Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN HỌC: PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG

BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. ĐẶNG THÁI BÌNH

DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 2

STT HỌ VÀ TÊN MSSV GHI CHÚ

1 Đỗ Minh Hoàng 2253801012079

2 Cao Thị Hoài Hương 2253801012084

3 Đào Thiện Khải 2253801012098

4 Dương Trúc Linh 2253801012110

5 Lê Thị Ngọc Linh 2253801012111

6 Nguyễn Thị Khánh Linh 2253801012112

7 Nguyễn Viết Linh 2253801012113

8 Nguyễn Thị Cẩm Ly 2253801012120

9 Lê Na 2253801012136

10 Đỗ Thị Như Ngọc 2253801012153

NĂM HỌC: 2023 – 2024


MỤC LỤC
Vấn đề 1: thông tin trong giao kết hợp đồng..........................................................................1
Tóm tắt Bản án số 677/2020/DS-PT ngày 17/7/2020 của Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. 1
1.1: Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về cung cấp thông tin trong
giao kết hợp đồng?.............................................................................................................1
1.2: Việc Tòa án áp dụng quy định về cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng trong vụ
việc này có thuyết phục không (về điều kiện áp dụng và hệ quả của việc áp dụng)? Vì sao?. . .1
Vấn đề 2: Hợp đồng vô hiệu một phần và hậu quả hợp đồng vô hiệu.....................................2
Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao.................................................................................................................2
Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao................................................................................................................................2
2.1: Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?......3
2.2: Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản chung của
hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia đình?.....................3
2.3: Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?.........................................................................3
2.4: Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng
trên chỉ vô hiệu một phần...................................................................................................4
2.5: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015...................5
2.6: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định như thế
nào?..................................................................................................................................7
2.7: Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế nào?........7
2.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự......................................7
2.9: Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền cụ
thể là bao nhiêu? Vì sao?....................................................................................................8
Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn................................................8
Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa án nhân dân tối
cao.....................................................................................................................................8
3.1: Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?................................................9
3.2: Nghĩa vụ của công ty Cửu Long đối với công ty KNV có phát sinh trong thời gian bảo
Lãnh của Ngân hàng không?..............................................................................................9
3.3: Theo tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (công ty K.N.V) khởi kiện ngân hàng
trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn trách nhiệm của người
bảo lãnh hay không? Đoạn nào của quyết định đã cho câu trả lời?.....................................10
3.4: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao?..............10
Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn.........................................10
4.1: Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn
so với khả năng kinh tế.....................................................................................................11
4.2: Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi thường
do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức bồi thường có
thuyết phục không? Vì sao?..............................................................................................11
Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.......................................12
Tóm tắt Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao..............................................................................................................................12
5.1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?.......................................................................................12
5.2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra............................................................................................................13
5.3: Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại không?.....16
5.4: Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường giây hạ thế gây thiệt hại?..................................16
5.5: Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn
nhân?..............................................................................................................................16
5.6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao liên
quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân....17
Vấn đề 6: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra.........................................18
Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên........18
6.1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS................................................................19
6.2: Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
điều chỉnh không? Vì sao?................................................................................................20
6.3: Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng giải
quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?...............................................20
Vấn đề 1: thông tin trong giao kết hợp đồng

Tóm tắt Bản án số 677/2020/DS-PT ngày 17/7/2020 của Toà án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh.
Nguyên đơn: Bà T1. Bị đơn: Bà T2, Ông T3.
Bà T1 thỏa thuận với bà T2, ông T3 về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trị
giá 2.500.000.000 đồng, vì bà T2 cam kết đất không thuộc diện quy hoạch, có thể
xây nhà kho,... nên bà T1 đồng ý cọc cho bà T2 số tiền là 200.000.000 đồng, nếu
như không đúng như cam kết đưa ra thì bà T2 sẽ đền bù tiền cho bà T1. Trong quá
trình ký kết quyền sử dụng đất, không đúng như những gì bà T2 đã cam kết và bà
T2 cũng từ chối cung cấp đủ giấy tờ cần thiết cho bà T1, do đó bà T1 không thể ký
hợp đồng mua bán đất với bà T2. Việc bà T2 không cung cấp thông tin quy hoạch là
không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng và bồi
thường lại số tiền mà bà T1 đã cọc.

1.1: Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về cung cấp
thông tin trong giao kết hợp đồng?
Ở phần Nhận định của Tòa án, Tòa án đã áp dụng quy định về cung cấp thông
tin trong giao kết hợp đồng như sau: “Căn cứ quy định tại Điều 387 Bộ luật dân sự
năm 2015 về “Thông tin trong giao kết hợp đồng” thì:

“1. Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết
hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.

2. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá
trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử
dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật
khác.

3. Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường”.

1
1.2: Việc Tòa án áp dụng quy định về cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng
trong vụ việc này có thuyết phục không (về điều kiện áp dụng và hệ quả của việc
áp dụng)? Vì sao?
Việc Tòa án áp dụng quy định về cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng
trong vụ việc này là hoàn toàn hợp lý. Tòa án đã căn cứ vào Điều 387 BLDS 2015
điều kiện áp dụng và hệ quả của việc áp dụng đều hướng mục đích bảo vệ quyền lợi
cho cả hai bên khi ký kết hợp đồng. Việc bên bán không cung cấp đủ thông tin,
hoặc từ chối cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan tới tài sản đang chuyển
nhượng là đủ điều kiện để áp dụng việc bồi thường các thiệt hại gây ra, và bên mua
cần phải xác minh đầy đủ tất cả các thông tin pháp lý xung quanh tài sản mình sẽ
được chuyển nhượng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích trong hợp đồng.

Vấn đề 2: Hợp đồng vô hiệu một phần và hậu quả hợp đồng vô hiệu

Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao
Nguyên đơn: Anh Khánh, anh Tuấn, Bà Vy. Bị đơn: Ông Học
Bà Dung chuyển nhượng cho ông Học mảnh đất thuộc sở hữu chung của hộ
gia đình bà (do bà làm chủ hộ). Trong quá trình chuyển nhượng thì phát sinh tranh
chấp do một số thành viên còn lại trong hộ gia đình không đồng ý với việc chuyển
nhượng trên. Trong quá trình giải quyết vụ án thì Toà án đã xác định văn bản uỷ
quyền của tất cả thành viên trong hộ bà Dung uỷ quyền cho bà chuyển nhượng đất
là không đúng pháp luật. Tuy nhiên, Toà án chỉ tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
trên chỉ bị vô hiệu một phần (phần của những người phản đối), phần còn lại của bà
Dung thì vẫn có hiệu lực.

Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Ông Trịnh Văn Vinh. Bị đơn: ông Đào Văn Lộc, bà Hoàng Thị
Lan.
Vợ chồng ông Lộc, bà Lan có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với 953 m2 đất trồng lúa cho ông Vinh với giá 100 triệu đồng, ông Vinh mới
giao được 45 triệu đồng. Tranh chấp xảy ra ông Vinh không tiếp tục giao tiền và vợ
chồng ông Lộc, bà Lan không giao quyền sử dụng đất cho ông Vinh. Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất này không được chính quyền địa phương cho

2
phép chuyển nhượng và ông Vinh mới trả được cho vợ chồng ông Lộc 45% giá trị
thửa đất. Về xử lý hậu quả, Toà án đã cho rằng các bên đều có lỗi như nhau nên ông
Vinh chỉ được bồi thường 1/2 giá trị chênh lệch của 45% giá trị thửa đất mà ông đã
thanh toán cho ông Lộc.

2.1: Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời?
Trường hợp vô hiệu một phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực phần còn lại của giao dịch theo quy định
tại Điều 130 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội
dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần
còn lại của giao dịch”. Vì vậy hợp đồng vô hiệu một phần là khi một phần của hợp
đồng không có một trong các điều kiện sau:

+ Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập.
+ Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.
+ Mục đích và nội dung giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức theo quy định tại Điều 117 BLDS 2015 thì phần đó sẽ bị vô
hiệu, không ảnh hưởng đến các phần còn lại trong hợp đồng đó.
Hợp đồng vô hiệu toàn bộ khi không có một trong các điều kiện được quy
định tại Điều 117 BLDS 2015, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác theo
Điều 122 BLDS 2015. Hợp đồng dân sự vô hiệu toàn phần là hợp đồng sẽ mặc
nhiên bị vô hiệu khi hợp đồng được xác lập.

2.2: Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ
gia đình?
Ở phần nhận định của Toà: “Hợp đồng uỷ quyền được Uỷ ban nhân dân thị
trấn Lộc Ninh chứng thực ngày 27/07/2011 thể hiện các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy
cùng uỷ quyền cho bà Dung được làm thủ tục ký kết Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Tổ 2, khu phố Ninh Thành, nhưng
các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy không thừa nhận ký vào hợp đồng nêu trên. Bà Dung
cho rằng chữ ký của bên uỷ quyền không do các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy ký,...”.

3
2.3: Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Ở phần nhận định của Toà: “... Trường hợp này, do các thành viên trong gia
đình không có thoả thuận về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất, nên xác định quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của
các thành viên trong hộ gia đình theo phần và áp dụng quy định về sở hữu chung
theo phần để giải quyết. Theo đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung
đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng với quy định của Pháp luật thì
có hiệu lực. Còn phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của các anh, chị Khánh, Tuấn,
Vy là vô hiệu theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Dân sự 2005…”.

2.4: Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần
Hướng giải quyết trên của Hội đồng Thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển
nhượng chỉ bị vô hiệu một phần là thuyết phục, hợp lý.
Pháp luật quy định hộ gia đình có tài sản chung do các thành viên trong hộ gia
đình cùng tạo lập, đóng góp, việc định đoạt tài sản chung của hộ gia đình phải được
tất cả các thành viên của hộ đồng ý. Khoản 2 Điều 109 BLDS 2005 quy định: “Việc
định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình
phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài
sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”. Vì
vậy, khi tài sản chung của hộ gia đình được định đoạt mà không có sự đồng ý của
tất cả thành viên thì giao dịch đó sẽ không hợp pháp, có thể bị Toà án tuyên bố vô
hiệu.
Tuy nhiên, thực tế pháp luật lại quy định có hai loại sở hữu chung, đó là sở
hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Nếu là sở hữu theo phần thì có thể
xác định được phần của từng người và từng chủ sở hữu sẽ có quyền định đoạt trong
phần của họ trong khối tài sản chung. Nhưng trong thời điểm áp dụng, BLDS 2005
lại không cho biết sở hữu của các thành viên hộ gia đình đối với tài sản chung của
hộ là sở hữu theo phần hay là sở hữu chung hợp nhất. Vì vậy, trường hợp tài sản của
hộ gia đình được định đoạt mà không có sự đồng ý của các thành viên còn lại thì
Toà án sẽ tuyên bố vô hiệu nhưng phạm vi vô hiệu như thế nào? Vô hiệu từng phần
hay vô hiệu toàn bộ thì Toà án cũng còn lúng túng trong quá trình giải quyết vụ án.
Hiện nay, BLDS 2015 đã bổ sung một quy định có ý nghĩa hết sức quan trọng,
đó là khoản 2 Điều 212: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các
thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định

4
đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ
yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người
thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định
khác. Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo
phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy
định tại Điều 213 của Bộ luật này”. Như vậy, BLDS 2015 đã quy định một cách rõ
ràng đó là nếu như các thành viên trong hộ không có thoả thuận nào khác thì tài sản
chung của hộ gia đình sẽ được xác định là sở hữu theo phần. Khi đó, các thành viên
trong hộ có quyền định đoạt trong phần của mình.
Ở đây, hoàn cảnh xét xử là sau thời điểm BLDS 2015 đã có hiệu lực, Toà án
áp dụng quy định của BLDS 2005 để giải quyết tranh chấp nhưng lại theo hướng
nếu không có thoả thuận của các thành viên hộ gia đình, tài sản chung của hộ gia
đình là tài sản chung theo phần, nên khi giao dịch dân sự thiếu sự đồng ý của thành
viên hộ gia đình thì phần của thành viên đó vô hiệu, phần của thành viên đồng ý có
hiệu lực pháp luật nếu các điều kiện khác được đáp ứng 1. Hướng như trên là thuyết
phục vì nó giúp bảo vệ được quyền lợi của các thành viên không đồng ý với giao
dịch cũng như là vẫn đảm bảo được quyền tự do định đoạt các thành viên đồng ý
với giao dịch, theo đó họ không bị trói buộc trong khối tài sản chung của hộ gia
đình.

