Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT


MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ LIÊN HỆ VỚI
VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thị Quyết


Nhóm thực hiện: 03
Sinh viên thực hiện:
1. Lê Mai Nguyệt - 22109121
2. Nguyễn Hướng Nghiệp -
22127022
3. Bùi Quang Tấn - 22119228
4. Nguyễn Thành Vinh - 22149381
5. Nông Nguyên Vỹ - 22151340

Mã lớp học: LLCT120405_25UTExMC

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 6 năm 2024


DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KÌ II, NĂM HỌC: 2023 - 2024


Nhóm 03 - Lớp 25UTExMC

Tên đề tài: Vấn đề xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và liên
hệ với việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay

STT HỌ VÀ TÊN MSSV Mức độ SỐ ĐIỆN CHỮ KÍ


hoàn thành THOẠI

1 Bùi Quang Tấn 22119228 100% 0334169310

2 Lê Mai Nguyệt 22109121 100% 0329316344

3 Nông Nguyên Vỹ 22151340 100% 0844075797

4 Nguyễn Thành Vinh 22149381 100% 0867687902

5 Nguyễn Hướng Nghiệp 22127022 100% 0939983527

Nhận xét của giáo viên:

...................................................................................................................................................

...................................................................................................................................................

...................................................................................................................................................

...................................................................................................................................................

Ngày 14 tháng 5 năm 2024


Giáo viên chấm điểm

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...............................................................................................................................

B. NỘI DUNG...........................................................................................................................

CHƯƠNG 1: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI............................................................................................................................................

1.1 Khái niệm , vị trí và các chức năng của gia đình.............................................................

1.1.1 Khái niệm gia đình........................................................................................................

1.1.2 Vị trí của gia đình trong xã hội..................................................................................

1.1.3 Chức năng cơ bản của gia đình..................................................................................

1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...............................

1.2.1 Cơ sở kinh tế xã hội...................................................................................................

1.2.2 Cơ sở chính trị..........................................................................................................

1.2.3 Cơ sở văn hóa...........................................................................................................

1.2.4 Cơ sở chế độ hôn nhân tiến bộ.................................................................................

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................

2.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội............

2.1.1 Sự biến đổi về quy mô, kết cấu của gia đình...........................................................

2.1.2. Sự biến đổi các chức năng của gia đình..................................................................

2.1.3 Sự biến đổi trong quan hệ gia đình..........................................................................

2.2. Phương hướng cơ bản xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
CNXH...................................................................................................................................

C. KẾT LUẬN.........................................................................................................................
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Gia đình, một khái niệm quen thuộc gắn liền với cuộc sống hàng ngày
của chúng ta. Các gia đình có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng với
nhau. Đó là nơi mọi người cùng chung sống và xây dựng những mối
quan hệ thân thiết. Gia đình là một mô hình thu nhỏ của xã hội. Trải qua
nhiều thời kỳ phát triển xã hội, gia đình Việt Nam đã hình thành và phát
triển những chuẩn mực đạo đức của con người, những giá trị cao đẹp qua
nhiều thế hệ. Những quan niệm đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp đã
được bảo tồn, trau dồi và phát triển trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Trải qua các thời đại, cấu trúc và các mối quan hệ của gia
đình đã thay đổi nhưng những chức năng cơ bản của gia đình vẫn được
giữ nguyên
Gia đình là nền tảng không thể thiếu cho sự phát triển của mỗi cá nhân,
mỗi người. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và hình thành tính cách, lối
sống, cách suy nghĩ và cách làm của mỗi cá nhân. Vì vậy, vai trò của gia
đình là vô cùng quan trọng và cần được hiểu và chấp nhận sâu sắc hơn.
Việc xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa mới được thực hiện trên cơ sở
kế thừa những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu
sự tiến bộ của thời đại. Đây là việc tạo dựng gia đình văn hóa. Từ lâu,
công cuộc xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu nhưng cũng còn có những hạn chế. Xuất phát từ tình hình thực tế nêu
trên, nhóm xin lựa chọn đề tài “Vấn đề xây dựng gia đình trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và liên hệ với việc xây dựng gia đình ở Việt
Nam hiện nay” để làm rõ những vấn đề trên
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích những đặc điểm, quy luật phát triển của gia đình trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.

1
- Xác định những thách thức và giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Liên hệ những kinh nghiệm xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Gia đình ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Phương pháp so sánh lịch sử.
5. Kết cấu đề tài
CHƯƠNG 1: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình
1.1.1 Khái niệm gia đình
1.1.2 Vị trí của gia đình trong xã hội
1.1.3 Chức năng cơ bản của gia đình
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
1.2.1 Cơ sở kinh tế xã hội
1.2.2 Cơ sở chính trị
1.2.3 Cơ sở văn hóa
1.2.4 Cơ sở chế độ hôn nhân tiến bộ
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

2
2.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
2.1.1 Sự biến đổi về quy mô, kết cấu của gia đình
2.1.2. Sự biến đổi các chức năng của gia đình
2.1.3 Sự biến đổi trong quan hệ gia đình
2.2. Phương hướng cơ bản xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên CNXH

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1.1 Khái niệm , vị trí và các chức năng của gia đình
1.1.1 Khái niệm gia đình

Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan hệ
thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống
của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là
quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” . Về cơ sở gia đình được
hình thành dựa trên hai loại mối quan hệ chủ yếu: mối quan hệ vợ chồng và mối quan hệ
máu mủ. Cả hai đều tồn tại và phát triển dựa trên sự liên kết chặt chẽ, sự phụ thuộc và
cam kết lẫn nhau thông qua các nghĩa vụ và trách nhiệm mà mỗi cá nhân đều phải tuân
theo, dù là theo quy định của pháp luật hay theo chuẩn mực đạo đức.

Mối liên kết hôn nhân không chỉ đóng vai trò là nền tảng cho việc hình thành các mối
quan hệ khác trong gia đình mà còn là điều kiện pháp lý cần thiết để đảm bảo sự tồn tại và
sự ổn định của một gia đình. Mối quan hệ máu mủ, bắt nguồn từ mối quan hệ hôn nhân,
chính là dây liên kết giữa những người có cùng huyết thống, tạo nên một sức mạnh tự
nhiên giúp kết nối mọi thành viên trong gia đình.

