VIỆT BẮC ĐOẠN 3

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

VIỆT BẮC ĐOẠN 3 ( NHỚ GÌ …SUỐI XA)

Đại thi hào Puskin đã từng tâm niệm “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ
sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống
được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Nhà văn Tố Hữu cũng đã để tiếng lòng mình cất
lên, để linh hồn tác phẩm “Việt Bắc” neo đậu mãi trong trái tim của hàng triệu độc giả. Và qua
những trang văn đẹp đẽ, người đọc không khỏi ấn tượng với nỗi nhớ nhung da diết của người
cán bộ về xuôi với con người, cảnh quan thiên nhiên Tây Bắc, từ đó ta thấy được______

“Nhớ gì như nhớ người yêu



Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

Việt Bắc trong kháng chiến chống pháp là cơ quan đầu não, khu căn cứ địa Cách mạng.
Sau chiến thắng Điện biên phủ, hiệp định Giơ ne vơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn được giải
phóng. Vào tháng 10 năm 1945, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc, về lại
thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó với Việt
Bắc, nay từ biệt chiến khu để về miền xuôi. Nhân sự kiện thời sự mang tiếng lịch sử ấy, cùng
với bao nỗi nhung nhớ, Tố Hữu viết “Việt Bắc”

Vừa mới đặt những bước chân đầu tiên vào thế giới nghệ thuật của Tố Hữu, người đọc đã
được dịp choáng ngợp với những lời thơ dạt dào nỗi nhớ nhung tha thiết, khôn nguôi của
những người cán bộ kháng chiến:

“Nhớ gì như nhớ người yêu”

Một từ “gì” cất lên như hàm chứa biết bao điều. Trong miền kí ức của Tố Hữu luôn dâng
trào những kỉ niệm, ân tình về những ngày tháng kháng chiến đầy gian khổ, về cảnh vật, đồng
bào Tây Bắc. Chia xa mảnh đất mình từng gắn bó, ai mà chẳng nhớ chẳng thương. Thế nhưng
hiếm có thi sĩ nào mang trong tim nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, cháy bỏng như thế khi từ giã
chiến khu Việt Bắc“Nhớ gì như nhớ người yêu” Sự mềm mại của kết cấu thơ lục bát kết hợp
với điệp từ “nhớ” đầy thắm thiết, nồng nàn đã khiến cho người đọc tưởng chừng như đang
chứng kiến cảnh đôi lứa yêu nhau:

“Những đêm dài hành quân nung nấu


Bỗng bồng chồn nhớ mắt người yêu”

Nhưng chính điều đó đã tô đậm nên hình ảnh ân tình Cách mạng. Đoạn thơ nói về tình
cảm chính trị nhưng không hề khô khan, trái lại còn thể hiện nỗi nhớ nhung đầy da diết, sâu
nặng. Đó là nỗi nhớ nhân dân, những con người lao động và cưu mang cho anh bộ đội Cụ Hồ
15 năm qua. Đó cũng là nỗi nhớ về vùng quê bình yên, về quê hương thứ hai của những người
chiến sĩ cộng sản.

Ngoài ra, chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:

“"Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương


Nhớ từng bản khói cùng sương"
Những câu thơ như một bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình.Nỗi
nhớ Việt Bắc không chỉ như nỗi nhớ nhung người yêu mà đó còn là hình ảnh quen thuộc của
những bản làng. Nhớ những đêm trăng huyền ảo, nơi mảng trăng lấp ló nơi đầu núi, nhớ những
chiều khói bếp nghi ngút trắng trời xen lẫn sương khuya. Phép đối “Trăng lên đầu núi/ nắng
chiều lưng nương” thể hiện nỗi nhớ đêm ngày, bao trùm cả không gian lẫn thời gian. Hình ảnh
hiện lên một cách tuyệt đẹp, ma mị như một bức tranh đồng quê chân thực, mộc mạc. Không
xoáy xâu vào miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ nhẹ nhàng chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên với những
kẻ miền xuôi, chỉ những cái khơi gợi ấy cũng đủ làm dấy lên nỗi xao xuyến, bồi hồi không
nguôi về một thời đã qua.

Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt
Bắc rất đỗi thân thương:

“Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”

Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những cô gái
nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan, không màng vụng lợi, cùng
với bao ý thức, trách nhiệm, những người phụ nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu
những anh cán bộ. Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân
ấm áp. Tình quân dân, cách mạng mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình.
Mỗi lần niềm nhớ rung lên là bao kỉ niệm ùa về, bao nghĩa tình được bồi đắp. Có thể nói
nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất cả kí ức hoài niệm dấu yêu.

“Nhớ từng rừng nứa bờ tre


Ngòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đầy.”

Từng cảnh sắc vùng cao dần hiện ra rõ hơn với những địa danh cụ thể “Ngòi Thia, Sông
đáy, suối lê”, đây đều là những sự kiện và dấu ấn cách mạng không thể nào quên. Nếu câu thơ
trên là cảnh vật rừng nứa bờ tre mộc mạc, giản dị quen thuộc thì câu thơ tiếp theo là những
hình ảnh đậm chất nghĩa nặng tình sâu, những dấu ấn quan trọng trên những bước đường khánh
chiến không thể vùi lấp, vơi đầy. Ý thơ tưởng chừng như đối lập nhưng lại tương trợ, ý nghĩa
đến lạ thường. Trong nỗi nhớ dạt dào, trong dòng kí ức chảy trôi của Tố Hữu luôn ẩn hiện bóng
hình của những chặng đường Cách Mạng, dù là những bờ tre ẩn hiện bên bệ đường, những điều
đó đều trở nên giàu ý nghĩa, quan trọng, không bao giờ có thể quên.

Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của
người đi:

“Ta đi ta nhớ những ngày


Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”

“Mình đi có nhớ những ngày”, không phụ lòng người ở lại, cùng với bao nỗi nhớ nhung,
người ra đi nhẹ nhàng hồi đáp “Ta đi ta nhớ những ngày”. Ngôn từ xưng hô thật giản dị, mang
đậm nét dân gian trong những câu ca dao xưa:

“Mình về ta chẳng cho về


Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”
Tác giả đã dùng lối xưng hô “ta – mình ” để nói về tình cảm dành cho đồng bào Việt Bắc.
Chỉ với một câu thơ đầy lưu luyến, Tố Hữu đã khắc họa lên sự tiếc nuối, sự gắn bó ròng rã
trong “mười lăm năm” dài. Khoảng thời gian đó không hề ngắn, họ gắn bó với nhau qua những
đau thương, gian khổ. Nhưng giờ đây, mọi đau thương mất mát như chìm hẳn đi, để rồi đọng
lại trong ý thơ lúc này chỉ là nỗi ân tình thắm thiết, những kỉ niệm ngọt bùi trong “mười lăm
năm ấy” giữa “ta” và “mình”. Câu thơ chính là lời khẳng định về thứ tình cảm sâu nặng ấy.
Chính khoảng thời gian dài bên nhau đã vun đắp, bồi dưỡng nên mối quan hệ đẹp đẽ, đầy
“đắng cay ngọt bùi” ở nơi chiến trường. Hoàn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến khiến họ
phải chia nhau từng củ sắn, bát cơm, mảnh chăn nhỏ. Đó là những ngày tháng đồng cam cộng
khổ vì một mục tiêu cao cả đó là giải phóng đất nước thoát khỏi ách thống trị của thực dân
Pháp. Họ đã cùng nhau nếm trải từng cái “đắng cay ngọt bùi” nơi chiến trận, thế nên những kẻ
miền xuôi sẽ luôn nhớ mãi những nồi niềm tâm tình về mối tình keo sơn của quân dân mình, sẽ
luôn nhớ mãi không quên…
Và để rồi, dù xa cách nhưng người ra đi mãi không thể nào quên những ngày tháng
gian khổ sống giữa lòng Việt Bắc:

“Thương nhau chia củ sắn lùi,


Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Những sự chia sẻ trong lúc khó khăn bao giờ cũng để lại ấn tượng sâu đậm nhất.
Tình người luôn sáng lên trong những hoàn cảnh ngặt nghèo. Việt Bắc đã từng chia sẻ
từ nửa bát cơm, củ sắn của đời sống vật chất đến những ngọt bùi, đắng cay từ đời sống
tinh thần. Những hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực lại vừa có ý nghĩa tượng trưng. Nhưng
suy cho cùng, tất cả đều hướng người đọc nhận thức được giá trị của cái “đồng cam,
cộng khổ” mà Việt Bắc và người kháng chiến cùng nêu cao. Chi tiết “Chăn sui đắp
cùng” đã gợi lên sự ấm áp của tháng ngày kháng chiến. Tấm “chăn sui” tuy chưa đủ
chống lại cái lạnh thấu xương của mùa đông Việt Bắc, cái hiểm trở của nơi rừng thiêng
nước độc nhưng thực tế nó đã sưởi ấm, gắn kết được tình người. Cũng như nửa bát cơm,
nửa củ sắn chưa đủ làm no lòng nhưng lại làm ấm lòng bằng vị ngon tinh thần.