2.5: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.
Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, nên các quy định về giao dịch dân sự
vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 BLDS năm 2015 cũng được áp dụng đối với hợp
đồng vô hiệu2.
Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005 quy định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”.
BLDS 2015 còn thêm khoản 5 Điều 131 với nội dung: “Việc giải quyết hậu quả
của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật
khác có liên quan quy định”. Việc bổ sung này là cần thiết nhằm tạo cơ chế pháp lý
đầy đủ để các vụ án, vụ việc tranh chấp dân sự có cơ sở quy định của pháp luật để
điều chỉnh khi phát sinh.

1
Đỗ Văn Đại (2020), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án, Tập 1, Nxb. Hồng Đức–Hội
Luật gia Việt Nam, tr.960.
2
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, Chương II, tr.222.

5
Về vấn đề hoa lợi, lợi tức, từ khi giao dịch dân sự được xác lập đến khi phải
hoàn trả do giao dịch dân sự vô hiệu, tài sản có thể làm phát sinh hoa lợi, lợi tức.
Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì cần phải giải quyết số phận của những hoa lợi, lợi
tức này. Theo khoản 2 Điều 137 BLDS 2005: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường
hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường
hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu”. Quy định này cho rằng
vấn đề hoa lợi, lợi tức là vấn đề khôi phục lại tình trạng ban đầu. Tuy nhiên ở thời
điểm trước khi giao dịch dân sự được xác lập thì hoa lợi, lợi tức chưa tồn tại nếu
bên nhận tài sản phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức cho bên giao tài sản thì tài sản đã hơn
tình trạng ban đầu. Do vậy quy định này không hợp lý. Khắc phục điều đó, BLDS
2015 đã tách vấn đề hoa lợi, lợi tức ra khỏi quy định “khôi phục lại tình trạng ban
đầu” thành một khoản riêng để giải quyết. Khoản 3 Điều 131 BLDS 2015 quy định:
“Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi
tức đó”. Điều này có nghĩa là việc hoàn trả hay không hoàn trả hoa lợi, lợi tức phụ
thuộc vào sự ngay tình hay không ngay tình của bên nhận tài sản như các quy định
về hoàn trả tài sản do chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Về vấn đề bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình, BLDS 2015 bổ sung thêm
2 khoản ở Điều 133: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một
giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc
đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”. Ở
BLDS 2005 chỉ đề cập đến trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao
dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một
giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình. Còn BLDS 2015 thay “động sản” thành
“tài sản”. Điều này khái quát hơn đối tượng là tài sản không đăng ký quyền sở hữu.
Bên cạnh đó BLDS 2015 còn bổ sung khoản 2 như trên, BLDS 2005 đã bỏ sót
trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó
được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình. Cho
nên sự bổ sung này là hoàn toàn hợp lý.
Khoản 3 Điều 133 BLDS 2015 quy định: “Chủ sở hữu không có quyền đòi lại
tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô
hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể
có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những
chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại”. BLDS 2015 đã bổ sung thêm khoản này để
bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu. Trong BLDS 2005, trường hợp ở khoản 2 nếu
giao dịch với người thứ ba ngay tình không bị vô hiệu thì không đảm bảo công bằng
6
cho chủ sở hữu. Việc bổ sung thêm quyền được khởi kiện yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn
đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý
và bồi thường thiệt hại như ở BLDS 2015 là thuyết phục, đảm bảo quyền lợi cho
chủ sở hữu.

2.6: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
Cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông
Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo
giá thị trường.
Toà án xác định nội dung này thông qua đoạn:“Trong trường hợp này, ông
Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất là 100.000.000 đồng,
tức là mới trả 45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch
giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường. Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm lại
buộc vợ chồng ông Lộc bồi thường thiệt hại 1/2 giá trị của toàn bộ thửa đất theo
giá thị trường là không đúng”.

2.7: Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như
thế nào?
Trong quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết: “Trong trường hợp này ông
Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức
là mới trả 45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu, ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá
của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường”.

2.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
Hướng giải quyết trên của Toà án về xác định các bên đều có lỗi và bên bị
thiệt hại không được bồi thường trong phần lỗi của mình là thuyết phục, hợp lý.
Cả BLDS 2005 và BLDS 2015 đều cùng quy định về hậu quả pháp lý khi hợp
đồng vô hiệu đó là “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” 3. Trong thực tế,
hợp đồng có thể bị vô hiệu do lỗi của hai bên 4. Trong vụ việc trên thì đã cho thấy
chính quyền địa phương không cho phép chuyển nhượng, ông Vinh đã biết được
điều này nhưng vẫn yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng. Do đó, ngoài lỗi của bên
3
Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005 và khoản 4 Điều 131 BLDS 2015.
4
Đỗ Văn Đại (2020), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án, Tập 2, Nxb. Hồng Đức–Hội
Luật gia Việt Nam, tr.65.

7
bán thì bên mua cũng có lỗi, vì vậy nếu buộc ông Lộc phải bồi thường toàn bộ thiệt
hại là không hợp lý, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông. Do đó,
việc Toà án xác định bên phía ông Vinh cũng có lỗi mà trên cơ sở đó xác định mức
bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của các bên là hợp lý.
Mặt khác, về vấn đề xác định thiệt hại được bồi thường. Theo như quy định
của BLDS về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự bị vô hiệu, bên có lỗi phải bồi
thường thiệt hại. Do đó, chỉ khi có thiệt hại mới đặt ra vấn đề bồi thường, nếu
không thì không có thiệt hại thì không có trách nhiệm bồi thường 5. Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã có hướng
dẫn về xác định thiệt hại như sau: “… thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch
giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại
thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có”. Dù Nghị quyết trên đã
hết hiệu lực nhưng tinh thần của Nghị quyết vẫn còn có thể áp dụng ở thời điểm
hiện nay. Với quy định trên, chênh lệch giá do các bên thoả thuận với giá trị tài sản
ở thời điểm xét xử là một thiệt hại do việc hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu gây ra và
thiệt hại này được bồi thường nên hướng giải quyết trên của Toà án về vấn đề này là
hợp lý, thuyết phục.