3
Bên cạnh mối quan hệ vợ chồng và quan hệ cha mẹ - con cái, trong gia đình còn tồn tại
nhiều mối quan hệ khác như giữa ông bà và cháu, anh chị em với nhau, cô dì chú bác với
cháu, và cả mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, được công nhận thông qua các
thủ tục pháp lý. Dù xuất phát từ hình thức nào, mối quan hệ nuôi dưỡng luôn là phần
không thể thiếu trong gia đình, thể hiện qua sự quan tâm, chăm sóc về mặt vật chất lẫn
tinh thần giữa các thành viên. Đây không chỉ là trách nhiệm và nghĩa vụ mà còn là quyền
lợi thiêng liêng của mỗi người trong gia đình. Trong xã hội hiện đại, dù hoạt động nuôi
dưỡng, chăm sóc của gia đình được xã hội hỗ trợ và chia sẻ, nhưng không thể hoàn toàn
thay thế được vai trò của gia đình.

Những mối quan hệ này liên kết chặt chẽ với nhau và phát triển tùy thuộc vào trình độ
kinh tế và cấu trúc chính trị - xã hội. Gia đình, do đó, là một cộng đồng xã hội đặc biệt,
được xây dựng, duy trì và củng cố chủ yếu qua mối quan hệ hôn nhân, máu mủ và nuôi
dưỡng, cùng với các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên.

1.1.2 Vị trí của gia đình trong xã hội

 Gia đình là tế bào của xã hội

Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội.
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định trong lịch sử, quy
cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất
đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và
những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân
con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của
một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản
xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ
phát triển của gia đình” .

Với vai trò là nơi sản sinh ra các phương tiện tiêu dùng và sản xuất, cũng như tái tạo
lực lượng lao động, giống như một tế bào tự nhiên, đóng góp vào việc hình thành nên cấu

4
trúc của xã hội. Nếu thiếu đi gia đình, không chỉ là việc tái tạo thế hệ mới của con người
không thể diễn ra, mà cả sự tồn tại và phát triển của xã hội cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào
gia đình tốt, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “… nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội
chính là gia đình” .

Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của gia đình lên xã hội biến đổi theo từng thời kỳ lịch
sử, phụ thuộc vào tính chất của chế độ xã hội đương thời, cũng như các chính sách và lập
trường của tầng lớp lãnh đạo. Sự phát triển của gia đình cũng chịu ảnh hưởng bởi cấu trúc
và đặc thù riêng của nó qua các giai đoạn lịch sử. Trong một xã hội mà quyền sở hữu tư
nhân về phương tiện sản xuất làm nảy sinh bất bình đẳng, vai trò của gia đình trong việc
tác động đến xã hội bị hạn chế đáng kể. Chỉ khi mỗi cá nhân cảm thấy ấm áp và hòa thuận
trong gia đình, họ mới có thể làm việc, sáng tạo và đóng góp cho xã hội một cách an tâm.
Do đó, việc xây dựng một xã hội và mối quan hệ gia đình công bằng, hạnh phúc là một
yếu tố quan trọng trong tiến trình phát triển của một xã hội chủ nghĩa.

Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân của
mỗi thành viên

Ngay từ khi còn là thai nhi cho đến khi chào đời và trong suốt quãng đời, mỗi người đều
có mối liên kết mật thiết với gia đình của mình. Gia đình chính là môi trường lý tưởng
nhất để mỗi cá nhân được bao bọc bởi tình yêu thương, được nuôi nấng, chăm sóc, và
phát triển toàn diện. Sự ổn định và niềm vui trong gia đình tạo nên nền tảng vững chắc
cho việc hình thành và phát triển tính cách, sức khỏe thể chất và trí tuệ, giúp mỗi người
trở thành công dân có ích cho xã hội. Chỉ khi sống trong một gia đình đầm ấm, mỗi cá
nhân mới cảm nhận được sự bình an, hạnh phúc và tìm thấy động lực để nỗ lực trở thành
người có giá trị trong cộng đồng.

Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội

5
Gia đình là nơi mỗi người chúng ta bắt đầu cuộc sống và là nền tảng quan trọng cho sự
phát triển của bản thân. Nó không chỉ là nơi nuôi dưỡng tình cảm yêu thương giữa các
thành viên, mà còn là nơi không thể thay thế trong việc hình thành những mối quan hệ
tình cảm sâu sắc. Trong không gian ấm áp của gia đình, tình yêu thương giữa vợ chồng,
tình phụ tử, anh em được bày tỏ một cách thiêng liêng và đậm đà nhất.

Dẫu vậy, con người không chỉ gắn bó với gia đình mà còn cần mở rộng mối quan hệ ra
xã hội, kết nối với những người khác ngoài gia đình mình. Mỗi người không chỉ là một
phần của gia đình mà còn là một phần của cộng đồng xã hội rộng lớn. Mối quan hệ trong
gia đình cũng chính là mối quan hệ xã hội, vì không ai có thể tồn tại một mình mà không
thuộc về một gia đình hay cộng đồng nào cả. Gia đình không chỉ là nơi đầu tiên mà mỗi
người tiếp xúc và học hỏi về xã hội, mà còn là nơi đầu tiên đáp ứng nhu cầu về mối quan
hệ xã hội của mỗi cá nhân.

Mặt khác, gia đình cũng là môi trường mà qua đó, xã hội có thể ảnh hưởng đến cá
nhân. Các thông tin và hiện tượng xã hội được cá nhân tiếp nhận qua bối cảnh gia đình, có
thể mang lại những tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển tư duy, đạo đức, lối
sống và nhân cách của họ. Xã hội có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về mỗi cá nhân khi
họ được đặt trong mối quan hệ với gia đình và cộng đồng. Các vấn đề quản lý xã hội đôi
khi cần phải thông qua gia đình để có thể ảnh hưởng đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền lợi
của mỗi người được thực hiện thông qua sự hỗ trợ và hợp tác của các thành viên trong gia
đình. Do đó, trong mọi xã hội, lớp lãnh đạo luôn coi trọng việc xây dựng và củng cố gia
đình để quản lý xã hội theo ý muốn của họ. Đặc điểm của gia đình cũng thay đổi tùy
thuộc vào từng chế độ xã hội. Trong xã hội phong kiến, để củng cố chế độ và duy trì
quyền lực, với hệ thống gia trưởng, độc đoán, đã có những quy định nghiêm ngặt đối với
phụ nữ, yêu cầu họ phải hoàn toàn trung thành với chồng và cha - những người đàn ông
trong gia đình. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tạo dựng một xã hội công
bằng, người lao động được giải phóng, và giai cấp công nhân đề cao việc bảo vệ chế độ
hôn nhân một vợ một chồng, thực hiện sự bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa
6
xã hội chỉ một nửa” . Vì vậy, quan hệ gia đình trong chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về
chất so với các chế độ xã hội trước đó.