Tiếp nối mạch cảm xúc, những dòng thơ tiếp theo cũng hướng về nỗi nhớ với con
người miền xuôi:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng


Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”

Với người mẹ, hình ảnh tấm lưng trần cháy nắng đã nói lên tất cả. Hình ảnh thơ gợi
tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những bà mẹ Việt Bắc luôn
tảo tần, hết mình vì gia đình, vì kháng chiến

Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người
Việt Bắc luôn lạc quan, yêu đời mặc cho những khó khăn, gian khổ:

“Nhớ sao lớp học i tờ


Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo...”
Có lẽ những năm tháng kháng chiến đã để lại trong lòng người cán bộ về xuôi một
kỉ niệm không bao giờ phai mờ. Những tình thương yêu cao cả và vô cùng đẹp đẽ đó đã
khiến cho người về xuôi không khỏi xót thương và cảm phục trong lòng. Tác giả sử
dụng điệp ngữ “Nhớ sao” nhằm thể hiện nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những
hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: “Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo”,
đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần
lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi. Những tiếng đánh vẫn
ngọng nghịu của lớp học "i tờ" cũng khiến cho người về xuôi phải bồi hồi khi nhớ về
Việt Bắc bởi đó là niềm vui, niềm tự hào của những người đồng bào miền núi, là thành
quả sau những ngày tháng chiến tranh đầy khó nhọc. Thế mới nói, dù bom đạn, chiến
tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân
hoan, rộn ràng. Đoạn thơ giàu chất nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống tươi đẹp,
nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc đầy
thân thơ.

Khép lại khổ thơ, ta bỗng nghe thấy những âm điệu đầy quen thuộc, gợi thương, gợi
nhớ về nơi rừng núi Tây Bắc:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.
Hai âm thanh rất Việt Bắc vang vọng mãi trong tâm hồn người ra đi. Đó là tiếng mõ
trâu về bản lúc chiều tà, tiếng chày thậm thình bên suối trong đêm khuya, thật khó quên.
Chúng vừa thân thuộc lại vừa hoang dã, vừa gần gũi bên tai lại như vừa vọng lên từ một
cõi xa xôi nào. Câu thơ như một bài cộng hưởng của âm điệu, đọc lên ta như nghe một
dạ khúc thiết tha. Những dòng thơ khép lại mà mở ra bao nhiêu suy ngẫm và trăn trở
trong lòng người đọc. Nói “Văn học là nhân học” như M.Gorki quả thực không sai
Bằng tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn sục sôi ý chí cách mạng, Tố
Hữu đã viết nên một bản tình ca, bản hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc.“ Sức mạnh của
thơ Tố Hữu trong những ngày tháng đen tối ấy, chính là vì nó nói với trái tim, chính
là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thực sự.” Nghĩa tình sâu nặng của
người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, của quần chúng đối với cách mạng trong
thơ Tố Hữu là sự kế thừa tình cảm, đạo lý sống của con người Việt Nam “Uống nước
nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung. Để rồi Việt Bắc đã thực sự trở thành một trong
những bài ca không bao giờ quên, không thể nào quên.

Khép lại những dòng thơ giàu xúc cảm. Tác phẩm “Việt Bắc” nói chung và đoạn
thơ nói riêng của Tố Hữu đã để lại nhiều suy nghĩ và chiêm nghiệm sâu sắc. Đặc biệt
qua _____________, độc giả có lẽ cũng đã để lại cho mình vô vàn bài học ý nghĩa bởi
những giá trị độc nhất vô nhị thông qua những câu chữ giản đơn nhưng đậm chất nghệ
thuật của tác phẩm này. Chính tất cả những điều đó đã minh chứng cho lời nhận định:
“Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại, mình nó không chấp nhận quy luật của cái
chết.

You might also like