2.9: Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông vinh sẽ được bồi thường khoản
tiền là 52.548.750 đồng vì :
Tổng giá trị thửa đất: 100.000.000 đồng
Ông Vinh đã trả: 45.000.000 đồng
Giá thị trường: 333.550.000 đồng
½ x 45% x (333.550.000 – 100.000.000) = 52.548.750 đồng

Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn

Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa án
nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: Công ty TNHH K.N.V (bên A);

Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất và thương mại phân bón Cửu Long Việt Nam
(bên B) và Ngân hàng TMCP Việt Á (bên C).
5
Đỗ Văn Đại (2020), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án, Tập 2, Nxb. Hồng Đức–Hội
Luật gia Việt Nam, tr.48.

8
Công ty K.V.N mua của Công ty Cửu Long lô hàng phân bón với trị giá
15.300.000.000 đồng và Ngân hàng Việt Á đứng ra bảo lãnh cho việc thực nghĩa vụ
của Công ty Cửu Long. Việc bảo lãnh của Ngân hàng được gia hạn đến trước 17 giờ
ngày 09/5/2016. Trước thời điểm này thì Công ty Cửu Long đã vi phạm nghĩa vụ
giao hàng nên Công ty K.V.N đã yêu cầu Ngân hàng thực hiện trách nhiệm bảo
lãnh. Sau đó, Ngân hàng đã gửi công văn đến Công ty K.V.N thể hiện việc ngân
hàng đồng ý trì hoãn việc bảo lãnh theo yêu cầu của K.V.N. Sau khi hết thời hạn
bảo lãnh (sau 17 giờ ngày 09/5/2022) thì Ngân hàng đã từ chối việc bảo lãnh với lý
do chưa nhận được bản gốc thư bảo lãnh. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án
đã xác định lý do từ chối của Ngân hàng là không thể chấp nhận được, buộc Ngân
hàng phải thực hiện trách nhiệm bảo lãnh đối với Công ty K.V.N.

3.1: Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?

Theo thông tư số 07/2015/TT-NHNN về thời hạn bảo lãnh: “Điều 19. Thời
hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh”.

Trong bản án, Ngân hàng TMCP Việt Á trình bày đã phát hành Thư bảo lãnh
đúng theo quy định của pháp luật. Chứng thư bảo lãnh số 002217 ngày 14/4/2016
của Ngân hàng Việt Á và trong hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh đến 17 giờ ngày
09/5/2016. Như vậy, thời hạn của Thư bảo lãnh của Ngân hàng là từ ngày 14/4/2016
đến 17 giờ ngày 09/5/2016.

3.2: Nghĩa vụ của công ty Cửu Long đối với công ty KNV có phát sinh trong thời
gian bảo Lãnh của Ngân hàng không?
Nghĩa vụ của công ty Cửu Long đối với công ty KNV có phát sinh trong thời
hạn bảo lãnh của Ngân hàng. Vì theo Điều 335 về Bảo lãnh quy định:
“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”.
Như vậy việc bảo lãnh không làm mất đi nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh, mà
chỉ là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà thôi.

9
3.3: Theo tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (công ty K.N.V) khởi kiện
ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn
trách nhiệm của người bảo lãnh hay không? Đoạn nào của quyết định đã cho
câu trả lời?
Theo tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (công ty K.N.V) khởi kiện
ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng vẫn có trách
nhiệm của người bảo lãnh.

Đoạn [5] của phần Nhận định của Tòa án đã trả lời cho câu hỏi đó: “Tòa án
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Ngân hàng Việt Á phải thực hiện nghĩa
vụ hoàn trả cho công ty TNHH K.N.V số tiền tạm ứng còn thiếu 1.510.000.000
đồng là có căn cứ. Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận ý kiến của Ngân hàng Việt Á cho rằng công ty
K.N.V nộp bản gốc Thư bảo lãnh khi hết thời hạn hiệu lực nên ngân hàng Việt Á từ
chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là không đúng với bản chất vụ án”.

3.4: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao?
Hướng giải quyết trên của Toà án là thuyết phục, hợp lý. Trong vụ việc trên,
Tòa án nhân dân tối cao đã giải quyết theo hướng công ty Cửu Long không thực
hiện nghĩa vụ đúng như cam kết, từ đó nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng Việt Á
cũng phát sinh và bắt đầu có hiệu lực và dù đã hết thời hạn hiệu lực của thư bảo
lãnh nhưng Ngân hàng vẫn phải trả tiền bảo lãnh cho công ty K.N.V. Hướng giải
quyết trên là vô cùng thuyết phục, bởi lẽ trong phần bảo lãnh, Bộ luật dân sự không
có quy định giải phóng hoàn toàn người bảo lãnh khi hết thời hạn thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh đối với những nghĩa vụ đã phát sinh trong thời hạn 6. Ở đây công ty Cửu
Long đã giao hàng chậm, vi phạm hợp đồng và không chịu bồi thường, vì thế nghĩa
vụ bảo lãnh của Ngân hàng cũng đã phát sinh vào ngày 09/5/2016. Như vậy, mặc dù
đến ngày 11/5/2016 là hết thời hạn hiệu lực của thư bảo lãnh nhưng do nghĩa vụ bảo
lãnh phát sinh ngày 09/5/2016 vẫn chưa được Ngân hàng thực hiện thì nghĩa vụ này
vẫn có hiệu lực.

Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn
Tình huống: Anh Nam là người thuộc quản lý của UBND xã, đã vô ý gây thiệt
hại cho bà Chính khi thực hiện công việc được UBND xã giao. Thực tế, thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam và Tòa án đã áp dụng các quy định về
6
Đỗ Văn Đại (2020), Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và Bình luận bản
án, Tập 1, Nxb. Hồng Đức–Hội Luật gia Việt Nam, tr.548.