1.1.3 Chức năng cơ bản của gia đình

 Chức năng tái sản xuất ra con người

Chức năng sinh sản là một đặc trưng quan trọng của gia đình, không thể được thay thế
bởi bất kỳ cộng đồng nào khác. Nó không chỉ thỏa mãn nhu cầu tình cảm và sinh lý tự
nhiên của con người, mà còn đáp ứng việc duy trì dòng dõi và sức lao động, góp phần vào
sự tồn vong của xã hội. Việc này không chỉ diễn ra trong phạm vi gia đình mà còn là một
vấn đề xã hội, bởi nó ảnh hưởng đến dân số và nguồn nhân lực của quốc gia và toàn cầu,
là một yếu tố cơ bản của sự tồn tại xã hội. Việc thực hiện chức năng sinh sản liên quan
mật thiết đến sự phát triển của xã hội trên mọi phương diện.

Do đó, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nơi và nhu cầu của xã hội, chức năng
này có thể được thực hiện theo hướng hạn chế hoặc khuyến khích. Mức độ phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực mà gia đình cung cấp cho
xã hội.

 Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục

Ngoài việc duy trì nòi giống, gia đình cũng gánh vác nhiệm vụ chăm sóc và giáo
dục con cái để họ trở thành những cá nhân có giá trị cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chức năng này biểu hiện tình yêu thương cao cả và bổn phận của cha mẹ đối với con cái,
cũng như thể hiện sự đóng góp của gia đình cho xã hội. Qua việc thực hiện chức năng
này, gia đình đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành tính cách, đạo đức và
phong cách sống của mỗi cá nhân. Từ khi mới chào đời, mỗi người đều được giáo dục
một cách trực tiếp bởi cha mẹ và người thân trong gia đình. Những kiến thức ban đầu mà
gia đình mang lại thường để lại ấn tượng sâu đậm và lâu dài trong cuộc đời mỗi người.
Do đó, gia đình là một môi trường văn hóa, giáo dục quan trọng, nơi mỗi thành viên
không chỉ là người tạo ra giá trị văn hóa, là người giáo dục mà còn là người nhận giá trị
7
văn hóa, và là đối tượng được giáo dục bởi các thành viên khác trong gia đình.

Chức năng chăm sóc và giáo dục trong gia đình có tác động sâu rộng và kéo dài suốt
đời người, từ khi mới sinh ra cho tới khi trưởng thành và già đi. Mỗi cá nhân trong gia
đình đều giữ một vị thế và vai trò quan trọng, đồng thời là người học hỏi và người truyền
đạt trong quá trình chăm sóc và giáo dục. Đây là một chức năng không thể thiếu, mặc dù
xã hội có nhiều tổ chức khác như trường học, các tổ chức xã hội, chính quyền cũng đảm
nhận vai trò này, nhưng không thể thay thế được vai trò giáo dục của gia đình. Qua chức
năng này, gia đình đóng góp một phần không nhỏ trong việc hình thành thế hệ trẻ, thế hệ
tương lai của xã hội, cải thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giúp duy trì sự
phát triển của xã hội, và từng bước giúp mỗi cá nhân hòa nhập với cộng đồng. Do đó,
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội là hai yếu tố liên kết chặt chẽ. Nếu giáo dục gia đình
không được tích hợp với giáo dục xã hội, cá nhân sẽ gặp khó khăn trong việc hòa nhập, và
ngược lại, giáo dục xã hội sẽ không hiệu quả nếu không có sự hỗ trợ từ giáo dục gia đình.
Vì vậy, cần tránh xu hướng đánh giá cao giáo dục gia đình mà xem nhẹ giáo dục xã hội,
hoặc ngược lại, bởi cả hai đều cần thiết cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân.

Để thực hiện tốt chức năng này, mỗi người làm cha mẹ cần có kiến thức đa dạng và
sâu rộng về văn hóa, học vấn và đặc biệt là phương pháp giáo dục.

 Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Giống như các tổ chức kinh tế khác, gia đình cũng tham gia vào quá trình sản xuất và
tái sản xuất các nguyên liệu sản xuất và tiêu dùng. Điểm đặc biệt của gia đình so với các
tổ chức kinh tế khác là gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào việc sản xuất và tái sản
xuất nguồn nhân lực cho xã hội. Gia đình không chỉ tham gia vào việc sản xuất và tái sản
xuất tài sản vật chất và nguồn nhân lực mà còn là một đơn vị tiêu thụ trong xã hội.

Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì cuộc sống hàng
ngày, từ lao động sản xuất đến các hoạt động sinh hoạt khác. Điều này bao gồm việc sử
dụng thu nhập của các thành viên trong gia đình một cách hợp lý để đảm bảo cuộc sống

8
vật chất và tinh thần cho mỗi người, cũng như việc sử dụng thời gian rảnh rỗi để tạo ra
một môi trường văn hóa lành mạnh, nâng cao sức khỏe và duy trì sở thích cá nhân.

Với sự phát triển của xã hội, vai trò kinh tế của gia đình cũng thay đổi tùy thuộc vào
từng giai đoạn phát triển của xã hội, từ quy mô sản xuất, quản lý nguyên liệu sản xuất đến
cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí và vai trò của kinh tế gia đình cũng như
mối quan hệ của nó với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội không phải lúc nào cũng
giống nhau.

