Professional Documents
Culture Documents
Mưa Xuân
Mưa Xuân
thời kỳ
Thơ Mới. Ta từng biết đến “Vấn vương” của Xuân Diệu, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc
Tử hay như “Sóng” của Xuân Quỳnh. Nhưng với Nguyễn Bính, ông coi tình yêu lứa đôi
là thứ tình cảm chân thật, mộc mạc, thân thuộc nhưng cũng đầy sự tiếc nuối. Phong
cách này được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Mưa xuân”
Nguyễn Bính(1918-1966), là một trong những nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam.
Ông xuất thân từ một gia đình Nho giáo nghèo ở Nam Định, mồ côi cha mẹ từ nhỏ.
Nguyễn Bính được đánh giá là một người thông minh, nhạy cảm với thời đại và luôn
giữ cho mình chất “quê”.Bởi vậy mới nói ông là nhà thơ “thân quen nhất” giữa các nhà
thơ nổi bật của phong trào Thơ Mới. Những sáng tác của Nguyễn Bính thể hiện sâu sắc
nỗi day dứt không yên của tâm hồn thiết tha với những giá trị cổ truyền đang có nguy
cơ bị mai một cùng với sự lạc lõng giữa thời đại du nhập mạnh mẽ của văn hóa
phương Tây. Nhận xét về Nguyễn Bính, trong cuốn "Thi nhân Việt Nam" có viết
"Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê mà ít để ý đến cảnh quê".
(Hoài Chân, Hoài Thanh). Còn “Mưa xuân”(1936), đây là một trong những tác phẩm nổi
bật của Nguyễn Bính, được sáng tác vào năm ông 18 tuổi. Xuyên suốt tác phẩm kể về
những cung bậc cảm xúc, từ háo hức, mong chờ đến thất vọng,bẽ bàng của cô gái
thôn quê mới lớn với mối tình đầu.
Trước hết, với “vân bút riêng” của mình, Nguyễn Bính đã miêu tả về hoàn cảnh, xuất
thân của nhân vật trữ tình “em”:
Em là con gái trong khung cửi,
Dệt lụa quanh năm với mẹ già.
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.
“Em” đã được tác giả giới thiệu cho bạn đọc một cách tự nhiên vô cùng! Đó là cô gái
làm nghề dệt lụa, phụ giúp cho mẹ già. Hình ảnh so sánh “lòng trẻ”-“cây lụa trắng” như
nhắc về sự trong trắng, tinh khiết của cô thiếu nữ thôn quê tuổi mới lớn, kết hợp cùng
hình ảnh “chưa bán chợ làng xa”, khẳng định cô chưa có chồng. Phép so sánh thật độc
lạ nhưng cũng hay vô cùng. Chẳng cần từ ngữ mỹ miều, cao sang mà Nguyễn Bính chỉ
sử dụng những hình ảnh quen thuộc với người dân Bắc Bộ đã gợi ra hình ảnh cô gái
trong trắng của miền quê đầy tinh tế.
Tiếp theo đó, sự háo hức của nhân vật “em” cũng được tác giả khắc họa thật rõ ràng
qua bốn khổ thơ tiếp:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: "Thôn Đoài hát tối nay".
Dẫu là một tình yêu trong sáng, đẹp đẽ nhưng chính tình yêu ấy lại khiến cho “em” thất
vọng, lạc lõng và bẽ bàng vô cùng trong những đoạn thơ sau:
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem.
Chắc hẳn đêm nay dường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em
Nhìn ở một khía cạnh khác, ta dường như nhận ra Nguyễn Bính không chỉ nói về tình
yêu đôi lứa mà còn nói về chính bản thân ông. Là một người luôn khao khát gìn giữ nét
đẹp của vùng quê Bắc Bộ giản dị, thân quen nhưng ông lại sinh ra giữa sự du nhập
mạnh mẽ của phương Tây. Cũng giống như cô gái, ông cảm thấy lạc lõng, cô đơn giữa
đêm hội(tức xã hội thời bấy giờ) và cũng chờ đợi một chàng trai là nét đẹp giản dị, gần
gũi của thôn quê. Điều này cũng được ông nhắc đến trong tác phẩm “Chân quê” của
mình:
Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.
Như hôm em đi lễ chùa,
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.
Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Tóm lại, qua tác phẩm “Mưa xuân”, ta không chỉ thấy tiếc nuối cho một tình yêu lứa đôi chưa
kịp nở rộ đã sớm tàn, mà còn phần nào hiểu được thêm về Nguyễn Bính- chủ soái phong cách
“thơ dân gian” với những nét bút riêng biệt, giản dị như lời ngợi cả của Razum Gamatov về sự
giản dị trong thi ca:
“Những chiếc bình đẹp nhất
Làm từ đất bình thường
Những câu thơ hay nhất
Từ những chữ bình thường”