10
giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để
ấn định mức bồi thường.

4.1: Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
Khoản 2 Điều 585 BLDS 2015
“Người chịu trách nhiệm bồi thường có thể được giảm mức bồi thường thiệt
hại nếu do lỗi vô ý hoặc không có lỗi mà gây ra thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của mình”.
Thứ nhất, đối với điều kiện về chủ thể, chủ thể được áp dụng quy định này là
người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, so với BLDS 2005 chỉ quy định chủ
thể là “người gây ra thiệt hại” thì quy định của BLDS 2015 đã được áp dụng cho
người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do họ gây ra, do người khác gây ra hay
do tài sản gây ra7.
Thứ hai, về hoàn cảnh gây ra thiệt hại, BLDS 2015 quy định về yếu tố lỗi ở
đây phải là lỗi vô ý hoặc không có lỗi. Tức là không ghi nhận trường hợp lỗi cố ý.
Dưới góc độ lý thuyết thì các hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý là thể hiện sự
“chống đối” xã hội cao hơn các hành vi vô ý, do đó nguyên tắc này không đặt vấn
đề giảm mức bồi thường trong trường hợp người gây thiệt hại do lỗi cố ý8.
Thứ ba, người chịu trách nhiệm bồi thường phải có khó khăn hoặc không thể
thực hiện được việc bồi thường (như không có tài sản giá trị lớn, thu nhập thấp hoặc
không ổn định, phải nuôi cha mẹ già và con nhỏ).

4.2: Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức
bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định
mức bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?

Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức
bồi thường là thuyết phục. Vì:

Thứ nhất, thiệt hại xuất phát từ lỗi vô ý của Nam. Khi đang thực hiện công
việc được giao, Nam đã vô ý gây thiệt hại cho bà Chính, BLDS 2015 quy định “lỗi
vô ý” trong Điều 364 “Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi

7
Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015, Nxb. Hồng Đức-Hội
Luật gia Việt Nam, tr.436.
8
Đỗ Văn Đại (2020), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập
1, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.346.

11
của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng
cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.

Thứ hai, thiệt hại gây ra quá lớn so với khả năng kinh tế của Nam.

Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Tóm tắt Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao
Công ty Điện Lực 2 bán điện sinh hoạt cho anh Sua với hợp đồng quy định
trách nhiệm của bên mua điện phải có trách nhiệm sử dụng điện an toàn, chịu trách
nhiệm quản lý từ đầu dây ra của công tơ vào nhà. Sau đó, anh Sua lại giao lại việc
quản lý cho anh Ri. Đến ngày 10/5/2003 thì cháu Lợi bị điện giật chết, nguyên nhân
chết của cháu được xác định là do đường dây điện hạ thế bị hở mạch điện. Trong
quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã xác định ai đang là người đang quản lý, sử
dụng đường dây điện bị hở mạch đó phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

5.1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Đoạn của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
“Như vậy, nguyên nhân cháu Lợi bị chết là do đường dây điện hạ thế (sau
công tơ tổng) bị hở mạch điện. Trong trường hợp này, nếu anh Công khởi kiện
không đúng đối tượng thì Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm phải hướng
dẫn cho anh Công khởi kiện đúng đối tượng. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm
nhận định anh Công khởi kiện không đúng đối tượng để bác yêu cầu của anh Công
là không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của gia đình anh Công. Khi giải quyết vụ
án, Toà án các cấp cần xác định rõ đường dây điện đó do ai đang quản lý, sử dụng;
từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật Dân sự và Nghị định số 45/2001/NĐCP ngày
02-08-2001 của Chính phủ quy định về sử dụng điện để giải quyết”.

5.2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Hướng giải quyết trên của Toà án vè việc xác định đây là bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là thuyết phục, hợp lý.

12
Điều 623 BLDS 2005 quy định:
“1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới,
hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy,
chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật
quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông
giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp
luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau
đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp
luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại”.
Điều 601 BLDS 2015 quy định:
“1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới,
hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy,
chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật
quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông
giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

13
3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật
thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi
thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi
trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải
liên đới bồi thường thiệt hại”.
Theo khoản 1 Điều 601 BLDS 2015, hệ thống tải điện là nguồn nguy hiểm cao
độ. Cho nên hệ thống điện làm chết người trong vụ việc cũng chính là nguồn nguy
hiểm cao độ. Ở đây, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường đã hội đủ.
Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Trong vụ việc, đã có thiệt hại về tính
mạng con người là cháu Hữu bị điện giật giết. Và khi tính mạng bị xâm phạm, các
thiệt hại được bồi thường bao gồm tổn thất về vật chất và tinh thần cho người thân
thích của người chết. Theo vụ việc số tiền thiệt hại cần được bồi thường là 28 triệu
đồng.
Thứ hai, có việc nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại cho người khác một
cách trái pháp luật9. Theo khoản 2 Điều 601 BLDS 2015 thì trong cấu thành cơ bản
của trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, luật không quy định về
điều kiện phải có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật. Mà việc nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại chủ yếu là yếu tố mang tính “tự thân” con người không kiểm soát
hết được. Nhưng sự “tự thân” đó không tách khỏi sự “kiểm soát” của con người. Và
để bảo vệ người bị thiệt hại, thì ta chỉ cần có việc tác động của nguồn nguy hiểm
cao độ xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác là đủ đièu kiện
phát sinh BTTH. Và dường như điều này cũng phù hợp với xu hướng pháp luật hiện
đại, chẳng hạn như ở BLDS Pháp 10. Đối chiếu với vụ việc, do dây dẫn điện được
mắc qua mái nhà bỏ trống, làm cho dây dẫn bị cọ sát vào mái tole, lâu này vỏ dây
điện đứt, lộ dây dẫn bằng kim loại ra ngoài làm điện bị rò rỉ, làm cháu Hải thiệt
mạng. Theo cơ quan chuyên môn thì đây là sự cố khách quan, con người không
9
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2017), Sách tình huống Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.510.
10
Khoản 1 Điều 1384 BLDS Pháp quy định: “Mỗi người phải chịu trách nhiệm không những về thiệt hại do
mình gây ra mà cả thiệt hại do những người mà mình phải chịu trách nhiệm hoặc những vật mà mình coi giữ
gây ra”.