Thực hiện chức năng này, gia đình không chỉ đảm bảo nguồn sống cho các thành viên
mà còn đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của họ. Hiệu quả hoạt động kinh tế của gia
đình quyết định đến chất lượng cuộc sống của mỗi thành viên. Đồng thời, gia đình cũng
góp phần vào quá trình sản xuất và tái sản xuất tài sản, làm giàu cho xã hội. Gia đình có
thể tận dụng hiệu quả mọi tiềm năng về vốn và lao động, nâng cao tài sản vật chất cho cả
gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này không chỉ giúp gia đình tổ chức tốt cuộc
sống, nuôi dưỡng và giáo dục con cái mà còn đóng góp lớn cho sự phát triển của xã hội.

 Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu cảm xúc, văn hóa và
tinh thần của từng thành viên, giúp duy trì sự ổn định tâm lý và chăm sóc sức khỏe cho
người bệnh, người già và trẻ nhỏ. Sự quan tâm và chăm sóc giữa các thành viên trong gia
đình không chỉ là một nhu cầu tình cảm mà còn là bổn phận, đạo đức và lương tâm của
mỗi người. Vì thế, gia đình không chỉ là nơi tựa về mặt vật chất mà còn là điểm tựa tinh
thần cho mỗi cá nhân. Việc duy trì mối quan hệ tình cảm giữa các thành viên trong gia
đình có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi mối quan hệ tình cảm
trong gia đình gặp trục trặc, mối quan hệ trong xã hội cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng.

Bên cạnh đó, gia đình còn giữ chức năng văn hóa và chính trị. Với chức năng văn hóa,
gia đình là nơi bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc và cộng đồng. Các
phong tục, tập quán và hoạt động văn hóa được duy trì và phát triển trong môi trường gia

9
đình. Gia đình không chỉ giữ gìn mà còn là nơi sáng tạo và thụ hưởng giá trị văn hóa từ xã
hội. Với chức năng chính trị, gia đình là một cơ quan chính trị của xã hội, nơi thực hiện
các chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế của cộng đồng, đồng thời hưởng lợi từ
hệ thống pháp luật và chính sách đó. Gia đình cũng là cầu nối quan trọng trong mối quan
hệ giữa nhà nước và công dân.

1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1.2.1 Cơ sở kinh tế xã hội


Theo Angghen, các mô hình gia đình trong lịch sử luôn gắn với phương thức sản xuất và
chế độ xã hội nhất định. Sự vận động, biến đổi của gia đình phụ thuộc vào sự vận động và
biến đổi của xã hội. Gia đình “là sản vật của một chế độ xã hội nhất định, hình thức đó sẽ
phản ánh trạng thái phát triển của chế độ xã hội đó”. Theo quy luật phát triển, loài người
tất yếu sẽ tiến một bước cao hơn thời đại xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là xã hội cộng sản
chủ nghĩa mà trước hết phải xây dựng giai đoạn đầu - xã hội xã hội chủ nghĩa. Gia đình
cũng cậy, cũng phải có những bước tiến để theo kịp và phản ứng đúng, tiến triển cùng xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở kinh tế - xã hội của việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ lực lượng sản xuất tương ứng là quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới là chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dần dần được hình thành và củng cố để thay thế chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Từ đó, nguồn gốc của áp bức, bóc lột, bất bình đẳng
trong xã hội và gia đình dần được xóa bỏ. Tạo nền tảng kinh tế cho việc thiết lập các mối
quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong xã hội.
Việc thủ tiêu chế độ bóc lột, tư hữu về ruộng đất, công xưởng và nhà máy mở ra con
đường để giải phóng cho phụ nữ, thủ tiêu chế độ nô lệ gia đình, từng bước xác lập và
củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền
kinh tế quốc dân là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất để từng bước xóa bỏ những tập quán
hôn nhân cũ chịu ảnh hưởng nặng nề của các giai cấp thống trị trong xã hội cũ, xóa bỏ cơ
sở kinh tế của tình trạng bất bình đẳng về giới, bất bình đẳng giữa các thành viên và các
10
thế hệ thành viên trong gia đình.
Trong thời kì quá độ lên CNXH, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, một mặt từng bước hình thành, hoàn thiện và phát triển các cơ sở vật chất - kĩ thuật
của CNXH, mặt khác tạo ra các điều kiện và cơ hội để phát huy mọi tiềm năng của mọi
gia đình, mọi thành viên trong xã hội. Phát triển theo định hướng XHCN là tiền đề để
từng bước giải quyết đúng đắn giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với thực hiện công
bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Điều đó tạo ra những cơ sở, điều kiện phát triển gia
đình, từng bước khắc phục những hạn chế, kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống, hình thành các yếu tố tích cực trong gia đình thực hiện những bước chuyển từ gia
đình truyền thống sang gia đình mới theo định hướng XHCN.
1.2.2 Cơ sở chính trị
Cơ sở chính trị của việc thành lập gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thành lập chính phủ quốc gia của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tức là nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, người lao động thực thi quyền
lực không phân biệt giới tính. Nhà nước cũng là công cụ để bãi bỏ những luật lệ lỗi thời
đặt gánh nặng lên phụ nữ, đồng thời giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Như Lênin đã khẳng định: “Chính phủ Xô Viết là chính phủ đầu tiên và duy nhất trên thế
giới đã xóa bỏ hoàn toàn mọi luật lệ cũ kỹ, tư sản, hèn hạ đặt phụ nữ vào vị thế bất bình
đẳng với nam giới và trao đặc quyền cho nam giới. Chính phủ Nhân dân Lao động, chính
phủ đầu tiên và duy nhất trên thế giới, bãi bỏ mọi đặc quyền gắn liền với tài sản riêng, cụ
thể là các đặc quyền của đàn ông trong gia đình…”
Vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nền tảng xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện rõ nhất ở vai trò của hệ thống pháp luật, trong đó có
Luật Hôn nhân và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hệ thống chính sách
gia đình và xã hội đảm bảo quyền lợi của gia đình. Quyền công dân và thành viên gia
đình, bảo vệ bình đẳng giới, chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội... các luật,
chính sách xã hội này đều đã hướng dẫn, thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong
thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa. Chừng nào hệ thống chính sách, pháp luật chưa tốt thì sẽ
có những hạn chế trong việc lập gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình.
11
1.2.3 Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những thay đổi căn bản về đời sống
chính trị, kinh tế, đời sống văn hóa, tinh thần cũng không ngừng biến đổi. Các giá trị văn
hóa dựa trên hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân dần dần được hình thành và dần
đóng vai trò chủ đạo, nền tảng văn hóa, tinh thần xã hội và các yếu tố văn hóa còn sót lại
của xã hội cũ dần dần hình thành. Đã bị loại trừ.
Sự phát triển của hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ góp phần nâng cao trình
độ dân trí, tri thức khoa học công nghệ của xã hội, đồng thời cung cấp cho các thành viên
trong gia đình những tri thức, nhận thức mới, tạo nền tảng, chuẩn mực cho việc hình
thành các giá trị mới, điều chỉnh chúng trong quá trình xây dựng quan hệ gia đình xã hội
chủ nghĩa.
Nếu không có nền tảng văn hóa, hoặc nền tảng văn hóa không liên quan gì đến nền tảng
kinh tế, chính trị thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, kém hiệu quả.
1.2.4 Cơ sở chế độ hôn nhân tiến bộ
❖ Hôn nhân tự nguyện
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa một người nam và một người nữ.
Tình yêu là mong muốn của mọi người ở mọi lứa tuổi. Chừng nào hôn nhân không dựa
trên tình yêu thì tình yêu và hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn chế trong hôn nhân.
Hôn nhân bắt nguồn từ tình yêu và tất yếu sẽ dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là sự phát
triển tất yếu của tình yêu giữa nam và nữ, như Ph.Angghen đã nhấn mạnh: “Nếu trách
nhiệm của vợ chồng là yêu thương nhau thì chẳng phải trách nhiệm của những người yêu
nhau là phải có được kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác”. Kết hôn
tự nguyện đảm bảo cho cả nam và nữ đều có quyền tự do lựa chọn bạn đời mà không
chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện không phủ nhận sự quan
tâm, hướng dẫn của cha mẹ cho con cái và giúp đỡ con cái thiết lập ý thức đúng đắn về
nhận thức và trách nhiệm trong hôn nhân.
Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ không
còn nữa. Ph.Angghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo
đức thì cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì, mới là hợp đạo đức mà
12
thôi… và nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi, thì
ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội”. Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ
không khuyến khích việc ly hôn, vì ly hôn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ,
chồng đặc là con cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nỗi khi ly hôn, ngăn
chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
❖ Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người, khi có sự
thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên, trong các xã
hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ nữ. “Chế độ một
vợ một chồng sinh ra từ sự tập trung nhiều của cải vào tay một người, vào tay người đàn
ông và từ nguyện vọng chuyển của cái ấy lại cho con cái của người đàn ông ấy, chứ
không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ một vợ một chồng về phía
người vợ, chứ không phải về phía người chồng”.
Mối quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng là cơ sở cho mối quan hệ bình đẳng giữa cha,
mẹ, con cái, anh chị em. Nếu cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương con cái thì con cái cũng có
nghĩa vụ biết ơn, kính trọng và nghe lời cha mẹ dạy dỗ. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa cha
mẹ và con cái, giữa anh chị em ruột chắc chắn sẽ dẫn đến những mâu thuẫn do sự khác
biệt về tuổi tác, nhu cầu và sở thích của mỗi người. Vì vậy, giải quyết mâu thuẫn gia đình
là vấn đề cần sự quan tâm, chia sẻ của mọi người.
❖ Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý

Quan hệ hôn nhân và gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình
mà là quan hệ xã hội. Tình yêu nam nữ là chuyện riêng tư của mỗi người, xã hội không
can thiệp. Tuy nhiên, khi hai người đã đồng ý kết hôn, tức là đã chuyển mối quan hệ riêng
tư thành quan hệ xã hội thì nhất định phải có quan hệ. giữa một người nam và một người
nữ được xã hội thừa nhận điều này được thể hiện qua thủ tục pháp lý về hôn nhân. Quá
trình kết hôn hợp pháp thể hiện sự tôn trọng tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách
nhiệm cá nhân với gia đình, xã hội và ngược lại. Điều này cũng nhằm ngăn chặn cá nhân
lợi dụng quyền tự do kết hôn, ly hôn để đáp ứng những nhu cầu không chính đáng và bảo
vệ hạnh phúc của cá nhân, gia đình. Việc thông qua các thủ tục pháp lý về hôn nhân
13
không cản trở quyền tự do kết hôn, ly hôn hợp pháp mà là cơ sở để thực hiện đầy đủ các
quyền này.

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.1.1 Sự biến đổi về quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Việt Nam ngày nay đang trải qua giai đoạn chuyển tiếp đầy biến động, được ví
như "gia đình quá độ" trong hành trình từ xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội
công nghiệp hiện đại. Nổi bật nhất là sự thay đổi về quy mô và cấu trúc gia đình.So với
gia đình truyền thống đa thế hệ, gia đình Việt Nam hiện đại có quy mô thu nhỏ đáng kể.
Thay vì ba bốn thế hệ cùng chung sống, hình ảnh phổ biến hiện nay là gia đình hạt nhân
chỉ gồm hai thế hệ: cha mẹ và con cái. Số lượng con cái cũng ít hơn trước, do nhiều yếu
tố như sự gia tăng chi phí sinh hoạt, định hướng giáo dục cao hơn và mong muốn dành
nhiều thời gian chất lượng cho con cái. Sự biến đổi của gia đình cho thấy đang thể hiện
những điều tích cực. Tất nhiên, quá trình biến đổi cũng gây ra phản chức năng khác như
tạo ra sự ngăn cách giữa không gian của các thành viên trong gia đình, tạo khó khăn, trở
ngại trong việc giữ gìn tình cảm cũng như các giá trị văn hóa truyền thống .
Sự biến đổi quy mô gia đình Việt Nam là xu hướng tất yếu của xã hội hiện đại. Việc nắm
bắt và thấu hiểu những biến đổi này đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng gia đình
hạnh phúc và bền vững trong tương lai. Cần có sự chung tay góp sức của mỗi thành viên
để phát huy những lợi ích, đồng thời giải quyết những thách thức mà xu hướng thu nhỏ
quy mô gia đình mang lại.

