Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 3

1.

Ý thức chính trị:


Đầu tiên là hình thái ý thức chính trị. Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức chỉ xuất hiện
và tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế,
xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp đối với
quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị thực tiễn thông thường hình thành từ trực tiếp các hoạt
động thực tiễn trong môi trường chính trị của xã hội. Ở trạng thái tâm lí xã hội, những cảm xúc
và tâm trạng về chính trị của quần chúng thường thiếu bền vững và không ổn định. Song,
những trạng thái tâm lí xã hội như vậy lại đóng vai trò to lớn và trực tiếp đối với hành vi chính
trị của quần chúng đông đảo. Thông qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động vào đời sống chính
trị của xã hội. Hệ tư tưởng của một giai cấp chính trị nhất định phản ánh trực tiếp tập trung lợi
ích giai cấp của giai cấp ấy. Ý thức chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính
trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp chính sách nhà
nước - công cụ của giai cấp thống trị, hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác.
Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị gắn với
các tổ chức chính trị, thông qua các tổ chức chính trị mà một giai cấp nào đó tiến hành cuộc
đấu tranh giành ý thức. Vì lợi ích của giai cấp của mình, ý thức chính trị đặc biệt là hệ tư tưởng
chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó
tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cơ sở kinh
tế. Hệ tư tưởng chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nó thâm
nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng
chính trị cũng như ý thức chính trị nói chung phụ thuộc vào tính tiến bộ, phản cách mạng của
giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp đó tiến bộ, cách mạng tiêu biểu làm cho xu thế phát
triển đi lên của lịch sử thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác động tích cực đến sự phát triển
xã hội. Khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, phản cách mạng thì hệ tư tưởng chính trị của nó có
tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
2. Ý thức pháp quyền
Hình thái ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất
và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ cho nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân,
về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức
và tình cảm của con người trong việc thực thi luật pháp của nhà nước. Cũng như ý thức chính
trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai hình thái này có sự gần nhau về cả
nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội,
trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật. Trong xã hội có giai
cấp, pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật, do đó mỗi chế độ xã hội,
mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Những trong xã
hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật,
phản ánh lợi ích của giai cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết pháp luật của xã
hội.
3. Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan điểm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm,
nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc,… và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực điều chỉnh
hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với xã hội. Ý thức
đạo đức là một trong các hình thái ý thức ra đời rất sớm. Trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên
thuỷ sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng phản ánh khả năng tự chủ của con người
là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức của con người,
cũng là biểu hiện bản chất của con người. Từ ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu
hiện tiến bộ xã hội. Trong ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan
trọng. Nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận
được bằng con đường lí tính không thể chuyển hoá thành hành vi đạo đức. Trong tiến trình
phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong
mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc ứng xử đơn giản nhằm
điều chỉnh hành vi và các sinh hoạt thường ngày của con người trong cộng đồng xã hội. Tuy
nhiên, trong một xã hội có sự phân chia giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh
quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa
vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử
xã hội đều có những quan niệm đạo đức của riêng mình. Giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển đi
lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại
diện cho một đạo đức suy thoái.
4. Ý thức nghệ thuật
Ý thức nghệ thuật hình thành rất sớm từ trước khi xã hội có sự phân chia giai cấp, cùng với sự
ra đời của các hình thái nghệ thuật. Hình thái ý thức nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực vào ý
thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo “cái đẹp". Trong các hình
thức hoạt động thưởng thức và sáng tạo cái đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất
của ý thức nghệ thuật. Quá trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người,
với thực tiễn xã hội. Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật đều thuộc về thời kì con người đã
biết sản xuất ra những công cụ bằng đá, xương, sừng... Cũng như các hình thái xã hội khác,
nghệ thuật bắt nguồn từ tồn tại xã hội. Nếu khoa học và triết học phản ánh thế giới hiện thực
bằng khái niệm, phạm trù, quy luật thì nghệ thuật lại phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ
thể bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật tuy cũng phản ánh bản chất của đời
sống hiện thực tuy cũng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh động. Hình
tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng, nhận thức cái bản chất trong cái
hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt, song cái cá biệt trong nghệ thuật phải là
cái cá biệt có tính điển hình và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển hình thì phải là cái điển hình
đã được cá biệt hoá. Sự phát triển của nghệ thuật, cả về nội dung và hình thức, không thể tách
khỏi sự phát triển của tồn tại xã hội. Nhưng nghệ thuật có tính độc lập tương đối rất rõ nét
trong sự phát triển của mình. Nó không phải bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội một cách
trực tiếp, dễ thấy. Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện thực của nhân dân; là nhân
tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng những nhu cầu thẩm mĩ của con
người. Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực và có giá trị
thẩm mĩ cao, nghệ thuật đã tác động đến lí trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích
cực của con người, xây dựng ở con người những hành vi đạo đức tốt đẹp. Trong xã hội có giai
cấp, nghệ thuật bao giờ cũng mang tính giai cấp. Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước
hết ở chỗ nó không thể không chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của
một giai cấp, không thể đứng ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Do vậy không thể phủ
nhận được mối liên hệ giữa nghệ thuật và chính trị. Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật
trong xã hội có giai cấp, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin không phủ nhận tính nhân loại
chung của nó. Không ít tác phẩm nghệ thuật mà giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế
giới qua các thời đại, mặc dù tác giả là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ
thuật một dân tộc nhất định những đã trở thành những giá trị văn hoá tiêu biểu của cả nhân
loại. Tính giai cấp của nghệ thuật cách mạng và tiến bộ không những không mâu thuẫn với
tính nhân loại, mà ngược lại còn làm sâu sắc những giá trị toàn nhân loại.

You might also like