14
kiểm soát được rủi ro tuyệt đối. Nhưng hệ thống tải điện là nguồn nguy hiểm cao
độ, nên chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng vẫn phải BTTH.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa việc nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại trái pháp luật với tổn thất thực tế của bên thiệt hại 11. Sự tác động của NGUỒN
nguy hiểm cao độ trong việc gây ra thiệt hại là nguyên nhân, xảy ra trước, còn thiệt
hại xảy ra sau và là kết quả tiêu cực, mang tính tất yếu của việc gây thiệt hại. Trong
vụ việc, mối quan hệ nhân quả giữa việc rò rỉ điện với thiệt hại của nạn nhân đã
được xác định rõ: “Nguyên nhân cháu Hữu bị chết là do đường dây điện hạ thế (sau
công tơ tổng) bị hở mạch điện”.
Như vậy, chứng minh được 3 yếu tố: có việc gây thiệt hại của nguồn nguy
hiểm cao độ, có thiệt hại thực tế cho người khác và giữa việc gây thiệt hại của
nguồn nguy hiểm cao độ với thiệt hại thực tế có mối quan hệ nhân quả với nhau, thì
mới có đủ căn cứ xác định có sự tồn tại trách nhiệm BTTH và chủ thể phải chịu
trách nhiệm bồi thường12. Và đối với nguồn nguy hiểm cao độ, người chiếm hữu, sử
dụng phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi theo khoản 3 Điều 601 BLDS 2015.
Như vậy, xét về yếu tố lỗi không phải là một điều kiện làm phát sinh trách nhiệm
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định
trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân
trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Chẳng hạn, theo nhận định của Tòa
án trong một vụ việc: “Ngoài ra, do hệ thống tải điện là nguồn nguy hiểm cao độ,
pháp luật quy định chủ sở hữu, người sử dụng phải bồi thường ngay cả khi không
có lỗi. Dây dẫn điện của bà B bị cháy vỏ cách điện tại vị trí sau công tơ điện, dẫn
đến điện hở tiếp xúc với dây tiếp địa truyền điện xuống khu vực chân cột điện, khi
con trâu ông C đi qua khu vực vũng nước sát chân cột điện làm con trâu bị điện giật
chết. Do vậy bà Lưu Thị B phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tài sản cho ông
Nguyễn Ngọc C”13. Tòa cũng theo hướng, hệ thống tải điện là nguồn nguy hiểm cao
độ và người quản lý sử dụng hệ thống tải điện phải BTTH khi tác động của hệ thống
tải điện gây thiệt hại. Từ đó, nhóm em cho rằng Tòa án xác định BTTH trong Quyết
định số 30/2010/DS-GĐT do nguồn nguy hiểm cao độ là thuyết phục.

5.3: Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
không?
Theo nội dung của Quyết định, Chánh án Toà án nhân dân tối cao xác định:
“chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là Công ty Điện lực 2”. Về phía Tòa dân sự
11
Đỗ Văn Đại (2020), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 2,
Nxb. Hồng Đức–Hội Luật gia Việt Nam, tr.534.
12
Đỗ Văn Đại, Sđđ, tr.535.
13
Bản Án 08/2019/DS-PT ngày 05/03/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

15
thì Toà không cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại mà Toà
án đã yêu cầu Toà án cấp dưới phải làm rõ ai đang là người quản lý, sử dụng để áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

5.4: Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường giây hạ thế gây thiệt hại?
Theo quan điểm của nhóm thì chủ sở hữu của đường dây hạ thế gây thiệt hại
cần được xác định là Công ty Điện lực 2. Việc xác định ai là chủ sở hữu của nguồn
nguy hiểm cao độ trong thực tế không đơn giản, nhóm chúng em cho rằng nên xem
Công ty điện lực là chủ sở hữu còn những người khác là người chiếm hữu, sử dụng.

5.5: Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
gia đình nạn nhân?
Theo Toà dân sự, chủ thể sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình
nạn nhân là người nào đang quản lý, sử dụng (trong trường hợp này đó là Tổ điện 4
thuộc ấp 3, xã Tân Hưng, huyện Cái Bè do ông Trần Văn Ri làm Tổ trưởng). Đoạn
trong Quyết định thể hiện nội dung này:“Như vậy, nguyên nhân cháu Lợi bị chết là
do đường dây điện hạ thế (sau công tơ tổng) bị hở mạch điện. Trong trường hợp
này, nếu anh Công khởi kiện không đúng đối tượng thì Toà án cấp sơ thẩm và Toà
án cấp phúc thẩm phải hướng dẫn cho anh Công khởi kiện đúng đối tượng. Toà án
cấp sơ thẩm và phúc thẩm nhận định anh Công khởi kiện không đúng đối tượng để
bác yêu cầu của anh Công là không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của gia đình
anh Công. Khi giải quyết vụ án, Toà án các cấp cần xác định rõ đường dây điện đó
do ai đang quản lý, sử dụng; từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật Dân sự và Nghị
định số 45/2001/NĐCP ngày 02-08-2001 của Chính phủ quy định về sử dụng điện
để giải quyết”.