14
2.1.2. Sự biến đổi các chức năng của gia đình
● Sự biến đổi chức năng tái sản xuất con người
Y học hiện đại đã mở ra cánh cửa cho phép con người chủ động hơn trong việc sinh đẻ, từ
đó dẫn đến những biến đổi sâu sắc trong quan niệm về sinh đẻ và hôn nhân trong gia đình
Việt Nam.
Nếu như trước kia ảnh hưởng của quan niệm truyền thống: Việc sinh con chịu ảnh hưởng
bởi quan niệm "phải có con", "càng đông con càng tốt", đặc biệt là "nhất thiết phải có con
trai nối dõi"; Hôn nhân chịu ràng buộc: Sự bền vững của hôn nhân phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có con cái. Vấn đề ly hôn ít phổ biến do ảnh hưởng của xã hội, đạo đức
và luật pháp.
Ở ngày nay , nhu cầu ấy có những thay đổi căn bản như sinh đẻ chủ động: Các cặp vợ
chồng tự do quyết định số lượng con cái và thời điểm sinh con phù hợp với điều kiện kinh
tế, sức khỏe và mong muốn cá nhân.;Bình đẳng giới: Vai trò của người phụ nữ được nâng
cao, họ có tiếng nói và quyền quyết định trong việc sinh con.;Hôn nhân dựa trên tình yêu:
Vợ chồng gắn kết bởi tình yêu thương, sự thấu hiểu và chia sẻ, thay vì chỉ phụ thuộc vào
con cái.
● Sự biến đổi chức năng kinh tế, tổ chức tiêu dùng

Xét một cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có các bước chuyển mang tính
bước ngoặt1: “Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức là từ một đơn
vị kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị mà sản xuất
chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hội. Thứ hai, từ đơn vị kinh tế mà
đặc trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc gia thành tổ chức
kinh tế của nền kinh tế thị trường hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.”
Kinh tế gia đình đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần tạo ra sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ và thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước .Tuy nhiên, trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế gia đình đang gặp nhiều khó khăn, trở ngại khi
chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng chuyên sâu trong kinh tế thị
1
Lê Ngọc Văn, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 2012, tr. 176.

15
trường hiện đại. Nguyên nhân chủ yếu là do : Quy mô nhỏ ,lao động ít ,tự sản xuất là
chính
Mặt khác, sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhập bằng tiền của gia đình
tăng lên mở ra cơ hội cho các gia đình chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường.
Gia đình trở thành đơn vị tiêu dùng quan trọng: Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ
của gia đình tăng cao, thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, kinh doanh.
"Tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra": Xu hướng sử dụng hàng hóa và dịch vụ xã
hội ngày càng phổ biến, tạo điều kiện cho các gia đình chuyên môn hóa vào lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh thế mạnh.
● Biến đổi chức năng giáo dục (xã hội hóa).
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hội thì
ngày nay, giáo dục xã hội bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu,
những yêu cầu của giáo dục xã hội cho giáo dục gia đình 2. Xu hướng phát triển của giáo
dục gia đình hiện đại là đầu tư tài chính cho giáo dục con cái tăng lên , giáo dục gia đình
không chỉ bó hẹp trong phạm vi đạo đức, ứng xử trong gia đình, dòng họ mà còn mở rộng
sang giáo dục kiến thức khoa học hiện đại, trang bị cho trẻ em kỹ năng và công cụ cần
thiết để hòa nhập với thế giới.
Niềm tin vào hệ thống giáo dục xã hội giảm sút , các hiện tượng tiêu cực trong xã hội và
nhà trường khiến nhiều bậc cha mẹ mất niềm tin vào khả năng giáo dục đạo đức, nhân
cách cho con em của hệ thống giáo dục hiện hành. Mâu thuẫn này vẫn chưa có giải pháp
hữu hiệu trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.Hậu quả cho việc đấy là tình trạng trẻ em hư
hỏng, bỏ học, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm,... là minh chứng cho sự bất lực của
xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong việc giáo dục con cái.
● Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
Gia đình Việt Nam đang dần chuyển đổi từ đơn vị kinh tế sang đơn vị tình cảm, dẫn đến
nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm của các thành viên ngày càng tăng cao. Việc thực hiện
chức năng này là một yếu tố rất quan trọng tác động đến sự tồn tại, bền vững của hôn

2
Lê Ngọc Văn, Gia đình và biển đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 2012, tr. 238.

16
nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biệt là bảo vệ chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, nhưng
hiện nay các gia đình đang đối mặt rất nhiều khó khăn thách thức. Thay đổi tâm lý truyền
thống về vai trò của con trai , con trai phải gánh vác toàn bộ trách nhiệm nuôi dưỡng cha
mẹ già và thờ phụng tổ tiên, hướng đến sự bình đẳng giữa con trai và con gái trong việc
chia sẻ trách nhiệm này.Bên cạnh đó nhà nước cần giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản
,cần có biện pháp an toàn tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho các thành
viên .Củng cố chức năng xã hội hóa của gia đình , xây dựng những chuẩn mực và mô
hình mới về giáo dục gia đình, nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp, giúp cha mẹ
định hướng giáo dục và hình thành nhân cách trẻ em một cách hiệu quả. Ngoài ra việc
giải quyết mâu thuẫn thế hệ , hài hòa nhu cầu tự do, tiến bộ của người phụ nữ hiện đại với
trách nhiệm làm dâu theo quan niệm truyền thống, đồng thời giải quyết mâu thuẫn về lợi
ích giữa các thế hệ, giữa cha mẹ và con cái.
2.1.3 Sự biến đổi trong quan hệ gia đình
● Sự biến đổi trong quan hệ hôn nhân

Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại.các gia đình phải gánh
chịu nhiều mặt trái như: quan hệ vợ chồng – gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly hôn, ly
thân, ngoại tình.Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già cô đơn,
trẻ em sống ích kỷ, bạo hành gia đình, xâm hại tình dục. Từ đó, dẫn đến hệ lụy là giá trị
truyền thống trong gia đình bị coi nhẹ, kiểu gia đình truyền thống bị phá vỡ, hiện tượng
gia tăng số hộ gia đình đơn thân, kết hôn đồng tính, sinh con ngoài giá thú. Ngoài ra, sức
ép từ cuộc sống hiện cũng khiến cho hôn nhân trở nên khó khăn với nhiều người.

