “có xu hướng bác bỏ việc phân chia “chính trị cấp
cao với chính trị cấp thấp” như quan niệm của một số nhà chủ nghĩa Hiện thực.
Theo Chủ nghĩa Tự do, những lợi ích quốc gia quan trọng nhất là hòa bình
(chính trị) và thịnh vượng (kinh tế) nên chính trị và kinh tế cũng là hai lĩnh vực
cơ bản nhất trong QHQT. Vì thế, Chủ nghĩa Tự do rất quan tâm tới mối tương
tác giữa hai lĩnh vực này trong đời sống quốc tế và coi các vấn đề này đều quan
trọng như nhau. Chính sự quan tâm này khiến Chủ nghĩa Tự do còn được gọi là
“lý thuyết kinh tế chính trị quốc tế”.

- Chủ nghĩa Tự do cho rằng hoàn toàn có khả năng hòa hợp lợi ích giữa
người với người và từ đó là khả năng hòa hợp lợi ích giữa các quốc gia với
nhau.
- Chủ nghĩa Tự do đề cao vai trò của dân chủ tự do như phương cách
quan trọng thúc đẩy hợp tác, đảm bảo an ninh và duy trì hòa bình trong QHQT.
- An ninh tập thể (Collective Security) là một phương cách ngăn chặn
chiến tranh, duy trì hòa bình của Chủ nghĩa Tự do, nhất là những người theo
trường phái Chủ nghĩa Lý tưởng. An ninh tập thể có nghĩa là an ninh được nhận
thức là vấn đề có tính tập thể và bảo vệ an ninh là trách nhiệm của tập thể hơn là
của cá nhân quốc gia nào đó.
- Chủ nghĩa Tự do, nhất là những người dựa trên Chủ nghĩa Tự do kinh
tế, cũng coi phát triển kinh tế thị trường (Market Economy) như phương cách
quan trọng khác để thúc đẩy hợp tác, đảm bảo an ninh và duy trì hòa bình trong
QHQT.
- Chủ nghĩa Tự do, nhất là những người dựa trên Chủ nghĩa Tự do có
điều tiết, cũng đề cập đến vai trò của luật pháp quốc tế như phương cách khác dù
không quá đề cao như dân chủ tự do, kinh tế thị trường hay thể chế quốc tế.
- Chủ nghĩa Tự do cho rằng hợp tác chính là xu hướng phát triển của lịch
sử QHQT thế giới. Xu thế hợp tác phát triển không chỉ về bề rộng mà còn về bề
sâu với sự phát triển của hội nhập quốc tế.
=> Tổng quan: từ các luận điểm trên có thể nhận thấy rằng Chủ nghĩa
Tự do đã có sự gắn kết nhiều hơn giữa môi trường trong nước cũng như môi
trường quốc tế, giữa chính sách đối nội và đối ngoại…
=> Từ đó tạo dựng nên niềm tin về thay đổi, về một thế giới thay đổi
theo hướng tích cực hơn, tạo dựng nên hòa bình bền vững.

19
3. Hạn chế của chủ nghĩa tự do
3.1. Thuyết thể chế tự do nói chung bị coi là có tác dụng hạn chế trong lĩnh
vực an ninh:
Nỗi lo sợ về lừa lọc được coi là một trở ngại rất lớn đối với hợp tác khi vấn đề
liên quan là quân sự và an ninh. Do đó, thể chế tự do không trực tiếp giải đáp câu
hỏi liệu thể chế có tạo ra hòa bình hay không.

3.2. Thiếu những bằng chứng thực tiễn


Mặc dù có nhiều bằng chứng về hợp tác giữa các nước, thực tế đó tự nó không
hỗ trợ cho logic của thuyết thể chế tự do. Cái cần đưa ra là bằng chứng về hợp tác
không xảy ra khi thiếu thể chế vì lo ngại lừa lọc hoặc có sự lừa lọc trên thực tế.
Nhưng các học giả đã đưa ra ít bằng chứng về hợp tác đổ vỡ vì lý do lừa đảo. Hơn
nữa, như đã thảo luận ở trên, có nhiều bằng chứng cho thấy các nước lo ngại nhiều
về lợi tương đối không chỉ vì các lý do an ninh, mà còn trên lĩnh vực kinh tế nữa.

3.3. Lý thuyết thể chế không đưa ra một cơ sở vững chắc để hiểu QHQT sau
chiến tranh lạnh
Nó đưa ra những khẳng định khiêm tốn về tác động của thể chế và tránh xa các
vấn đề về chiến tranh/ hòa bình mà chỉ tập trung vào một nhiệm vụ ít tham vọng
hơn, đó là giải thích về hợp tác kinh tế. Cuối cùng, bằng chứng hiện thực cho đến
nay vẫn chưa mang lại nhiều ủng hộ cho lý thuyết này.

20

You might also like