5.6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
gia đình nạn nhân
Theo nhóm đánh giá, hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
là thuyết phục, hợp lý. Trong vụ việc, Toà án tối cao theo hướng xác định chủ sở
hữu của đường dây tải điện là Công ty điện lực 2 và Tổ điện 4 để buộc các chủ thể
trên chịu trách nhiệm bồi thường cho anh Nguyễn.
Để đánh giá về tính thuyết phục của hướng giải quyết này, chúng ta phân tích
về điều kiện để người đang chiếm hữu, sử dụng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 (khoản 2 Điều 601 BLDS 2015 tương tự) quy
16
định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác”,
như vậy để người đang chiếm hữu, sử dụng thì cần phải hội tụ đủ hai điều kiện.
Thứ nhất, phải tồn tại việc giao chiếm hữu (sử dụng) nguồn nguy hiểm cao độ
cho người khác14. Trường hợp này, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nêu: “Người được chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định
của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ
trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận
khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi
thường”. Như vậy, trong tình huống của vụ việc trên thì đã cho thấy đã tồn tại việc
Công ty Điện lực giao cho Tổ điện là người quản lý, sử dụng điện và cũng có thoả
thuận là người quản lý, sử dụng phải chịu trách nhiệm về đường dây điện.
Thứ hai, việc chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải theo đúng quy
định của pháp luật. Về vấn đề này, Nghị quyết số 03/2006 lại tiếp tục khẳng định:
“Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà
gây thiệt hại, thì chủ sỡ hữu phải bồi thường thiệt hại”. Trong tình huống này thì
cũng đã thoả mãn điều kiện về giao nguồn nguy hiểm cao độ đúng pháp luật, việc
giao này là phù hợp với quy định của pháp luật chuyên ngành về cung cấp điện sinh
hoạt. Nội dung của Quyết định không đề cập đến vấn đề này thì có thể xem như tính
hợp pháp của việc giao đường dây điện cho người khác chiếm hữu, quản lý, sử
dụng của Công ty điện lực là hợp pháp.
Hướng giải quyết của Toà Dân sự thuyết phục bởi vì nếu đã hội đủ yếu tố để
xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường là người đang quản lý, sử dụng. Chỉ
khi nào chủ sở hữu giao nguồn nguy hiểm cao độ không đúng với các quy định về
quản lý và sử dụng thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra vì trong trường hợp này chủ sở hữu đã có lỗi trong việc giao tài sản 15.
Trong vụ việc trên, ta có thể thấy đủ các điều kiện để xác định người được giao
chiếm hữu, sử dụng đường dây tải điện là Tổ điện 4. Xét thấy rằng thực tế đã có hợp
đồng mua bán điện giữa Công ty điện lực 2 và Tổ điện 4, Tổ điện 4 có trách nhiệm
sử dụng và quản lý điện một cách an toàn, từ đó có thể khẳng định rằng mọi thiệt
14
Đỗ Văn Đại (2020), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập
2, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.290.
15
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, Chương VI, tr. 573.

17
hại phát sinh từ việc quản lý, sử dụng điện không đảm bảo là phải do Tổ điện 4 chịu
trách nhiệm. Hướng của Toà Dân sự là phù hợp với quy định của pháp luật, vừa thể
hiện rõ trách nhiệm nghiêm ngặt mà nhà nước áp dụng một cách chặt chẽ đối với
người nào đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải sử dụng, quản lý
một cách thận trọng, kỹ lưỡng, tránh gây thiệt hại cho người khác.

Vấn đề 6: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra

Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên
Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) thành
lập Ban chuyên án để điều tra về hoạt động trộm cắp tài sản diễn ra trên địa bàn.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra đã mời anh Kiều lên làm việc với nghi
ngờ anh có liên quan đến hoạt động trộm cắp tài sản trên. Trong quá trình làm việc
thì anh Kiều đã bị các cán bộ điều tra, Điều tra viên, trinh sát viên sử dụng nhục
hình, hành hung rồi dẫn đến thiệt mạng. Những người thực hiện hành vi trên đã bị
xử lý trách nhiệm hình sự. Về phần trách nhiệm dân sự, gia đình của anh đã yêu cầu
áp dụng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để bồi thường thiệt hại nhưng
Toà án đã không chấp nhận vì không đủ cơ sở áp dụng. Toà đã áp dụng quy định
của BLDS để xác định thiệt hại và quyết định mức bồi thường.

6.1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết
theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.

Luật trách nhiệm bồi


BLDS năm 2015
thường của Nhà nước

Cơ sở
Điều 25, Điều 27 Điều 291, Điều 593
pháp lý

Nội Quy định tương đối hẹp về Quy định rộng, bao quát hơn:
dung phạm vi, giới hạn áp dụng.
Nếu không nằm trong phạm - Không giới hạn, chỉ cần đủ các căn cứ
vi mà Nhà nước phải chịu làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
trách nhiệm bồi thường thì thiệt hại theo Điều 584 thì có thể áp
không áp dụng dụng (Có thiệt hại xảy ra trên thực tế,
có hành vi trái pháp luật, có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật

18
về thiệt hại xảy ra).

Các chi phí bồi thường gồm Các chi phí bồi thường gồm có:
có:
- Chi phí hợp lý cho việc mai táng.
- Chi phí khám chữa bệnh
trước khi chết. - Tiền cấp dưỡng cho những người mà
người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
- Chi phí bồi dưỡng sức khỏe dưỡng16.
cho người bị thiệt hại trước
khi chết. - Thiệt hại khác.

- Chi phí cho người chăm sóc - Chi phí bù đắp tổn thất về tinh thần
người bị thiệt hại trong thời cho những người thân thích thuộc hàng
gian khám, chữa bệnh. thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại,
nếu không có những người này thì
- Chi phí mai táng. người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp
nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi
- Chi phí cấp dưỡng cho dưỡng người bị thiệt hại.
những người mà người bị
thiệt hại đang thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng.

- Bồi thường thiệt hại tinh


thần cho gia đình.

Chi phí
bồi
Tối đa không quá một trăm lần mức
thường 360 tháng lương cơ sở.
lương cơ sở cho một người có tính
tinh
mạng bị xâm phạm nếu các bên không
thần
thỏa thuận được.

16
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, Chương V, tr. 394.

19
6.2: Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh không? Vì sao?
Theo nhóm chúng em, hoàn cảnh như trong vụ việc trên được Luật trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước điều chỉnh. Bởi tại Điều 1 Luật trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 2017 quy định về “Phạm vi điều chỉnh”:

“Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ
chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành
chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu
bồi thường; phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả; trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước.”