● Sự biến đổi trong quan hệ vợ chồng

Khác với quan niệm truyền thống về người đàn ông làm trụ cột gia đình, xã hội Việt Nam
hiện nay xuất hiện nhiều mô hình gia đình đa dạng, bình đẳng hơn như mô hình người đàn
ông làm chủ gia đình: Vẫn còn phổ biến, nhưng vai trò của người phụ nữ trong gia đình
ngày càng được nâng cao. Bên cạnh đó có mô hình người phụ nữ làm chủ gia đình: Khi
phụ nữ có thu nhập cao, độc lập về kinh tế, họ có thể đảm nhận vai trò chủ đạo trong gia
đình. Ngoài ra mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình: Đây là xu hướng ngày
17
càng phổ biến, thể hiện sự chia sẻ trách nhiệm và bình đẳng giữa vợ và chồng.

● Biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình

Xã hội Việt Nam ngày nay chứng kiến sự thay đổi không ngừng trong cấu trúc và mối
quan hệ gia đình. So với gia đình truyền thống, nơi ông bà, cha mẹ đóng vai trò chủ chốt
trong việc giáo dục con cái, gia đình hiện đại có xu hướng giao phó trách nhiệm này cho
nhà trường. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt trong sự dạy dỗ, quan tâm thường xuyên từ thế
hệ trước đối với thế hệ trẻ.

Những biến đổi này đặt ra thách thức lớn nhất cho gia đình Việt Nam: mâu thuẫn thế hệ.
Do khoảng cách tuổi tác và sự khác biệt trong quan điểm sống, các thế hệ dễ nảy sinh bất
đồng, mâu thuẫn. Người già thường đề cao giá trị truyền thống, có xu hướng bảo thủ và
áp đặt suy nghĩ lên thế hệ trẻ. Ngược lại, giới trẻ lại ưa chuộng những giá trị hiện đại, đôi
khi phủ nhận yếu tố truyền thống. Mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt hơn khi gia đình có
nhiều thế hệ cùng chung sống.
2.2. Phương hướng cơ bản xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về xây dựng
và phát triển gia đình Việt Nam

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là một phần quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển gia đình Việt Nam. Đây không chỉ là nhiệm vụ của cấp ủy và chính quyền, mà còn là
trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến cơ sở. Tiếp tục đẩy mạnh công
tác tuyên truyền nhằm để các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến
cơ sở nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của gia đình và phát triển kinh
tế là nơi hình thành và nuôi dưỡng con người. Trẻ em được học hỏi giá trị, kỹ năng và
kiến thức từ gia đình. Những người trưởng thành trong gia đình có thể đóng góp vào phát
triển kinh tế bằng cách làm việc, khám phá và sáng tạo. Với gia đình và xã hội chủ nghĩa
là nơi hình thành nhân cách và giáo dục con người về đạo đức, tình thần và trách nhiệm
xã hội. Gia đình có thể truyền đạt giá trị xã hội, tôn trọng và tình thương đến thế hệ sau.
Còn với gia đình và bảo vệ tổ quốc và công tác xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam

18
hiện nay, coi đây là một trong những động lực quan trọng quyết định thành công sự phát
triển bền vững kinh tế – xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cấp ủy và chính quyền các cấp cần
đưa nội dung và mục tiêu của công tác xây dựng và phát triển gia đình vào chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội và chương trình kế hoạch công tác hàng năm của các bộ, ngành
và địa phương. Điều này đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về vai trò của gia đình và sự cam kết
của tất cả các bên liên quan để xây dựng một xã hội vững mạnh và hạnh phúc.

Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ gia
đình

Để nâng cao, ổn định và nâng cao phúc lợi kinh tế của các gia đình, điều quan trọng là
phải xây dựng và tăng cường các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách đặc
biệt chú trọng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cho các gia đình thuộc các nhóm dễ bị tổn
thương như gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, gia đình người dân tộc thiểu số, hộ
nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về kinh tế, nên được ưu tiên.

Việc thực hiện kịp thời các chính sách hỗ trợ các gia đình tham gia phát triển kinh tế, sản
xuất, kinh doanh liên quan đến sản phẩm mới cũng như sản phẩm sử dụng nguyên liệu thô
tại địa phương là rất quan trọng. Ngoài ra, cần mở rộng hỗ trợ cho các gia đình tham gia
sản xuất vì mục đích xuất khẩu.

Mục tiêu chính của chúng tôi là tích cực tạo điều kiện và tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi
cho phép các hộ gia đình tiếp cận các nguồn tài chính ngắn hạn và dài hạn. Điều này
không chỉ giải quyết vấn đề đói nghèo, xóa đói giảm nghèo mà còn dẫn đến chuyển đổi cơ
cấu sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy ngành nông nghiệp. Cam kết vững
chắc của chúng tôi là đảm bảo rằng các cá nhân có cơ hội đạt được sự giàu có một cách
hợp pháp.

Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những tiến bộ
của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay

19
Trong sử ký của dân tộc, các gia đình truyền thống đã được hình thành. Tuy nhiên, khi xã
hội chuyển sang một kỷ nguyên mới, đơn vị gia đình đã bộc lộ nhiều đặc điểm thuận lợi
và bất lợi. Do đó, các cơ quan chính phủ, tổ chức văn hóa và các tổ chức liên quan bắt
buộc phải thừa nhận và bảo tồn những khía cạnh có giá trị, đồng thời xác định và giải
quyết các phong tục gia đình lỗi thời. Việc xây dựng gia đình Việt Nam thời nay đòi hỏi
phải tạo dựng một mô hình gia đình hiện đại, phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế toàn cầu.

Để đảm bảo sự tiến bộ và phát triển của gia đình Việt Nam trong thế giới ngày nay, điều
quan trọng là phải phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tích cực đã làm nên nó.
Tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phải tích hợp những giá trị tiến bộ của gia đình
hiện đại, phù hợp với xã hội không ngừng phát triển. Mục tiêu cuối cùng là xây dựng gia
đình như một đơn vị thịnh vượng trong xã hội, cung cấp môi trường nuôi dưỡng và an
toàn

Thứ tư, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa

Gia đình văn hóa là một lý tưởng mà nhiều gia đình Việt Nam phấn đấu hướng tới. Mô
hình này bao gồm sự thịnh vượng, hòa thuận, tiến bộ, sức khỏe và hạnh phúc trong đơn vị
gia đình. Nó cũng nhấn mạnh việc thực hiện trách nhiệm công dân, thực hiện kế hoạch
hóa gia đình hiệu quả và thúc đẩy sự đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng.

Kể từ khi ra đời vào những năm 1960 tại tỉnh Hưng Yên, sáng kiến thành lập gia đình văn
hóa đã lan rộng khắp Việt Nam, trở thành một phong trào rộng rãi. Phong trào này đã tác
động sâu sắc đến nền tảng gia đình, thấm nhuần những giá trị tốt đẹp và giữ gìn tấm
gương đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam. Nhờ đó, chất lượng cuộc sống gia
đình nói chung đã được cải thiện đáng kể. Để gia đình Việt Nam ngày càng phát triển hơn
nữa trong thời điểm hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu, nhân rộng, xây dựng các mô hình
gia đình văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những mô hình này nên kết
hợp các giá trị mới và tiến bộ có thể được tiếp thu và mở rộng. Bằng cách dự đoán những
thay đổi mà các gia đình sẽ phải đối mặt trong kỷ nguyên mới này, chúng ta có thể đề
20
xuất các giải pháp hiệu quả cho những thách thức phía trước trong lĩnh vực động lực gia
đình.

Ở đây, cần tránh xu hướng chạy theo thành tích, phản ánh không thực chất phong trào và
chất lượng gia đình văn hóa. Các tiêu chí xây dựng gia đình văn hóa phải phù hợp và có ý
nghĩa thiết thực với đời sống của nhân dân, công tác bình xét danh hiệu gia đình văn hóa
phải được tiến hành theo tiêu chí thống nhất, trên nguyên tắc công bằng, dân chủ, đáp ứng
được nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, tạo được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân.

C. KẾT LUẬN
Trong quá trình chuyển sang xã hội xã hội chủ nghĩa, việc thúc đẩy phát triển xã hội gắn
liền với việc hình thành gia đình. Xuyên suốt lịch sử văn minh nhân loại, rõ ràng là đơn vị
gia đình có ảnh hưởng đáng kể đến sự tiến bộ lâu dài của các quốc gia. Điều này là do
thực tế rằng gia đình đóng vai trò là khối xây dựng cơ bản của xã hội. Tuy nhiên, điều
đáng lưu ý là không phải tất cả các quốc gia hay giai cấp thống trị đều có chung quan
điểm này. Suy ngẫm về ba thập kỷ rưỡi thực hiện cải cách và ba thập kỷ thực hiện Cương
lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhận thức
sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trò của gia đình với tư cách là đơn vị cơ bản của xã hội, là nền
tảng nuôi dưỡng và phát triển xã hội. môi trường nuôi dưỡng tiềm năng con người. Nhận
thức được tầm quan trọng của việc xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa mới, Đảng ta xác
định đây là mục tiêu quan trọng, cấp bách trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2021 - 2030. Khi Việt Nam tiến bộ về kinh tế - xã hội, việc xây dựng gia đình vững
mạnh vẫn là một nhiệm vụ quan trọng. khía cạnh không thể thiếu trong cuộc sống của con
người. Để thúc đẩy sự phát triển và thịnh vượng của các gia đình, điều bắt buộc là phải
thiết lập một môi trường thuận lợi cho việc lựa chọn bạn đời và nuôi dưỡng sự ổn định
kinh tế trong đơn vị gia đình. Đồng thời, điều quan trọng là phải phát triển các mô hình
kinh tế hiệu quả cho các gia đình và ưu tiên phát triển bền vững. Nắm bắt tư duy này,
21
chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng tầm quan trọng và tầm ảnh hưởng của gia đình ở đất
nước chúng ta đang dần được công nhận và các hộ gia đình Việt Nam đang dần tiến tới
thịnh vượng, mãn nguyện, tiến bộ và tinh tế. Là nền tảng của xã hội, gia đình đóng một
vai trò then chốt trong việc phát triển xã hội. Là công dân Việt Nam, mỗi chúng ta có
trách nhiệm phải quan tâm và tích cực đóng góp vào việc củng cố và xây dựng gia đình
mới phù hợp với chuẩn mực xã hội và sự phát triển của đất nước trong thời kỳ hiện đại
này.

PHỤ LỤC – BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ TRONG


NHÓM
Nội dung thực hiện Sinh viên thực hiện Nhóm tự đánh giá mức độ
hoàn thành
(Tốt / Khá / Kém)
PHẦN MỞ ĐẦU
Nội dung 1: Lý do chọn đề Nguyên Vỹ Tốt
tài, mục tiêu và phương pháp
nghiên cứu
PHẦN KIẾN THỨC CƠ BẢN
Nội dung 1: Khái niệm vị trí Hướng Nghiệp Tốt
chức năng gia đình
Nội dung 2: Cơ sở xây dựng Nguyễn Thành Vinh Tốt
gia đình trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội

Nội dung 3 : Sự biến đổi của Bùi Quang Tấn Tốt

22
gia đình Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội

Nội dung 4 : Phương hướng Lê Mai Nguyệt Tốt


cơ bản xây dựng gia đình Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
PHẦN KẾT LUẬN
Viết kết luận , , in tiểu luận Lê Mai Nguyệt Tốt

D.TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên cnxh .Đường dẫn :
https://lytuong.net/xay-dung-gia-dinh-viet-nam-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-
hoi/#_ftnref7

[2] Lê Ngọc Văn, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 2012, tr.
335.

[3] GS. TS Hoàng Chí Bảo CB, Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học, 2019

[4] Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học (2021), trang 250, Hà Nội: chính trị quốc gia
sự thật.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[6] Quốc hội số 52/2014/QH13, Luật Hôn nhân và Gia đình, ban hành ngày 19 tháng 6
năm 2014.

23
[7] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 3, tr.41.

[8] Quốc hội, Luật Hôn nhân và Gia đình, 2014

[9] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập. 21, tr.44.

[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t.9, tr.531.

[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, tập.9. tr.531

24

You might also like