Tại vụ việc trên, các bị cáo là những Điều tra viên của Cơ quan Cảnh sát Điều
tra Công an Thành phố Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên), trong quá trình tiến hành hoạt động
tố tụng hình sự đã có hành vi ép cung, gây thương tích, đã sử dụng nhục hình dẫn
đến việc anh Kiều tử vong. Như vậy, năm bị cáo là người gây ra thiệt hại về tính
mạng cho anh Kiều trong khi thi hành công vụ mà cụ thể là thực hiện hoạt động tố
tụng nên đã thỏa điều kiện áp dụng Luật này.

6.3: Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,
hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực thì
hướng giải quyết có thể sẽ khác so với hướng giải quyết trong vụ án. Đối với BLDS
2005 thì có quy định về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra (Điều
619), bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
gây ra (Điều 620). Tuy nhiên, đến BLDS 2015 đã không còn giữ lại hai quy định
này mà thay thế bởi đó là Điều 598 quy định: “Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo
quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”. Quy định trên cho thấy
nếu thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra thì Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường, khi đó sẽ viện dẫn đến Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Tuy nhiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là luật chuyên ngành,
có phạm vi điều chỉnh hẹp17. Trường hợp của Bản án trên đã cho thấy Toà án đã
không áp dụng quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chúng ta
17
Đỗ Văn Đại (2020), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập
2, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.168.

20
cùng xem xét về hướng giải quyết này của Toà án. Phạm vi trách nhiệm mà Nhà
nước phải bồi thường đối với lĩnh vực tố tụng hình sự được quy định tại Điều 18
như sau:

“Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự và người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật;
2. Người bị bắt, người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan, người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự quyết định trả tự do, hủy bỏ quyết định
tạm giữ, không phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ vì người đó không
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
3. Người bị tạm giam mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc
hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không
chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
4. Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù
chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án,
quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác
định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;
5. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam,
thi hành hình phạt tù mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi
không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng
minh được bị can đã thực hiện tội phạm;
6. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp
hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc
một số tội và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít
hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại
tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với
mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
7. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết
án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan,
người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không

21
phạm tội bị kết án tử hình và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của
những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại
tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của
những tội mà người đó phải chấp hành;
8. Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều
bản án đó mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội
và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình
phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp
hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải
chấp hành;
9. Pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà sau đó có
bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của pháp nhân không cấu
thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được
pháp nhân đã thực hiện tội phạm và pháp nhân đó không thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật;
10. Cá nhân, tổ chức có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên,
tịch thu, xử lý, có tài khoản bị phong tỏa hoặc cá nhân, tổ chức khác có liên quan
đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều này bị
thiệt hại”.
Đối với hoạt động tố tụng hình sự thì theo nội dung của Bản án cho thấy Cơ
quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Tuy Hoà đã tiến hành thành lập Ban
Chuyên án để điều tra vì nghi ngờ có dấu hiệu của tội phạm về trộm cắp tài sản.
Hoạt động điều tra là một trong quá trình của hoạt động tố tụng nên thiệt hại về tính
mạng xảy ra như trong tình huống trên là đã có cơ sở để áp dụng các quy định về
hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, việc mời Kiều lên làm việc rồi bị hành hung đến thiệt
mạng chưa thể được xem là nằm trong phạm vi chịu trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước theo Điều 18 như trên. Bởi lẽ, Kiều chưa có quyết định của cơ quan,
người có thẩm quyền nào về việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, cũng như Kiều chưa bị khởi tố bị can, bị truy tố hay bị đưa ra xét xử. Mặt
khác, các quy định trên nhìn chung quy định phải có yếu tố “người bị thiệt hại phải
bị oan sai, thực tế là không phạm tội hoặc xác định không đúng về tội danh, hình
phạt tương ứng với hành vi của mình. Trong khi Kiều sau này đã được một Bản án
của Toà án xác định là có hành vi phạm tội, không bị oan sai hay bị kết án không

22
đúng. Do đó, nếu dẫn chiếu quy định của Điều 598 sang Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước thì còn tồn tại nhiều điểm chưa hợp lý trong việc xác định cơ
sở pháp lý để áp dụng.
Trong những tình thế như trên thì chúng ta chỉ cần khai thác khoản 3 Điều 4
BLDS 2015 theo đó “trường hợp luật khác có liên quan không quy định thì quy
định của Bộ luật này được áp dụng”18. Nếu vậy, hoàn toàn có thể khai thác quy
định về bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra theo Điều 597 BLDS
2015: “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi
thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì
có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền
theo quy định của pháp luật”. So với quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của Nhà nước thì quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
của pháp nhân gây ra không giới hạn hoạt động gây ra thiệt hại. Do đó, chúng ta
hoàn toàn có cơ sở để khai thác Điều 597 BLDS 2015 để giải quyết trong khi nội
dung của vụ việc lại nằm ngoài giới hạn của một số quy định có liên quan của Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

18
Đỗ Văn Đại (2020), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập
2, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.169.

23
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A- Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.
2. Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2011/QH11) ngày 14/6/2005.
3. Bộ luật Tố tụng Hình sự (Luật số 101/2015/QH13) ngày 27/11/2015.
4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (Luật số
02/2021/QH15) ngày 12/11/2021.
5. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật số 10/2017/QH14) ngày
20/6/2017.
6. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật số 35/2009/QH12) ngày
18/6/2009.
7. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
8. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS
năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
9. Thông tư số 28/2012/TT-NHNN ngày 03/10/2012 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định về Bảo lãnh ngân hàng.
B- Tài liệu khác
1. Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm
2015, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2017.
2. Đỗ Văn Đại (2020), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án,
Tập 1, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
3. Đỗ Văn Đại (2020), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án,
Tập 2, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
4. Đỗ Văn Đại (2020), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam –
Bản án và bình luận bản án, Tập 1, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam.
5. Đỗ Văn Đại (2020), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam –
Bản án và bình luận bản án, Tập 2, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam.
6. Đỗ Văn Đại (2020), Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 1, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam.
7. Đỗ Văn Đại (2020), Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt
Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 2, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam.

24
8. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam.
9. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Sách tình huống Pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội
Luật gia Việt Nam.
10. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân
sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia.
11. Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học BLDS
năm 2015, Nxb. Công an nhân dân, 2017.

25

You might also like